photo:https://frieze.com



ĐÀO TRUNG ĐẠO

gilles deleuze: triết học & không triết học

(Kỳ 16)

 

Chương III

MẶT PHẲNG [của] NỘI TẠI

 

kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9, kỳ 10,  kỳ 11,  kỳ 12, kỳ 13, kỳ 14, kỳ 15, kỳ 16,

 

 

   Deleuze diễn giải khá chi tiết về chuyển động bất tận hay chuyển động của bất tận tạo nên hình ảnh tư tưởng. Chuyển động của bất tận không dẫn đến những tọa độ không-thời gian qui định những vị trí tiếp nối nhau của một vật chuyển động (un mobile) và những dấu mốc cố định (repères fixes) mà những vị trí này biến thiên. “ ‘Định hướng trong tư tưởng’  không ngầm chứa dấu mốc khách quan hay vật chuyển động tự cảm thấy như chủ thể và chúng, trên danh nghĩa này, muốn có cái vô tận hay sẽ cần cái vô tận. Chuyển động nắm lấy tất cả, và không có chỗ cho một chủ thể hay một đối tượng nào ngoài chỉ có thể là những khái niệm. Cái ở trong chuyển động chính là đường chân trời: đường chân trời tương đối (l’horizon relatif) rời xa khi chủ thể tiến lên, nhưng đường chân trời tuyệt đối (l’horizon absolu), chúng ta luôn luôn và đã ở đó, trên mặt phẳng nội tại. Cái định nghĩa chuyển động vô tận đó chính là việc đi đi lại lại, bởi nó không đi về một nơi mà không trở lại trên chính nó, cây kim chỉ cũng là cực. Nếu “tự quay về hướng…” là chuyển động của tư tưởng hướng về cái đúng thực, thì tại sao cái đúng thực cũng không quay về tư tưởng? Và tại sao tự nó lại không quay lại đó khi nó quay lại? Đó luôn không phải là một hợp nhất, đó là một sự đảo ngược, một sự trao đổi lập tức, mãi mãi, tức thời, một tia chớp.”[124]

   Chuyển động bất tận là chuyển động kép ở giữa có một nếp gấp (le pli). Chính vì thế có thể nói rằng tư tưởng và hữu thể chỉ là một. Nói cách khác, chuyển động sẽ không phải là hình ảnh tư tưởng nếu không là của hữu thể. Mặt phẳng nội tại có hai mặt: mặt Tư Tưởng (Pensée) và mặt Tự Nhiên (Nature), mặt Physis và mặt Noûs. Chính vì vậy luôn có nhiều chuyển động bất tận cái này nắm cái kia, gấp nếp nhau nên khi chuyển động này quay lại sẽ tức khắc đẩy chuyển động kia theo kiểu sao cho mặt phẳng nội tại không ngừng đan dệt chúng lại. Thế nên quay-về-hướng không chỉ có nghĩa quay trở lại, mà còn có nghĩa chạm mặt, tự quay lại, đồng lượng (s’egarer), tự xóa bỏ (s’effacer). “Những chuyển động khác nhau của bất tận được trộn vào nhau như thế thay vì phá hỏng cái Một-Tất Cả của mặt phẳng nội tại chúng tại tạo nên đường cong biến thiên, những đường lồi và những đường lõm, bản chất đứt gẫy (nature fractale) làm cho hiện tượng thành một bất tận luôn luôn khác với mọi mặt phẳng hay thể tích có thể chỉ định như khái niệm. Mỗi chuyển động chạy qua toàn thể mặt phẳng đồng thời cũng tức thời quay trở lại chính nó, gấp nếp và cũng gấp nếp những chuyển động khác hay để mình bị gấp nếp, tạo nên những tác động phản hồi, những kết nối, những nảy nở, những đứt gẫy của tính bất tận một cách gấp nếp bất tận. Nhưng vấn đề đặt ra là: nếu quả thật mặt phẳng nội tại luôn luôn là độc nhất, một biến thiên thuần túy thì tại sao lại có những mặt phẳng nội tại biến thiên, khác biệt, kế tục nhau hay tranh đua nhau trong lịch sử kế tiếp, những chuyển vận bất tận được giữ lại, được chọn lựa? Chắc chắn mặt phẳng nội tại trong triết học Hy Lạp không giống như mặt phẳng ở triết học thế kỷ 17, hay triết học hiện tại: đó không cùng là một hình ảnh tư tưởng, một cách thế của hữu. “Như vậy mặt phẳng là đối tượng của một sự tạo đặc điểm bất tận, nó chỉ làm cho dường như là cái Một-Tất Cả trong mỗi trường hợp riêng rẽ do sự chọn lựa của chuyển động. Sự khó khăn về bản chất tối hậu của mặt phẳng nội tại chỉ thể giải quyết tuần tự.”[125]

