photo:https://frieze.com



ĐÀO TRUNG ĐẠO

gilles deleuze: triết học & không triết học

(Kỳ 23)

 

Chương IV

NHÂN VẬT KHÁI NIỆM

 

kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9, kỳ 10,  kỳ 11,  kỳ 12, kỳ 13, kỳ 14, kỳ 15, kỳ 16, kỳ 17, kỳ 18, kỳ 19, kỳ 20, kỳ 21, kỳ 22, kỳ 23,

 

 

   Giai thoại về Deleuze cho thấy bản thân Deleuze có những đặc điểm vừa thú vị, khôi hài vừa bi thảm. Đặc điểm thứ nhất: Deleuze để móng tay dài và không cắt tỉa. Trong “Lettre à un Critique sévère/Thư gửi cho một nhà phê bình quá quắt” Deleuze trả lời phê phán của Michel Cressole (tác giả quyển sách về Deleuze) : Cressole mô tả một cách nhạo báng rằng móng tay dài không cắt của Deleuze trông giống như cặp kính đen của Greta Garbo, và cái áo khoác thợ thuyền Deleuze mặc giống như cái áo lót gấp nếp của Marilyn Monroe. Deleuze trả lời không kém chua ngoa: “Vì anh trở đi trở lại về móng tay tôi nhiều lần nên tôi sẽ giải thích cho anh biết. Người ta luôn luôn có thể nói rằng mẹ tôi đã cắt [móng tay] cho tôi, và rằng việc này chính là có liên hệ tới Œdipe và với thiến hoạn (diễn giải thô lỗ, nhưng theo phân tâm học). Người ta có thể lưu ý tới, khi quan sát đầu những ngón tay tôi, rằng tôi không có những vân tay bình thường bảo vệ, thế nên khi đụng đầu ngón tay trên một vật nào, nhất là vải vóc thì tôi bị kích động thần kinh nên cần phải có móng tay dài (diễn giải khoa học về những bộ phận không bình thường và theo thuyết chọn lựa). Người ta lại cũng có thể nói rằng, và đúng vậy, rằng tôi mơ không phải là được vô hình (invisible), nhưng là không nhận ra được (imperceptible), và rằng tôi bù vào sự mơ tưởng này bằng sở hữu những cái móng tay tôi có thể để trong túi của tôi, nên với tôi không có gì khó chịu hơn khi người ta nhìn thấy chúng (diễn giải tâm lý-xã hội). Sau hết người ta có thể nói: Anh không phải  cắn móng tay anh bởi vì chúng là của anh; nếu như anh thích móng tay, thì cắn móng tay người khác, nếu anh muốn và có thể (diễn giải chính trị, Darien)[161] Nhưng anh, anh bạn lại chọn cách diễn giải sát sạt hơn cả: rằng ông ta muốn làm cho mình thành khác người, làm một thứ Greta Garbo. Trong mọi trường hợp điều này thật đáng ngạc nhiên, rằng tất cả bạn bè tôi, chẳng có ai để ý đến móng tay tôi bao giờ cả, và thấy những móng tay này hoàn toàn tự nhiên, như thể chúng được tình cờ cắm vào đó như gió mang hạt giống tới và điều này chẳng làm cho ai phải nói năng gì.”[162]

   Deleuze còn có một vài đặc điểm khác như: không thích du lịch, không thích ăn cheese, không thích ngồi ăn một mình, thích những côn trùng hút máu và nhện (giống Spinoza) vì chúng có một tiểu thế giới sống tuy giới hạn nhưng với Deleuze thật quyến rũ và chúng ít khi phản ứng lại những kích thích. Deleuze ghét những gia súc nhất là những con vật cọ quẹt vào người (les frotteurs) như mèo chẳng hạn, cũng không thích chó và Deleuze gọi tiếng chó sủa là thứ tiếng kêu ngu xuẩn nhất (Deleuze trả lời câu hỏi của Claire Parnet phần chữ “A” trong ABCDaire de Gilles Deleuze.). Ngoài ra Deleuze cũng là người nghiện rượu nặng. Có lẽ vì vậy Deleuze rất thích đọc Fitzgerald và Faulkner là những “sâu rượu”.

