photo:https://frieze.com



ĐÀO TRUNG ĐẠO

gilles deleuze: triết học & không triết học

(Kỳ 27)

 

Chương V

NHÂN VẬT KHÁI NIỆM

kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9, kỳ 10,  kỳ 11,  kỳ 12, kỳ 13, kỳ 14, kỳ 15, kỳ 16, kỳ 17, kỳ 18, kỳ 19, kỳ 20, kỳ 21, kỳ 22, kỳ 23, kỳ 24, kỳ 25, kỳ 26, kỳ 27,

 


DELEUZE và PLATON, KANT, HEGEL

   Deleuze cho rằng tách rời tư tưởng khỏi hữu như Kant sẽ chặn đứng mọi nổ lực khảo sát nguyên ủy của hữu. Hơn nữa Kant đã chỉ xét đến những cấu trúc của tư tưởng khi chúng được áp dụng vào những cái đã được cho sẵn từ ngoại giới: như vậy cả khái niệm lẫn ý niệm đều không có liên hệ nội tại nào với hữu. Deleuze cho rằng thuyết duy tâm siêu nghiệm của Kant là chưa siêu nghiệm đủ mức vì chưa chỉ ra được những cấu trúc thực sự và sự nối kết nội tại với đối tượng và cũng không cho thấy tư tưởng tại sao lại chỉ áp dụng được vào không cái gì khác hơn là chính những dung tưởng của nó. Đó là “vấn đề” trong triết học Kant. Deleuze chịu ảnh hưởng phê phán Kant của Salomon Maimon khi đọc quyển La Philosophie transcendantale de Salomon Maimon/Triết học siêu nghiệm của Salomon Maimon của Martial Gueroult.[191] Theo Maimon, Kant đã không thiết định sự kiện kinh nghiệm hay việc áp dụng những khái niệm trên kinh nghiệm và vấn đề chính nằm ở chỗ Kant đã tách rời cảm giác khỏi nhận thức: “Làm sao nhận thức có thể đặt một một đối tượng nào đó vào quyền năng của nó mà lại không phải là quyền năng của nó? Trong hệ thống của Kant, ở đó cảm tính và nhận thức là hai nguồn hoàn toàn khác nhau, nghĩa là câu hỏi này là không thể giải quyết.”[192] Maimon cho rằng vì vấn đề này thuyết duy tâm siêu nghiệm phải khảo sát những điều kiện thật sự của kinh nghiệm chứ không phải những điều kiện khả hữu của kinh nghiệm, nghĩa là khảo sát nguyên ủy (genesis) phẩm tính của cảm giác. Maimon căn cứ trên quan điểm của Spinoza và Leibniz cho rằng nhận thức hữu hạn là một dạng thức của trí tuệ vô hạn và có cùng một cách tác động phát sinh những đối tượng khi nó trực giác chúng. Kinh nghiệm thực sự do vậy là sản phẩm của nguyên ủy xảy ra chính trong nhận thức, dựa trên những qui luật sản sinh ra những phẩm tính khác biệt. Và chính từ những khác biệt thuần túy này mà có những phẩm tính có sức mạnh là những ý niệm của nhận thức, những ý niệm này cuối cùng được tạo thành như những đối tượng của cảm tính thông qua trí tưởng tượng và dung tưởng. Theo đó không còn có vấn đề về việc áp dụng khái niệm vào nột dung cảm tính nữa bởi vì cảm tính được nhận thức hữu hạn sản xuất và về căn bản không khác biệt với nội dung tư tưởng. Khi cho rằng hữu do tư tưởng tạo nên Maimon đã đẩy triết học siêu nghiệm đi xa hơn. Theo Daniel W. Smith triết học siêu nghiệm của Maimon bao gồm hai thành tố: truy tìm những yếu tố của cái có thực (the real) và sử dụng nguyên lý của sự khác biệt (principle of difference) để xem xét cái thực này. Đó cũng là những thành phần chính yếu trong thuyết duy nghiệm siêu nghiệm của Deleuze. Deleuze nhìn nhận “Chính Salomon Maimon là người đã đề nghị một sự sửa đổi căn bản quyển Phê bình, bằng cách vượt qua tính chất nhị nguyên của Kant về khái niệm và trực giác ”[193] vì theo Kant khái niệm được áp dụng vào trực giác từ bên ngoài nên siêu nghiệm là sự điều kiện hóa nên đòi hỏi việc xem xét nguyên ủy của cái có thực đã bị Kant loại bỏ. Tương tự, sự qui định sự vật qua khái niệm là một diễn trình bên ngoài chỉ căn cứ vào những khác biệt có tính chất kinh nghiệm mà thôi. Thế nên nói chung những sự vật chỉ có những mức độ khác biệt bên ngoài. Những phạm trù Kant đưa ra có tính chất tổng quát cao nhất là cho đối tượng của kinh nghiệm có tính chất khách quan như nhau và chỉ khác nhau về mức độ trong không gian và thời gian, cường độ phẩm tính, hiệu ứng nhân quả. Theo Deleuze triết học siêu nghiệm phải xem xét sự qui định và mối liên hệ cốt tử giữa cái có thể qui định và cái qui định tác hoạt bên trong sự vật để cho sự qui định không lớn hơn sự vật. Những điều kiện qui định từ ngoại giới chỉ cho chúng ta những đối tượng nói chung khác nhau về mức độ và kinh nghiệm khả hữu. Vì vậy Deleuze cho rằng Kant đã chỉ xét đến mối tương quan bên ngoài của những khái niệm với những dung tưởng chứ không “lặn đủ sâu” xuống cái làm cho những dung tưởng này là như vậy. Và những ý niệm siêu nghiệm của Kant chính là “những vấn đề” của triết học Kant về nguyên ủy của hữu được biểu lộ trong những suy luận sai lầm (paralogismes), những phản luận (antinomies) và lý tưởng về lý trí thuần túy và Kant chỉ giải quyết những vấn đề này trong mối tương quan với những hiện bày (apparences) và những khái niệm về nhận thức.

