
photo:https://frieze.com
ĐÀO TRUNG ĐẠO
gilles deleuze: triết học & không triết học
(Kỳ 10)
Chương 1
Hình ảnh Tư tưởng
kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9, kỳ 10,
Khái niệm “vấn đề” (le problème) của Deleuze tuy khá phức tạp nhưng là một chủ đề quan trọng trong triết học của triết gia này. Deleuze cho rằng không chỉ ý nghĩa (le sens) là có tính chất ý niệm (idéel) mà chính những vấn đề cũng là những Ý niệm (Idées): “Giữa những vấn đề và những mệnh đề, luôn có sự khác biệt về bản chất, có một cách khoảng thiết yếu. Một mệnh đề tự chính nó là cá biệt, và nó biểu trưng cho một câu trả lời được xác định. Một toàn thể những mệnh đề có thể được phân bổ theo cách những câu trả lời mà chúng tạo thành những trường hợp của một giải đáp chung (cũng như đối với những giá trị của một phương trình đại số). Nhưng chính vì thế, dù là tổng quát hay cá biệt, những mệnh đề chỉ có ý nghĩa trong vấn đề nằm bên dưới gợi ý chúng. Chỉ có Ý niệm, chỉ có vấn đề là phổ quát. Không phải giải đáp cho vấn đề mượn tính chất tổng quát của nó, nhưng chính vấn đề cho mượn tính chất chất tổng quát cho giải đáp.”[72] Chính vì thế nếu giải một vấn đề nhờ một loạt những trường hợp đơn giản đóng vai trò những yếu tố phân tích thì chẳng bao giờ là đủ cả: phải qui định những điều kiện trong đó vấn đề có được tối đa nội hàm và ngoại hàm, có khả năng thông giao tính liên tục có tính chất ý niệm (continuité idéelle) riêng của nó cho những trường hợp. Ngay cả đối với một vấn đề chỉ có một trường hợp là có giải đáp thì mệnh đề chỉ định trường hợp này cũng sẽ chỉ có ý nghĩa trong một đa phức có khả năng hiểu được những hoàn cảnh tưởng tượng và cho tính chất liên tục lý tưởng vào. Deleuze khẳng định: “Giải đáp, luôn luôn là phát sinh những tính bất liên tục trên cái nền của một tính chất liên lục vận hành như một Ý niệm”.[73]
Một vấn đề luôn gắn liền với những giải đáp của nó, ngay khi đã được giải đáp vấn đề đồng thời cũng tự xác định, nhưng sự tự xác định này không trùng với giải đáp vì chúng khác biệt về bản chất. Vấn đề vừa là siêu vượt (transcendant) vừa là nội tại (immanent) đối với những giải đáp của nó: siêu vượt vì nó nằm ở một hệ thống những mối tương hệ có tính chất ý niệm (liaisons idéelles) hay những tương quan biệt phân (rapports différentiels) giữa những yếu tố di truyền (éléments génétiques), nội tại vì những tương hệ hay những tương quan này nhập vào (s’incarner) trong những liên hệ hiện thời không tương tự với chúng, và được định nghĩa bởi trường giải đáp (champ de solution). Deleuze dẫn chứng quan điểm của nhà toán học Albert Lautman đã chứng minh rằng những vấn đề trước hết là những Ý niệm Platon, những tương hệ ý niệm giữa những khái niệm biện chứng có quan hệ tới những “hoàn cảnh có tính chất biến cố (situations éventuelles) của hiện thể (existant) cũng như những vấn đề này đã thể hiện trong những tương hệ có thực tạo lập của giải đáp tìm kiếm trên một trường toán học hay vật lý. “Trong ý nghĩa này, theo Lautman, khoa học luôn luôn tham dự trong một biện chứng vượt qua nó, nghĩa là tham dự vào một sức mạnh siêu toán học và ngoại-mệnh đề, dù rằng biện chứng này chỉ nhập nội những tương hệ của nó trong những mệnh đề của những lý thuyết khoa học có hiệu quả. Những vấn đề luôn luôn là biện chứng; đó là lý do tại sao, khi biện chứng “quên” mối tương quan thân thiết với những vấn đề như những Ý niệm, khi biện chứng hài lòng với việc đồ hình những vấn đề trên những mệnh đề, thì nó đánh mất sức mạnh thực sự của nó để rồi rơi xuống dưới sức mạnh của cái phủ nhận, và nhất thiết thay thế cho khách quan tính ý niệm của nghi vấn một sự đối diện đơn giản những vấn đề đối nghịch, đối chọi hay mâu thuẫn. “Sự thoái hóa lâu dài bắt đầu với chính phép biện chứng, và đi đến hình thức cực độ trong chủ thuyết của Hegel. Nhưng nếu quả thực cái gì là biện chứng trên nguyên tắc, đó chính là những vấn đề, và có tính chất khoa học, những giải đáp của những vấn đề này, chúng ta phải phân biệt một cách hoàn toàn: vấn đề như một khâu siêu nghiệm; trường biểu tượng ở đó những điều kiện của vấn đề biểu hiện trong chuyển vận nội tại của nó; trường khả giải khoa học ớ đó nội nhập vấn đề và theo vận hành này biểu tượng đi trước được định nghĩa. Đó chỉ là một lý thuyết tổng quát về vấn đề, và của tổng hợp đề ý niệm tương ứng, nó sẽ có thể làm rõ mối tương quan giữa các yếu tố”.