   Nhân vật khái niệm và mặt phẳng nội tại tương tác nhau. Nhân vật khái niệm dường như khi thì có trước khi thì có sau mặt phẳng nội tại vì nhân vật khái niệm xuất hiện, can dự hai lần: một mặt, nhân vật khái niệm nhào lặn xuống sự hỗn mang để rút ra những xác định nhằm tạo những nét biểu đồ (traits digrammatiques) cho mặt phẳng như thể trong tay nắm những con súc sắc trong sự tính cờ-hỗn mang (hazard-chaos) để thảy xuống mặt bàn. Mặt khác, với mỗi con súc sắc rơi xuống nhân vật khái niệm cho nó tương ứng với những nét cường độ (traits intensifs) của một khái niệm sẽ đến chiếm giữ một vùng nào đó trên mặt bàn như thể vùng này được tách mảnh theo những con số. Nhân vật khái niệm với những đặc điểm/nét cá tính (traits personnalistiques) như vậy tham dự vào giữa hỗn mang và những nét biểu đồ của mặt phẳng nội tại cũng như giữa mặt phẳng và những nét cường độ của những khái niệm sẽ chiếm chỗ trên mặt phẳng. Những nhân vật khái niệm tạo ra những điểm nhìn để những mặt phẳng nội tại tách ra hay tiến gần nhau cũng như những điều kiện để mỗi mặt phẳng được những khái niệm cùng nhóm đổ đầy vào. Deleuze chủ trương thuyết tạo lập (constructivisme) trong đó mọi tư tưởng có thẩm quyền thảy hột súc sắc. Thế nhưng đây là một cuộc chơi rất phức tạp bởi việc thảy hột súc sắc được tạo ra bởi những chuyển động bất tận, thuận nghịch và gấp lại nhau, dù rằng việc con súc sắc rơi xuống chỉ thể được tạo thành với tốc độ không được định rõ trong khi tạo ra những hình thức được định rõ tương ứng với những tọa độ cường độ của những chuyển động này: “mọi khái niệm đều là một con số không hiện hữu trước.”[163] Vì những khái niệm không phải được suy ra từ mặt phẳng nên nhân vật khái niệm phải sáng tạo ra chúng cũng như vạch ra mặt phẳng, Nhưng nơi nhân vật khái niệm hai thao tác này không trùng hợp nhau.

   Tùy theo điểm nhìn/quan điểm của những nhân vật khái niệm nên rất nhiều những mặt phẳng được họp thành nhóm hay chia tách nhau. Vì mỗi nhân vật có nhiều đặc điểm cho nên có thể dành chỗ cho những nhân vật khác trên cùng một mặt phẳng hay trên một mặt phẳng khác. Tương tự, số khái niệm trên một mặt phẳng không có hạn định, những khái niệm này phối hợp và cộng hưởng bằng những cầu nối di động nhưng ta không thể tiên liệu được dáng vẻ của chúng theo chức năng những biến đổi của đường cong trên mặt phẳng. Chúng được sáng tạo hàng loạt và không ngừng chia ngả.