   Deleuze mở đầu Chương IV Synthèse Idéelle de la Différence/ Tổng hợp đề có tinh chất ý niệm của sự Khác biệt của quyển Diférence et Répétition : “Kant không ngừng lập lại rằng những Ý niệm thiết yếu là “problématiques/khả vấn”. Ngược lại, những vấn đề chính là những Ý niệm. Hiển nhiên ông ta chỉ ra rằng những Ý niệm đưa chúng ta tới những vấn đề giả.[…] Thế nhưng mục tiêu của hoạt động phê bình lại chính là cung cấp những phương tiện này: “Phê bình không phải bận tâm tới những đối tượng của lý trí, nhưng tới chính lý trí hay những vấn đề xuất phát từ ngay trong lòng lý trí. Người ta biết được rằng những vấn đề giả có liên hệ tới việc sử dụng Ý niệm bất hợp pháp. Do vậy mọi vấn đề đều không giả; những Ý niệm, đúng theo bản chất phê bình của nó hiểu đúng nghĩa, có sự sử dụng hoàn toàn hợp pháp, được gọi là “cái điều chỉnh”, theo sự điều chỉnh này những ý niệm tạo thành những vấn đề thực sự hay đặt ra những vấn đề có cơ sở vững chắc. Chính vì thế điều chỉnh có nghĩa là có vấn đề. Chính những Ý niệm là có vấn đề, tạo nên vấn đề – và Kant, mặc dù ở một số bản văn đồng hóa những từ ngữ với nhau, cố gắng chứng minh sự khác biệt một mặt của “có vấn đề” với “giả định”, “không thực”, “nói chung” hay “trừu tượng”.[194] Deleuze đã đẩy “vấn đề” Kant tới giới hạn khác biệt (limite différentielle) để tìm chuyển động nội tại (movement immanent) trong mặt phẳng nội tại của triết học Kant. Mục tiêu của Deleuze là tìm ra khái niệm khác biệt trong chính khác biệt, khác biệt phải nằm chính trong sự qui/xác định (détermination), sự qui định này xảy ra giữa cái có thể qui định (déterminable) và những yếu tố qui định (éléments déterminants) trong ý niệm.

   Trong bài Sur Quatre Formules Poétiques Qui Pourraient Résumer La Philosophie Kantienne/Về Bốn Cách Diễn Tả Có Thi Tính Có Thể Tóm Lược Triết Học Kant [195] Deleuze “tóm tắt” bốn chủ đề trong ba quyển Phê bình của Kant. Chủ đề thứ nhất về thời gian được diễn giải qua câu thoại của Shakespeare trong vở kịch Hamlet: “The time is out of joint/Thời gian trật khỏi bản lề”. Bản lề là cái trục cánh cửa xoay quanh nhưng bản lề cũng chỉ sự phụ thuộc của thời gian vào những hướng và việc đo lường những chuyển động tuần hoàn. Khi thời gian vẫn còn trong bản lề thì thời gian tùy thuộc vào chuyển động mở ra (movement extensif), có nghĩa thời gian là đo lường, khoảnh khắc hay con số. Trong triết học cổ điển thời gian phụ thuộc chuyển động xoay vòng giống như một cánh cửa xoay quanh, một mê lộ mở ra trên nguồn gốc vĩnh cửu. Tùy sự gần gũi, sự cần thiết, sự hoàn thiện... với Vĩnh Cửu có sự tương ứng với những con số của Thời gian vì thế có một hệ thống cấp bậc chuyển động. “Chắc chắn là thời gian có khuynh hướng tự giải thoát, khi chính chuyển động nó đo lường ngày càng khác thường (lệch chuẩn), tùy thuộc, được đánh dấu bởi những sự bất thường vật chất khí tượng và hành tinh trái đất; nhưng đó là một khuynh hướng đi xuống thấp, khuynh hướng này lại tùy thuộc những cuộc phiêu lưu của chuyển động. Như vậy thời gian tùy thuộc vào chuyển động trong nguồn gốc cái nó tùy thuộc.”[196]

    Nói thời gian đã trật khỏi bản lề có nghĩa Kant làm một sự lật ngược khái niệm thời gian khi cho rằng chính chuyển động tùy thuộc vào thời gian. Như vậy chuyển động không còn là một sự xác định đối tượng nữa nhưng là một sự mô tả không gian, thứ không gian mà chúng ta phải bỏ qua một bên để khám phá thời gian như điều kiện của hành động. Và như thế thời gian trở thành đơn phương (unilinéaire) và đi theo đường thẳng (rectiligne), hoàn toàn không còn theo nghĩa nó đo lường một chuyển động phụ thuộc nữa. Thời gian nay đặt sự liên tiếp những xác định của nó trên mọi chuyển động khả hữu. “Đó là một sự sửa sai thời gian. Thời gian không còn bị một Thượng đế bẻ cong, vị Thượng đế này làm nó tùy thuộc vào chuyển động. Thời gian không còn là số nguyên và trở thành số thứ tự, trật tự của thời gian trống rỗng.”[197] Theo Deleuze, cái mê lộ đã đổi dạng, không còn là một vòng tròn hay một vòng xoáy nhưng là một đường thẳng thuần túy mà Borges đã mô tả là “cái mê lộ được tạo bởi chỉ một đường thẳng và không thể phân chia, không ngừng lại”. Như vậy không còn vấn đề định nghĩa thời gian bằng sự kế tiếp (succession) cũng như không định nghĩa không gian bằng tính đồng thời (simultanéité) hay định nghĩa sự thường hằng (permanence) bằng tính chất vĩnh cửu (l’éternité). Thường hằng, kế tiếp và đồng thời là những dạng thức (modes) hay những tương quan của thời gian (durée/thời diễn, série/chuỗi, loạt, ensemble/toàn thể.) Đó là những đoạn quãng (éclats) của thời gian. Mọi thứ di chuyển và thay đổi nằm trong thời gian còn chính thời gian lại không di chuyển, không thay đổi cũng như không phải là vĩnh cửu. “Thời gian là hình thức của tất cả cái gì thay đổi và di chuyển, nhưng đó là một hình thức không thể di chuyển và không thay đổi. Không phải là hình thức vĩnh cửu, nhưng chính là hình thức của cái gì không vĩnh cửu, hình thức không thể di chuyển của sự thay đổi và chuyển động. Một hình thức độc lập như thế dường như chỉ ra một bí mật sâu thẳm: nó đòi hỏi một định nghĩa mới về thời gian (và về không gian.)[198]

__________________________________

 

[191] Martial Gueroult, La Philosophie transcendantale de Salomon, nxb Alcan 1929.

Salomon Maimon (1753-1800) người Luthuanian gốc Do thái, vượt biên sang Đức lần đầu bị bắt lại lần thứ nhì mới thoát nhưng sống lang thang nghèo khổ ở Berlin. Năm 1787 bắt đầu tiếp cận triết học Kant và năm 1790 cho xuất bản tác phẩm Versuch über Transcenscendentalphilosophie/Khảo về Triết học Siêu nghiệm. Qua một đệ tử của Kant gửi quyển này cho Kant đọc nhưng khi đó Kant đã ngoài bảy mươi và đang nỗ lực kết thúc quyển Phê bình Phán đoán nên không để mắt tới quyển sách của Maimon. Tuy nhiên khi Fichte đọc quyển này nhận ra rằng đây là một tác phẩm lớn phê phán triết học Kant.

Bản dịch tiếng Anh quyển sách của Maimon: Essay on Transcendental Philosophy, Continium 2001.

[192] Salomon Maimon, Essay on Transcendental Philosophy trang 37-38.

[193] Gilles Deleuze, Différence et Répétition trang 224: C’est Salomon Maimon qui propose un remaniement fundamental de la Critique, en surmontant la dualité kantienne du concept et de l’intuition.

[194] Sđd trang 218: Kant ne cesse de rappeler que les Idées sont essentiellement “problématiques”. Inversement, les problèmes sont les Idées elles-mêmes…

[195] Gilles Deleuze, Sur Quatre Formules Poétiques Qui Pourraient Résumer La Philosophie Kantienne trong Critic et Clinique trang 40-49.

[196] Sđd trang 40-41: Sans doute y a-t-il une tendance du temps à s’émanciper, quand le movement qu’il mesure est lui-même de plus en plus aberrant, derivé, marqué de contingences matérielles météorologiques et terrestes; mais c’est une tendance vers le bas, qui dépend encore des aventures du movement. Le temps reste donc subordonné au movement dans ce qu’il a d’originaire et de derivé.

[197] Sđd trang 41: C’est une rectification du temps. Le temps cesse d’être coubé par un Dieu qui le fait dépendre du mouvement. Il cesse d’être cardinal et devient ordinal, ordre du temps vide.

[198] Sđd trang 42: Tout ce qui se meut et change est dans le temps, mais le temps lui-même ne change pas, ne se meut pas, pas plus qu’il n’est éternel. Il est la forme de tout ce qui change et se meut, mais c’est une forme immuable et qui ne change pas. Non pas une forme éternelle, mais justement la forme de ce qui n’est pas éternel, la forme immuable du changement et du mouvement. Une telle forme autonome semble désigner un profond mystère: elle réclame une nouvelle définition du temps (et de l’espace).

(còn tiếp)

đào trung đạo

 

2020