   Deleuze nhấn mạnh mặt phẳng nội tại không lẫn với những khái niệm chiếm cứ nó. Song cùng những phần tử có thể xuất hiện hai lần trên mặt phẳng và trong khái niệm nhưng không dưới cùng những nét đặc thù, ngay cả khi chúng biểu lộ trong cùng những động từ và cùng với những từ: cùng một động từ hay một từ dành cho hữu, những động từ và những từ này đi vào trong những thanh tố của khái niệm và chính chúng cũng là những khái niệm nhưng theo một cách khác hẳn khi chúng thuộc về mặt phẳng như hình ảnh hay chất liệu. Ngược lại, cái đúng thực (le vrai) trên mặt phẳng chỉ có thể được định nghĩa bằng một sự “quay về hướng” (se tourner vers…” hay “cái mà tư tưởng hướng về; nhưng chúng ta lại không có sẵn một khái niệm về chân lý nào. Nếu như sự sai lầm chính nó là một yếu tố có quyền là một phần của mặt phẳng, thì nó chỉ do sai lầm là sự thực nhưng không nhận được một khái niệm nếu người ta qui định những thành tố trong khái niệm, chẳng hạn theo Descartes hai thành tố của một tri năng (entendement) và của một ý chí bất tận. “Như vậy những chuyển động sẽ chỉ giống như những định nghĩa duy danh (définitions nominales) đối với những khái niệm trong chừng mực người ta quên mất sự khác biệt về bản chất. Nhưng thực ra, những yếu tố của mặt phẳng là những nét biểu đồ trong khi những khái niệm là những nét cường độ. Những nét biểu đồ là những chuyển động của cái bất tận, trong khi những nét cường độ là những sắp đặt cường độ của những chuyển động này, như những nhát đặc biệt hay những vị trí biệt phân: những chuyển động hữu hạn, mà sự bất tận của nó chỉ do vận tốc, và mỗi khi chúng tạo nên một mặt phẳng hay một thể tích, một đường vành không đều đánh dấu một sự ngưng lại trong mức độ nảy sinh/nở. Những nét biểu đồ là những hướng tuyệt đối của bản chất đứt gẫy, trong khi những nét cường độ là những chiều kích tuyệt đối, những mặt phẳng hay những thế tích luôn đứt gẫy, được qui định một cách cường kích. Những nét biếu đồ là những trực giác, những nét cường độ là những tăng lực.[126] Dù rằng triết học nào cũng tùy thuộc vào một trực giác nhận ra rằng những khái niệm của triết học đó không ngừng triển khai với những khác biệt về cường độ viễn tượng này chỉ có cơ sở nếu trực giác được coi như vỏ bọc của những chuyển động bất tận của tư tưởng không ngừng qua lại mặt phẳng nội tại nên nó phải có một cách tạo lập đặc biệt khác hẳn với sự tạo lập của mặt phẳng. Chính vì vậy những khái niệm phải được sáng tạo cũng như mặt phẳng được lập ra. Những nét tăng lực (traits intensifs) không phải là hậu quả của những nét biểu đồ, những sắp đặt tăng lực cũng không phải được rút ra từ những chuyển động hay chỉ hướng. Sự tương tác giữa nét tăng lực với những sắp đặt tăng lực này vượt qua ngay cả những cộng hưởng đơn giản và làm cho những khoảnh khắc gắn vào sự sáng tạo những khái niệm, nghĩa là những nhân vật khái niệm (personnages conceptuels).

