photo:https://frieze.com



ĐÀO TRUNG ĐẠO

gilles deleuze: triết học & không triết học

(Kỳ 24)

 

Chương IV

NHÂN VẬT KHÁI NIỆM

 

kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9, kỳ 10,  kỳ 11,  kỳ 12, kỳ 13, kỳ 14, kỳ 15, kỳ 16, kỳ 17, kỳ 18, kỳ 19, kỳ 20, kỳ 21, kỳ 22, kỳ 23, kỳ 24,

 

 

   Khái niệm, mặt phẳng nội tại và nhân vật khái niệm sẽ được hiểu rõ hơn khi qui chiếu về quan niệm về lịch sử triết học của Deleuze. Deleuze khởi nghiệp triết học ở giai đoạn thứ nhất bằng những quyển chuyên luận (monographe) về những triết gia như Hume (Empirisme et Subjectivité, 1953), Nietszche (Nietszche et la Philosophie, 1962), Kant (La Philosophie de Kant, 1963), Bergson (Le Bergsonisme, 1966), Spinoza (Spinoza et le Problème de l’Expression, 1968) và kết thúc ở giai đoạn thứ hai với hai quyển Foucault (1986) và về Leibniz (Le Pli, Leibniz et la Baroque, 1988). Sau giai đoạn thứ nhất Deleuze hoàn thành luận án Tiến sĩ Quốc gia (Docteur d’État) Différence et Répétition/Khác biệt và Lập lại năm 1968 được coi như magnum opus. Câu hỏi thường được nêu ra là: Đâu là mối quan hệ giữa quan niệm của Deleuze về lịch sử triết học, vai trò lịch sử triết học trong Différence et Répétition và những tác phẩm sau đó của Deleuze?

   Trong thời gian học bậc cử nhân ở Sorbonne và sau đó dự thi agrégation (thạc sĩ để được phép dạy học) Deleuze đã có thái độ phản kháng lối dạy Triết của các giáo sư buộc sinh viên phải “tụng” những tác phẩm triết cổ điển của Platon, Aristote, Descartes, Kant…Deleuze kể: “Tôi thuộc một thế hệ, một trong những thế hệ cuối cùng mà người ta ít nhiều bị ám sát bởi lịch sử triết học. Lịch sử triết học thi hành trong triết học một chức năng đàn áp rõ ràng, đó chính là Œdipe triết học đúng nghĩa: “Ngay cả anh/chị sẽ cũng không dám nói nhân danh mình rẳng anh/chị sẽ không đọc cái này hay cái kia, và cái này về cái kia, và cái kia về cái này.” Trong thế hệ của tôi, rất nhiều người  không tự thoát ra được, những người khác thoát ra được, bằng cách sáng chế ra phương pháp riêng của họ và những qui tắc mới, giọng điệu mới. Phần tôi, tôi đã “làm” lịch sử triết học rất lâu, đã đọc những quyển sách về tác gia này tác gia kia. Nhưng tôi tự bù đắp cho mình bằng nhiều cách: trước hết bằng cách yêu thích những tác giả chống đối lại truyền thống duy lý của lịch sử này (và giữa Lucrèce, Hume, Spinoza, Nietszche, với tôi có một liên hệ bí ẩn được tạo nên bởi phê bình cái phủ định (le négatif), văn hóa vui thỏa, thù ghét nội giới tính, ngoại giới tính của những lức/sức mạnh và của những mối tương quan…,v.v. Cái tôi thù ghét hơn cả chính là chủ thuyết Hegel và biện chứng pháp. […] Nhưng, trên hết, cách tôi thoát ra khỏi thời kỳ này, đó là, tôi tin chắc rằng, quan niệm lịch sử triết học như một thứ thủ dâm hay, chẳng khác gì, một quan niệm được bôi trơn. Tôi tưởng tượng mình như đến sau lưng một tác gia, và đưa cho ông ta một đứa trẻ, rất có thể là chính con ông ta, nhưng lại là đồ quỉ sứ. Điều quan trọng là đó chính là con ông ta bởi vì tác gia phải thật sự nói tất cả cái gì tôi bảo ông ta nói. Dù cho đứa trẻ có là đồ quỉ sứ đi nữa, nhưng cũng thiết yếu, bởi nó phải đi qua bằng tất cả  những thứ di dời, trượt đi, đau đầu, những phát âm bí mật làm cho tôi thích thú.”[170] Như vậy ta thấy khi học ở Sorbonne môn lịch sử triết học là một thứ đè nặng trên Deleuze với lối giảng dậy nhằm tạo ra những người chỉ biết tuân phục. Mấy năm sau trong cuộc đối thoại với Claire Parnet, Deleuze kể lại chuyện học Triết với hai vị giáo sư khá nổi tiếng: Ferdinand Alquié chuyên gia về Descartes và Jean Hyppolite chuyên gia về Hegel bằng một giọng điệu bông đùa “Tôi được đào tạo bởi hai giáo sư tôi yêu mến và rất ngưỡng mộ, Alquié và Hyppolite…Ông Alquié có bàn tay dài và tật nói lắp người ta không biết có phải là từ thủa nhỏ không, hay ngược lại đó là cách dấu đi một giọng nói bản quán, và để phục vụ những thuyết nhị nguyên của Descartes. Còn ông Hyppolite có một bộ mặt gân guốc, với những nét không đầy đặn, và  nhip nhịp nắm tay trong theo tam đề luận của Hegel trong khi đuổi theo những từ. Vào thời kỳ Giải Phóng, người ta vẫn bị dồn vào lịch sử triết học một cách kỳ khôi. Người ta đi vào Hegel, Husserl và Heidegger; chúng tôi lao mình vào trong một thứ kinh viện như những con chó con còn tệ hơn ở thời Trung cổ ...”[171]  