[74] François Zourabichvili nhận xét: “Deleuze soạn thảo một cách chi tiết một lý thuyết về vấn đề có khả năng xét đến việc đa hóa khái niệm về chân lý này. Thoạt nhìn lý thuyết này có vẻ nghịch lý, bởi trước hết nó được đặt nền tảng trên một việc làm mất giá trị vai trò của sự tra vấn trong triết học. Cùng bị cáo giác, nhân danh cùng một ảo tưởng, cùng một sự không thấu hiểu cái gì thực sự là một vấn đề, phương cách tra vấn như một thủ tục thực tập sai giả, bởi nó sắp đặt việc trở thành của học sinh theo chức năng của một kết quả đã thu tập được từ trước bởi ông thầy; và ý tưởng cho rằng triết học là nghệ thuật đặt câu hỏi tuyệt vời, thay vì là nghệ thuật trả lời. François Zourabichvili trích dẫn: “Một vấn đề thực sự là sáng tạo tư tưởng chẳng ăn nhập gì tới việc tra vấn, tra vấn vốn chỉ là một mệnh đề treo lửng, sự mất máu kép của một mệnh đề xác định được coi như phục vụ một câu trả lời cho nó” (Triết học là gì? trang 132).[75]
Để kết luận Chương III Hình Ảnh Tư Tưởng trước khi đề cập tới giả thiết thứ tám Deleuze cho rằng chính những dấu chỉ (signes) tạo ra vấn đề và dấu chỉ triển khai trong một trường biểu tượng (champ symbolique) vì những vấn đề và biểu tượng của những vấn đề có tương quan với những dấu chỉ. “Sự sử dụng nghịch lý những khả năng, và trước hết là sử dụng cảm tính trong trong dấu chỉ, như vậy qui về những Ý niệm, những ý niệm này kinh qua tất cả mọi khả năng và đến lượt nó đánh thức những khả năng. Ngược lại, Ý niệm qui về việc sử dụng nghịch lý của mỗi khả năng, cung cấp ý nghĩa cho ngôn ngữ”. [76]. Deleuze cho rằng học hỏi (apprendre) là khai thác Ý niệm và nâng từng khả năng lên trong việc thực tập siêu vượt (exercice transcendant), hai việc này cùng như nhau. Đó là hai diện mạo (aspects) của sự học hỏi, của tập dượt. Học hỏi cũng còn tùy thuộc vào hiểu biết, văn hóa, và vào phương pháp. Từ “hiếu biết” (savoir) Deleuze dùng ở đây không có nghĩa là khoa học hay tri thức (connaissance). Người học hỏi (apprenti) một mặt là kẻ lập ra và quan tâm tới những vấn đề thực tiễn hay lý thuyết. Deleuzze phân biệt sự khác nhau giữa học hỏi và hiểu biết: Học hỏi là danh từ thích đáng để chỉ những hành vi chủ quan thao tác khi đối mặt với tính khách quan của vấn đề trong khi danh từ hiểu biết chỉ chỉ định tổng quát tính (generalité) của khái niệm hay sự sở hữu thầm lặng một qui tắc của những giải đáp. “Học hỏi chính là đi sâu vào cái phổ quát của những tương quan tạo thành Ý niệm, và vào những cá biệt tương ứng với những tương quan này”.[77] Deleuze dẫn chứng Leibniz: theo Leibniz ý niệm “biển” là một hệ thống những mối liên hệ (liaisons) hay tương quan khác biệt (rapports différentiels) giữa những mảnh nhỏ (particules) và những cá biệt (singularités) tương ứng với những mức độ biến thiên của những tương quan này. Trong trường hợp ý niệm “biển” thì đó là toàn bộ hệ thống nhập vào chuyển động thực sự của những làn sóng. Thế nên học/tập bơi chính là chia [ngôi vị] (conjuguer) những điểm khác biệt của thân thể với những điểm cá biệt của Ý niệm khách quan để lập ra một trường nghi vấn (champ problématique), sự chia [ngôi] này qui định một ngưỡng ý thức (seuil de conscience) cho mức độ hành vi thực điều chỉnh cho tri giác về những mối tương quan thực của đối tượng để đi đến giải đáp. Do vậy “học hỏi” luôn diễn ra trong và qua vô thức, tạo nên giữa tự nhiên (nature) và tinh thần (esprit) mối liên hệ phức tạp sâu xa.
