
photo:https://frieze.com
ĐÀO TRUNG ĐẠO
gilles deleuze: triết học & không triết học
(Kỳ 6)
kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6,
Chương 1
Hình ảnh Tư tưởng
Sau phần phê bình triệt để quan niệm hình ảnh tư tưởng của Descartes, Kant, và Platon cũng như 8 giả thiết trong những quan niệm này Deleuze khái quát về một chủ thuyết duy nghiệm siêu nghiệm (empirisme trancendantal) – là phần sáng tạo những khái niệm như đã đề ra – Trước hết Deleuze giải thích cặn kẽ nghĩa của từ siêu nghiệm: “Hình thức siêu nghiệm của một khả năng không thể phân biệt được với sự thao dượt rời rạc, cao cấp hay vượt lên của nó. Vượt lên hoàn toàn không có nghĩa rằng khả năng tự nó nhắm đến những đối tượng bên ngoài thế giới, nhưng ngược lại nó nắm bắt trong thế giới cái nó chỉ quan tâm tới, và làm cho cái đó nảy sinh trong thế giới. Nếu sự thao dượt vượt lên không phải là được đồ hình theo sự thao dượt kinh nghiệm, đó chính bởi sự thao dượt này bắt lấy cái không thể nắm bắt đứng trên quan điểm của một ý nghĩa chung (lẽ thường), ý nghĩa chung này đo đạc sự sử dụng theo kinh nghiệm tất cả những khả năng tùy cái gì đến với mỗi khả năng dưới hình thức của sự hợp tác của tất cả các khả năng. Đó là lý do tại sao cái siêu nghiệm có thể đáp ứng một thuyết duy nghiệm cao cấp, chỉ có thuyết này là có thể khám phá phạm vi và những vùng của nó, bởi, ngược lại với điều Kant vẫn nghĩ, nó không thể nào được rút ra từ những hình thức kinh nghiệm thông thường như chúng hiện ra dưới sự qui định của ý nghĩa chung.”[39] Theo Deleuze, ngày nay học thuyết về những khả năng vốn thiết yếu trong hệ thống triết học bị hạ giá bởi người ta hiểu lầm chủ thuyết duy nghiệm siêu nghiệm và thay vào đó bằng một đồ hình của cái siêu nghiệm sao chép trên cái kinh nghiệm. Thế nên cần phải đưa mỗi khả năng tới cực điểm của sự không theo qui luật (dèrèglement), không tác hoạt của nó nơi nó như thể làm mồi cho ba thứ bạo động: bạo động buộc nó tác hành, bạo động của cái buộc nó nắm bắt và bạo động khi cho rằng chỉ có nó có thể nắm bắt cái không thể nắm bắt xét trên quan điểm của thao dượt kinh nghiệm. Mỗi khả năng khi được đẩy tới giới hạn cùng cực của việc không theo qui luật sẽ không tránh khỏi ba sự bạo động như kể trên và đó cũng là ba giới hạn của sức mạnh cuối cùng.
