photo:https://frieze.com



ĐÀO TRUNG ĐẠO

gilles deleuze: triết học & không triết học

<

(Kỳ 9)

 

 

 

kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9,

Chương 1

Hình ảnh Tư tưởng

 

Giả thiết thứ 7 của hình ảnh tư tưởng độc đoán: đó là giả thiết về những câu trả lời (réponses) và những giải đáp (solutions) theo đó sự đúng sai chỉ bắt đầu với những giải đáp, sự đúng sai là tiêu chí của câu trả lời”. Trước hết cần phân biệt vấn đề với mệnh đề (proposition): sự khác biệt này nằm ở chỗ đặt sự nhấn mạnh câu nói. cách phát biểu lời nói. Như mệnh đề định nghĩa con người của Aristote là sinh vật-đi trên mặt đất-hai chân nhưng nếu ta đặt mệnh đề này thành câu hỏi: “Sinh vật-đi trên mặt đất-hai chân có phải là định nghĩa con người hay không?” thì chúng ta có một vấn đề. Như thế có thể suy ra số câu hỏi bằng cách thay đổi cách đặt câu (tournure de la phrase). Deleuze nhậnđịnh: Chúng ta có thói quen thường được dẫn dắt đến sự tin tưởng rằng những vấn đề là có sẵn (les problèmes sont donnés tout faits) và chúng sẽ biến đi trong những câu trả lời hay những giải đáp. Những vấn đề dưới dạng kép này chỉ là những bóng ma. Chúng ta vẫn tin rằng hoạt động của tư tưởng và mối tương quan đúng sai chỉ bắt đầu với sự tìm kiếm những giải đáp. “Có lẽ sự tin tưởng này có cùng nguồn gốc với những giả thiết khác của hình ảnh độc đoán: luôn luôn là những thí dụ khờ khạo non nớt được tách rời khỏi bối cảnh của chúng, được thiết lập một cách độc đoán thành những kiểu mẫu. Đó là một thiên kiến ấu trĩ, theo đó ông thầy cho ra một vấn đề, trách vụ của chúng ta là giải vấn đề, và kết quả của nhiệm vụ này được đánh giá là đúng hay sai bởi một quyền năng mạnh mẽ. Và đó là một thiên kiến xã hội, có lợi ích thấy rõ nhằm giữ chúng ta mãi mãi là con nít, luôn kêu gọi chúng ta giải quyết những vấn đề đến từ đẩu đâu, và an ủi chúng ta hay làm chúng ta đãng trí bằng cách bảo chúng ta rằng chúng ta thắng cuộc nếu như chúng ta đã biết cách trả lời: vấn đề như một chướng ngại, và người trả lời là một Hercule.”[66] Deleuze cho rằng đó là nguồn gốc của một hình ảnh thô lậu của văn hóa như ta cũng thấy trong những bài trắc nghiệm, trong những cuộc trưng cầu ý kiến của chính quyền, trong những cuộc dự thi tranh tài của báo chí (trong đó người ta  kêu gọi mỗi người hãy chọn câu trả lời theo thị hiếu, với điều kiện thị hiếu này trùng hợp với thị hiếu của mọi người). Hãy là chính mình, được hiểu theo nghĩa cái tôi đó phải là cái tôi của mọi người. “Như thể chúng ta sẽ chẳng còn là nô lệ trong chừng mực chúng ta không đưa ra đối với chính những vấn đề, đối với một sự tham dự vào những vấn đề, một quyền hành đối với nhũng vấn đề. Đó là một thứ hình ảnh tư tưởng độc đoán luôn dựa trên những thí dụ trẻ nít có tính cách tâm lý, có tính cách xã hội phản động (như những trường hợp về sự nhận biết, về sai lầm, về những mệnh đề đơn giản) nhằm phán xét trước xem cái gì phải là có giá trị hơn cả trong tư tưởng, nghĩa là nguyên ủy của hành vi tư tưởng và ý nghĩa của đúng và sai.”