photo:https://frieze.com
ĐÀO TRUNG ĐẠO
gilles deleuze: triết học & không triết học
(Kỳ 20)
Chương IV
NHÂN VẬT KHÁI NIỆM
kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9, kỳ 10, kỳ 11, kỳ 12, kỳ 13, kỳ 14, kỳ 15, kỳ 16, kỳ 17, kỳ 18, kỳ 19, kỳ 20,
Để giới thiệu “những nhân vật khái niệm” (personnages conceptuels) trong lịch sử triết học Deleuze bắt đầu bằng khái niệm “cogito/tôi suy tư” do Descartes sáng tạo với những tiền-giả thiết (présupposés) ngầm chứa (implicites), chủ quan (subjectifs), tiền-khái niệm (pré-conceptuels) tạo thành một hình ảnh tư tưởng, chẳng hạn ai cũng biết suy tư là gì, ai cũng có khả năng suy tư, ai cũng muốn sự thật…Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là: Trong cái “cogito” được Descartes sáng tạo và cái hình ảnh tư tưởng được giả thiết này thực sự có một cái gì khác, có vẻ bí ẩn, đôi lúc hiện ra, có một hiện hữu mù mờ, làm trung gian đi lại giữa khái niệm và mặt phẳng tiền-khái niệm không? Nếu có thì cứ tạm gọi cái khác đó là thằng Khờ (Idiot), kẻ đã nói Tôi, kẻ đã tung ra cái “tôi suy tư”, kẻ nắm trong tay những điều giả định, kẻ vạch ra mặt phẳng. “Thằng khờ, đó chính là nhà tư tưởng riêng tư đối nghịch với vị giáo sư công cộng (nhà kinh viện): vị giáo sư không ngừng qui chiếu về những khái niệm đã được giảng dạy (con người-con vật có lý trí), trong khi nhà tư tưởng tư tạo ra một khái niệm với những sức mạnh bẩm sinh mà mỗi người đều có quyền sở hữu của riêng mình (tôi tư duy). Đó là một loại nhân vật rất lạ kỳ, kẻ muốn suy tư và kẻ suy tư bởi chính mình, bởi “ánh sáng tự nhiên.” Thằng khờ là một nhân vật khái niệm. Chúng ta có thể cho câu hỏi sự chính xác hơn: có những tiền thân của cái tôi suy tư không? Nhân vật thằng khờ ở đâu ra, hắn xuất hiện thế nào, phải chăng trong một bầu không khí cơ đốc, nhưng để phản ứng lại tổ chức “kinh viện” của cơ đốc giáo, chống lại tổ chức uy quyền của Giáo hội không?”[144] Deleuze chỉ ra những dấu vết nhân vật khái niệm trong sách của saint Augustin, của Nicolas de Cuse. Đó là lý do tại sao thằng khờ, nhà tư tưởng tư, kẻ ngoại đạo bang bổ (le profane) gần gũi với cái tôi suy tư nhưng lại không không thể được tinh lọc thành khái niệm. Tuy vậy lịch sử triết học phải thông qua việc nghiên cứu những nhân vật khái niệm cũng như những biến cải của những nhân vật khái niệm tùy theo những mặt phẳng nội tại, sự khác nhau của họ tùy theo những khái niệm. “Và triết học không ngừng làm sống lại những nhân vật khái niệm, cho họ một đời sống.”[145]
Quay sang văn chương Nga Deleuze nhận xét: thằng khờ khi trở thành kẻ nô lệ tuy vẫn là kẻ riêng biệt (le singulier), nhà tư tưởng tư nhưng tính chất riêng biệt đã thay đổi. Triết gia Chestov nhận ra trong tiểu thuyết của Dostoïevski sức mạnh của một sự chống đối mới giữa nhà tư tưởng tư với nhà tư tưởng công: thằng khờ cũ muốn những điều hiển nhiên (évidences) tự nó tìm ra, nó nghi ngờ hết thảy, ngay cả 3+2=5, nó nghi ngờ tất cả chân lý của Tư nhiên. Trái lại thằng khờ mới hoàn toàn không muốn có những điều hiển nhiên, nó không “qui thuận” điều cho rằng 3+2=5, nó muốn sự phi lý. Trong khi thằng khờ cũ muốn sự thực thì thằng khờ mới muốn làm cho cái phi lý thành toàn năng của tư tưởng, tức là muốn sáng tạo. Thằng khờ cũ chỉ chú tâm tới lý trí, thằng khờ mới lại chỉ chú tâm tới “nạn nhân của Lịch sử”, không chấp nhận những chân lý cùa Lịch sử. Thằng khờ cũ muốn chính nó xem xét cái gì là có thể hiếu được (compréhensible), hữu lý (raisonnable), đã mất (le perdu) hay được cứu vớt, ngược lại thằng khờ mới lại chỉ muốn người ta trao lại cho nó cái đã mất, cái không thể hiểu, cái phi lý. Tuy đã có sự thay đổi nhân vật nhưng vẫn có sợi dây nối hai thứ thằng khờ này như thể thằng khờ cũ đánh mất lý trí để cho thằng khờ mới tìm lại được cái mà thằng khờ cũ đã đánh mất trước đây. Deleuze khôi hài “Descartes ở nước Nga đã trở thành một thằng khùng chăng?”