Mở đầu cho luận giải về nguyên ủy của việc tư tưởng trong tư tưởng (la genèse du Penser dans la pensée) Deleuze khảo sát những khả năng như cảm nhận, ký ức, tưởng tượng, ngôn ngữ…Deleuze cho rằng “Mỗi khả năng khám phá ra sự đam mê riêng của nó, nghĩa là sự khác biệt triệt để và sự lập lại vĩnh cửu của nó, yếu tố khác biệt và lập lại, như sự sản sinh lập tức của hành vi của nó và sự toàn mãn vĩnh cửu của đối tượng của nó, cách thế ra đời trong khi đã lập lại.”[40] Chúng ta thấy Deleuze nhấn mạnh tới khác biệt và lập lại. Deleuze đặt ba câu hỏi về cảm tính (sensibilité): cái gì bắt buộc cảm tính phải cảm nhận, cái gì chỉ thể cảm nhận, và đồng thời cái không thể cảm nhận là gì? Những câu hỏi như thế không những phải được đặt ra với ký ức và tư tưởng mà còn phải đặt ra với cả tưởng tượng, ngôn ngữ, chưa kể còn những khả năng khác như sinh lực (vitalité) xã hội tính (sociabilité) và những khả năng khác nữa. Deleuze khẳng định không có ý định lập ra một chủ thuyết về các khả năng mà chỉ tìm cách xem xét bản chất của những bó buộc của những khả năng vì sự qui định của Platon không thỏa mãn bởi đó không phải là những dạng thức (figures) đã được trung gian hóa (mediatisées) và qui chiếu về hình dung/tưởng, nhưng ngược lại là những trạng thái tự do của chính sự khác biệt có thể đưa các khả năng đến giới hạn của từng khả năng. Deleuze cho rằng không phải đối nghịch phẩm tính trong cái khả cảm nhưng là một yếu tố tự nó là sự khác biệt tạo ra đồng thời với phẩm tính trong cái khả cảm và sự thao dượt vượt lên trong cảm tính. Yếu tố này là cường tính (l’intensité) được hiểu như sự khác biệt tự nội thuần túy (pure différence en soi) đồng thời vừa là cái bất khả tri nhận với cảm tính kinh nghiệm vốn chỉ nắm bắt cường tính đã được che kín hay được trung gian hóa bởi phẩm tính mà cảm tính kinh nghiệm này tạo ra và cùng lúc là cái chỉ thể quan nhận từ điểm nhìn của cảm tính siêu nghiệm lập tức nắm bắt nó khi chạm mặt. Khi cảm tính chuyển sự cưỡng ép của nó lên trí tưởng tượng, khi đến lượt trí tưởng tượng nâng mình lên sự thao dượt siêu nghiệm thì chính ảo tưởng (fantasme), sự chênh lệch của ảo tưởng tạo thành cái phantasteon chỉ thể vừa là cái được được tưởng tượng và không thể tưởng tượng theo kinh nghiệm. Đối với ký ức, đó không phải là sự tương tự trong hồi ức nhưng là cái bất tương tự trong hình thức thời gian thuần túy, hình thức này tạo nên cái không ghi nhớ của một thứ ký ức siêu nghiệm. Từ những biện giải trên Deleuze viết: “Và đó là một cái Tôi đứt gẫy bởi cái hình thức thời gian này cuối cùng được thấy bị cưỡng ép phải tư tưởng cái chỉ thể tư tưởng, không phải cái Cùng Một, nhưng là “điểm tình cờ” siêu vượt này, luôn luôn Khác do bản chất, ở đó tất cả mọi yếu tính được bao gồm như những sự biệt phân của tư tưởng, và nó cũng chỉ có nghĩa là sức mạnh cao hơn hết của tư tưởng do sức mạnh chỉ thị cái không thể tư tưởng ở mức độ kinh nghiệm.”[41] Để hỗ trợ cho luận giải trên Deleuze nhắc đến Heidegger cho rằng khi tư tưởng nằm bất động ở giả định về bản chất tốt và thiện chí của nó dưới hình thức ý nghĩa chung, của một lý trí, của một tư duy tự nhiên phổ quát, thì nó chẳng tư tưởng gì hết, nó là tù nhân của ý kiến, bị đóng băng trong một khả hữu tính trừu tượng. Deleuze trích dẫn Heidegger trong Was Heisst Denken?