[67]  Trong khoa học những vấn đề không phải là đã có sẵn mà phải được đặt ra và khảo sát trong những trường biểu tượng (champs symboliques) của riêng những vấn đề này. Cũng vậy quyển sách của ông thầy thiết yếu phải có một bậc thầy, thiết yếu không thể bác bỏ để có thể là có sẵn. Những khuynh hướng giáo dục được đề nghị để học sinh sinh viên tham dự vào việc tạo ra những vấn đề và đặt ra như những vấn đề ai ai cũng nhìn nhận rằng chính những vấn đề mới là quan trọng hơn cả. Theo Delauze nhìn nhận như vậy là chưa đủ khi coi vấn đề như thể là một chuyển vẫn tạm thời (mouvement provisoire) và bất ngờ (contingent) được đưa ra để rồi biến đi trong việc tạo thành sự hiểu biết, chỉ được coi là quan trọng  trong những điều kiện kinh nghiệm phủ định  mà chủ thể tri nhận được đặt vào trong khi đúng ra phải đưa khám phá này lên cấp độ siêu nghiệm và coi những vấn đề không phải là những cái được cho sẵn (données, data) nhưng là những “khách quan tính” có tính chất ý niệm (“objectivités” idéelles) tự chúng là đủ và ngầm chứa trong hành vi thiết lập (actes constituants) và đầu tư (investissants) trong môi trường biểu tượng. Deleuze cho rằng: “Thay vì quan tâm tới những giải đáp, sự đúng sai trước hết có ảnh hưởng tới những vấn đề. Một giải đáp luôn có chân lý xứng tầm với nó theo vấn đề nó trả lời; và vấn đề, luôn là giải đáp tương xứng theo chân lý hay sai giả của riêng nó, nghĩ là theo ý nghĩa của nó. Rõ rệt đó chính là ý nghĩa của những phát biểu nổi danh như “những vấn đề đúng thực lớn lao chỉ được đặt ra khi chúng được giải đáp”, hay “nhân loại chỉ đặt ra những vấn đề nó có khả năng giải đáp”: hoàn toàn chẳng phải vi những vấn đề thực tiễn hay suy luận như cái bóng của những giả đáp đã có từ trước, nhưng ngược lại bởi giải đáp thiết yếu xuất phát từ những điều kiện toàn bộ, dưới những điều kiện này người ta qui định vấn đề như vấn đề, những phương tiện và những hạn từ  người ta sử dụng để đặt nó ra. Vấn đề hay ý nghĩa, chính vừa là nơi chốn của một chân lý nguyên ủy và nguyên ủy của một chân lý tùy thuộc. Những khái niệm như vô-nghĩa, nghĩa sai, phản nghĩa phải được qui về chính những vấn đề (có những vấn đề là sai do sự không xác định, cũng có những vấn đề sai là vì sự xác định quá mức; và kết cục sự ngu xuẩn là khả năng của những vấn đề sai giả, chứng thực cho một sự không có khả năng tạo lập, hiếu biết và qui định một vấn đề như vậy).[68]  Deleuze nhận xét triết gia cũng như các nhà bác học từng mơ tưởng đưa ra được chứng nghiệm đúng sai trong những vấn đề và đó lá đối tượng của phép biện chứng được coi như sự tính toán thượng đẳng (calcul supérieure) hay tính toán tổ hợp (calcul combinatoire). “Thế nhưng lại chính ở đó, giấc mơ này chỉ vận hành như “một sự hối tiếc”, chừng nào những hậu quả siêu nghiệm không được rút ra một cách minh bạch và trên nguyên tắc hình ảnh độc đoán về tư tưởng vẫn còn đó.”[69] Quan điểm chống biện chứng Hegel của Deleuze được khẳng định khá rõ rệt và dứt khoát trong nhận định này.

