
photo:https://frieze.com
ĐÀO TRUNG ĐẠO
gilles deleuze: triết học & không triết học
(kỳ 5)
Chương 1
Hình ảnh Tư tưởng
Trong cuộc tìm kiếm một hình ảnh tư tưởng không đặt trên giả thiết Deleuze cho rằng cần thực hiện hai động tác: phê bình và sáng tạo. “Những điều kiện của một phê bình thực sự và sáng tạo thực sự cùng như nhau: phá hủy hình ảnh một tư tưởng tự giả thiết, nguyên ủy của hành vi tư tưởng trong chính tư tưởng.”[34] Từ điểm này Deleuze trình bày Lý thuyết khác biệt về những khả năng (Théorie différentielle des facultés) cũng như việc sử dụng bất hợp những khả năng đưa đến sự bạo động và giới hạn của mỗi khả năng. Sau đó Deleuze chỉ ra tính chất không rõ rệt của chủ thuyết Platon và đưa ra kết luận về nguyên ủy của tư tưởng.
Như trong Proust et les Signes Deleuze đã chỉ ra hình ảnh tư tưởng là do đối tượng của chạm mặt bắt buộc ta tư tưởng chứ không phải do sự nhận biết. Vậy nhận biết theo quan niệm của Platon cần được phê phán ra sao? Trường hợp thứ nhất: trong quyển République Platon chia ra hai loại sự vật: những sự vật thuộc loại thứ nhất là những đối tượng của nhận biết không khuấy động tư tưởng trong khi những sự vật loại thứ hai buộc chúng ta phải tư tưởng. Câu hỏi của Socrate kẻ xen chuyện với Platon đặt ra là: Vậy khi người ta không nhận biết phải chăng người ta không tư tưởng? Thế nhưng cái có thể nghi ngờ này cũng không đưa chúng ta ra khỏi quan điểm của sự nhận biết. Hơn nữa nó sẽ chỉ khiến người ta nghiêng về một chủ thuyết hoài nghi địa phương (scepticisme local) hay một phương pháp được tổng quát hóa với điều kiện là tư tưởng vốn đã có thiện chí nhận biết cái thiết yếu phân biệt sự chắc thực (la certitude) với sự nghi ngờ. Cả những sự vật đáng nghi ngờ lẫn những sự vật chắc thực đều giả thiết thiện chí của nhà tư tưởng và bản chất tốt lành của tư tưởng được quan niệm như lý tưởng của sự nhìn nhận cũng như sự khắng khít được coi như cho sự thực, cái φιλία (philia) này qui định trước cả hình ảnh tư tưởng lẫn triết học. Thế nên không chỉ những sự vật nghi ngờ không buộc ta phải tư tưởng mà cả những sự vật chắc thực cũng vậy.
Theo Deleuze, chính đối tượng của một gặp gỡ căn bản (une rencontre fondamentale) bắt buộc ta tư tưởng. Cái được gặp gỡ này có thể nắm bắt bởi những dạng cảm ứng khác nhau như ngưỡng mộ, yêu thích, thù ghét, đau khổ. Nhưng dù được thể hiện dưới dạng thức nào đi nữa thì tính chất đầu tiên của nó là được cảm thấy. Chính theo nghĩa này nó đối nghịch với sự nhận biết.Trong nhận biết cái khả cảm (le sensible) hoàn toàn không phải là cái chỉ được cảm thấy, nhưng là cái liên quan trực tiếp tới những giác quan trong một đối tượng có thể được nhớ lại, được tưởng tượng hay được quan nhận. Cái khả cảm không những chỉ được qui chiếu về một đối tượng có thể khác với cái được cảm thấy nhưng chính nó có thể được các khả năng khác nhắm tới nhưng cần có sự tập dượt những giác quan và những khả năng khác trong một ý nghĩa chung. “Ngược lại, đối tượng của gặp gỡ, thật sự sản sinh ra cảm tính trong những giác quan. Đó không phải là một αίσθητόυ nhưng là một αίσθητέου. Đó không phải là một phẩm tính, nhưng là một dấu chỉ. Đó không phải là sự vật có thể cảm thấy, nhưng là hữu của khả cảm. Đó không phải là một dữ kiện, nhưng là cái nhờ đó dữ kiện là dữ kiện.[…] Cảm tính, trong sự có mặt của cái chỉ có thể được cảm thấy (đồng thời cũng vô cảm) đứng trước một giới hạn của riêng nó – dấu chỉ – và tự nâng mình lên tới một sự tập dượt vượt lên – cái sức mạnh thứ mấy mươi. Ý nghĩa chung/lẽ thường không phải ở đó để giới hạn sự đóng góp đặc biệt của cảm tính với những điều kiện của một công việc hợp tác; do đó sức mạnh này dự vào một trò chơi bất hòa, những bộ phận của nó trở thành siêu hình.”[35]