[42]: “Con người có thể tư tưởng như thể con người có khả tính này, nhưng sự khả hữu này không bảo đảm cho chúng ta rằng chúng ta có khả năng tư tưởng.” Deleuze diễn giải thêm: tư tưởng chỉ tư tưởng khi bị cưỡng ép và đẩy tới, trong sự có mặt của cái “cho ta tư tưởng”, cái phải tư tưởng và cái phải tư tưởng này cũng là cái không thể tư tưởng hay không-tư tưởng (non-pensée) là sự kiện vẫn mãi là “chúng ta chưa tư tưởng”(theo hình thức thuần túy của thời gian.) Tuy nhìn nhận ý kiến của Heidegger nêu trên nhưng Deleuze lại không chấp nhận khái niệm philia/tình thân hữu Heidegger nêu ra trong Was Heisst Denken?[Deleuze cho rằng con đường dẫn đến sự khởi đầu tư tưởng là cảm tính và luôn do cường độ của cảm tính mà tư tưởng diễn ra. “Cái đặc quyền của cảm tính như nguồn gốc hiện ra ở điều nó đẩy tới cảm nhận và cái chỉ thể cảm nhận cùng là một thứ trong sự gặp gỡ, trong khi ở những trường hợp khác hai khâu này phân biệt. Thật thế, cái cường kích, sự khác biệt trong cường độ vừa là đối tượng của gặp mặt vừa là đối tượng nơi đó sự gặp mặt nâng cảm tính lên.”[43] Deleuze cho rằng cái được gặp mặt là những sức mạnh của nhảy vọt lên (les puissances du saut), của khoảng cách (intervalle) của cường kích (intensif) hay của thời khoảng (instant), và những cái này chỉ làm đầy sự khác biệt bằng cái khác biệt: chúng là những thứ mang-những dấu chỉ (porte-signes). Quan trọng hơn nữa là từ cảm tính sang tưởng tượng, từ tưởng tượng sang ký ức, từ ký ức sang tư tưởng khi mỗi khả năng rời việc thông giao với một khả năng khác thì có sự bạo động đưa nó đến giới hạn riêng của nó, chính dạng thức tự do của sự khác biệt đánh thức khả năng như cái khác biệt trong sự khác biệt này. “Sự đối nghịch, sự tương tự, nhất tính và ngay cả loại suy chỉ là những hiệu ứng được sản xuất bởi những sự có mặt của sự khác biệt”[44] thay vì là những điều kiện làm cho sự khác biệt tùy thuộc và làm cho sự khác biệt thành một thứ dược hình dung. Chính vì vậy người ta không thể nói đến một thứ philia tình thân hữu làm chứng cho một sự ham muốn, một tình yêu, một bản chất tốt khác hay một thiện chí và bằng những thứ này mà những khả năng đã sở hữu hay hướng đến đối tượng ở đó bạo động nâng chúng lên và trình ra một loại suy với nó hay một cách làm cho chúng tương đồng. “Mỗi khả năng, kể cả tư tưởng không có sự phiêu lưu nào khác ngoài sự phiêu lưu của cái không tự ý; việc sử dụng tự ý nằm sâu trong cái kinh nghiệm. Logos vỡ tan thành những mật hiệu mà mỗi mật hiệu nói ngôn ngữ vượt lên của một khả năng.”[45] Deleuze cũng tiếp tục nhấn mạnh rằng ngay từ khởi điểm trong cuộc gặp mặt với cái buộc ta phải cảm nhận cảm tính không giả thiết bất kỳ sự hấp/hút dẫn (affinité) hay định trước nơi tới (prédestination) mà ngược lai chính sự vô bằng (le fortuite) hay sự bất ngờ (contingence) của sự gặp mặt bảo đảm cho sự cần thiết của cái buộc ta phải tư tưởng và đó không phải là một tình thân hữu như tình thân hữu của cái tương tự với Cái cùng Một, sự hợp nhất những đối nghịch vốn nối cảm tính với sentiendum (được cảm nhận). Thật ra ngay nguyên lý của thông giao giữa các khả năng cũng không duy trì được hình thức của ý nghĩa chung nhưng có một sự kết chuỗi (enchaînement) và thứ tự của sự kết chuỗi những khả năng tuy sự kết chuỗi cũng như trật tự kết chuỗi cũng không ngầm chứa một sự hợp tác trên một hình thức đối tượng được gỉ thiết vẫn là cùng một đối tượng hay