    Vì cảm thấy ngột ngạt ở Sorbonne vào thời điểm đó nên Deleuze cũng như các đồng môn rất ngưỡng mộ J.-P. Sartre, coi triết học Sartre như một “luồng gió mát”. Michel Tournier (sau này là một tiểu thuyết gia nổi tiếng) đồng môn của Deleuze kể lại: “Một ngày vào mùa Thu 1943, một quyển sách rơi tõm xuống bàn chúng tôi, như một ngôi sao băng: quyển Hữu thể và Hư vô của Jean-Paul Sartre. Có một khoảnh khắc của sự ngẩn ngơ, rồi đến sự trầm tư dài. Tác phẩm dầy cộm, rối bời, có một sức mạnh tràn ngập không thể cưỡng lại…”[172].  Deleuze kể lại: “Sau Giải Phóng lịch sử triết học xiết chặt trên chúng tôi, mặc dù chúng tôi chẳng hay biết, với lý do để mở ra cho chúng tôi đi vào một tương lai của tư tưởng đồng thời có thể cũng là thứ tư tưởng cổ cũ hơn hết. “Vấn đề Heidegger” với tôi không phải là: có phải ông ta hơi có vẻ quốc xã không? (hiển nhiên, hiển nhiên) – nhưng là: Vai trò của ông ấy trong việc đưa lịch sử triết học vào chương trình dạy triết là gì? Tư tưởng, chẳng ai coi cái đó cho thật nghiêm chỉnh cả, ngoại trừ những người giả bộ là tư tưởng gia, hay những triết gia nhà nghề. Nhưng điều đó không hoàn toàn ngăn cản tư tưởng có những bộ máy quyền lực của nó – và cho dù đó là một hiệu quả của bộ máy quyền lực của nó khi nó bảo mọi người: đừng có coi tôi là quan trọng bởi vì tôi tư tưởng cho các bạn, bởi vì chúng tôi cho bạn một sự thích ứng, những qui phạm và những qui luật, một hình ảnh, mà các bạn sẽ đặt mình vào khi bạn nói “Đó không phải là việc của tôi, cái đó chẳng quan trọng gì, đó là công việc của những triết gia và của những lý thuyết thuần túy của họ.[173]

   Deleuze cho rằng vai trò của lịch sử triết học là để đàn áp khi cho rằng không thể tư tưởng nếu chưa đọc những triết gia như Platon, Descartes, Kant, Heidegger…và những sách viết về các triết gia. Và môn lịch sử triết học là “một ngôi trường gây sợ hãi khủng khiếp” (une formidable école d’intimidation) đào tạo những chuyên viên tư tưởng. Deleuze cũng lên án triết học trở thành dụng cụ của Nhà Nước, phục vụ cho những mục tiêu của nhà nước, triết lý trở thành ngôn ngữ chính thức cùa một Nhà Nước thuần túy. Deleuze coi sự kiện này tương tự như chủ trương Hình Ảnh Tư Tưởng Độc Đoán trong quá khứ đã được Nietszche nói đến trước đây. Cái bị chà đạp, cáo giác, bị coi là gây tổn hại, tức là tất cả những gì thuộc về một tư tưởng không hình ảnh, thuyết du cư (nomadisme), bộ máy chiến tranh, những trở thành, ngôn ngữ thiểu số…sau này đã được Deleuze trình bày trong những tác phẩm của mình. Deleuze cũng cho rằng những môn học không phải triết học cũng có thể đóng vai trò đàn áp tư tưởng. Triết học bị cạnh tranh chiếm chỗ bởi Tri Thức Luận (Épistémologie) nắm giữ việc di chuyển lịch sử triết học, Tâm Phân Học càng ngày càng chiếm đóng tư tưởng, ngay như môn ngữ pháp của Chomsky ban đầu cũng là dấu hiệu của quyền lực. Deleuze lên án Marx, Freud, de Saussure là ba cái đầu tạo thành Kẻ Đàn Áp chủ trương một tiếng nói đa số thống trị.

   Giữa Heidegger và Deleuze có sự tương tự cũng như khác biệt trong quan niệm về lịch sử triết học. Tuy Heidegger cũng như Deleuze đọc những triết gia trong quá như những người đương thời nhưng trong khi Heidegger chú tâm tới những triết gia Hy Lạp cổ đại (Parménide, Héraclite, Anaximandre) thì Deleuze lại chú tâm tới những triết gia phái khắc kỷ, Lucrèce và những triết gia thuộc thế kỷ 17, đặc biệt là Spinoza và Leibniz. Deleuze có phản ứng chống đối “bộ ba H” Hegel-Husserl-Heidegger nên không hề viết về triết học của bộ ba này tuy nhiều dấu hiệu cho thấy Deleuze đọc họ rất kỹ. Một chi tiết thú vị là khi cho xuất bản quyển sách nhỏ về Hume (Empirisme et Subjectivité, 1953) Deleuze đã “chọc tức” Jean Hyppolite bằng cách đề tặng quyển sách này cho ông thầy chuyên gia về Hegel với dòng đề tặng “một vinh danh chân thành và kính trọng” đặt ở đầu sách. Trong bài Tựa quyển Différence et Répétition (1968) Deleuze coi quyển sách nhỏ về Hume như một thứ “chống lại chủ thuyết Hegel một cách tổng quát”. Cũng cần chú ý tới khoảng cách tám năm giữa Empirisme et SubjectivitéNietszche et la Philosophie như một “lỗ hổng” trong lộ trình triết học của Deleuze vì trong suốt thời gian này hầu như Deleuze không cho xuất bản một quyển sách mới nào. Trong Pourparlers Deleuze viết về “lỗ hổng tám năm” này: “Nếu bạn áp dụng những tiêu chí thư mục-tiểu sử vào tôi, tôi thấy rằng tôi đã viết quyển sách đầu tiên của tôi rất sớm, rồi sau đó suốt trong tám năm không có gì. Tuy nhiên trong khoảng những năm này tôi biết tôi đã làm gì, tôi đã sống ở đâu và như thế nào, nhưng tôi biết điều này một cách trừu tượng, gần giống như một người nào đó không phải là tôi kể lại những kỷ niệm tôi tin là có nhưng tôi không thật sự có. Đó như thể một lỗ hổng trong đời tôi, một lỗ hổng tám năm. Chính cái đó có vẻ thú vị đối với tôi trong cuộc đời con người, những lỗ hổng những cuộc đời đó bao gồm, những cách khoảng, đôi khi kịch tính, nhưng đôi khi lại không phải vậy. Những chứng giữ nguyên thể hay những loại miên hành trong nhiều năm, phần đông đời người đều có. Có thể cũng chính trong những lỗ hổng này chuyển động diễn ra. Bởi vấn đề chính là làm chuyển động như thế nào, làm sao khoét thủng bức tường, để thôi không còn đập đầu vào. Có thể bằng cách không cựa quậy nhiều, không nói năng nhiều, tránh những chuyển động giả, ở yên nơi không còn ký ức nữa.”[174] Chuyển động ngoại giới của Deleuze: lập gia đình, có đứa con đầu tiên và di chuyển nhiều nơi dạy học từ trường trung học Orléans sang đại học Sorbonne rồi chuyển qua CNRS (Centre National de Recherches Scientifiques). Chuyển động nội giới: cho ra đời những chuyên khảo về Nietszche (1962), Kant (1963), Proust (1964), Bergson (1966), Masoch (1967), và Spinoza (1968) và sau cùng đạt cao điểm với Différence et Répétition đệ trình đúng trong thời gian xẩy ra cuộc biểu tình của sinh viên vào tháng Năm, 1968.