   Mặt phẳng nội tại là tiền-triết học (pré-philosophique), là tiền giả định (présupposé) nhưng không như cách của một khái niệm có thể dẫn tới các khái niệm nhưng chính chúng dẫn tới một sự am hiểu không-khái niệm (compréhension non-conceptuelle) và sự am hiểu này biến thiên theo cách mặt phẳng được lập ra. Vài thí dụ: Nơi Platon sự am hiểu này là hình ảnh thực sự (l’image virtuelle) của cái đã được tư tưởng (un dejà-pensé) làm cho mọi khái niệm thực (concept actuel) được nhân đôi lên, nơi Descartes lại là một sự am hiểu chủ quan và hiểu ngầm được Tôi suy tư giả định, nơi Heidegger là “một am hiểu tiền-hữu thể luận về Hữu (une compréhension pré-ontologique de l’Être), một thứ am hiểu tiền-khái niệm ngầm chứa đựng việc nắm bắt hữu tương quan với một chiều hướng tư tưởng. “Cách chi đi nữa, triết học đặt cái tiền-triết học, hay ngay cả cái không-triết học, như sức mạnh của một cái Một-Tất Cả như một sa mạc chuyển động những khái niệm đến cư ngụ. Tiến-triết học không có nghĩa không có gì hiện hữu trước, nhưng có nghĩa có một cái gì đó không hiện hữu bên ngoài triết học dù rằng triết học giả định nó. Đó là những điều kiện bên trong của nó. Cái không-triết học có thể là nằm sâu hơn trong triết học hơn chính triết học, và chỉ ra rằng triết học không thể nào hài lòng với việc chỉ được hiểu theo cách triết học hay theo khái niệm, nhưng triết học trong cốt tủy của nó cũng liên hệ tới những những không-triết gia.”[127] Mối quan hệ triết học/không-triết học này có những khía cạn khác nhau: theo khía cạnh thứ nhất, khi triết học được định nghĩa là sáng tạo khái niệm ngầm chứa một giả định nhưng triết học không lẫn với giả định này tuy triết học và giả định lại không thể tách rời nhau : “Triết học là sự sáng tạo những khái niệm và thiết lập mặt phẳng. Khái niệm là khởi đầu của triết học, nhưng mặt phẳng là sự thiết lập nên triết học. Hiển nhiên mặt phẳng không do một sự hoạch định, một sơ đồ, một mục đích hay một phương tiện; đó là một mặt phẳng [của] nội tại dựng nên nền đất tuyệt đối của triết học, là Trái Đất của triết học hay sự chiếm cứ lãnh địa của triết học, nền tảng của triết học, trên đó triết học sáng tạo những khái niệm của nó. Phải có cả hai, sáng tạo ra những khái niệm và lập ra mặt phẳng, như thể hai cái cánh hay hai cái vây.”[128].

   Mặt phẳng nội tại được lập ra như thế nào? Deleuze nhận xét hành động tư tưởng tạo ra sự lãnh đạm nên chẳng ngoa khi nói rằng đó là một thao dượt nguy hiểm. Chỉ khi nào nguy hiểm trở thành rõ rệt thì sự lãnh đạm mới ngưng lại nhưng nó vẫn ẩn kín, khó thấy và bám chặt vào việc tư tưởng. Chính vì mặt phẳng nội tại là tiền-triết học và chưa tác hoạt với những khái niệm, diều đó có nghĩa nó là một thứ thử nghiệm dò dẫm, và việc vạch ra nó cần tới những phương tiện không được thừa nhận, không hữu lý mấy như giấc mơ, diễn trình bệnh lý, kinh nghiệm bí truyền, sự say xỉn hay quá độ. Ngay như Descartes cũng có giấc mơ của ông ta. Deleuze cho rằng tư tưởng luôn là việc đi theo một vạch kẻ ma thuật, chẳng hạn mặt phẳng nội tại cuồng nộ của thi sĩ Henri Michaux với những chuyển động và những vận tốc bất tận. “Thường thì những phương tiện không hiện ra trong kết quả, kết quả này chỉ thể nắm bắt trong chính nó, và bằng một cách bình thản. Nhưng rồi “sự nguy hiểm” lại có một nghĩa khác: đó là vấn đề có liên hệ tới những hậu quả hiển nhiên, vấn đề có liên hệ tới những hậu quả hiển nhiên khi tính nội tại thuần túy gây ra một sức mạnh lên án có tính chất bản năng trong ý kiến, và rằng bản chất những khái niệm được sáng tạo ra lại nhân đôi sự phán xét lên.  Đó chính vì người con người không tư tưởng mà lại không trở thành cái gì khác, một cái gì đó không tư tưởng, một con vật, một thảo vật, một phân tử, một mảnh nhỏ, chúng trở lại tư tưởng và lại thảy về tư tưởng.”[129]