Người học hỏi/tập một mặt đưa mỗi khả năng lên mức độ siêu vượt của khả năng này, mặt khác hắn tìm cách làm nảy sinh trong cảm tính một sức mạnh thứ cấp nhằm nắm bắt cái gì chỉ được cảm nhận. Từ một khả năng này sang một khả năng khác sự bạo động được thông giao nhưng sự bạo động này luôn luôn hiểu cái Khác qua sự hoàn hảo của mỗi khả năng. Nhưng câu hỏi đặt ra là: tư tưởng sẽ được khơi mở từ những dấu chỉ nào của cảm tính, bởi những kho tàng ký ức nào? Theo Deleuze thực ra không thể biết trước một người học tập sẽ học như thế nào. Chẳng hạn do tình yêu nào một người lại giỏi một ngoại ngữ, do sự gặp gỡ nào một người lại trở thành triết gia, từ những quyển từ điển nào người ta học tư duy. “Những giới hạn của những khả năng được đóng hộp cái này trong cái kia, dưới hình thức rạn vỡ của cái nó mang vác và chuyển đi sự khác biệt”[78] Deleuze cho rằng không có phương pháp nào để tìm thấy những kho tàng, càng không có phương pháp nào để học hỏi, không có một nền văn hóa hay quyển sách nuôi dạy con người về giáo dục và văn hóa (paideia) thấu suốt toàn thể một cá nhân nào. Phương pháp là phương tiện của hiểu biết để điều chỉnh mọi khả năng, do đó phương pháp cũng là sự thể hiện của một ý nghĩa chung, giả thiết một thiện chí như thể một quyết định đã được suy nghĩ từ trước của triết gia. Trong khi đó văn hóa lại là chuyển vận học hỏi, một sự phiêu lưu không tự ý, kết nối cảm tính, ký ức, tư tưởng với tất cả những bạo động và tàn bạo như Nietszche từng nói với mục đích nhằm huấn luyện được “một quốc gia của những nhà tư tưởng”, “cung cấp sự huấn luyện cho tính thần”.
Khi người ta ca ngợi sự quan trọng của học hỏi thì đó là một sự ca ngợi những điều kiện kinh nghiệm của Hiểu Biết. Và ngay cả khi người ta nhấn mạnh đến tính chất riêng biệt của việc học hỏi và về thời gian phải có trong việc thực tập thì chính yếu cũng là để xoa dịu những đắn đo thận trọng của một ý thức tâm lý không cho phép thảo luận cái quyền bẩm sinh hình dung/tượng của toàn bộ cái siêu nghiệm. Như thế học hỏi chẳng qua chỉ là trung gian giữa không-hiểu biết (non-savoir) và hiểu biết. Người ta có thể cho rằng học hỏi là một nhiệm vụ bất tận nhưng nói vậy chẳng khác chi phó mặc cho hoàn cảnh và sự thủ đắc, loại hẳn ra ngoài yếu tính được giả định như hình thức đơn giản của bẩm sinh, hay yếu tố tiên thiên (a priori), kể cả Ý niệm chỉ đạo (Idée régulatrice). Tình cảnh này dẫn đến việc học tập bị hạ thấp như tình cảnh con chuột nằm trong mê cung trong khi triết gia khi ra khỏi hang núi (caverne, hình ảnh do Platon đưa ra) chỉ mang ra được cái kết quả, tức là sự hiểu biết, để rồi rút ra những nguyên lý siêu nghiệm (principles transcendantaux). Deleuze quay sang phê bình Hegel: “Ngay cả nơi Hegel, việc học tập phi thường người ta thấy trong quyển Hiện Tượng Luận vẫn tùy thuộc, trong kết quả chẳng ít gì trong nguyên lý của nó, vào lý tưởng của sự hiểu biết như hiểu biết tuyệt đối”[79] Còn Platon lại cho rằng học hỏi thực ra là một chuyển động siêu nghiệm của linh hồn không thể thu giảm vào sự hiểu biết cũng như vào sự không-hiểu biết vì chính từ việc học hỏi những điều kiện siêu nghiệm của tư tưởng được rút ra chứ không từ sự hiểu biết. Những điều kiện này được Platon xác định dưới hình thức của sự hồi cố (réminiscence) chứ không từ bẩm sinh. Như thế thời gian được đưa vào tư tưởng, thời gian này không phải là thứ thời gian kinh nghiệm (temps empirique) được đặt dưới