   Những chuyên khảo nêu trên chỉ ra đó là những triết gia “thân hữu” của Deleuze ngoại trừ trường hợp Kant nằm giữa thân hữu và kẻ thù. Những triết gia “kẻ thù” của Deleuze: Platon, Descartes và Hegel. Cũng như với Kant cách đối diện, chạm mặt của Deleuze với Heidegger là vừa chịu ơn vừa phản kháng. Michel de Beistegui trong quyển Truth and Genesis đưa ra nhận định có thể coi Différence et Répétition của Deleuze như đối trọng với Sein und Zeit của Heidegger. Trong bài Tựa của tác phẩm này Deleuze khẳng định: “Sự tìm kiếm những phương tiện diễn tả mới đã được Nietszche khởi đầu và ngày nay phải tiếp tục trong tương quan với sự làm mới của một số những nghệ thuật khác, chẳng hạn với kịch nghệ và điện ảnh. Về phương diện này, ngay từ bây giờ chúng ta có thể đặt vấn đề về việc sử dụng lịch sử triết học. Với chúng ta dường như lịch sử triết học phải giữ một vai trò khá tương tự với vai trò của việc cắt dán trong một họa phẩm. Lịch sử triết học cũng chính là việc sản xuất triết học. Hẳn việc xem xét trong lịch sử triết học phải tác hoạt như một cái kép thực sự, và bao gồm sự biến đổi tối đa đặc trưng cho cái kép.”[175] Khẳng định này cũng gián tiếp cho thấy Deleuze được huấn luyện thuần thục trong lịch sử triết học nên Deleuze tư tưởng một cách tự nhiên thoải mái về lịch sử này. Trong những tác phẩm cũng như trong những cuộc hội luận cho thấy Deleuze nhắc tới hay trích dẫn những bản văn cổ điển một cách thuần thục. Nhưng cũng chính vì vậy người đọc Deleuze phải đương đầu với sự khó khăn là cũng phải thân thuộc với lịch sử triết học và những bản văn Deleuze nhắc tới. Cái cách Deleuze viện dẫn lịch sử triết học cũng là cách Deleuze tìm một con đường tháo chạy (ligne de fuite) khỏi lịch sử triết học nên vấn đề đặt ra là: Deleuze đã tháo chạy khỏi sự thoải mái dễ dàng và sự nhuần nhuyễn đã được huấn luyện ra sao và sử dụng lịch sử triết học để theo đuổi những dự phóng triết học của mình như thế nào? Câu hỏi này được Deleuze trả lời phần nào trong bài Les Intercesseurs (Pourparlers: 165-184) trước hết với lời nhắn nhủ về việc “vào giữa” lịch sử triết học – đi vào không có nghĩa ra khỏi (partir) hay đến nơi (arriver) – nhưng tìm hiểu cái gì  xảy ra “ở giữa” – cũng giống như trong những môn thể thao ngày nay chuyển động không còn tùy thuộc vào một điểm tựa gốc như điểm khởi hành nhưng là đặt mình vào quĩ đạo – vấn đề chính, cốt tủy là làm sao để mình được nâng lên trong chuyển động của con sóng lớn, của một cột không khí đang bốc lên, nghĩa là “đi vào giữa” (arriver entre) thay vì ở gốc một cố gắng. Ở triết học cũng vậy “ở giữa” để sáng tạo, sáng tạo được coi như vạch ra con đường giữa những bất khả dù rằng ở giữa có thể đi vào ngõ cụt, những lối đi bị chặn, bị bóp nghẹt. Deleuze viết: “Sự sáng tạo xảy ra trong những con đường thắt nghẹt. Ngay cả trong một thứ tiếng nào đó, thí dụ ngay trong tiếng Pháp, một cú pháp mới là một tiếng ngoại quốc trong tiếng nói. Nếu một người sáng tạo không không bị bóp cổ bởi một toàn bộ những bất khả hữu, thì đó không phải là một kẻ sáng tạo. Một kẻ sáng tạo là một người nào đó sáng tạo ra những bất khả hữu của chính mình, và đồng thời hắn cũng sáng tạo cái khả hữu.”[176]

