photo:https://frieze.com



 

ĐÀO TRUNG ĐẠO

gilles deleuze: triết học & không triết học

(Kỳ 13)

 

Chương II

 

KHÁI NIỆM

 

kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9, kỳ 10,  kỳ 11,  kỳ 12, kỳ 13,

 

 

   Khái niệm là vô thể (incorporel) dù nó có nhập vào và gây ảnh hưởng trong thân xác, tuy nhiên nó không lẫn vào trạng thái sự vật (thân xác). Khái niệm không có tọa độ không gian-thời gian mà chỉ có những thứ tự cường độ (ordonnées intensitives) tuy nó không có năng lượng. Khái niệm là Biến cố/sự kiện thuần túy (Événement pur), là cá thể (hecceité), một thực thể (entité) chẳng hạn sự kiện Tha nhân (l’événement d’Autrui) hay sự kiện của bộ mặt (l’événement du visage) khi bộ mặt lại được coi như khái niệm. “Khái niệm được định nghĩa bởi tính chất không thể tách rời một số giới hạn những thành tố khác biệt bị xuyên qua bởi một điểm bay cao tuyệt đối, với tốc độ vô tận.”[105] Nói cách khác khái niệm là những diện tích (surfaces) hay những thể tích (volumes) tuyệt đối, những hình thức không có đối tượng nào khác ngoài tính chất không thể phân rã của những biến thiên biệt phân. Deleuze giải nghĩa từ “survol/bay cao” trong đoạn văn trên: “Bay cao” là trạng thái của khía niệm hay tính chất vô tận riêng (son infinité propre) của nó, dù rằng những vô tận có độ lớn ít nhiều  tùy theo con số những thành tố, nhưng ngưỡng (seuils) và những cầu nối (ponts). Theo nghĩa đó khái niệm đúng là hành vi tư tưởng, tư tưởng thao tác với tốc độ ít nhiều vô tận.

   Một thí dụ về khái niệm: Sự kiện (événement) là khái niệm quan trọng, liên quan mật thiết với những khái niệm chủ yếu khác trong triết học Deleuze. Jacques Derrida trong bài Ai điệu Gilles Deleuze gọi Deleuze là “triết gia của sự kiện.” Nhưng Sự kiện là gì? Deleuze giải thích: “Một sự kiện lý tưởng là gì? Đó chính là một đơn thể. Hay đúng hơn đó là một toàn bộ những đơn thể, những điểm riêng rẽ định tính một đường cong toán học, một trạng thái vật lý của những sự vật, một con người tâm lý và luân lý.[…] Những sự kiện là những đơn thể có tính chất ý niệm thông giao trong chỉ một và cùng một Sự kiện; thế nên những đơn thể này có một chân lý vĩnh hằng, và thời gian của chúng không bao giờ là hiện tại ảnh hưởng tới và làm cho chúng hiện hữu, nhưng là vị thần thời gian không giới hạn, là cái Nguyên thuần ở đó những đơn thể hiện tồn và đứng vững.”[106] François Zourabichvili định nghĩa: “Sự kiện là sự cộng sinh tức thời hai chiều kích khác nhau trong một thời gian trống rỗng nơi tương lai và quá khứ không ngừng trùng hợp, nghĩa là sự lấn chiếm của cái này trên cái kia, chúng phân biệt nhưng không thể tách rời. Sự kiện đúng nghĩa là cái gì tới, cái gì đến, kích thước hiện lên nhưng chưa tách rời cái đã hiện ra. Sự kiện là cường độ xảy đến, nó bắt đầu phân biệt mình với một cường độ khác “thời gian vĩnh viễn Tự-Tách biệt.”[107]  