những điều kiện thực tại nhưng là thứ thời gian của tư tưởng thuần túy hay điều kiện trên nguyên tắc. Hơn nữa hồi cố tìm được đối tượng đúng là của nó, sổ ghi nhớ (mémorandum) trong chất liệu riêng biệt của ciệc thực tập tức là trong những câu hỏi và những những vấn đề như vậy, trong sự cấp bách của những vấn đề độc lập với những giải đáp của chúng, trong phạm vi của Ý niệm. Nhưng câu hỏi được đặt ra là: Tại sao những nguyên lý nền tảng liên quan tới ý nghĩa của việc tư tưởng lại được hóa giải trong chính hồi cố? Câu hỏi này được đặt ra vì, như chúng ta thấy, thời gian Platon đưa sự khác biệt của nó vào tư tưởng, vào học tập, tính dị biệt của nó (son hétérogénéité) chỉ với mục đích lại đặt chúng dưới hình thức huyền thoại của sự tương tự (ressemblence) và nhất tính (identité), nghĩa là dưới hình ảnh của chính sự hiểu biết. Deleuze chung kết quan niệm này của Platon: “Hậu quả là, toàn thể lý thuyết của Platon về học tập vận hành như một sự hối hận bị chà sát bởi hình ảnh độc đoán phát sinh, và gây ra một cái không-nền mà nó không có khả năng khám phá”.[80] Như vậy thì hiểu biết chẳng khác gì một dạng thức kinh nghiệm (une figure empirique), một kết quả giản đơn tiếp tục rơi xuống trong kinh nghiệm, còn việc học tập mới là cấu trúc siêu nghiệm thực sự kết nối khác biệt với khác biệt, không tương tự với không tương tự, mà không làm trung gian giữa chúng, và đưa thời gian vào tư tưởng nhưng thời gian này lại như một hình thức thuần túy của thời gian nói chung là trống rỗng chứ không như một quá khứ huyền thoại nào đó, một hiện tại huyền thoại nào đó. Deleuze kết luận về giả thiết thứ tám: “Chúng ta luôn luôn thấy rằng cần lật ngược những mối tương quan hay những phân phối được giả định giữa kinh nghiệm vả siêu nghiệm. Và chúng ta phải coi, như một giả thiết thứ tám trong hình ảnh độc đoán, giả thiết về sự hiểu biết chẳng làm gì hơn là thu tập, thu nhặt tất cả những giả thiết khác vào trong một kết quả được xem là đơn giản”[81]
Để tổng kết Deleuze nhắc lại: mỗi giả thiết đều có hai dạng thức là dạng thức tự nhiên và dạng thức triết học. Chẳng hạn giả thiết thứ nhất dưới dạng tự nhiên là giả thiết về nguyên lý (postulat du principe) hay về Cogitatio natura universalis tức thiện chí của nhà tư tưởng và bản chất tốt đẹp của tư tưởng, và dạng thức triết học là giả thiết về lý tưởng (postulat de l’idéal) hay của ý nghĩa chung như concordia facultatum, và lương năng như sự phân phối bảo đảm sự hòa hợp này. Cũng vậy với bảy giả thiết kế tiếp như đã được Deleuze trình bày cặn kẽ. Lý do việc mỗi giả thiết đều có hai dạng thức vì nó vừa là…vừa là…Những giả thiết không cần được nói ra, chúng tác hành tốt hơn trong im lặng, trong sự giả thiết về yếu tính cũng như trong sự chọn lựa những thí dụ, tất cả tạo thành hình ảnh độc đoán của tư tưởng. “Chúng chà sát tư tưởng dưới một hình ảnh, hình ảnh này là hình ảnh của cái Cùng Một và của Giống Như trong hình dung/tượng, nhưng nó lại phản bội ý nghĩa tư tưởng nơi sâu thẳm nhất, làm vong thân hai sức mạnh của sự khác biệt và sự lặp lại, của sự khởi đầu và khởi đầu lại triết học. Cái tư tưởng nảy sinh trong tư tưởng, hành vi của việc tư tưởng sinh sôi trong tính chất sinh sản của nó, chẳng được cho sẵn trong tính bẩm sinh hay được giả thiết trong hồi ức, là tư tưởng không hình ảnh. Nhưng một tư tưởng như vậy là gì, và tiến trình của nó trong thế giới như thế nào?”[82]
