photo:https://frieze.com



ĐÀO TRUNG ĐẠO

gilles deleuze: triết học & không triết học

(Kỳ 19)

 

Chương III

MẶT PHẲNG [của] NỘI TẠI

 

kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9, kỳ 10,  kỳ 11,  kỳ 12, kỳ 13, kỳ 14, kỳ 15, kỳ 16, kỳ 17, kỳ 18, kỳ 19,

 

 

Hai tháng trước khi tự sát vì không chịu nổi sự hành hạ của bệnh phổi Gilles Deleuze cho đăng bài “L’Immanence…une Vie” trên tạp chí Philosophie số 47 năm 1995. Bài viết này có thể coi như bản Chúc thư Triết học của Deleuze. Văn phong của Deleuze trong“L’Immanence…une Vie” tuy vẫn cố giữ tính chất hàn lâm như trước đây nhưng người đọc không khó nhận ra tính chất tỉnh lược (ellipsis), hối hả ngắn gọn của người viết dường đã cảm nhận được cái chết ở đâu đó không xa. Thế nên bản văn này cũng có thể coi như một ghi chú ngắn. Điểm đáng chú ý hơn cả là ba dấu chấm […] nằm giữa hai khái niệm “Nội tại”, “một Cuộc sống” chứ không được nối nhau bằng từ “và” như ngữ pháp thông thường. Hẳn Deleuze cố ý nhắc nhở người đọc cần tự suy luận.

 

Nội tại…một Cuộc sống

“Trường siêu nghiệm là gỉ? Trường siêu nghiệm phân biệt với kinh nghiệm ở chỗ nó chẳng qui chiếu về một đối tượng cũng không thuộc về một chủ thể (dung tượng có tính chất kinh nghiệm/représentation empirique). Do vậy nó hiện ra như là một dòng ý thức phi-chủ thể (a-subjective) thuần túy, một ý thức tiền-phản-suy không của ai (impersonelle pré-refléxive conscience), một thời diễn có tính cách phẩm tính (duration qualitive) của ý thức không có ngã. Dường như thật lạ lùng khi cái siêu nghiệm lại được định nghĩa bởi dữ kiện tức thời nếu như chẳng phải đó là một vấn đề của thuyết duy nghiệm siêu nghiệm (empiricisme transcendental) đối nghịch với tất cả mọi thứ tạo thành thế giới của chủ thể và đối tượng. Có một cái gì đó hoang dã và mạnh mẽ trong một chủ thuyết duy nghiệm tiền/siêu nghiệm như thế. Rõ ràng đấy không phải là yếu tố của cảm giác (thuyết duy nghiệm đơn sơ) bởi cảm giác chỉ là một sự đứt rời trong dòng ý thức tuyệt đối; đúng ra nó là, dù cho hai cảm giác có gần nhau thế nào đi nữa, con đường qua/từ cảm giác này sang cảm giác kia như một sự trở thành, như sự tăng hay giảm của lực (lượng ảo/quantité virtuelle). Nếu quả vậy, thì trường siêu nghiệm phải được định nghĩa bởi ý thức tức thời đó chẳng với đối tượng hay với ngã, như một chuyển động không có khởi đầu cũng chẳng có kết thúc chăng? (Ngay quan niệm về con đường đi qua hay lượng sức mạnh của Spinoza cũng viện dẫn ý thức.)

   Song le, mối tương quan của trường siêu nghiệm với ý thức chỉ là về quyền (de jure) mà thôi. Ý thức chỉ thành một dữ kiện (fact) nếu một chủ thể được sản sinh đồng thời với đối tượng của nó, cả ba đều nằm bên ngoài Trường (hors Champ) và hiện ra như những “siêu vượt” (trancendants). Mặt khác, ngay khi ý thức băng qua trường siêu nghiệm với một vận tốc bất tận lẫn vào khắp nơi, thì chẳng có cái gì phơi lộ nó. (Bergson: “như thể chúng ta đã phản chiếu ánh sáng lại những mặt phẳng, cái ánh sáng phát sinh từ những mặt phẳng này, cái ánh sáng chạy qua mà không bị cản lại, sẽ chẳng bao giờ được phát lộ.” (Bergson, 1911:29) Nó chỉ tự biểu lộ như sự kiện bằng cách tự phản chiếu trên một chủ thể, chủ thể này qui chiếu nó về những đối tượng. Đó là lý do tại sao trường siêu nghiệm không thể được định nghĩa bởi ý thức của nó dù cho ý thức này hợp cùng nó, nhưng lại rút lui khỏi mọi phơi mở.