   “Khái niệm vừa tuyệt đối vừa tương đối: tương đối với những thành tố của nó, với những khái niệm khác, với mặt phẳng trên đó nó tự giới hạn, với những vấn đề nó phải giải quyết, nhưng lại là tuyệt đối bởi sự cô đọng nó tác hoạt, bởi nơi nó cư ngụ trên mặt phẳng, bởi những điều kiện nó chỉ định cho vấn đề. Nó là tuyệt đối như một cái tất cả, nhưng lại tương đối trong chừng mực nó là đoạn rời, khái niệm là vô tận bởi việc bay cao hay vận tốc của nó, nhưng có giới hạn bởi chuyển động của nó, chuyển động này vạch ra đường viền của những thành tố.”[108]  Deleuze cho rằng một triết gia không ngừng thay đổi và rất có thể cũng thay đổi những khái niệm của mình khi chỉ cần thấy có một điểm chi tiết nào nổi cộm và làm cho có sự cô đọng mới. Khi đó triết gia thêm vào hay rút bớt những thành tố. Vì vậy triết gia đôi khi cho thấy mình như bị bệnh mất trí nhớ (amnésie).  Deleuze dẫn chứng Nietszche theo lời của Karl Jaspers “chính ông ta chỉnh sửa những ý tưởng của ông để tạo ra những ý tưởng mới mà không thú nhận một cách công khai; trong những trạng thái biến đổi của ông ta, ông đã quên những kết luận trước đó ông ta đã đạt tới.” Hay như lời thú nhận của Leibniz: “Tôi tưởng mình vào trong một bến cảng, nhưng…tôi bị ném ra ngoài biển.” Tuy nhiên khái niệm vẫn là tuyệt đối chính là cách thế đặt ra khái niệm được sáng tạo và mối tương quan của nó với những khái niệm khác. “Thực [tại] mà không là hiện [tại], [l] ý tưởng mà không là trừu tượng…Khái niệm được định nghĩa bởi sự nhất quán của nó, nội-nhất quán và ngoại-nhất quán, nhưng nó không có qui chiếu: nó tự qui chiếu, nó tự tựa vào chính nó và đặt ra đối tượng của nó, đồng thời với khi nó được sáng tạo. Chủ thuyết tạo lập kết nối cái tương đối với cái tuyệt đối.”[109]

   Triết học là sáng tạo khái niệm và khái niệm không có tính cách ngôn từ (discursif) nên triết học không phải là sự tạo lập ngôn từ (formation discursive), nối kết những mệnh đề với nhau. Việc lẫn lộn khái niệm với mệnh đề khiến người ta tin vào những khái niệm khoa học và coi mệnh đề trong khoa học như một “ý hướng” đích thực (véritable “intention”) còn mệnh đề trong triết học là vô nghĩa. Do sự lẫn lộn ấu trĩ này trong khoa luận lý nên người ta cho rằng khoa luận lý làm triết học. Deleuze cho rằng khái niệm không bao giờ là một mệnh đề, nó không có tính chất mệnh đề (propositionel) và mệnh đề cũng không bao giờ là một hàm tính (intension) cả. Mệnh đề được định nghĩa bởi sự qui chiếu, qui chiếu không liên quan gì tới Biến cố nhưng là một tương quan với trạng thái sự vật cũng như với những điều kiện của tương quan này. Thay vì tạo nên một qui chiếu hàm tính, những điều kiện hoàn toàn có tính cách ngoại hàm tính (extensionelles). Vì tính chất cường độ nên khái niệm là những trung tâm của những rung chuyển (centres de vibrations), trong chính nó  cũng như với những khái niệm khác. Khái niệm âm vang (résonner) nhau thay vì tiếp nối hay tương ứng nhau. Deleuze mô tả một cách cụ thể: “Khái niệm như những toàn thể đoạn rời cũng không phải là những mảnh của một trò chơi đố, bởi vì những đường viền không đều của chúng không tương ứng nhau. Chúng thực sự tạo thành một bức tường, nhưng đó lại là một bức tường với những tảng đá không cần vữa và, nếu tất cả được gộp chung lại, chính là do những con đường cách ly nhau. Ngay cả những cây cầu, từ một khái niệm này sang một khái niệm kia, vẫn lại là những ngã tư, hay những đường quay lại không bao quanh một tập hợp ngôn từ nào. Đó là những cây cầu di động. Vì tình trạng này nên chẳng sai khi cho rằng triết học ở trong trạng vòng vo hay có tính chất quanh co.”[110]