   Deleuze tóm lược triết học có ba yếu tố tương tác nhau: mặt phẳng tiền triết học (le plan pré-philosophique) triết học phải vạch ra (immanence/nội tại), những nhân vật hậu thuẫn triết học (pro-philosophiques) triết học phải sáng chế ra và làm sống lại (insistance/khẳng quyết), và những khái niệm triết học phải sáng tạo (consistance/vững chắc). Đó là bộ ba: vạch, sáng chế, và sáng tạo. Việc vạch, sáng chế, và sáng tạo thế nào là tùy vào goût/sở thích của triết gia nhưng phải có sự cùng-thích ứng (co-adaptation). Deleuze định nghĩa goût/sở thích: “Người ta gọi goût/sở thích là khả năng cùng-thích ứng triết học, và nó điều phối việc sáng tạo những khái niệm. Nếu người ta gọi Lý trí là cái được vạch ra của mặt phẳng, Tưởng tượng là việc sáng chế những nhân vật, Tri năng là việc sáng tạo những khái niệm thì goût/sở thích được coi như khả năng ba phần của cái khái niệm còn chưa được qui định, của nhân vật còn chưa được sản sinh, của mặt phẳng còn trong suốt. Đó chính là lý do phải sáng tạo, sáng chế, vạch ra nhưng goût/sở thích như là điều phối của sự tương ứng của ba khâu khác nhau về bản chất kia.”[164] Deleuze nhấn mạnh: chắc chắn đó không phải là khả năng đo đạc. Tuy nhiên trong mọi trường hợp goût triết học chính là tình yêu khái niệm được sáng tạo tốt. Trong trường hợp những khái niệm đã được sáng tạo có sẵn rồi thì phải quan sát những giới hạn. Còn mặt phẳng “tiền triết học” được gọi như thế vì người ta vạch nó ra như được giả định chứ không phải là đã có sẵn. “Ba hoạt động là đồng thời một cách nghiêm xác và chỉ có những mối tương quan không thể so sánh. Sáng tạo những khái niệm không có giới hạn nào ngoài mặt phẳng những khái niệm này sẽ cư ngụ, nhưng chính mặt phẳng lại không có giới hạn, và đường vạch của nó chỉ tùy theo những khái niệm sẽ được sáng tạo mà nó phải phù hợp hay với những nhân vật được sáng chế nó phải đảm đương.”[165]  Deleuze so sánh công việc của triết học với hội họa: ngay cả khi vẽ những con quỉ hay những thằng lùn họa sĩ cũng phải có goût để những vật này sao cho hoàn chỉnh, điều này không có nghĩa làm cho mất đi sự thẩm mỹ nhưng có nghĩa cái hình dáng không đều đặn của chúng phải tương xứng với làn da hay cái nền Trái đất như chất liệu mầm mống mà chúng ưa thích. Deleuze rất ngưỡng mộ cách dùng mầu sắc của Van Gogh: nhà họa sĩ này đã dầy công trong việc pha mầu: Van Gogh đã không chỉ đẩy màu vàng đến mức vô hạn bằng cách sáng chế ra con người-hoa hướng dương (homme-tournesol) và vạch ra mặt phẳng của những dấu phẩy nhỏ bé bất tận. “Sở thích mầu sắc chứng tỏ vừa sự kính trọng cần thiết trong cách tiếp cận những mầu sắc, vừa sự chờ đợi lâu dài phải trải qua, nhưng cũng của sự sáng tạo không giới hạn làm cho chúng hiện hữu. Cũng vậy đối với sở thích của những khái niệm: triết gia chỉ tiếp cận khái niệm chưa được xác định với sự run sợ và kính trọng, ông ta phân vân rất lâu để tiến tới, nhưng ông ta chỉ thể xác định khái niệm trong việc sáng tạo không kích cỡ, và vạch ra một mặt phẳng nội tại chỉ với một qui tắc, và cũng chỉ với một cái vạch vòng tròn ông ta làm cho những nhân vật lạ lùng sống dậy. Sở thích triết học không thay thế sự sáng tạo hay làm cho sự sáng tạo dịu bớt, ngược lại chính sự sáng tạo những khái niệm kêu gọi một sở thích làm cho nó nhuần nhuyễn.”[166] Sở thích một khái niệm chưa được xác định cần thiết cho việc sáng tạo tự do và sở thích đó chính là sức mạnh. Nietszche đã cảm thức được mối tương quan giữa sáng tạo những khái niệm với sở thích triết học đúng nghĩa. Theo Deleuze, triết gia kẻ sáng tạo những khái niệm chính nhờ có ân sủng của một khả năng sở thích như một sự “cả gan” (sapere) có tính chất bản năng gần như súc vật – một cái Lệnh tự ý hay cái Nghiệp ban cho mỗi triết gia cái quyền đi vào những vấn đề nào đó như một dấu ấn trên cái tên của ông ta, như một hấp lực làm cho tác phẩm của ông ta tuôn chảy ra.