một sự đồng nhất chủ quan trong bản chất của cái Tôi tưởng nào. Đó là một chuỗi bị thúc phọc và gẫy vụn xuyên suốt những mảnh của một cái tôi tan vỡ như những đường viền của một cái Tôi gẫy vụn (un Je fêlé). Thế nên, việc sử dụng siêu nghiệm những khả năng đối nghịch với việc thao dượt của nó đặt dưới qui tắc của ý nghĩa chung là điều nghịch lý. Cũng vậy sự hòa hợp của những khả năng chỉ thể là một hòa hợp bất hòa (accord discordant), chỏi nhau bởi khả năng này chỉ thông giao với khả năng kia khi sự bạo động đặt nó trong sự có mặt của sự khác biệt và sự rời bỏ của nó với tất cả những khả năng khác. Theo Deleuze, Kant là người đầu tiên đưa ra thí dụ về sự hòa hợp do bất hòa này trong mối tương quan của trí tưởng tượng với tư tưởng xảy ra nơi cái cao thượng (le sublime). Như vậy hẳn có cái gì đó thông giao từ khả năng này với khả năng kia nhưng nó lại hóa thân và không tạo thành ý nghĩa chung. Ngoài ra khi người ta cho rằng những Ý niệm (Idées) chạy suốt qua những khả năng không phải là đối tượng của bất kỳ khả năng riêng rẽ nào nhưng ttheo Deleuze nên dành từ Ý niệm không phải cho những tư duy thuần túy (purs cogitanda) mà cho những khâu đi từ cảm tính tới tư tưởng, chúng có khả năng sản sinh ra đối tượng-giới hạn (objet-limite) hay siêu vượt của mỗi khả năng trong mỗi trường hợp tùy theo trật tự của nó. Phê bình Ý niệm do Kant đề ra Deleuze cho rằng “Những ý niệm là những vấn đề, nhưng là những vấn đề chỉ đem đến những điều kiện dưới đó những khả năng đạt tới sự thao dượt cao cấp của chúng. Xét dưới khía cạnh này thì những ý niệm thay vì lấy trung điểm là lương năng hay ý nghĩa chung lại qui chiếu về một ngoại-ý nghĩa (para-sens) chỉ qui định sự thông giao của những khả năng không kết hợp nhau. Nếu bảo rằng những ý niệm được chiếu sáng bởi một thứ ánh sáng tự nhiên thì đúng ra chúng chi phát quang như những vệt sáng biệt phân (lueurs différentielles) nổi lên và tự hóa thân. “Ngay quan niệm về một ánh sáng tự nhiên cũng không thể tách rời một giá trị của Ý niệm được giả thiết nào đó, giá trị “rõ ràng và phân biệt”, và một nguồn gốc được giả định có tên là “bẩm sinh.”[46] Nhưng bẩm sinh lại chỉ tượng trưng cho bản chất tốt lành của tư tưởng, đứng ớ quan điểm của một thần học Ky tô giáo hay, một cách tổng quát hơn, của những bó buộc của sự sáng tạo (chính vì vậy Platon đặt hồi ức đối nghịch với bẩm sinh, phê phán sự bẩm sinh là đã không biết tới vai trò của một hình thức thời gian trong tâm hồn như hậu quả của tư tưởng thuân túy, hay sự cần thiết phân biệt về mặt hình thức giữa Trước và Sau có khả năng đặt sự quên lãng trên nền tảng của cái buộc phải tư tưởng.) Tiêu chí “rõ ràng và phân biệt” theo Deleuze không thể tách rời khỏi kiểu mẫu của sự nhận biết được sử dụng như dụng cụ của mọi tín ngưỡng chính thống ngay cả khi nó là duy lý đi nữa. Tiêu chí này là luận lý của sự nhìn nhận cũng như bẩm sinh là thần học của ý nghĩa chung và cả hai đã ném Ý niệm vào hình dung/tưởng. Thế nên sự phục hồi của Ý niệm trong chủ thuyết về những khả năng kéo theo sự rực sáng của tiêu chí nói trên hay sự khám phá ra một giá trị tràn đầy say sưa quá độ (valeur dionisaque) cho rằng Ý niệm thiết yếu là tối tăm trong chừng mực nó là phân biệt, càng phân biệt càng tối tăm. Do đó sự phân biệt-tối tăm trở thành giọng điệu thực sự của triết học, bản hòa tấu của Ý niệm bất hòa hợp.