   Chính tính chất quanh co này đưa đến sự khác biệt lớn giữa phát biểu triết học những khái niệm đoạn rời (l’énonciation philosophique des concepts fragmentaires) với phát biểu khoa học những mệnh đề từng phần (l’énonciation scientifique des propositions partielles). Trước hết, mọi phát biểu đều là phát biểu vị trí (énonciation de position), nhưng ở khoa học vị trí này nằm bên ngoài mệnh đề phát biểu vốn có đối tượng là một trạng thái của sự vật coi như là vật qui chiếu, và đối tượng của phát biểu cũng là những điều kiện tạo nên những giá trị chân lý. Ngược lại, tuy cũng là phát biểu vị trí nhưng phát biểu triết học lại nhất thiết nội tại với khái niệm bởi khái niệm không có đối tượng nào khác ngoài tính chất không thể tách rời của những thành tố mà chính nó qua lại những thành tố này và tạo nên sự nhất quán của nó. Ở một khía cạnh khác, những phát biểu khoa học cũng như những phát biểu triết học đều được sáng tạo và có chữ ký người sáng tạo chẳng hạn như định lý Pythagore, cái tôi tư duy Descartes…Khác biệt nằm ở chỗ trong những mệnh đề khoa học là của những quan sát viên từng phần ngoại tại (observateurs partiels extrinsèques) có thể được định nghĩa trong tương quan với những trục qui chiếu (axes de référence) trong khi khái niệm triết học là những nhân vật khái niệm nội tại (personnages conceptuels intrinsèques) ám ảnh ở mặt phẳng nhất quán (plan de consistence) nào đó. Deleuze cũng nhấn mạnh về ra phân biệt giữa triết học với khoa học và với nghệ thuật: “Triết học tiến hành bằng những câu, nhưng đó không luôn luôn là những mệnh đề người ta rút ra từ những câu một cách tổng quát. Chúng ta lại vẫn chỉ có một giả thiết quá rộng: từ những câu hay từ một tương đương, triết học rút ra những khái niệm (không trùng với những ý niệm tổng quát hay trừu tượng) trong khi khoa học rút ra những thăm dò (những mệnh đề không trùng với những phán đoán), và nghệ thuật rút ra những nhãn giác và những giác hưởng (càng không trùng với những tri giác hay những tình cảm).[111] 

   Deleuze đưa ra hai thí dụ minh họa cho khái niệm triết học có ký tên:

Thí dụ I:

Khái niệm cogito của Descartes là một khái niệm về cái tôi. Khái niệm này có ba thành tố là hoài nghi (douter), tư duy (penser) và hữu (être). Phát biểu toàn thể của khái niệm trong chừng mực là đa phức (multiplicité): tôi tư duy do vậy tôi hiện hữu hay đầy đủ hơn: tôi kẻ nghi ngờ, tôi tư duy, tôi hiện hữu, tôi là một sự vật tư duy (moi qui doute, je pense, je suis, je suis une chose qui pense). Descartes cho rằng đó là một sự kiện luôn luôn được làm mới của tư tưởng. Khái niệm này là nơi ba thành tố trùng nhau ở điểm J đi qua bởi tất các thành tố, và là tụ điểm của J’ nghi ngờ, J” tư duy, J’’’ hữu. Những thành tố được coi như những tọa lực (ordonnées intensives) sắp hàng trong những vùng lân cận (zones de voisinage) hay của tính chất không thể tách biệt khiến thành tố này đi sang thành tố kia và tạo nên tính chất không thể tách rời của chúng: vùng thứ nhất giữa nghi ngờ và tư tuy, vùng thứ hai giữa tư duy và hữu. Những thành tố được biểu hiện bằng những động từ nhưng đây không phải là một qui luật (règle), chỉ cần đó là những biến thiên (variations). Nghi ngờ bao gồm những khoảnh khắc (moments) không phải là những loại (espèces) của hạng (genre) nhưng là những giai đoạn (phases) của một biến thiên: hoài nghi cảm tính (doute sensible), hoài nghi khoa học (doute scientifique), và hoài nghi ám ảnh (doute obsessionnel). Điểm đáng lưu ý là trong giai đoạn cuối cùng của sự biến thiên này khái niệm về cái tôi chỉ giữ lại giai đoạn thứ nhì. Mặt phẳng Descartes bao gồm việc loại bỏ mọi giả định khách quan rõ ràng (présupposé objectif explicite) nơi mỗi khái niệm nên sẽ dẫn về những khái niệm khác như “con người là con vật hữu lý” và chỉ tuyên nhận một sự am hiểu tiền triết học là những giả định ngầm và chủ quan: mọi người hiểu tôi nói tư duy, hữu,  và tôi (je) nghĩa là gì. Đây là một phân biệt rất mới mẻ và một mặt phẳng như vậy đòi hỏi một khái niệm đầu nhất không phải giả thiết cái gì khách quan. Cái tôi tư duy chính là khái niệm đầu nhất này còn những khái niệm khác sẽ chiếm được khách quan tính nhưng với điều kiện phải được kết nối bởi những cây cầu nối với khái niệm đầu nhất, trả lời những vấn đề được đặt dưới cùng những điều kiện và nằm trên cùng mặt phẳng: đó sẽ là khách quan tính của tri thức chắc thực (connaissance certaine).