 

   Ảo tưởng tự nhiên do việc vạch những vấn đề theo những mệnh đề kéo dài thành ảo tưởng triết học. Người ta biết rằng do sự bó buộc phê bình nên cố gắng đưa chứng thực về sai giả vào tận những vấn đề nhưng người ta vẫn bảo lưu ý kiến rằng chân lý của một vấn đề chỉ nằm ở chỗ vấn đề có thể nhận được một gải đáp hay không. Hình thức mới của ảo tưởng này, tính chất kỹ thuật của nó lần này phát xuất từ việc người ta lập kiểu mẫu của những vấn đề dập theo hình thức của sự khả hữu của những mệnh đề như trường hợp Aristote chỉ định nhiệm vụ thiết yếu của phép biện chứng như nghệ thuật đặt những mệnh đề và những giải đáp. Trong khi Phân tich cho chúng ta phương tiện giải đáp một vấn đề đã được cho sẵn hay trả lời một vấn đề thì Phép Biện chứng lại phải chứng minh tại sao người ta đặt vấn đề một cách chính đáng. Phép Phân tích nghiên cứu tiến trình khiến tam đoạn luận kết luận một cách thiết yếu, nhưng Phép biện chứng sáng chế ra những đề tài của tam đoạn luận (mà Aristote gọi một cách chính xác là “những vấn đề”) và sinh sản ra những yếu tố của tam đoạn luận có quan hệ tới một đề tài (“những mệnh đề”). Aristote cũng khuyên khi phán xét về một vấn đề nên xét tới những ý kiến khác biệt đã được chấp nhận của đa số người khác để đối chiếu với những quan điểm chung, tổng quát và để lập ra những nơi (les lieux) chung để ghi nhận hay để phủ nhận khi thảo luận. Địa điểm, nơi chung như thế cũng là trắc nghiệm chính ý nghĩa chung: được coi là vấn đề giả (faux problème) tất cả những vấn đề nào mà mệnh đề phát biểu nó có lỗi luận lý. Khi Aristote hạ giá trị phép biện chứng trong việc thu giảm phép biện chứng vào ý kiến (doxa) không phải vì hiểu lầm nhiệm vụ thiết yếu của biện chứng nhưng vì Aristote đã không hiếu đúng việc thực hiện nhiệm vụ này. Cũng như nhiều người khác Aristote đồ hình những vấn đề theo ý nghĩa chung (ảo tưởng tự nhiên) và làm cho chân lý của những vấn đề phụ thuộc vào những nơi chung, nghĩa là trên sự khả hữu luận lý (ảo tưởng triết học) để tìm một giải đáp. Vì hình thức của khả hữu luận lý luôn thay đổi suốt chiều dài lịch sử triết học nên có nhiều quan niệm khác nhau về khả hữu này nhưng chung qui tất cả đều là tù nhân của hình ảnh tư tưởng độc đoán, không thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn. Ngay cả những triết gia duy nghiệm cũng chỉ sáng chế ra một hình thức khả hữu mới là tính xác xuất (probabilité) tức là khả hữu vật lý (possibilité physique) để tiếp nhận một giải đáp. Kant tuy khẳng định chứng nghiệm sai đúng phải được xét trong những vấn đề và những giải đáp nhưng khi đưa ra lý thuyết về Ý niệm Kant lại quay về với biện chứng. Vì phê bình của Kant vẫn nằm dưới sự chế ngự của hình ảnh độc đoán hay ý nghĩa chung nên Kant vẫn định nghĩa chân lý của một vấn đề nằm ở việc có thể nhân được một giải đáp hay không. Kant cho rằng đây là một hình thức khả hữu siêu nghiệm đúng theo cách sử dụng hợp pháp những khả năng như được qui định theo ý nghĩa chung. “Chúng ta lại vẫn thấy hai khía cạnh của ảo tưởng: ảo tưởng tự nhiên do việc sao dập những vấn đề theo những mệnh đề người ta cho là đã có trước, những ý kiến chung, những định lý hình học, những phương trình đại số, những giả thuyết vật lý, những phán đoán siêu nghiệm; và ảo tưởng triết học do việc đánh giá những vấn đề theo “tính chất có thể giải đáp” của chúng, nghĩa là theo cái hình thức ngoại tại biến thiên của tính chất khả hữu của giải đáp.”[70] Deleuze cho rằng thật là tai họa khi nền tảng chính nó lại chỉ là một điều kiện hóa giản đơn ngoại tại. Dù cho đó có là một bước nhảy vọt tại chỗ và ở trong vòng luẩn quẩn khi cho rằng làm vậy triết gia tưởng đưa chân lý, những giải đáp đến tận những vấn đề nhưng thật ra vẫn cứ là tù nhân của hình ảnh độc đoán khi qui chân lý của những vấn đề về tính chất khả hữu những giải đáp của chúng. “Những vẫn đề là những trắc nghiệm và những lựa chọn. Điều thiết yếu là, ngay trong lòng một vấn đề, phát sinh nguyên ủy của chân lý, một sự sản xuất cái đúng của tư tưởng. Vấn đề, đó chính là yếu tố khác biệt trong tư tưởng, yếu tố sản sinh trong cái đúng.”[71] Chính vì vậy ta có thể ta thay thế một vị trí của nguyên ủy có hiệu quả bằng một vị trí của sự tạo điều kiện đơn giản. Vì cái đúng sai không nằm trong sự không khác biệt giữa cái được điều kiện hóa với điều kiện của nó cũng như điều kiện nằm trong cái làm cho nó khả hữu. Theo Deleuze, đó là cách duy nhất để xét xem “vấn đề là đúng hay sai” một cách nghiêm túc, như một sự sản xuất ra cái đúng hay cái sai do vấn đề và trong chừng mực của ý nghĩa. Để làm như vậy phải từ bỏ sao chép những vấn đề theo những mệnh đề khả hữu cũng như theo định nghĩa chân lý của những vấn đề bằng sự khả hữu có một giải đáp hay không. Ngược lại phải biết rằng “khả hữu tính của giải đáp” phải tùy thuộc vào một tính chất nội tại, nó phải được qui định bởi những điều kiện của vấn đề đồng thời với những giải đáp thực sự được sinh ra bởi và trong vấn đề.