Để minh họa cho ý tưởng nêu trên Deleuze nêu ra việc trao đổi thư từ giữa Jacques Rivière (1886-1925) chủ biên tạp chí NRF và thi sĩ-nhà biên kịch Antonin Artaud (1896-1948) được Maurice Blanchot (1907-2003) kể lại. [47] Antonin Artaud khi 27 tuổi gửi đến Jacques Rivière một số bài thơ để đăng trên NRF nhưng vị chủ biên đã nhã nhặn từ chối đăng tải. Artaud giải thích cho Rivière biết lý do mình đã viết ra những bài thơ không hoàn hảo như vậy: Artaud khổ đau vì sự bỏ rơi tư tưởng khiến mình không thể quên đi những hình thức dù không đầy đủ đã chinh phục được trên sự thiếu vắng trung tâm này. Trong khi đó Rivière vẫn bảo lưu hình ảnh của một chức năng tư tưởng tự lập trên nguyên tắc vốn có một bản chất và một ý chí. Điều xảy ra là thật đáng ngạc nhiên khi Rivière càng cố đến gần và hiểu Artaud hóa ra lại càng xa rời Artaud. Riviere đề nghị Artaud hãy viết thư cho Rivière biết về những bài thơ không thể đăng tải và hứa sẽ cho in những trao đổi thư tín giữa hai người. Artaud chấp nhận với điều kiện Rivière không được làm sai lạc sự thật. Thật ra bởi Artaud không chỉ nói về trường hợp mình mà còn cho thấy trường hợp của mình đưa mình đến sự tiếp cận với một diễn tiến tư tưởng tổng quát hóa không thể nào lẩn tránh dưới hình ảnh độc đoán làm yên tâm mà ngược lại thấy mình tan vào sự triệt hủy hoàn toàn của hình ảnh này. Artaud cho biết những sự khó khăn cảm thấy không phải được hiểu như những sự kiện nhưng là những khó khăn trên nguyên tắc có quan hệ và ảnh hưởng tới yếu tính của việc tư tưởng. Artaud cũng nói rõ rằng vấn đề đối với mình không phải là định hướng tư tưởng hay hoàn thiện sự biểu lộ về việc tư tưởng của mình thủ đắc một phương pháp hay hoàn thiện những bài thơ của mình nhưng đơn giản chỉ là làm cách nào để tư tưởng về một cái gì đó.[49] Đối với Artaud đó mới duy nhất là “tác phẩm” có thể quan niệm được, công trình, tác phẩm này giả thiết một sức đẩy để tư tưởng kinh qua mọi sự chia ngả đi từ những giây thần kinh và thông giao với tâm hồn để đi tới tư tưởng. Deleuze kết luận: “Từ nay, cái tư tưởng bị buộc phải tư tưởng, cũng là sự sụp đổ trung tâm của nó, sự gẫy vụn của nó, sự “không thể nào/bất lực” tự nhiên riêng của nó, nó không thể nào phân biệt được với sức mạnh lớn lao hơn cả, nghĩa là với những sức mạnh không được khuôn mẫu này, như thể với bao nhiêu những sự trộm cắp hay những xâm nhập của tư tưởng. Artaud theo đuổi sự khai mở khủng khiếp một tư tưởng không hình ảnh [ĐTĐ nhấn mạnh] và sự chinh phục một nguyên tắc mới không để mình hình dung/tưởng trong toàn thể điều này.”[48] Artaud cho rằng sự khó khăn như vậy cũng như biết bao vấn đề và câu hỏi vây quanh sự khó khăn này không phải là một trạng thái của sự kiện nhưng là một cấu trúc trên nguyên tắc của tư tưởng, nhưng muốn làm nảy sinh cái chưa hiện hữu: Tư duy là sáng tạo, không có một sự sáng tạo nào khác nhưng chỉ có sáng tạo theo nghĩa trước hết tạo nên hành động tư tưởng trong tư tưởng mà thôi. Chính vì thế Artaud đối lập sinh sản (genitalité) với bẩm sinh cũng như với hồi tưởng và đặt ra nguyên tắc cho một chủ thuyết kinh nghiệm siêu nghiệm (empirisme transcendental).