Cụm từ “La Pensée sans Image/Tư tưởng không Hình ảnh” Deleuze đưa ra mà không diễn giải nên có vẻ bí hiểm. Trước hết chúng ta nhận thấy cụm từ này xuất phát từ phê bình triệt để những quan niệm về Hình Ảnh Tư Tưởng Độc Đoán. Sau đó là từ vấn đề về mối tương quan giữa tư tưởng và hình ảnh, và nỗ lực của Deleuze muốn đạt tới một “hình ảnh mới” của tư tưởng hoàn toàn được giải phóng khỏi thứ hình ảnh do dung tưởng (représentation). Nếu triết học bắt đầu bằng hình ảnh tư tưởng độc đoán thì sẽ không có khả năng nắm bắt được ý nghĩa của tư tưởng vì hình ảnh tư tưởng này có tính chất tác động (opératoire) nên tư tưởng không còn biết tới bản chất của nó và những điều kiện để tư tưởng nữa. Theo Deleuze, tư tưởng qua hình ảnh dẫn đến việc tư tưởng không thể nắm bắt được chính hành động của mình vì phải đi qua trung gian hình ảnh, vì chức năng của hình ảnh là cho ta thấy được, cảm giác được cái không thể thấy, không thể cảm nhận: hình ảnh thật ra chỉ hình dung/hình tượng (représenter) bản sao tương tự (copie ressemblante) của một kiểu mẫu (modèle) không thể tiếp cận. Hình ảnh có vai trò “làm nhìn thấy” tức là một phương tiện giúp tư tưởng khai mở và tự nắm bắt và cũng chính vì thế hình ành trở thành một trở ngại cho tư tưởng. Vì trong hình ảnh tư tưởng bị đông cứng và nấp trốn đằng sau hành động của nó vốn là một chuyển động (mouvement) tức là sự trở thành (devenir). Thêm nữa, tư tưởng như vậy rơi vào ảo tưởng vì tư tưởng qua hình ảnh tạo cho tư tưởng có ảo tưởng là mình thực sự tự mình khởi đầu từ chính mình nhưng thực ra lại khởi đầu bằng những giả thiết ẩn dấu (implicites) và chưa được khai phá chính là hình ảnh tư tưởng. Thế nên theo Deleuze tố giác sự bất lực và ảo tưởng của tư tưởng bằng phê bình là chưa đủ mà phải đặt vấn đề về chính việc phê bình này bằng một phê bình nội tại (critique immanente) cho phép, một cách tiêu cực, lên án những giả thiết của hình ảnh tư tưởng độc đoán, đồng thới, một cách tích cực, vượt bỏ hình ảnh dung tưởng để làm cho “tư tưởng không hình ảnh” hiện ra.
Không nên vội kết luận rằng Deleuze phủ nhận Hình Ảnh Tư Tưởng. Thật ra cụm từ Tư Tưởng Không Hình Ảnh đơn giản có nghĩa Tư Tưởng Không Dung/Hình Tưởng (Pensée sans Representation). Deleuze nhắc lại sự quan trọng của Hình Ảnh Tư Tưởng trong bài Tựa cho quyển La Philosophie de Gilles Deleuze cùa Jean-Clet Martin xuất bản năm 1993 (hai năm trước khi Deleuze tự sát): “Bởi tôi nghĩ rằng, ngoài những đa bội ra, điều quan trọng hơn hết đối với tôi là hình ảnh tư tưởng như tôi đã cố gắng diễn giải trong quyển Khác Biệt và Lập Lại, rồi đến quyển Proust, và ở khắp nơi”. [83]
_________________________________
[72] DR trang 210-211: Non seulement le sens est idéel, mais les propositions sont les Idées mêmes. Entre les problèmes et les propositions, il y a toujours une différence de nature, un écart essentiel. Une proposition par elle-même est particulière, et représente une réponse déterminée. Un ensemble de propositions peuvent se distribuer de manière à ce que les réponses qu’elles représentent forment les cas d’une solution générale (ainsi pour les valeurs d’une équation algébrique). Mais précisément, générales ou particulières, les propositions ne trouvent leur sens que dans le problème sous-jacent qui les inspire. Seule Idée, seul le problème est universel. Ce n’est pas la solution qui prête sa généralité au problème, mais le problème qui prête son généralité à la solution.