Tính chất thứ nhì của hữu của cảm thụ (l’être du sensible) là sức mạnh buộc chúng ta phải đặt vấn đề như thể đối tượng của sự gặp gỡ, chạm trán là dấu hiệu kẻ mang vác vấn đề, kẻ tạo ra vấn đề. Deleuze đặt câu hỏi phải chăng vấn đề hay câu hỏi trùng hợp với đối tượng riêng biệt của một Ký ức siêu nghiệm (trường hợp thứ nhì) như Platon gợi ý, để cho một sự tập dượt nhắm đến việc nắm bắt cái không thể hồi ức trong phạm vi này có thể xảy ra? Theo Deleuze, đúng là sự hồi tưởng theo Platon (réminiscence platonnienne) nhắm tới việc nắm bắt hữu của quá khứ, đã xa xưa (immémorial) hay một thứ memorandum (sổ ghi nhớ) nhưng đồng thời cũng bị một thứ quên lãng thiết yếu (l’oubli essentiel) tác động đúng theo qui luật của việc tập dượt siêu vượt (exercice transcendant) luôn nhấn mạnh rằng cái gì chỉ thể nhớ lại được cũng là cái không thể nào nhớ lại được trong kinh nghiệm. “Có một khác biệt lớn giữa sư quên lãng thiết yếu này với quên lãng kinh nghiệm. Ký ức kinh nghiệm giao thiệp với những sự vật có thể và ngay cả phải được nắm bắt cách khác: cái tôi nhớ lại, là cái tôi đã phài nhìn thấy, nghe thấy, tưởng tượng ra, hay được nghĩ tưởng. Cái bị quên đi, theo nghĩa kinh nghiệm, là cái người ta sẽ không nắm bắt lại bằng ký ức khi người ta tìm kiếm nó lần thứ nhì (quá xa xôi, sự quên lãng cách ly tôi với kỷ niệm hay đã xóa bỏ nó). Nhưng ký ức siêu nghiệm nắm bắt cái, trong lần đầu, ngay từ lần đầu, chỉ thể được nhớ lại: không phải là một quá khứ ngẫu nhiên, nhưng là hữu của quá khứ như thế và luôn luôn là quá khứ. Cái bị quên lãng, chính là cách thế sự vật đích thân hiện ra, với ký ức nắm lấy nó một cách thiết yếu. Nó không giao thiệp với ký ức mà không giao thiệp với cái đã quên trong ký ức. Cuốn sổ ghi nhớ ở đây vừa là cái không thể hồi ức vừa là cái không được hồi ức. Sự quên lãng không còn là một sự bất lực ngẫu nhiên cách ly chúng ta với một kỷ niệm chính nó cũng ngẫu nhiên, nhưng nó hiện hữu trong kỷ niệm thiết yếu như là sức mạnh thứ mấy mươi của ký ức đối với giới hạn của nó hay với cái chỉ thể hồi ức. Cảm tính cũng tương tự như thế: đối với cái bất khả cảm ngẫu nhiên, thật bé nhỏ, thật xa đối với những cảm quan của chúng ta trong sự tập dượt kinh nghiệm, đối nghịch với một cái bất khả cảm thiết yếu, cái bất khả cảm thiết yếu này lẫn lộn với cái chỉ có thể cảm thấy từ chỗ đứng của thao dượt vượt lên. Thế nên cảm tính, bị cưỡng bách bởi gặp gỡ để cảm thấy cái sentiendum [hữu của khả cảm], đến lượt nó bắt buộc ký ức nhớ lại quyển sổ ghi nhớ, là cái chỉ thể hồi ức.”[36]
Tính chất thứ ba của hữu cảm thụ là phát huy sức mạnh để giải thoát những quan năng ra khỏi gông cùm của ý nghĩa chung/lẽ thường, tức khả năng phán đoán phân biệt đúng sai. “Từ hữu của khả cảm sentiendum tới yếu tính cogitandum sự bạo động của cái buộc phải tư tưởng được phát triển. Mỗi khả năng được thoát khỏi gông cùm. Nhưng những gông cùm này là gì nếu chẳng phải là hình thức của ý nghĩa chung/lẽ thương làm cho tất cả những khả năng tác động và đồng qui? Mỗi khả năng đã, bằng cách xem xét của chính nó và trong trật tự của nó, phá vỡ hình thức của ý nghĩa chung/lẽ thường giữ nó lại trong yếu tố kinh nghiệm của doxa, để đạt tới cái sức mạnh thứ mấy mươi của nó như tới yếu tố của nghịch lý trong sự tập dượt vượt lên. Thay vì tất cả các khả năng đồng qui, và đóng góp vào nỗ lực chung để nhận biết một đối tượng, người ta tham dự vào một nỗ lực phân ngả, mỗi khả năng được đặt trong sự có mặt của cái là “chính nó” đối với cái thiết yếu liên quan tới nó. Sự bất đồng của những khả năng, chuỗi lực và giải bột chất nổ ở đó mỗi khả năng trực diện giới hạn của nó, và chỉ nhận được từ khả năng khác (hay không thông giao với khả năng khác) một sự bạo động đặt nó đối diện với yếu tố riêng của nó, như thể với sự biến mất của nó hay sự không thể so sánh được của nó.”