________________________________
[39] Gilles Deleuze, Différence et Répétition trang 186: La forme transcendantale d’une faculté se confond avec son exercice disjoint, supérieur ou transcendant. Transcendant ne signifie pas du tout que la faculté s’adresse à des objets hors du monde, mais au contraire qu’elle saisit dans le monde ce qui la concerne exclusivement, et qui la faire naître au monde. Si l’exercice transcendant ne doit pas être décalqué sur l’exercice empirique, c’est précisement parce qu’il appréhende ce qui ne peut être saisi du point de vue d’un sens commun, lequel mesure l’usage empirique de toutes les facultés d’après ce qui revient à chacune sous la forme de leur collaboration. C’est pourquoi le transcendantal pour son compte est justiciable d’un empirisme supérieur, seul capable d’explorer le domain et les régions, puisque, contrairement à ce que croyait Kant, il ne peut pas être induit des forms empiriques ordinaires telles qu’elles apparaissent sous la détermination du sens commun.
[40] Gilles Deleuze, Différence et Répétition trang 186: Chaque faculté découvre alors la passion qui lui est propre, c’est-à-dire sa différence radicale et son éternelle répétition, son élément différentiel et répétiteur, comme l’engendrement instantané de son acte et l’éternel ressassement de son objet, sa manière de naître en repétant dejà.
[41] Gilles Deleuze, Sđd trang 186: Et c’est un Je fêlé par cette forme du temps qui se trouve enfin constraint de penser ce qui ne peut être que pensé, non pas le Même, mais ce “point aléatoire” transcendental, toujours Autre par nature, où toutes les essences sont enveloppées comme différentielles de la pensée, et qui ne signifie la plus haute puissance de penser qu’à force de désigner aussi l’impensable ou l’impuissance à penser dans l’usage empirique.
[42] Deleuze trích dẫn theo bản Pháp văn Qu’appelle-t-on penser? của Becker và Granel trang 21. Was Heisst Denken? Cái gọi là Tư tưởng là gì? là giáo trình cuối cùng của Heidegger ở đại học Freiburg (1951-1952. Có thể dùng bản Anh văn What is called thingking của J. Glenn Gray.
Deleuze tuy trích dẫn nhưng đồng thời cũng đưa ra phê bình Heidegger: “Quả thực Heidegger duy trì chủ đề của một sự ham muốn hay của một φιλία (philίa), của một loại suy hay đúng ra của một loại suy giữa tư tưởng và cái phải tư tưởng. Đó chính là ông ta bảo lưu ưu thế của cái Cùng Một, ngay cả khi cái Cùng Một này được coi như nằm trong và am hiểu sự khác biệt như vậy.Từ đó những ẩn dụ của tặng phẩm được thay thế cho những ẩn dụ của sự bạo động. Theo mọi nghĩa Heidegger không từ bỏ cái trước đây chúng ta gọi là những giả định chủ quan. Như người ta thấy trong Sein und Zeit/Hữu và Thời/l’Être et le Temps thật ra có một sự am hiếu tiền-hữu thể luận và ngầm chứa về Hữu, dù cho, như Heidegger nhấn mạnh, khái niệm rõ rệt không phải từ đó mà ra.