Tuy rằng nhân vật khái niệm hiếm khi tự xuất hiện hay do ảo ảnh mà ra nhưng hắn ta ở đó, và dù không được đặt tên, ở dưới đất sâu, nhưng người đọc phải tái tạo hắn. Cũng khi xuất hiện hắn mới có tên riêng: trong chủ thuyết Platon nhân vật Socrate là nhân vật khái niệm chính. Đã có rất nhiều triết gia viết những đối thoại nhưng ta phải tránh không lẫn lộn những nhân vật đối thoại với những nhân vật khái niệm vì họ chỉ trùng nhau với tên gọi nhưng không có cùng vai trò. Thường các triết gia trong những bản văn đối thoại đưa ra hai loại nhân vật khái niệm: những nhân vật triết gia có thiện càm và những nhân vật triết gia ác cảm. Những nhân vật đối thoại trình bày những khái niệm, trong trường hợp giản dị nhất một trong số họ có thiện cảm với những khái niệm này là đại diện cho tác gia, còn những nhân vật khác ít nhiều ác cảm với những khái niện qui chiếu về những triết học khác, họ trình bày những khái niệm sau theo cách chuẩn bị để phê bình hay biến đổi đi. Nhưng những nhân vật khái niệm có vai trò khác: đó là vận hành những chuyển động mô tả mặt phẳng nội tại của tác gia bài đối thoại và cũng tham gia việc sáng tạo những khái niệm. Cũng vậy với những nhân vật có ác cảm thì họ cũng hoàn toàn thuộc về mặt phẳng nội tại mà triết gia vạch ra và những khái niệm ông ta sáng tạo. Những nhân vật ác cảm này đánh dấu những hiểm nguy riêng của mặt phẳng này, những tri giác sai, những tình cảm xấu hay ngay cả những chuyển động tiêu cực nảy sinh và chính họ cũng lại khởi hứng cho những khái niệm độc đáo có tính chất thúc đẩy là một tính chất xây dựng của triết học đó. “Hơn thế nữa với những chuyển động tích cực của mặt phẳng, những khái niệm hấp dẫn và những nhân vật thiện cảm: đó là cả một Đồng cảm triết học. Và rất thường có những sự không rõ ràng lớn giữa chúng.”[146]
Những nhân vật khái niệm không phải là đại diện của triết gia, triết gia chỉ là cái phong bì của nhân vật khái niệm chính của ông ta và tất cả những nhân vật khác là những người trung gian giúp đỡ (intercesseurs) là những chủ thể khả dĩ của triết học của ông ta. Cũng có thể nói những nhân vật khái niệm là những “tên gọi khác” (hétéronymes) của triết gia còn tên thật của triết gia chỉ là cái tên giả (pseudonym) của những nhân vật của ông. Khi đó triết gia không còn là mình, nhưng có một năng khiếu của tư tưởng tự thấy và tự triển khai qua một mặt phẳng xuyên qua ông ta ở nhiều nơi. Thế nhưng nhân vật khái niệm chẳng dính líu gì tới một nhân cách hóa trừu tượng, một biểu tượng hay một ẩn dụ bởi nhân vật khái niệm thực sự sống. Triết gia là phong cách riêng (idiosyncrasie) của những nhân vật khái niệm của ông ta. Việc triết gia trở thành nhân vật hay những nhân vật khái niệm của ông là số phận (destin) của ông đồng thời những nhân vật của ông chính họ cũng trở thành cái khác với họ đứng về mặt lịch sử, huyền thoại chẳng hạn nhân vật Socrate của Platon, nhân vật Dionysos của Nietsche hay Thằng Khờ của Nicolas de Cuse. “Nhân vật khái niệm là sự trở thành hay chủ đề của một triết học, có giá trị với triết gia, hậu quả là Cuse hay ngay cả Descartes cũng phải ký tên là “Thằng Khờ”, chẳng kém gì Nietszche là “Kẻ Chống Chúa” hay “Dionysos bị treo trên thập tự”. Trong đời thường hành vi nói qui về những loại người tâm lý-xã hội (types psycho-sociaux) để cho một kẻ/ngôi thứ ba hiểu ngầm chẳng