   Đã đành triết học có ba yếu tố tương tác nhau: khái niệm, mặt phẳng nội tại và nhân vật khái niệm nhưng câu hỏi đặt ra là: khái niệm được triết gia sáng tạo phải như thế nào, vạch mặt phẳng nội tại như thế nào, và những nhân vật khái niệm nào cần được làm sống lại? Về khái niệm sẽ được sáng tạo Deleuze cho rằng đó phải là những khái niệm có ý nghĩa. “Một khái niệm là thiếu ý nghĩa khi nó không nối kết với những khái niệm khác, và không quan hệ với một vấn đề nó giải quyết hay đóng góp vào việc giải quyết.”[167] Về mối quan hệ giữa khái niệm, mặt phẳng nội tại và nhân vật khái niệm trong triết học: Khái niệm đúng là một giải đáp nhưng vấn đề nó đưa ra lại nằm trong những điều kiện của sự khẳng quyết có ý hướng. Nếu khái niệm là giải đáp cho vấn đề thì những điều kiện của vấn đề phải nằm trên mặt phẳng nội tại, và những điều chưa biết của vấn đề (les inconnues du problème) nằm trong những nhân vật khái niệm mà khái niệm trưng dụng. Còn về giải đáp, theo Deleuze: Một giải đáp sẽ không có ý nghĩa nếu nó độc lập với một vấn đề để tìm ra những điều kiện của nó và những điều chưa biết của nó, nhưng những điều kiện hay những điều chưa biết cũng lại vô nghĩa khi không dính dáng gì tới những giải đáp có thể qui định được như những khái niệm. Deleuze nhắc lại: ba khâu này tuy nằm trong nhau nhưng lại không có cùng bản chất. Deleuze cho rằng Bergson đã có đóng góp đáng kể trong việc giải thích một vấn đề triết học là gì khi nói rằng một vấn đề triết học được đặt ra tốt là một vấn đề đã được giải quyết (un problème bien posé était un problème résolu). “Nhưng điều này không có nghĩa rằng một vấn đề chỉ là cái bóng hay một cái thêm vào vô nghĩa của những giải đáp của nó, cũng không có nghĩa rằng giải đáp chỉ là sự lập lại hay hậu quả phân tích của vấn đề. Đúng ra có nghĩa rằng ba hoạt động kết thành chủ thuyết tạo lập không ngừng thế chỗ nhau, gọt rũa nhau, cái này đi trước cái kia và khi thì đảo nghịch, hoạt động này bao gồm việc sáng tạo khái niệm như trường hợp của giải đáp, hoạt động kia vạch ra một mặt phẳng và một chuyển động trên mặt phẳng như những điều kiện của vấn đề, hoạt động khác nữa là sáng chế ra một nhân vật như cái chưa biết của vấn đề. Toàn bộ của vấn đề (mà chính giải đáp cũng là một phần) luôn gồm việc xây dựng hai cái kia khi cái thứ ba đang diễn ra.”[168] Tuy không có qui luật nào cho biết trước mặt phẳng nào, nhân vật nào, khái niệm nào là tốt nhưng mỗi yếu tố này phải được xây dựng chỉ vì nó thôi. “Thuyết tạo lập truất quyền mọi thảo luận, thảo luận sẽ làm chậm trễ  những việc xây dựng cần thiết, cũng như thuyết tạo lập loại bỏ những cái phổ quát, tư duy, phản tư, thông giao được coi như những nguồn gốc của cái mà người ta gọi là “những vấn đề sai giả” xuất phát từ những ảo tưởng vây quanh mặt phẳng. Đó là tất cả những gì người ta có thể nói trước.”[169] Lý do không thể tiên liệu về mối quan hệ giữa ba thành phần/yếu tố khái niệm-mặt phẳng-nhân vật khiến triết học thường trực khủng hoảng. Và vì tiêu chí của mỗi thành phần chỉ thể tìm thấy nơi hai thành phần kia nên triết học luôn luôn triển khai trong nghịch lý. Theo Deleuze, chân lý không gây hứng khởi cho triết học và những phạm trù như Thú vị (Intéressant), Đáng kể (Remarquable) hay Quan trọng (Important) mới quyết định sự thành bại của triết gia.    