[43] Sđd trang 188: Le privilège de la sensibilité comme origine apparaît en ceci, que ce qui force à sentir et ce qui ne peut être que senti sont une seule et même chose dans la rencontre, alors que les deux instances sont distintes dans les autres cas. En effet l’intensif, la différence dans l’intensité, est à la fois l’objet de la rencontre et l’objet auquel la rencontre élève la sensibilité.
[44] Sđd trang 189: L’opposition, la resemblance, l’identité et même l’analogie ne sont que des effets produits par ces présentations de la différence.
[45] Sđd trang 188: Chaque faculté, y compris la pensée n’a d’autre aventure que celle de l’involontaire; l’usage volontaire reste enfoncé dans l’empirique. Le Logos se brise en hiéroglyphes, dont chacun parle le langage transcendant d’une faculté.
[46] Sđd trang 190: Le “clair et distinct” lui-même n’est pas séparable de la récognition comme instrument de toute orthodoxie, fût-elle rationelle. Le clair et distinct est la logique de la récognition, comme innéité, la théologie du sens commun; tous deux ont dejà versé l’Idée dans la doctrine des facultés entraîne l’éclatement du clair et distinct, ou la découverte d’une valeur dionysiaque d’après laquelle l’Idée est nécessairement obscure en tant qu’elle est distincte, d’autant plus obscure qu’elle est davantage distincte. Le distinct-obscur devient ici la vraie tonalité de la philosophie, la symphonie de l’Idée discordante.
[47] Maurice Blanchot, ARTAUD trong Le Livre à venir, Gallimard trang 50-58.
[48] Gilles Deleuze, Différence et Répétition trang 192: Dès lors, ce que la pensée est forcée de penser, c’est aussi bien son effrondement central, sa fêlure, son proper “impouvoir” naturel, qui se confond avec la plus grande puissance, c’est-à-dire avec les cogitanda, ces forces informulées, comme avec autant de vols ou d’effractions de pensée. Artaud poursuit en tout ceci la terrible révélation d’un pensée sans image, et la conquête d’un nouveau droit qui ne se laisse pas représenter.
[49] Antonin Artaud, Œuvres Complètes I, Galliamard trang 23: Je souffre d’une effroyable maladie de l’esprit. Ma pensée m’abandonne, à tous les degrés. Depuis le fait simple de la pensée jusqu’au fait extérieur de sa matérialisation dans les mots. Mots, formes de phrases, directions intérieures de la pensée, réactions simples de l’esprit, je suis à la poursuite constante de mon être intellectuel. Lors donc que je peux saisir une forme, si imparfaite soit-elle, je la fixe, dans la crainte de perdre toute pensée. Je suis au-dessous de moi-même, je le sais, mais j’y consens dans la peur de ne pas mourir tout à fait./Tôi đau khổ vì một căn bệnh tinh thần đáng sợ. Tư tưởng tôi rời bỏ tôi, ở mọi cấp độ. Từ sự kiện đơn giản của tư tưởng cho tới sự kiện ngoại giới của việc hiện thực tư tưởng trong những từ. Những từ, những hình thức câu văn, những định hướng nội tại của tư tưởng, những phản ứng đơn giản của tinh thần, tôi vẫn không ngừng rượt đuổi thể xác trí thức của tôi. Thế nên ngay khi tôi có thể nắm bắt được một hình thức, dù cho nó chẳng hoàn hảo, tôi biết vậy, nhưng tôi bằng lòng trong sự sợ hãi sao mình không chết ngay đi cho rồi.
(còn tiếp)
đào trung đạo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao
2019