   Cái siêu vượt (le transcendant) không phải là cái siêu nghiệm (le transcendental). Không có ý thức trường siêu nghiệm sẽ được định nghĩa như một mặt phẳng nội tại thuần túy bởi nó thoát khỏi mọi sự siêu vượt của chủ thể cũng như của đối tượng. (Sartre thiết lập một trường siêu nghiệm không chủ thể, trường siêu nghiệm này qui về một ý thức vô ngã, tuyệt đối, nội tại trong tương quan với chủ thể và đối tượng là những vật siêu vượt “transcendants). Nội tại tuyệt đối ở trong chính nó: nó không phải ở trong một cái gì đó, với một cái gì đó; nó không tùy thuộc vào một đối tượng và cũng không tùy thuộc vào một chủ thể. Trong triết học của Spinoza nội tại không là nội tại với bản thể, nhưng bản thể và những thể cách (modes) ở trong nội tại. Khi chủ thể và đối tượng ở bên ngoài mặt phẳng nội tại, được coi như chủ thể phổ quát hay chủ thể nói chung mà chính nội tại tự nó thuộc về, cái siêu nghiệm hoàn toàn bị mất bản chất và chỉ dập lại cái có tính chất kinh nghiệm (empirique) (như trong triết học Kant) trong khi nội tại bị bóp méo và kết cục bị cho vào cái siêu vượt. Nội tại không tương hệ với Một cái gì đó là cái đơn nhất cao cấp hơn mọi thứ, cũng không tương hệ với một Chủ thể đang thao tác tổng hợp của các sự vật: chỉ khi nào nội tại không còn là nội tại với bất cứ gì khác hơn chính trong nó khi đó chúng ta mới có thể nói về một mặt phẳng nội tại. Mặt phẳng nội tại không còn được định nghĩa bởi một Chủ thể hay một Đối tượng có khả năng chứa đựng nó hơn là trường siêu nghiệm được định nghĩa bởi ý thức.

   Nội tại thuần túy là một CUỘC SỐNG, và chẳng là gì khác. Đó không phải là nội tại với cuộc sống, nhưng là nội tại trong bất kỳ cái gì hơn nó chính là một cuộc sống. Một cuộc sống là nội tại của nội tại, nội tại tuyệt đối: nó là sức mạnh hoàn toàn, phúc lành toàn vẹn.Trong chừng mực ông ta vượt qua được nan đề chủ thể-đối tượng Fichte, trong triết học cuối đời của ông, trình bày trường siêu nghiệm như một cuộc sống không tùy thuộc vào một Hữu nào và cũng không bị trói buộc vào một Hành vi: một ý thức tức thời tuyệt đối mà chính hoạt tính của nó không còn qui chiếu ngược về một hữu nào nhưng không ngừng đặt mình vào một cuộc sống.Trong bài nhập đề thứ nhì cho quyển Khoa học Tri thức Fichte đã nói đến một trực giác của hoạt tính hoàn toàn, không tĩnh tại (statique), nhưng năng động; đó không phải vấn đề của hiện hữu, nhưng của cuộc sống. (Fichte, 1970:40) về đời sống theo Fichte xin xem quyển Con đường hướng đến Đời sống được ban Phước lành (1806) của ông và diễn giải của Guéroult (Guéroult, 1974:9). Như vậy trường siêu nghiệm trở thành một mặt phẳng nội tại thuần nhất đưa chủ thuyết của Spinoza trở lại vào trong tâm điểm của diễn tác triết học. Chẳng phải là Maine de Biran cũng đã làm một cuộc phiêu lưu tương tự trong triết học cuối đời của ông ta hay sao (cái triết học đã quá mệt mỏi để nhìn suốt tới cuối) khi ông ta đã khám phá ra một tuyệt đối và cuộc sống nội tại nằm bên dưới sự siêu việt của sự cố gắng sao? Trường siêu việt được định nghĩa bởi mặt phẳng nội tại, và mặt phẳng nội tại được định nghĩa bởi một đời sống.