[73] DR trang 211: Résoudre, c’est toujours engendrer les discontinuités sur fond d’une continuité fonctionnant comme Idée.
[74] DR trang 213: Longue dénaturation qui commence avec la dialectique elle-même, et trouve sa forme extrême dans le hégélianisme. Mais s’il est vrai que ce qui est dialectique en principe, ce sont les problèmes, et scientifique, leurs solutions, nous devons distinguer de manière plus complète: le problème comme instance transcendante; le champ symbolique où s’expriment les conditions du problème dans son mouvement d’immanence; le champ de résolubilité scientifique où s’incarne le problème et en fonction duquel se définit le symbolisme précédent. C’est seulement une théorie générale du problème, et de la synthèse idéelle correspondante, qui pourra préciser le rapport de ces éléments.
[75] François Zourabichvili, La Philosophie de Deleuze trang 32: Deleuze élabore une théorie du problème apte à rendre compte de cette pluralization du concept de verité. Elle est à première vue paradoxale, puisqu’elle se fonde d’abord sur une dévaluation du rôle de l’interrogation en philosophie. Sont denoncés à la fois, au nom de la même illusion, de la même incompréhension de ce qu’est réellement un problème, le procédé interrogatif comme fausse procédure d’apprentissage, puisqu’il organise le devenir de l’élève en fonction d’un résultat acquis d’avance par le maître; et l’idée que la philosophie serait l’art par excellence de la question, plutôt que de la réponse. “Un problème en tant que création de pensée n’a rien à voir avec une interrogation, qui n’est qu’une proposition suspendue, le double exangue d’une proposition affirmative censée lui servir de réponse” (QPh?, 132)
[76] DR trang 213: L’usage paradoxal des facultés, et d’abord de la sensibilité dans le signe, renvoie donc aux Idées, qui parcourent toutes les facultés et les éveillent à leur tour.
[77] DR trang 214: Apprendre, c’est pénétrer dans l’universel des rapports qui constituent l’Idée, et dans les singulatités qui leur correspondent.
[78] DR trang 215: Les limites des facultés s’embottent les unes dans les autres, sous la forme brisée de ce qui porte et transmet la différence.
[79] DR trang 215: Même chez Hegel, le formidable apprentissage auquel on assiste dans la Phénoménologie reste subordonné, dans son résultat non moins que dans son principle, à l’idéal du savoir comme savoir absolu.
[80] DR trang 216: Si bien que toute la théorie platonicienne de l’apprentissage fonctionne comme un repentir, ecrasé par l’image dogmatique naissant, et suscite un sans-fond qu’elle reste incapable d’explorer.
[81] DR trang 216: Nous retrouvons toujours la necessité de renverser les relations ou les répartitions supposés de l’empirique et du transcendental. Et nous devons considérer, comme un huitième postulat dans l’image dogmatique, le postulat du savoir qui ne fait que récapituler, recueillir tous les autres en un résultat supposé simple.
[82] DR trang 217: Ils écrasent la pensée sous une image qui est celle du Même et du Semblable dans la réprésentation, mais qui trahit au plus profond ce que signifie penser, aliénant les deux puissances de la differénce et de la répétition, du commenecement et du recommencement philosophiques. La pensée qui naît dans la pensée, l’acte de penser engendrer dans sa génitalité, ni donné dans l’innéité ni supposé dans la réminiscence, est la pensée sans image. Mais qu’est-ce qu’une telle pensée, et son processus dans le monde?
[83] Jean-Clet Martin, Lettre-Préface de Gilles Deleuze trong La Philosophie de Gilles Deleuze, nxb Payot, Paris 1993, trang 8: Car je crois que, outre les multiciplicités, le plus important pour moi a été l’image de la pensée telle que j’ai essayé de l’analyser dans Différence et Répétition, puis dans Proust, et partout.
(còn tiếp)
đào trung đạo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao
2020