[37] Deleuze chỉ ra sự nghịch lý của Platon trong quan niệm về cái thiết yếu phải chạm mặt được định nghĩa như đối tượng của “cảm giác đồng thời trái ngược.” Đó chính là sự cộng sinh của những trái ngược, sự cộng sinh của cái nhiều hơn và cái ít hơn trong một diên/trở thành phẩm tính vô hạn (devenir qualitatif illimité), sự trở thành này tạo nên dấu chỉ hay điểm khởi hành của cái buộc phải tư tưởng. Trong khi đó sự nhận biết đo đạc và giới hạn phẩm tính bằng cách gán nó vào một vật nào đó, ngăn cản nó trở thành điên rồ. Deleuze đặt câu hỏi: Phải chăng khi định nghĩa cảm giác đồng thời trái nghịch bằng hình thức của sự đối nghịch (forme d’opposition) hay sự đối nghịch phẩm tính (contrariété qualitative) Platon đã lẫn lộn hữu của khả cảm (l’être du sensible) với một vật/hữu khả cảm đơn giản (un simple être sensible), với một hữu phẩm tính thuần túy? Sự nghi ngờ này tăng mạnh khi người ta xét quan niệm của Platon về hồi ức (réminiscence) vì nó chỉ có vẻ như không ở trong kiểu mẫu của sự nhận biết. Một cách tóm tắt: Hồi ức vẫn cứ là nơi trú ẩn của sự nhận biết; không những Kant mà cả Platon đều đồ hình (décalquer) sự tập dượt của ký ức siêu nghiệm theo hình dạng của sự tập dượt kinh nghiệm.
Trường hợp thứ ba: về tư tưởng thuần túy hay về cái chỉ thể tư tưởng được Platon qui định như một cái nghịch lại riêng rẽ (le contraire separé) chẳng hạn Độ lớn (la Grandeur) không là gì khác hơn lớn, Độ nhỏ (la Petitesse) không là gì khác hơn nhỏ bé, Sức nặng (la Lourdeur) chỉ là nặng, hay Nhất tính (l’Unité) chẳng là gì khác hơn một. Do vậy theo Platon đó là cái buộc ta phải tư tưởng dưới sức ép của hồi ức. Như vậy chính hình thức của Đồng nhất thực sự (la forme de l’Identité réelle) – cái Cũng vậy (le Même) được hiểu là αύτò καθ’ αύτò (auto kath’ auto) định nghĩa yếu tính. Tất cả đạt đỉnh điểm với nguyên lý lớn: rằng có, mặc dầu trên hết và trước hết, một hấp lực (affinité) hay quan hệ phụ mẫu (filiation) giữa tư tưởng và sự thực, nghĩa là một bản chất tốt lành và một ham muốn tốt lành được đặt cơ sở trên hình thức tương đồng trong cái Thiện (forme d’analogie dans le Bien). Deleuze kết luận: “Do vậy Platon, người viết ra bản văn République, cũng là người đầu tiên dựng lên hình ảnh độc đoán và luân lý hóa tư tưởng, ông ta cũng trung tính hóa bản văn này và chỉ để cho nó vận hành như một “hối hận”. Khám phá ra được sự thao dượt cao đẳng hay siêu nghiệm những khả năng, Platon lại làm nó phụ thuộc vào những hình thức của sự đối nghịch trong cái khả cảm, làm sự tương tự phụ thuộc trong hồi ức, nhất tính trong yếu tính, loại suy trong cái Thiện; bằng cách đó, ông ta sửa soạn cho thế giới của hình/dung tưởng, ông ta tác hành trong đó một sự phân phối đầu tiên những yếu tố, và đã phủ kín sự thao dượt của tư tưởng của một hình ảnh độc đoán, hình ảnh này vừa giả thiết vừa phản bội nó.”
Trong chương Kết luận quyển Différence et Répétition Deleuze đưa ra phê bình đẩ xóa bỏ khái niệm hình dung/tượng (représentation) cũng như thế giới của hình dung: “Hình dung là địa điểm của ảo tưởng siêu nghiệm. Ảo tưởng này có nhiều dạng thức, bốn dạng thức đan chéo nhau, chúng đặc biệt tương ứng với tư tưởng, cái khả cảm, