photo:https://frieze.com



ĐÀO TRUNG ĐẠO

gilles deleuze: triết học & không triết học

(Kỳ 11)

 

Chương II

Khái niệm

dẫn nhập

 

kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9, kỳ 10,  kỳ 11,  

 

 

   Trong Introduction/Nhập quyển Qu’est-ce que la Philosophie?/Triết học là gì? xuất bản năm 1991 viết chung với Felix Guattari – khi đó Deleuze đã đã gần thất thập và sức khỏe đã cạn kiệt –  Deleuze có giọng điệu mỏi mệt: “Có lẽ người ta chỉ đặt ra câu hỏi Triết học là gì? khi quá trễ, khi tuổi già tới, và là lúc nói một cách cụ thể. […] Đó là một câu hỏi người ta đặt ra trong một sự lo lắng thầm kín, vào lúc nửa đêm, khi người ta không còn cần gì nữa. Trước đây người ta đã đặt câu hỏi này, người ta đã không ngừng đặt nó ra, nhưng lại quá gián tiếp hay xiên/xéo ngang, quá giả tạo, quá trừu tượng, và người ta đã trình bày nó, người ta đã chế ngự nó bằng cách lướt qua nó hơn là người ta bị nó tóm cổ lôi lại. Người ta đã không mấy bình thản. Người ta đã quá ham muốn làm triết học, người ta đã không tự hỏi triết học là gì, ngoại trừ bằng việc thao diễn văn phong; người ta đã không đạt tới chỗ của không-văn phong ở đó cuối cùng người ta có thể nói rằng: thế cái này là cái gì, cái mà tôi đã làm suốt đời? ”[84]  Theo Deleuze, tuổi già cho ta tự do tối thượng, một sự cần thiết thuần túy để người ta hưởng thụ được một khoảnh khắc ân huệ giữa đời sống và cái chết nơi đó “tất cả những bộ phận của cỗ máy tập hợp lại để gửi vào trong tương lai một nét xuyên suốt những thời đại.” Deleuze lấy những thí dụ minh họa ý này: Chẳng hạn trong hội họa như trường hợp của Turner khi về già đã chinh phục được quyền đưa hội họa vào một con đường sa mạc không có sự trở lại; trong văn chương qua quyển Cuộc đời của Rancé Chataubrand vừa ghi dấu tuổi già vừa khởi đầu cho văn chương hiện đại; trong điện ảnh Joris Evens nhà đạo diễn này khi về già đã pha trộn nụ cười của mình với nụ cười của mụ phù thủy trong gió lộng; trong triết học Kant đã viết quyển Phê bình Phán đoán khi về già để chỉ ra tất cả những khả năng của tinh thần đều vượt qua những giới hạn của chúng, những giới hạn mà trước đây thời trung niên Kant đã qui định một cách kỹ lưỡng.

   Tuy không có ý so sánh mình với những nhân vật trên nhưng Deleuze cảm thấy đã đến lúc để đặt câu hỏi triết học là gì. Suốt trong lộ trình tư tưởng của mình Deleuze [và Guattari] đã không ngừng đưa ra câu trả lời không thay đổi: ‘triết học là nghệ thuật hình thành, sáng chế, tạo ra những khái niệm.”[85]  Thế nhưng triết học không chỉ đơn giản là một nghệ thuật sáng chế hay tạo ra những khái niệm vì khái niệm không phải chỉ là những hình thức hay những sản phẩm. Nhắc lại quan niệm về câu hỏi và câu trả lời Deleuze cho rằng câu hỏi không chỉ đón nhận câu trả lời mà câu trả lời còn phải qui định một thời điểm, một cơ hội, những hoàn cảnh, những khung cảnh và những nhân vật, những điều kiện và những điều chưa biết của vấn đề. Deleuze nhấn mạnh: Phải chăng có thể đặt câu hỏi “giữa những người bạn” như một gửi gấm (confidence) hay một sự tín cẩn (confiance), hay khi đối diện với kẻ thù như một thách đố và luôn luôn đợi cho đến giờ phút bạn thù lẫn lộn người ta có thể nghi ngờ cả bạn. Đó là lúc người ta nói “cái ấy đấy, nhưng tôi không rõ tôi nói có rõ không, cũng chẳng biết có phải tôi có đủ thuyết phục không”[86] Thế nhưng, Deleuze cho rằng nói đúng cách hay thuyết phục cũng chẳng mấy quan trọng mà điều quan trọng nằm ở chỗ “giờ đây” nói ra điều ấy.

   Tuy nói “giờ đây” nhưng cũng cần xét tới quan niệm về người bạn vốn gắn liền với khái niệm trong lịch sự triết học từ thời cổ Hy Lạp. Định nghĩa những khái niệm (concepts) cần có sự đóng góp của những nhân vật khái niệm (personnages conceptuels) là những thân hữu/những người bạn (amis, philia), điều này có nguồn gốc Hy Lạp như trong từ philo-sophie cho thấy. Nhưng theo Deleuze thật khó biết từ “người bạn” có nghĩa gì theo người Hy Lạp. Phải chăng “người bạn” chỉ ra một “sự thân thiết thành thạo” (intimité compétente) nào đó, một thứ “thị hiếu vật chất” (goȗt matériel) và một tiềm năng giống như sự thân thiết của người thợ mộc với gỗ? Vấn đề này là quan trọng trong triết học vì người bạn không phải để chỉ một nhân vật ở bên ngoài nhưng là sự có mặt ở bên trong tư tưởng, một điều kiện khả hữu của tư tưởng. Đó là một phạm trù sống động, một sống trải siêu nghiệm (un vécu transcendental). “Với triết học, người Hy Lạp làm người bạn chịu một cú đánh vốn vào hắn kẻ không có chút tương quan nào với cái gì khác, nhưng với một Thực Thể, một Đối tượng tính, một Yếu tính. Tuy là bạn của Platon, nhưng cũng còn là bạn của minh trí, của cái đúng thực hay của khái niệm, Philalèthe hay Théophile…Triết gia nhận biết điều đó bằng những khái niệm, và trong trường hợp dù không có những khái niệm đi nữa, ông ta biết những kẻ nào là không bình thường, độc đoán, hay bất thường, họ chẳng đáng lưu ý, hay những ai ngược lại là hoàn hảo và chứng thực cho một sự sáng tạo dù cho có đáng ngại hay nguy hiểm đi nữa.”[87]

   Khi người bạn đã trở thành một nhân vật khái niệm hay điều kiện của việc tập dượt tư tưởng thì điều này có nghĩa là gì? Hay đó là người tình mà không hẳn là tình nhân? Người bạn liệu có sẽ lại đưa vào trong tư tưởng một tương quan sinh tử với Người Khác người ta tưởng chừng đã loại bỏ khỏi tư tưởng thuần túy? Hay một người nào đó khác với người bạn và người tình? Theo Deleuze, Tình bạn mang theo thật nhiều sự nghi ngờ đua tranh đối với kẻ tranh đua cũng như với sức căng yêu đương hướng tới đối tượng của sự ham muốn. “Khi tình bạn quay về hướng yếu tính, hai người sẽ như là kẻ có ý định (le prétendant) và đối thủ (thế nhưng ai là kẻ phân biệt được họ?). Chính là dưới đặc tính này mà triết học dường như là một thứ có tính chất Hy Lạp và trùng hợp với sự đóng góp của những đô thị: lập ra những hội thân hữu hay hội cùng đẳng cấp, nhưng cũng đã nâng cấp giữa các hội này với nhau và tạo ra ở mỗi hội những tương quan cạnh tranh, đặt những kẻ có ý định với nhau trong mọi phạm vi, trong tình yêu, trong những trò chơi, những tòa án, những quan tòa, trong chính trị, và đến tận trong tư tưởng, không chỉ tìm thấy điều kiện của nó nơi người bạn, mà cả nơi kẻ có ý định và nơi đối thủ nữa (biện chứng Platon định nghĩa bằng từ amphisbetesis). Sự tranh đua của những con người tự do, sự tranh đua được tổng quát hóa: l’agôn”.[88] Tình bạn có nhiệm vụ thỏa hiệp tính chất trung thực của yếu tính với tính chất tranh đua của những người có ý định. Nếu vậy phải chăng đó là một nhiệm vụ quá lớn lao?

   Cho rằng tuy thời nay hiếm có những triết gia luận về tình bạn nhưng Deleuze đã nhận ra ở Maurice Blanchot có những suy tưởng độc đáo về ý nghĩa của tình bạn trong triết học. Blanchot đã khơi lại vấn đề nằm bên trong những điều kiện của tư tưởng, đưa những nhân vật khái niệm mới vào trong tận cùng của Tư Tưởng thuần túy nhất. Deleuze tự hỏi phải chăng những nhân vật của Blanchot không mấy có tính chất Hy Lạp này, những nhân vật này đến từ đâu đó, như thể họ đã trải qua một tai họa đẩy họ về phía những mối tương quan sống động được nâng cấp lên trạng thái của những tính chất tiên thiên, chẳng hạn như sự quay trở lại (détournement), một nỗi mệt mỏi nào đó, một niềm cô đơn sâu thẳm (détresse) giữa những người bạn đã biến chính tình bạn thành tư tưởng khái niệm như sự bất tín và sự kiên nhẫn vô cùng tận?[89]

   Triết gia là người bạn của khái niệm, là tiềm năng của khái niệm. Nói một cách nghiêm xác hơn, triết học là bộ môn sáng tạo. “Sáng tạo những khái niệm luôn luôn mới mẻ, đó chính là đối tượng của triết học. Chính bởi khái niệm phải được sáng tạo ra nên nó qui về triết gia như thể về một người có nó trong tiềm năng, hay là người có tiềm năng và khả năng trong nó.”[90]  Hẳn người ta có thể bắt bẻ rằng từ sáng tạo chỉ để dành cho nghệ thuật hay khoa học. Nhưng theo Deleuze chỉ có triết gia là kẻ sáng tạo khái niệm hiểu theo nghĩa chính xác nhất. Vì được sáng tạo ra nên khái niệm không là gì nếu không có chữ ký của người sáng tạo ra nó: khái niệm bản thể (substance) với chữ ký  Aristote, tôi suy tư (cogito) với chữ ký Descartes, đơn tử (monade) với chữ ký Leibniz, điều kiện (condition) với chữ ký Kant, sức mạnh (puissance) với chữ ký Schelling, thời diễn (durée) với chữ ký Bergson…Deleuze dẫn lời Nietszche về nhiệm vụ của triết học: “Triết gia không còn cứ thỏa mãn trong việc tiếp nhận những khái niệm người ta đem đến cho ông ta, để rồi chỉ việc lau chùi và đánh bóng chúng, nhưng họ phải bắt đầu bằng việc chế tạo, sáng tạo, đưa chúng ra và thuyết phục mọi người đến với chúng. Cho đến bây giờ, nói chung, mỗi triết gia vẫn tin tưởng vào những khái niệm của riêng ông ta, như vào một món hồi môn thần diệu đến từ một thế giới cũng tuyệt diệu nào đó” (Nietszche, Posthumes 1884-1885 trong Œuvres philosophiques XI do Gallimard xuất bản trang 215-216 mục “bàn về nghệ thuật nghi ngờ”) Nietszche chỉ ra cần phải thay niềm tin bằng sự ngờ vực và trước hết triết gia phải nghi ngờ chính những khái niệm nếu như những khái niệm này không do mình sáng tạo. Chính vì vậy Nietszche muốn treo trước cửa căn nhà triết học tấm bảng “μέμυησ’άπιστεîυ” có nghĩa “Ngươi đừng quên nghi ngờ chính mình”.

  Deleuze nhấn mạnh: triết học không phải phải là trầm tư (contemplation), phản tư (réflexion) vì đó là những ảo tưởng. Triết học cũng không tìm nơi trú ẩn cuối cùng trong thông giao (communication) với những ý kiến để tạo ra sự đồng thuận (concensus). Deleuze cho rằng trầm tư, phản tư, thông giao không phải là những môn học, nhưng là những cỗ máy tạo ra Những Phổ Quát (Universaux) trong tất cả những môn học, nhưng đó chỉ là những ảo tưởng mà triết học đã trải qua trong giấc mơ ngự trị những môn học khác. “Mọi sáng tạo đều độc đáo/nhất, và khái niệm như sự sáng tạo đúng thực triết lý luôn luôn là một độc đáo/nhất. Nguyên tắc đầu tiên của triết học cho rằng Những Phổ Quát chẳng giải thích được gì, chính chúng phải được diễn giải/thích”.[91]

   Những xác định triết học như “tự giác” (se connaît soi-même), “học tập tư tưởng” (apprendre à penser) là những thái độ tuy thú vị nhưng lại không chỉ ra một cách rõ ràng nghề triết gia. Ngược lại, định nghĩa triết học như tri thức bằng những khái niệm thuần túy có thể coi là định nghĩa chung cuộc. Vì Nietszche đã chỉ ra ta không nhận thức được bằng những khái niệm nếu như trước hết ta không sáng tạo ra những khái niệm, nghĩa là thiết lập trong một trực giác thích đáng với chúng, có nghĩa lập ra một trường (un champ), một mặt phẳng (un plan), một cái nền (un sol) tuy không lẫn lộn với những khái niệm nhưng bao phủ những mầm mống và những nhân vật trồng cấy những khái niệm. Đây là chủ thuyết “xây dựng” (constructivisme) trong triết học Deleuze.

   Giờ đây với cặp mắt già đã lóe nhòa mà còn phải đối diện với đủ loại khái niệm và nhân vật triết học, Deleuze – với óc khôi hài quỉ quái – nói tới những loại khái niệm có những tên gọi khác thường, đôi khi man dã hay gây sốc và những khái niệm tuy có tên rất thông thường nhưng lại thổi phồng những hòa điệu thật xa vời đến nỗi với đôi tai không triết học (une oreille non philosophique) không còn thể nhận ra được. Một số khác triệu hồi những từ cổ xưa, một số khác là từ tân tạo (néologismes) nảy sinh do việc tập dượt từ nguyên hầu như điên cuồng. Tuy cho rằng trong mỗi trường hợp đều có một sự cần thiết kỳ lạ trong việc dùng và chọn những cái tên này nhưng theo Deleuze “Việc khai sinh khái niệm đòi hỏi một sự thưởng ngoạn riêng biệt triết học tiến hành với sự bạo động hay với sự cách ly, và nó tạo ra trong ngôn từ một ngôn từ của triết học, không chỉ một từ vựng, mà cả một cú pháp đạt tới sự sang trọng hay một vẻ đẹp lớn lao. Thế nhưng, dù đã được ghi ngày tháng, được ký tên và được cho ra đời, những khái niệm có cách thế không chết đi, và tuy được đặt dưới sự bắt buộc phải làm mới, được thay thế, được biến hóa để cho triết học một lịch sử và cả một địa dư linh động mà mỗi lúc, mỗi nơi chúng tồn lưu trong thời gian, và chuyển qua ngoài thời gian.”[92]

    Deleuze cho rằng tuy việc sáng tạo những khái niệm là độc quyền của triết học bảo đảm triết học có một chức năng nhưng độc quyền này không cho triết học một ưu thế, một đặc quyền nào khi mà cũng còn có những cách tư tưởng và sáng tạo khác, những kiểu ý niệm hóa (modes d’idéation) không phải qua khái niệm như tư tưởng khoa học chẳng hạn. Vì vậy người ta luôn trở lại với câu hỏi hành vi sáng tạo những khái niệm dùng để làm gì nếu như nó khác với hành vi khoa học và nghệ thuật, nghĩa là: sao lại cần thiết luôn luôn phải sáng tạo những khái niệm mới để làm gì? Nếu cho rằng sự vĩ đại của triết học sẽ chính là không phục vụ gì thì đó chỉ là một lời mỉa mai chẳng mua vui được cho ngay cả những người trẻ tuổi. “Trong mọi trường hợp, chúng ta chẳng bao giờ có vấn đề về cái chết của siêu hình học hay sự vượt qua triết học: đó là những thứ vô ích, những lời nói sằng bậy nặng nề. Người ta nói về sự sụp đổ của những hệ thống ngày nay, trong khi đó chỉ là khái niệm về hệ thống đã thay đổi. Nếu như có nơi chốn và thời gian để sáng tạo những khái niệm, thì thao tác phát sinh từ đó luôn luôn sẽ được gọi là triết học, hay cũng sẽ chẳng là gì khác nếu người ta cho nó một cái tên khác”.[92]

   Ngay từ thời cổ Hy lạp Platon cũng đã chỉ ra sự cạnh tranh giữa triết gia với tay quỉ biện (sophiste) nhưng ngày nay triết học còn đối mặt  với nhiều cạnh tranh mới hơn. Trước hết là với những khoa học nhân văn, nhất là với xã hội học muốn thay thế triết học. Rồi đến lượt tri thức luận (épistémologie) và ngữ học, ngay cả tâm phân học và diễn giải luận lý (analyse logique) nữa. Từ thử thách này sang thử thách khác triết học đã phải đối chọi với những địch thủ càng ngày càng hỗn xược, càng khủng khiếp. Cùng cực của sự hổ thẹn là môn xử lý dữ liệu (informatique/data processing), môn kinh doanh (marketing), môn thảo kế hoạch (design), môn quảng cáo (publicité), tất cả những môn học về thông giao cũng nắm lấy từ khái niệm và nhận đó là công việc của mình, chúng tôi là những người sáng tạo, chúng tôi là những người làm ra khái niệm (concepteurs)! Nhưng theo Deleuze những môn này đã hiểu khái niệm một cách rất khác nhau. Trước tình cảnh này Deleuze cho rằng thật đau đớn khi biết “Khái niệm” đã được dùng để chỉ một hội phục vụ và hội kỹ sư xử lý dữ liệu. Thế nhưng càng chạm mặt với những đối thủ táo bạo và ngu xuẩn thì triết học càng thấy phải làm tròn nhiệm vụ của mình hơn.

   Deleuze phiền trách nhiều triết gia đã không quan tâm đủ về bản chất của khái niệm như một thực tại triết học (realité philosophique) mà lại chỉ thích coi khái niệm như một tri thức hay một dung tượng (représentation) có sẵn được giải thích bằng những khả năng có thể tạo ra chúng bằng trừu tượng hóa hay tổng quát hóa (abstraction ou généralisation) hay sử để sử dụng chúng (phán đoán). Deleuze chốt lại bằng câu: “Thế nhưng khái niệm không phải được cho sẵn, nó được sáng tạo ra, sẽ được sáng tạo ra, nó không được hình thành, nó tự đứng vững trong chính nó, tự-lập. […] Khái niệm càng được sáng tạo ra, nó càng tự lập. Cái gì tùy thuộc vào một hành vi sáng tạo tự do, đó cũng chính là tự đứng vững trong chính nó, một cách độc lập và thiết yếu: cái gì càng chủ quan sẽ là cái khách quan hơn cả.” [93]

________________________________________________

[84] Gilles Deleuze – Felix Guattari, Qu’est-ce que la philosophie, nxb Minuit 1991 trang 7: Peut-être ne peut-on poser la question Qu’est-ce que la philosophie? que tard, quand vient la vieillesse, et l’heure de parler concrètement. […]. C’est une question qu’on pose dans une agitation discrète, à minuit, quand on n’a plus rien à demander. Auparavant on la posait, on ne cessait pas de la poser, mais c’était trop indirect ou oblique, trop artificiel, trop abstrait, et on l’exposait, on la dominait en passant plus qu’on n’était happé par elle. On n’était pas assez sobre. On avait trop envie de faire de la philosophie, on ne se demandait pas ce qu’elle était, sauf par exercice de style; on n’avait pas atteint à ce point de non-style où on peut dire enfin: mais qu’est-ce que c’était, ce que j’ai fait toute ma vie?

[85] Sđd trang 8: la philosophie est l’art de former, d’inventer, de fabriquer des concepts.

[86] “c’était ça, mais je ne sais pas si je l’ai bien dit, ni si j’ai été assez convaincant”.

[87] Sđd trang 9: Avec la philosophie, les Grecs font subir un coup de force à l’ami qui n’est plus en rapport avec un autre, mais avec une Entité, une Objectité, une Essesnce. Ami de Platon, mais plus encore ami de la sagesse, du vrai ou du concept, Philalèthe et Théophile…Le philosophe s’y connaît en concepts, et en manque de concepts, il sait lesquels sont inviables, arbitraires ou inconsistants, ne tiennent pas un instant, lesquels au contraire sont bien faits et témoignent d’une création même inquiétante ou dangeureuse.

[88] Sđd trang 9: L’amitié comporterait autant de méfiance émulante à l’égard du rival que d’amoureuse tension vers l’objet du désir. Quand l’amitié se tournerait vers l’essence, les deux amis seraient comme le prétendant et le rival (mais qui les distinguerait?). C’est sous ce premier trait que la philosophie semble une chose grecque et coïncide avec l‘apport des cités: avoir formé des societés d’amis ou d’égaux, mais aussi bien avoir promu entre elles et en chacune des rapports de rivalité, opposant des prétendants dans tous les domaines, en amour, dans les jeux, les tribunaux, les magistratures, la politique, et jusque dans la pensée qui ne trouverait pas seulement sa condition dans l’ami, mais dans le prétendant et dans le rival (la dialectique que Platon definit par l’amphisbetesis). La rivalité des hommes libres, un athlétisme generalisé: l’agôn.

[89] Maurice Blanchot: L’Entetien infini từ trang IX-XXVI, và L’Amitié Phần XXIX các trang 326-330.

[90] Gilles Deleuze – Felix Guattari, Qu’est-ce que la philosophie trang 10: Créer des concepts toujours mouveaux, c’est l’objet de la philosophie. C’est parce que le concept doit être crée qu’il renvoie au philosophe comme à celui qui l’a en puissance, ou qui en a la puissance et la compétence.

[91] Sđd trang 12: Toute création est singulière, et le concept comme création proprement philosophique est toujours une singularité. Le premier principle de la philosophie est que les Universaux n’expliquent rien, ils doivent être eux-mêmes expliqués.

[91] Sđd trang 13: Le baptême du concept sollicite un goût proprement philosophique qui procède avec violence ou avec insinuation, et qui constitue dans la langue une langue de la phlosophie, non seulement un vocabulaire, mais une syntaxe atteignant au sublime ou à une grande beauté. Or, quoique datés, signés et baptisés, les concepts ont leur manière de ne pas mourir, et pourtant sont soumis à des contraintes de renouvellement, de remplacement, de mutation qui donnent à la philosophie une histoire et aussi une géographie agitées dont chaque moment, chaque lieu se conservent, mais dans le temps, et passent, mais en dehors du temps.

[92] Sđd trang 14: En tous cas, nous n’avons jamais eu de problème concernant la mort de la métaphysique ou de dépassement de la philosophie: ce sont d’inutiles, de pénibles radotages. On parle de la faillite des systèmes aujourdh’ui, alors que c’est seulement le concept de système qui a changé. S’il y a lieu et temps de créer des concepts, l’opération qui y procède s’appellera toujours philosophie, ou ne s’en distinguerait même pas si on lui donnait un autre nom.

[91] Sđd trang 16: Mais le concept n’est pas donné, il est crée, à créer; il n’est pas formé, il se pose lui-même en lui-même, auto-position.[…] D’autant plus le concept est crée, d’autant plus il se pose. Ce qui dépend d’une libre activité créatrice, c’est aussi ce qui se pose en lui-même, indépendamment et nécessairement; le plus subjectif sera le plus objectif.

(còn tiếp)

đào trung đạo

 

http://www.gio-o.com/DaoTrungDao

 

2020