___________________________________

[161] Georges Adrien (1862-1921), biệt danh “Darien” nhà văn và nhà hoạt động xã hội tự do cực hữu, vô chính phủ, kịch liệt bác bỏ mọi định chế xã hội.

[162] Gilles Deleuze, Pourparlers (1971-1990) trang 14: On peut dire enfin: “Il ne faut pas manger tes ongles parce qu’ils sont à toi; si tu aimes les ongles, mange ceux des autres, si tu veux et si tu peux” (interprétation politique, Darien). Mais toi, tu choisis l’interprétation la plus proche: il veut se singulariser, faire sa Greta Garbo. En tous cas c’est curieux que, de tous mes amis, aucun n’a jamais remarqué mes ongles, les trouvant tout à fait naturels, plantés là au hazard comme par le vent qui apporte des grains et qui ne fait parler personne.

[163] Qu’est-ce que la Philosophie trang 73: tout concept est un chiffre qui ne préexistait pas.

[164] Sđd trang 75-75: On appelle goût cette faculté philosophique de co-adaptation, et qui règle la création des concepts. Si l’on appelle Raison le tracé du plan, Imagination, l’invention des personnages, Entendement, la création des concepts, le goût apparaît comme la triple faculté du concept encore indeterminé, du personnage encore dans les limbes, du plan encore transparent. C’est pourquoi il faut créer, inventer, tracer, mais le goût est comme la règle de correspondence des trois instances qui diffèrent en nature.

[165] Sđd trang 75: Les trois activités sont strictement simultanées et n’ont de rapports qu’incommensurables. La création des concepts n’a pas d’autre limite que le plan qu’ils viennent peupler, mais le plan lui-même est illimité, et son tracé ne se conforme qu’aux concepts ou aux personnages à inventer qu’il doit entretenir.

[166] Sđd trang 75-76: Le goût des couleurs témoigne à la fois du respect nécessaire de leur approche, de la longue attente par laquelle il faut passer, mais aussi de la création sans limite qui les fait exister. Il est de même du goût des concepts: le philosophe ne s’approche du concept indéterminé qu’avec crainte et respect, il hésite longtemps à se lancer, mais il ne peut déterminer de concept qu’en en créant sans mesure, avec pour seule règle un plan d’immanence qu’il trace, et pour seul compass les étranges personnages qu’il fait vivre. Le goût philosophique ne remplace pas la création ni ne la modère, c’est au contraire la création des concepts qui fait appel à un goût qui la module.

[167] Sđd trang 76: Un concept est privé de sens tant qu’il ne se raccorde pas à d’autres concepts, et n’est pas rattaché à un problème qu’il résout ou contribute à résoudre.

[168] Sđd trang 78: Mais ce ne veut pas dire qu’un problème est seulement l’ombre ou l’épiphénomène de ses solutions, ni que la solution n’est que la redondance ou la conséquence analytique du problème. C’est plutôt que les trois activités qui composent le constructionnisme ne cessent de se relayer, de se recouper, l’une précedant l’autre et tantôt l’inverse, l’une qui consiste à créer les concepts comme cas de résolution, l’autre à tracer un plan et un mouvement sur le plan comme conditions d’un problème, l’autre à inventer un personange comme l’inconnue du problème. L’ensemble du problème (dont la solution fait elle-même partie) consiste toujours à construire les deux autres quand le troisième est en cours.

[169] Sđd trang 79: Le constructivisme disqualifie toute discussion, qui retarderait les constructions nécessaires, comme il dénonce tous les universaux, la contemplation, la réflexion, la communication comme sources de ce qu’on appelle “faux problèmes” émanant des illusions qui entourent le plan. C’est tout ce qu’on peut dire d’avance.

(còn tiếp)

đào trung đạo

 

2020