 

__________________________

(66) DR trang 205: Il est probable que cette croyance a la même origine que les autres postulats de l’image dogmatique: toujours des exemples puérils separés de leur context, arbitrairement erigés en modèles. C’est un prejugé infantile, d’après lequel le maître donne un problème, notre tâche étant de le resoudre, et le résultat de la tâche étant qualifié de vrai ou de faux par une autorité puissante. Et c’est un prejugé social, dans l’intérêt visible de nous maintenir enfants, qui nous convie toujours à résoudre des problèmes venus d’ailleurs, et qui nous console ou nous distrait en nous disant que nous avons vaincu si nous avons su répondre: le problème comme obstacle, et le répondant comme Hercule.

[67] DR trang 205-206: Comme si nous ne restions pas esclaves tant que nous ne disposions pas des problèmes eux-mêmes, d’une participation aux problèmes, d’un droit aux problèmes, d’une gestion des problèmes. C’est le sort de l’image dogmatique de la pensée de s’appuyer toujours sur des examples psychologiquement puérils, socialement réactionaires (les cas de récognition, les cas d’erreur, les cas de propositions simple, les cas de réponses ou de solutions) pour préjuger de ce qui devrait être le plus haut  dans la pensée, c’est-à-dire la genèse de l’acte de penser et le sens du vrai et du faux.

[68] DR trang 206: Loin de concerner les solutions, le vrai et le faux affectent d’abord les problèmes. Une solution a toujours la verité qu’elle mérite d’après le problème auquel elle repond; et le problème, toujours la solution qu’il mérite d’après sa propre verité ou fausseté, c’est-à-dire d’après son sens. C’est bien ce que signifient les formules célèbres comme “les vrais grands problèmes ne sont posés que lorsqu’ils  sont résolus”, ou “l’humanité ne se pose que les problèmes qu’elle est capable de résoudre” : non pas du tout que les problèmes, pratiques ou spéculatifs, soient comme l’ombre des solutions préexistantes, mais qu’au contraire parce que la solution découle nécessairement des conditions complètes sous lesquelles on détermine le problème en tant qe problème, des moyens et des termes dont on dispose pour le poser. Le problème ou le sens, c’est à la fois le lieu d’une verité originaire et la genèse d’une verité derivée. Les notions de non-sens, de faux sens, de contresens doivent être rapportées aux problèmes eux-mêmes (il y a des problèmes qui sont faux par indétermination, d’autres par surdétermintion; et la bêtise enfin est la faculté des faux problèmes, témoignant d’une inaptitude à constituer, à appréhender et à déterminer un problème en tant que tel.)

[69] DR trang 207: Les philosophers et les savants rêvent de porter l’épreuve du vrai et du faux dans les problèmes; tel est l’objet de la dialectique comme calcul supérieure ou combinatoire. Mail là encore, ce rêve fonctionne seulement comme un “repentir”, tant que les conséquences transcendantales n’en sont pas explicitement tirées et que subsiste en droit l’image dogmatique de la pensée.

[70] DR trang 209: Nous retrouvons toujours les deux aspects de l’illusion: l’illusion naturelle qui consiste à décalquer les problèmes sur des propositions préexistantes, opinions logiques, théorèmes géométriques, équations algébriques, hypothèses physiques, jugements transcendantaux; et l’illusion philosophique, qui consiste à évaluer les problèmes d’après leur “resolubilité”, c’est-à-dire d’après la forme extrinsèque variable de leur possibilité de solution.

[71] DR trang 210: Les problèmes sont des épreuves et des sélections. L’essentiel est que, au sein des problèmes, se fait une genèse de la verité, une production du vrai de la pensée. Le problème c’est l’élément différentiel dans la pensée, l’élément génétique dans le vrai.


(còn tiếp)


đào trung đạo

 

http://www.gio-o.com/DaoTrungDao

 

2020