hạn lời tuyên bố “tôi ban hành lệnh động viên trong tư cách là tổng thống” hay tôi nói với tư cách là cha…Tương tự như vậy cái bàn thắng triết học (embrayeur philosophique) là một hành vi của lời nói ở ngôi thứ ba ở đó bao giờ cũng là nhân vật khái niệm nói Tôi, chẳng hạn tôi tư tưởng với tư cách thằng khờ, tôi muốn với tư cách Zarathroustra…Trong cách nói triết học người ta không nói ra cái mình làm nhưng người ta làm cái chuyển động khi tư tưởng qua trung gian của một nhân vật khái niệm: nhân vật khái niệm là những tác nhân thực sự của lời tuyên bố (vrai agents d’énonciation) xưng Tôi nhưng lại là ngôi thứ ba.
Hơn hẳn nhiều triết gia khác Nietszche đã thao tác tư tưởng với nhiều nhân vật khái niệm, thiện cảm có (Dionysos, Zarathroustra) ác cảm có (Christ, tay giảng đạo, những Con Người Thượng Đẳng, Socrate…) Tuy người ta có thể cho rằng Nietszche từ chối những khái niệm nhưng ông ta lại đã sáng tạo ra những “sức mạnh/forces,” “giá trị/valeur,” “sự trở thành/devenir,” “đời sống/vie,” và những khái niệm xô đẩy (concepts répulsifs) như “oán hận/ressentiment,” “ý thức tệ hại, xấu/mauvaise conscience” cũng như đã vạch ra một mặt phẳng nội tại mới với những chuyển động bất tận của ý chí hướng tới sức mạnh/quyền lực và qui hồi vĩnh cửu. Mặt phẳng nội tại của Nietszche đảo lộn, lật ngược hình ảnh tư tưởng bằng việc phê bình ý chí về chân lý. “Nhưng ở Nietszche những nhân vật khái niệm ngầm lại không là hiểu ngầm. Quả thực việc tự hiện ra của họ gây ra một sự không rõ ràng, khiến khá nhiều người đọc coi Nietszche như một thi sĩ, một ảo thuật gia hay một người sáng tạo huyền thoại. Nhưng những nhân vật khái niệm trong triết học Nietszche không phải lả những nhân cách hóa huyền thoại, cũng không phải là những nhân vật lịch sử, càng không phải là những nhân vật văn chương hay tiểu thuyết. “Dionysos trong triết học của Nietszche không phải là Dionysos của những huyền thoại, cũng như trong triết học của Platon nhân vật Socrate không phải của Lịch sử. Trở thành không phải là hữu, và Dionysos trở thành triết gia, đồng thời Nietszche trở thành Dionysos. Ở nơi khác cũng vậy, chính Platon là kẻ khởi đầu: ông ta đã trở thành Socrate, đồng thời ông ta cũng đã làm cho Socrate trở thành triết gia.”[147]
Deleuze so sánh những nhân vật khái niệm với những chân dung/diện mạo thẩm mỹ (figures esthétiques): sự khác biệt trước hết nằm ở chỗ những nhân vật khái niệm là những sức mạnh của khái niệm còn những chân dung thẩm mỹ là những sức mạnh của tác hưởng (affect) và của giác thành (percept)[148]. Nói thế khác những nhân vật khái niệm tác hoạt trên một mặt phẳng nội tại là một hình ảnh của Tư Tưởng-Hữu (Pensée-Être) tức ẩn tượng (noumène) trong khi chân dung thẩm mỹ tác hoạt trên một mặt phẳng bố cục (plan de composition) như một hình ảnh của Vũ trụ (phénoméne/hiện tượng). Những diện mạo thẩm mỹ của ý tưởng hay của tiểu thuyết cũng như của hội họa, điêu khắc, âm nhạc tràn khỏi những tác động và những tri giác thông thường cũng như những khái niệm tràn khỏi những ý kiến thông thường. Deleuze dẫn lời Melville cho rằng một tiểu thuyết bao gồm rất nhiều những nhân vật thú vị nhưng chỉ có một Diện Mạo độc đáo như một mặt trời độc nhất của một chòm sao của vũ trụ, như sự khởi đầu của mọi vật, hay như một cái đèn pha rút ra một vũ trụ bị che khuất, dấu kín từ bóng