   Nội tại là gì? Một đời sống…Không ai kể chuyện về một đời sống hay hơn Dicken, bằng cách xem xét cái mạo từ bất định như chỉ dấu của cái siêu nghiệm. Một thứ tốt-nhưng-chẳng-để-làm-gì, tên lừa đảo ai cũng mắng nhiếc đang sắp chết được khiêng vào, cốt để những ai quan tâm về hắn bày tỏ một thứ tiếc thương nhiệt tình và kính trọng, một thứ mến yêu dành cho chút dấu hiệu của đời sống nơi một người sắp chết. Mọi người đều thật lo lắng cứu hắn khỏi những nơi sâu thẳm của sự hấp hối của hắn dù cho chính kẻ khốn khổ cảm thấy có một cái gì đó dễ chịu đang chạy vào hắn. Nhưng nếu hắn sống lại thì những kẻ lo lắng cho hắn lại sẽ thành lạnh lùng và hết thảy sự thô nhám và ác độc của hắn sẽ trở lại. Giữa cái sống và cái chết của hắn có một khoảnh khắc mà giờ đây chỉ là một đời sống đùa rỡn với cái chết (Charles Dicken, Our Mutual Friend (1985), Penguin Books, trang 439).** Cuộc sống của một cá nhân đã đưa đến một đời sống tuy chẳng của ai nhưng vẫn cá biệt, và nó nhả ra một sự kiện thuần túy được giải phóng khỏi những tai nạn của  cái bên trong và cái bên ngoài đời sống; được giải phóng, nói cách khác, khỏi chủ quan tính và khách quan tính của cái xảy ra: Homo tantum ai cũng có thiện cảm và nó đạt tới vùng đất của phúc lành. Đó là một đặc trưng (haecceity), nó cá thể hóa đúng hơn là cá nhân hóa: cuộc sống của nội tại thuần túy, trung tính và ở bên ngoài thiện ác, bởi chưng chỉ có chủ thể đưa nó nhập vào giữa những sự vật làm cho nó thành thiện hay ác. Cuộc sống của một cá nhân tính như vậy tự xóa bỏ chính nó vì lợi ích của đời sống cá thể nội tại nơi một con người không còn có một cái tên và chẳng thể nào lẫn với bất kỳ ai. Yếu tính cá thể, một đời sống…

   Một đời sống không phải được chứa đựng chỉ trong một khoảnh khắc đơn giản khi đời sống cá nhân chạm mặt với cái chết phổ quát. Đời sống là khắp nơi, trong tất cả những khoảnh khắc mà một chủ thể sống nào đó đi qua và rằng những đối tượng sống trải nào đó điều chỉnh: đời sống nội tại mang theo những sự kiện hay những biệt-thể* chúng không làm gì khác hơn là tự hiện thực trong những chủ thể và những đối tượng. Cuộc sống không rõ ràng này chính nó không có những khoảnh khắc, dù cho những khoảnh khắc này có gần nhau cách mấy đi nữa, nhưng chỉ là những giữa-thời gian (des entre-temps), giữa-những-khoảnh-khắc (entre-moments). Nó chẳng xảy ra hay tiếp diễn, nhưng nó biểu trưng tính chất mênh mông của thời gian trống rỗng nơi sự kiện có thể được thấy rằng nó vẫn còn đang tới và cũng đã qua đi, trong cái tuyệt đối của một ý thức tức thời (une conscience immédiate). Những quyển tiểu thuyết của Lernet Holenia đặt sự kiện trong giữa-thời gian có thể nuốt chửng cả một trung đoàn. Những biệt thể hay những sự kiện có tính chất tạo dựng của một cuộc sống cùng hiện hữu với những rủi ro của đời sống tương ứng, nhưng không cùng tới hay cùng phân chia theo cùng một cách. Chúng không thông giao với nhau theo kiểu những cá nhân. Có vẻ dường như một cuộc sống cá biệt có thể thông giao mà không cần có bất kỳ tính cách cá nhân nào, hay chẳng có bất kỳ sự cùng lúc nào khác cá thể hóa nó. Thí dụ, những em bé tí xíu tất cả đều giống hệt nhau và chẳng có mấy tính chất cá nhân, chẳng hạn một nụ cười mỉm, một cử chỉ, một cái nhăn mặt – là những sự kiện không là những đặc điểm chủ quan. Những sự kiện này bị một đời sống nội tại đi qua là sức mạnh thuần túy và ngay cả phước lành qua những sự đau đớn và yếu kém. Những bất định của một cuộc sống mất đi tất cả sự bất qui định trong chừng mực chúng đổ đầy một mặt phẳng nội tại hay, nói cho thật chính xác, mặt phẳng này tới cùng một vật, tạo nên những yếu tố của một trường siêu nghiệm (đời sống cá nhân về mặt khác vẫn không thể tách rời khỏi những xác định có tính chất kinh nghiệm). Sự bất định như vậy không đánh dấu một sự không qui định do kinh nghiệm, nhưng là một sự qui định của nội tại hay là một tính chất qui định siêu nghiệm. Mạo tự bất định (l’article indéfini) không thể là sự bất qui định của người mà không cùng lúc là sự qui định của cá thể. Cái Một (L’Un) không phải là cái siêu vượt có thể chứa mọi thứ, ngay cả chứa nội tại, nhưng là cái nội tại được chứa đựng trong trường siêu nghiệm. Một (Un) luôn luôn là chỉ dẫn (index) của một đa phức (multiplicité): nghệ thuật sự kiện, một biệt thể, một cuộc sống…Mặc dù một cái siêu vượt rớt ra ngoài mặt phẳng nội tại có thể thường được viện dẫn hay ngay cả gán vào mặt phẳng nội tại, nó vẫn cứ là một trường hợp cho thấy rằng mọi siêu vượt chỉ được tạo nên trong dòng nội tại của ý thức riêng cho mặt phẳng này (Ngay Husserl cũng nhận ra điều này: “Rằng hữu của thế giới “vượt lên” ý thức theo kiểu này (dù vẫn tôn trọng sự hiển nhiên trong đó thế giới tự trình ra), và rằng nó thiết yếu vẫn là cái siêu vượt, chẳng có sự sự khôn ngoan nào làm sự kiện đổi khác rằng nó chỉ là là đời sống ý thức, mặc dù mọi thứ siêu vượt trở thành được tạo nên, như một cái gì đó không thể tách khỏi ý thức…” (Husserl, 1960:62) Đó sẽ là khởi điểm bản văn của Sartre. Siêu vượt luôn là một sản phẩm của nội tại.