   Phát biểu “Tôi tưởng tượng mình như đến sau lưng một tác gia, và đưa cho ông ta một đứa trẻ, rất có thể là chính con ông ta, nhưng lại là đồ quỉ sứ. Điều quan trọng là đó chính là con ông ta bởi vì tác giả phải thật sự nói tất cả cái gì tôi bảo ông ta nói” này của Deleuze có thể coi như cách Deleuze “đọc và viết” về những triết gia “thân hữu” cũng như những triết gia “kẻ thù”: nhưng chính vì “tác giả phải thật sự nói tất cả những gì tôi bảo ông ấy nói” nên người đọc Deleuze có cảm tưởng bước vào một “vùng” khó phân biệt giữa tư tưởng của triết gia Deleuze nói về với chính tư tưởng của Deleuze. Deleuze gọi vùng đó là “vùng của tính chất bất phân”, chẳng hạn “Spinoza đang trở thành (en devenir) với Deleuze đang trở thành. Cách viết về các triết gia được Deleuze chọn lựa gây khó khăn cho người đọc vì không thể phân biệt ở chỗ nào Deleuze giải nghĩa (explication), ở chỗ nào Deleuze diễn giải (interprétation), diễn giải phải chăng chính là sáng tạo? Nhưng có thể thấy rõ Deleuze thường cho vào diễn giải một triết gia nào đó những khái niệm bên ngoài, không có trong bản văn của triết gia được diễn giải mà lại lấy từ một hay những triết gia khác. Chẳng hạn Deleuze diễn giải Spinoza theo khái niệm “cùng một nghĩa” (univocité) của Duns Scottus, hoặc diễn giải Leibniz bằng khái niệm “những duy nhất tính” (singularités) trong toán học. Nhưng điều đặc biệt hơn cả là cách đọc và viết về các triết gia rất sáng tạo của Deleuze: đẩy tư tưởng của triết gia đem ra diễn giả tới một giới hạn biệt phân (limite différentielle) để làm bộc lộ chuyển vận nội tại (movement immanent) của sự khác biệt trong tư tưởng triết gia được diễn giải. Và cũng từ giới hạn này hệ thống tư tưởng của Deleuze khởi đi. Ở một mặt khác, từ những diễn giải của Deleuze chúng ta cũng nhận ra được Deleuze “gần/thân hữu” hay “xa/kẻ thù” những triết gia nào trong lịch sử triết học.    

______________________________________

[170] Gilles Deleuze, Pourparlers (1990) trang 14-15: Je suis d’une génération, une des dernières générations qu’on a plus ou moins assassiné avec l’histoire de la philosophie. L’histoire de la philosophie exerce en philosophie une fonction répressive évidente, c’est Œdipe proprement philosophique: “Tu ne vas quand même pas oser parler en ton nom tant que tu n’auras pas lu ceci et cela, et cela sur ceci, et ceci sur cela”. Dans ma génération, beaucoup ne s’en sont pas tirés, d’autres oui, en inventant leur propres méthodes et de nouvelles règles, un nouveau ton. Moi, j’ai “fait” longtemps de l’histoire de la philosophie, lu des livres sur tel out tel auteur. Mais je me donnais des compensations de plusieurs façons: d’abord en aimant des auteurs qui s’opposaient à la tradition rationaliste de cette histoire (et entre Lucrèce, Hume, Spinoza, Nietszche, il y a pour moi un lien secret constitué par la critique de négatif, la culture de la joie, la haine de l’intériorité, l’extériorité des forces et des relations, la dénonciation du pouvoir…,etc). Ce que je détestais avant tout, c’etait le hégélianisme et la dialectique. […] Mais surtout, ma manière de m’en tirer à cette époque, c’était, je crois bien, de concevoir l’histoire de la philosophie comme une sorte d’enculage ou, ce qui revient au même, d’immaculée conception. Je m’imaginais arriver dans le dos d’un auteur, et lui faire un enfant, qui serait le sien et qui serait pourtant monstueux. Que ce soit bien le sien, c’est très important, parce qu’il fallait que l’auteur dise effectivement tout ce que je lui faisais dire. Mais que l’enfant soit monstreux, c’est nécessaire aussi, parce qu’il fallait passer par toutes sortes de décentrments, glissements, cassements, émissions secrètes qui m’ont fait bien plaisir.