tối, chẳng hạn thuyền trưởng Achab hay Barleby. “Những diện mạo chẳng dính dáng gì tới sự tương tự hay phép tu từ, nhưng là điều kiện dưới đó những nghệ thuật sản xuất những tác hướng của đá và của kim khí, của những sợi dây và của những luồng gió, những nét vẽ và những màu sắc, trên một mặt phẳng bố cục của vũ trụ. Nghệ thuật va triết học cắt/sắt cái hỗn mang, và đối diện nó, nhưng không phải là cùng một mặt phẳng cắt, đó không phải là cùng một cách cư ngụ dân, ở đây thì là những chùm sao của vũ trụ hay những tác hương và những cảm nhận, ở kia thì là những hình thái của nội tại tính hay của khái niệm. Nghệ thuật không tư tưởng ít hơn triết học, nhưng nghệ thuật tư tưởng bằng những tác hướng và những cảm nhận.”[149]
_________________________________
[144] Sđd trang 60-61: L’idiot, c’est le penseur privé par opposition au professeur publique (le scolastique): le professeur ne cesse de renvoyer à des concepts enseignés (l’homme-animal raisonnable), tandis que le penseur privé forme un concept avec des forces innées que chacun possède en droit pour son compte (je pense). Voilà un type très étrange de personnage, celui qui veut penser par lui-même, par la “lumière naturelle”. L’idiot est un personnage conceptuel. Nous pouvons donner plus de précision à la question: y a-t-il des précurseurs du cogito? D’où vient le personnage de l’idiot, comment est-il apparu, est-ce dans une atmosphère chrétienne, mais en réaction contre l’organisation “scolastique” du christianisme, contre l’organisation autoritaire de l’Eglise?
[145] Sđd trang 61: Et la philosophie ne cesse de faire vivre des personnages conceptuels, et leur donner la vie.
[146] Sđd trang 62: À plus forte raison pour les mouvements positifs du plan, les concepts attractifs et les personnages sympathiques: toute une Einfühlung philosophique. Et souvent, des uns aux autres, il y a de grandes ambiguïtés.
[147] Ce n’est pas plus chez Nietszche le Dionysos des mythes que, chez Platon, le Socrate de l’Histoire. Deveneir n’est pas être, et Dionysos devient philosophe, en même temps que Nietszche devient Dionysos. Là encore, c’est Platon qui commença: il devint Socrate, en même temps qu’il fit devenir Socrate philosophe.
[148] Cần hiểu nghĩa của từ “percept” theo Deleuze. Trong Critique et Clinique (trang 112) Deleuze viết: “Ở đó [nơi viễn tượng mới] phải là một tri giác tốt, tai và mắt như Benito Cereno chỉ ra, và đó chính là cái “giác triển”, nghĩa là một tri giác đang trở thành, nó phải thay thế cho khái niệm. (Il y faut une bonne perception, oreille et vue, comme le montre Benito Cereno, et c’est le “percept”, c’est-à-dire une perception en devenir, qui doit remplacer le concept).
[149] Sđd trang 64: Les figures n’ont rien à faire avec la ressemblance ni la rhétorique, mais sont la condition sous laquelle les arts produisent des affects de pierre et de métal, de cordes et de vents, de lignes et de couleurs, sur un plan de composition d’univers. L’Art et la philosophie recoupent le chaos, et l’affrontent, mais ce n’est pas le même plan de coupe, ce n’est pas la même manière de peupler, ici constellations d’univers ou affects et percepts, là complexions d’immanence ou concepts. L’art ne pense pas moins que la philosophie, mais il pense par affects et percepts.
(còn tiếp)
đào trung đạo
2020