   Một cuộc sống chỉ chứa đựng những tiềm thể. Nó được tạo nên bởi những tiềm thể (virtualités), những sự kiện, những biệt thể. Cái chúng ta gọi là tiềm thể không phải là một cái gì thiếu thực tại, nhưng là một cái đi vào trong một diễn trình thể hiện bằng cách đi theo mặt phẳng cho nó thực tại của chính nó. Sự kiện nội tại tự nó thể hiện trong một trạng thái của những sự vật và trong một trạng thái sống trải làm cho sự kiện xảy ra. Chính mặt phẳng nội tại được thể hiện trong một Đối tượng và một Chủ thể mà nó tự gắn vào. Nhưng, tuy thực là khó mà tách rời chúng khỏi sự thể hiện của chúng, mặt phẳng nội tại chính nó là tiềm thể, cũng như những sự kiện cư ngụ nó là những tiềm thể. Những sự kiện hay những biệt thể cho mặt phẳng hết thảy tiêm thể tính của chúng, cũng như mặt phẳng nội tại cho hết thực tại cho sự kiện tiềm thể. Sự kiện, được coi như không-được-hiện-thể (non-actualisé) (bất định), chẳng thiếu cái gì cả; tất cả những gì nó đòi hỏi là để nó được trong tương quan với những cái cùng xảy ra của nó: một trường siêu nghiệm, một mặt phẳng nội tại, một cuộc sống, vài biệt thể. Một vết thương nội nhập hay hiện thể chính nó trong một trạng thái của những sự vật và trong một trạng thái sống trải. nhưng chính nó lại là một cái tiềm thể trên mặt phẳng nội tại kéo chúng ta vào trong một đời sống. Vết thương của tôi hiện hữu trước tôi…(Xem Joë Bousquet, Les Capitales, 1955). Không phải một sự siêu vượt của vết thương như một hiện thể tính siêu đẳng (actualité supérieure), nhưng nội tại tính của nó như một tiềm thể tính luôn luôn nằm ở tâm điểm của một môi trường (trường hay mặt phẳng). Có một sự khác biệt lớn giữa những tiềm thể định nghĩa nội tại tính của trường siêu nghiệm với những hình thức khả hữu hiện thể chúng và biến đổi chúng thành một cái gì đó siêu vượt.

______________________________________________________

 

*Từ “singularité/biệt-thể” theo nghĩa của Deleuze khác với cá thể/nhân (l’individuel) hay cái có tính chất nguyên tử (l’atomique) ở chỗ nó không ngừng phân chia sự khác biệt về cường độ (différence d’intensité) nó triển khai. Theo François Zourabichvili “Khái niệm biệt thể được đặt nền tảng trên ý tưởng hay kiến thức sơ đẳng (la notion) về “tương quan  khác biệt” (rapport différentiel) hay “sai biệt” (dispars) cho phép tránh được sự thu giảm cái đơn giản vào nguyên tử và do đó tránh được sự lẫn lộn cái biệt thể (le singulier) với cái cá nhân (l’individuel). Những biệt thể tương ứng với những giá trị của những tương quan khác biệt hay với những sự phân ra của những cái tiềm thể (potentiels).[…] Biệt thể tính theo Deleuze cho thấy nghịch lý của sự khác biệt, cùng lúc vừa là đơn vừa là đa, như một “điểm-nếp gấp” (point-pli). Biệt thể tính vừa tiền cá thể (pré-individuelle) vừa cá thể hóa (individuante). Chính những cá nhân không là cá biệt dù có được tạo ra “kề cận với” một số biệt thể nào đó, theo kiểu chúng nguyên là có tương quan với cái khác. Do đó một định nghĩa nội tại của cá nhân bởi những tác động tới (affects) thay vì hình thức hay diện mạo tách rời. “Tôi cảm nhận về gì? do đâu tôi bị tác động tới? Tôi chỉ biết được những biệt thể của tôi bằng thử nghiệm.” (Gilles Deleuze & Felix Guattari, Mille-Plateaux trang 314, Spinoza.Philosophie pratique trang 166). Trích dẫn theo François Zourabichvili, La Philosophie de Deleuze trang 94-95.

** Deleuze qui chiếu về nhân vật Riderhood trong Our Mutual Friend của Dicken: Riderhood – một tên vô lại –  được Dicken mô tả có sự khác biệt giữa con người thật của hắn và “điểm lóe sáng của đời sống trong hắn” khi hắn chỉ còn là một xác chết. Đoạn văn của Dicken được Deleuze qui chiếu như sau: “No one has the least regard for the man: with them all, he has been an object of avoidance, suspicion and aversion; but the spark of life within him is curiously separable from himself now, and they have a deep interest in it, probably because it is life, and they are living and must die.”

(còn tiếp)

 

đào trung đạo

 

2020