[171] Gilles Deleuze, Claire Parnet, Dialogues trang 18: Je fus formé par deux professeurs, que j’aimais et admirais beucoup, Alquié et Hyppolite […] L’un avait de longues mains blanches et un bégaiement dont on ne savait pas qu’il venait de l’enfance, ou s’il était là pour cacher, au contraire, un accent natal, et se mettait au service des dualismes cartésiens. L’autre avait un visage puissant, aux traits incomplets, et rythmait de son poing les triades hégéliens, en accrochant les mots. À la Libération, on restait bizarrement coincé dans l’histoire de la philosophie. Simplement on entrait dans Hegel, Husserl et Heidegger; nous nous précipitions comme de jeunes chiens dans une scholastique pire qu’au Moyen Age.

[172] Michel Tournier, Le vent Paraclet trang 159: Un jour de l’automne 1943, un livre tomba sur nos tables, tel un météore: L’Être et le Néant de Jean-Paul Sartre. Il y eut un moment de stupeur, puis une longue rumination. L’œuvre était massive, hirsute, débordante d’ume force irrésistible…

[173] Gilles Deleuze, Claire Parnet, Dialogues trang 19: Donc, après la Libération, l’histoire de la philosophie s’est resserrée sur nous, sans même que nous nous en rendions compte, sous prétexte de nous ouvrir à un avenir de la pensée qui aurait été en même temps la pensée la plus antique. La “question Heidegger” ne me paraît pas: est-ce qu’il a été un peu nazi? (évidemment, évidemment) – mais: quel a été son rôle dans cette nouvelle injection d’histoire de la philosophie? La pensée, personne ne prend ça très au sérieux, sauf ceux qui se pretendent penseurs, ou philosophes de profession. Mais ça n’empêche pas du tout qu’elle ait ses appareils de pouvoir – et que ce soit un effet de son appareil de pouvoir, lorsqu’elle dit aux gens: ne me prenez pas au sérieux puisque je pense pour vous, puisque je vous donne une conformité, des normes et des règles, une image, auxquelles vous pourrez d’autant plus vous soumettre que vous disez: “ça n’est pas mon affaire, ça n’a pas d’importance, c’est l’affaire des philosophes et de leurs théories pures.”

[174] Gilles Deleuze, Pourparlers trang 188: Si vous voulez m’appliquer les critères bibliographie-biogaphie, je vois que j’ai écrit mon premier livre assez tôt, et puis rien pendant huit ans. Je sais poutant ce que je faisais, où et comment je vivais pendant ces années, mais je le sais abstraitement, un peu comme si quelqu’un d’autre me racontait des souvenirs auxquels je crois, mais je n’ai pas vraiment. C’est comme un trou dans ma vie, un trou de huit ans. C’est cela qui me semble intéressant dans les vies, les trous qu’elles comportent, les lacunes, parfois dramatiques, mais parfois même pas. Des catalepsies ou des espèces de somnabulisme sur plusieurs années, la plupart des vies en comportment. C’est peut-être dans ces trous que se fait le mouvement. Car la question est bien comment faire le mouvement, comment percer le mur, pour cesser de se cogner la tête. C’est peut-être en ne bougeant pas trop, en ne parlant pas trop, éviter les faux mouvements, resider là où il n’y a plus de mémoire.

[175] Gilles Deleuze, Différence et Répétition trang 4: La recherche de nouveaux moyens d’expression philosophique fut inaugurée par Nietszche, et doit être aujourd’hui poursuivie en rapport avec le renouvellement de certains autres arts, par exemple le théâtre et le cinéma. À cet égard, nous pouvons dès maintenant poser la question de l’utilisation de l’histoire de la philosophie. Il nous semble que l’histoire de la philosophie doit jouer un rôle assez analogue à celui d’un collage dans une peinture. L’histoire de la philosophie, c’est la reproduction de la philosophie même. Il faudrait que le compte rendu en histoire de la philosophie agisse comme un véritable double, et comporte la modification maxima proper au double.

[176] Gilles Deleuze, Pourparlers trang 182: La création se fait dans des goulots d’étranglement. Même dans une langue donnée, même en français par exemple, une nouvelle syntaxe est une langue étrangère dans la langue. Si un créateur n’est pas pris à la gorge par un ensemble d’impossibilités, ce n’est pas un créateur. Un créateur est quelqu’un qui crée ses propres impossibilités, et qui crée du possible en même temps.


(còn tiếp)

đào trung đạo

 

2020