Deleuze cho rằng thật vô ích khi đặt câu hỏi Descartes có lý hay không, những giả định chủ quan và ngầm hiểu có giá trị hơn những giả định khách quan rõ ràng không, có cần và nếu phải “bắt đầu” ở quan điểm của một sự chắc thực chủ quan không, tư tưởng như thế có thể là động từ của một cái Tôi không, vì không có câu trả lời trực tiếp cho những câu hỏi này. “Những khái niệm của Descartes chỉ thể được đánh giá theo chức năng của những vấn đề chúng đáp lời và của mặt phẳng chúng di chuyển trên đó.”[112]  Một cách tổng quát: một khái niệm luôn luôn có chân lý đến với nó theo chức năng của những điều kiện của sự sáng tạo ra nó. Với những câu hỏi như: có mặt phẳng nào tốt hơn những mặt phẳng khác không, và có những vấn đề buộc phải đối nghịch với những vấn đề khác không Deleuze cho rằng người ta không thể nói gì về những câu hỏi này. Còn về những mặt phẳng thì ta phải lập ra, và phải đặt ra những vấn đề cũng như phải sáng tạo ra những khái niệm. “Chắc chắn những khái niệm mới phải có tương quan với những vấn đề là những vấn đề của chúng ta, với lịch sử của chúng ta và trên hết với những trở thảnh của chúng ta.”[113] Thế những vấn đề của thời đại chúng ta và của một thời đại nào đó có nghĩa gì? Những khái niệm không bất tử vậy chúng  có phải có tính chất thời gian không? Hình thức triết học của những khái niệm của thời đại đó là gì? Deleuze cho rằng nếu như một khái niệm là “hơn” (meilleur) khái niệm có trước đó chính bởi nó gióng lên những biến thiên mới và những vang vọng chưa biết (résonnances inconnues), thao tác những cắt mảnh không thông thường (découpages insolites), đem đến một Sự kiện vượi lên trên chúng ta. Nhưng biết đâu một khái niệm thời trước cũng đã làm như vậy rồi? Chẳng hạn nếu ngày nay người ta muốn theo Platon, Descartes hay Kant chính vì người ta có quyền nghĩ rằng những khái niệm của những triết gia này có thể được tái hoạt (reactivés) trong những vấn đề của chúng ta và lấy cảm hứng từ chúng để sáng tạo. Câu hỏi quan trọng khác: Cách nào là cách tốt hơn cả để theo chân những triết gia tầm cỡ, lập lại điều họ nói, hay làm điều họ đã làm, nghĩa là sáng tạo những khái niệm cho những vấn đề thiết yếu phải thay đối?

   Những câu hỏi nêu trên dẫn tới việc triết gia rất không thích hoặc tránh thảo luận (discuster) tuy thảo luận tốt cho những bàn tròn (tables rondes) nhưng triết gia lại sáng tạo khái niệm trên một cái bàn khác. Hơn nữa thảo luận không giúp công việc tiến triển vì những người thảo luận chẳng bao giờ nói về cùng một vấn đề. Thảng hoặc khi đưa ra ý kiến này nọ thì cũng chẳng giúp ích gì khi mà những vấn đề phải thảo luận không được đề cập. Và nếu như chúng được đề cập thì không phải là để thảo luận mà để sáng tạo những khái niệm không thể thảo luận cho vấn đề người ta phải thảo luận. Deleuze không chấp nhận người ta đôi khi coi triết học như thảo luận hoài hủy (perpétuelle discussion) như một thứ “lý tính thông giao” (rationalité communicationnelle) hay “đàm luận dân chủ phổ quát” (conversation démocratique universelle) vì đúng ra khi một triết gia phê bình một triết gia khác là khởi sự từ những vấn đề và trên một mặt phẳng không phải là cùng vấn đề và mặt phẳng của triết gia kia. Người ta chẳng bao giờ cùng trên một mặt phẳng cả. Theo Deleuze phê bình là việc nhận xét về một khái niệm đã biến đi, đã đánh mất những thành tố của nó hay khi khái niệm này bị ném vào trong một môi trường mới thì nó sẽ biến đổi ra sao. Deleuze đưa ra phê phán: “Nhưng những kẻ nào phê bình mả không sáng tạo, những kẻ hài lòng bênh vực cái đã biến đi mà không biết cho nó những sức mạnh để trở lại đời sống, những kẻ đó là vết thương của triết học. Họ được làm cho linh hoạt bởi sự phẫn hận, toàn thể bọn nghị luận này, bọn thông truyền này. Chúng chỉ nói về chính chúng khi đối mặt với những cái tổng quát trống rỗng. Triết học kinh hãi những cuộc thảo luận. Triết học luôn luôn có cái khác để làm. Triết học không thể chịu đựng được tranh cãi, không phải vì triết học quá tự tin: ngược lại, chính những sự không chắc thực của nó kéo nó vào trong những con đường khác cô đơn hơn.”[114]                                                 

___________________________________________

[105] Sđd trang 26: Le concept se définit par l’inséparabilité d’un nombre fini de composantes hétérogènes parcourues par un point en survol absolu, à vitesse infinie.