   Vai trò của mặt phẳng nội tại có thể coi như một nơi chứa hỗn mang (chaos) và sàng lọc hỗn mang. Thật ra hỗn mang không hẳn là không có những xác định (déterminations) mà vận tốc vô tận những xác định này phác họa ra và rồi biến đi: đó không phải là một chuyển động từ cái này sang cái kia, ngược lại đó là một sự bất khả của một mối tương quan giữa hai sự qui định bởi cái này hiện ra mà cái kia không đã biến mất, và cái này hiện ra như biến đi trong khi cái kia biến đi như một phác họa. Hỗn mang không phải là một trạng thái ỳ ra (inerte) hay đứng yên và cũng không phải là một hỗn hợp tình cờ. Hỗn mang làm hỗn mang và phá bỏ sự bền vững trong sự vô tận. “Vấn đề của triết học là thủ đắc sự bền vững mà không đánh mất cái vô tận tư tưởng nhào xuống trong đó (về mặt này hỗn mang có một hiện hữu tinh thần cũng như vật chất). Cho ra sự bền vững mà không đánh mất cái vô tận rất khác với vấn đề của khoa học tìm cách cho ra những qui chiếu về hỗn mang, với điều kiện từ chối những chuyển động và những vận tốc vô tận, và trước hết thao tác một sự giới hạn về vận tốc: điều quan trọng trước hết trong khoa học chính là ánh sáng hay chân trời tương đối. Ngược lại triết học tiến hành bằng cách giả định thiết lập mặt phẳng nội tại: chính mặt phẳng này mà những đường cong biến thiên của nó duy trì những chuyển động bất tận chúng quay trở lại chính chúng trong sự trao đổi không ngưng nghỉ, nhưng cũng không ngừng giải phóng những chuyển động khác tự bảo tồn. Thế nên công việc của khái niệm là vạch ra những thứ tự cường lực của những chuyển động bất tận này, như thể những chuyển động chính chúng là hữ hạn thành lập với vận tốc bất tận những đường viền biến thiên vạch trên mặt phẳng.Trong khi thao tác một lát cắt cái hỗn mang, mặt phẳng nội tại kêu gọi việc sáng tạo ra những khái niệm.”[130]

______________________________

[124] Sđd trang 40-41: “S’orienter dans la pensée n’implique ni repère objectif, ni mobile qui s’éprouverait comme sujet et qui, à ce titre, voudrait l’infini ou en aurait besoin. Le mouvement a tout pris, et il n’y a nulle place pour un sujet et un objet qui ne peuvent être que des concepts. Ce qui est en mouvement, c’est l’horizon même: l’horizon relatif s’éloigne quand le sujet avance, mais l’horizon absolu, nous y sommes toujours et dejà, sur le plan d’immanence. Ce qui définit le mouvement infini, c’est aller et retour, parce qu’il ne va pas vers une destination sans dejà revenir sur soi, l’aiguille étant aussi le pôle. Si “se retourner vers…” est le mouvement de la pensée vers le vrai, comment le vrai ne se tournerait-il pas aussi vers la pensée? Et comment ne s’en detournerait-il pas lui-même quand elle s’en détourne? Ce n’est pas une fusion toutefois, c’est une reverbilité, un échange immédiate, instantané, un éclair.