[106] Gilles Deleuze, Logique du sens trang 67-68-69: Qu’est-ce qu’un événement idéal? C’est une singularité. Ou plutôt c’est un ensemble de singularités, de points singuliers qui caractérisent une courbe mathématique, un état de choses physique, une personne psychologique et morale.[…] Les événements sont des singularités idéelles qui communiquent en un seul et même Événement; aussi ont-ils une verité éternelle, et leur temps n’est jamais le présent qui les effectue et les fait exister, mais l’Aiôn illimité, l’Infinitif où ils subsistent et insistent.

[107] François Zourabichvili, La Philosophie de Deleuze trang 107: L’événement se definit par la coexistence instantanée de deux dimensions hétérogenes dans un temps vide où future et passé ne cessent de coïncider, voire d’empiéter l’un sur l’autre, distincts mais indiscernables. L’événement proprement dit est ce qui vient, ce qui arrive, dimension émergente non encore separée de l’ancien. L’événement est l’intensité qui vient, qui commence à se distinguer d’une autre intensité (le temps est “un perpertuel Se-distinguer”, Cinema 2, 109)

[108] Gilles Deleuze & Felix Guattari, Qu’est-ce que la Philosophie trang 26: Le concept est donc à la fois absolu et relatif: relatif à ses propres composantes, aux autres conceps, au plan sur lequel il se délimite, aux problèmes qu’il est censé résoudre, mais absolu par la condensation qu’il opère, par le lieu qu’il occupe sur le plan, par les conditions qu’il assigne au problème. Il est absolu comme tout, mais relatif en tant que fragmentaire. Il est infini par son survol ou sa vitesse, mais fini par son movement qui trace le contour des composantes.

[109] Sđd trang 27: Réel sans être actuel, idéal sans être abstrait…Le concept se definit par sa consistance, endo-consistance et exo-consistance, mais il n’a pas de réference: il est autoréférentiel, il se pose lui-même et pose son objet, en même temps qu’il est crée. Le constructivisme unit le relatif et l’absolu.

[110] Sđd trang 28: Les concepts comme totalité fragmentaire ne sont même pas les morceaux d’un puzzle, car leurs contours irréguliers ne se correspondent pas. Ils forment bien un mur, mais c’est un mur de pierres sèches et, si tout est pris ensemble, c’est par des chemins divergents. Même les ponts, d’un concept à un autre, sont encore des carrefours, ou des détours qui ne circoncrivent aucun ensemble discursif. Ce sont des ponts mobiles. À cet égard il n’est pas faux de considérer que la philosophie est en état de perpetuelle digression ou disgressivité.

[111] Sđd trang 29: La philosophie procède par phrases, mais ce ne sont pas toujours des propositions qu’on extrait des phrases en général. Nous ne disposons encore que d’une hypothèse très large: des phrases ou d’un équivalent, la philosophie tire des concepts (qui ne se confondent pas avec les idées générales ou abstraites) tandis que la science tire des prospects (propositions qui ne se confondent pas avec les jugements), et l’art tire des percepts et affects  (qui ne se confondent pas advantage avec des perceptions ou sentiments)

[112] Sđd trang 31: Les concepts cartesiens ne peuvent être evalués qu’en function des problèmes auxquels ils répondent et du plan sur lequel ils se passent.

[113] Sđd trang 32: Bien sur, les nouveaux concepts doivent être en rapport avec des probèmes qui sont les nôtres, avec notre histoire et surtout nos devenirs.

[114] Sđd trang 33: Mais ceux qui critique sans créer, ceux qui contentent de revenir défender l’evanoui sans savoir lui donner à la vie, ceux-la sont la plaie de la philosophie. Ils sont animés par le ressentiment, tous ces discurseurs, ces communicateurs. Ils ne parlent que d’eux-mêmes en faisant s’affronter des generalités creuses. La philosophie a horreur des discussions. Elle a toujours autre chose à fair. Le débat lui est insupportable, non pas parce qu’elle est trop sûre d’elle: au contraire, ce sont ses incertitudes qui l’entraîgiảnnent dans d’autres voies plus solitaires.

(còn tiếp)

đào trung đạo

 

http://www.gio-o.com/DaoTrungDao

 

2020