[125] Sđd trang 41-42; Le plan est donc l’objet d’une spécification infinie, qui fait qu’il ne semble être l’Un-Tout que dans chaque cas specifié par la sélection du movement. Cette difficulté concernant la nature ultime du plan d’immanence ne peut être résolue que progressivement.

[126] Sđd trang 42: Les mouvements ou éléments du plan ne sembleront donc que les définitions nominales par rapport aux concepts tant qu’on négligera la différence de nature. Mais, en realité, les éléments du plan sont des traits diagrammatiques, tandis que les concepts sont sont des traits intensifs. Les premiers sont des mouvements de l’infini, tandis que les seconds sont les ordonnées intensives de ces mouvements, comme des coupes originales ou des positions différentielles: mouvement finis, dont l’infini n’est plus que de vitesse, et qui constituent chaque fois une surface ou un volume, un contour irrégulier marquant un arrêt dans le degrée de prolification. Les premiers sont des directions absolues de nature fractale, tandis que les seconds sont des dimensions absolues, surfaces ou volumes toujours fragmentaires, definies intensivement. Les premiers sont des intuitions, les seconds, des intensions.

[127] Sđd trang 43: De toute façon, la philosophie pose comme pré-philosophique, ou non-philosophique, la puissance d’un Un-Tout comme un désert mouvant que les concepts viennent peupler. Pré-philosophique ne signifie rien qui pré-existe, mais quelque chose qui n’existe pas hors de la philosophie, bien que celle-ci le suppose. Ce sont ses conditions internes. Le non-philosophique est peut-être plus au cœur de la philosophie que la philosophie même, et signifie que la philosophie ne peut pas se contenter d’êre comprise seulement de manière philosophique ou conceptuelle, mais s’adresse aussi aux non-philosophes, dans son essence.

[128] Sđd trang 43-44: La philosophie est à la fois création de concept et instauration du plan. Le concept est le commencement de la philosophie, mais le plan en est l’instauration. Le plan ne consiste évidemment pas en un programme, un dessein, un but ou un moyen; c’est le plan d’immanence qui constitue le sol absolu de la philosophie, sa Terre ou sa déterritorialisation, sa fondation, sur lesquels elle crée ses concepts. Il faut les deux, créer les concepts et instaurer le plan, comme deux ailes ou deux nageoires.

[129] Sđd trang 44: Le plus souvent, ces moyens n’apparaissent pas dans le résultat, qui ne doit être saisi qu’en lui-même et calmement. Mais alors “danger” prend un autre sens: il s’agit des consequences évidentes, lorsque l’immanence pure suscite dans l’opinion une forte réprobation instinctive, et que la nature des concepts crées redouble encore cette reprobation. C’est qu’on ne pense pas sans devenir autre chose qui ne pense pas, une bête, un végetal, une molécule, une particule, qui reviennent sur la pensée et la relancent.

[130] Sđd trang 45: Le problème de la philosophie est d’acquérir une consistance, sans perdre l’infini dans lequel la pensée plonge (le chaos à cet égard a une existence mentale autant que physique). Donner consistance sans rien perdre de l’infini, c’est très différent du problème de la science qui cherche à donner des références au chaos, à condition de renoncer aux mouvements et vitesses infinis, et d’opérer d’abord une limitation de vitesse: ce qui est premier dans la science, c’est la lumière ou l’horizon relatif. La philosophie au contraire procède en supposant ou en instaurant le plan d’immanence: c’est lui dont les courbures variables conservent les mouvements infinis qui reviennent sur soi dans l’échange incessant, mais aussi ne cessent de libérer d’autres qui se conservent. Alors il reste aux concepts à tracer les ordonnés intensives de ces mouvements infinis, comme des mouvements eux-mêmes finis qui forment à vitesse infinie des contours variables inscrits sur le plan. En opérant une coupe du chaos, le plan d’immanence fait appel à une création de concepts.

(còn tiếp)

đào trung đạo

 

2020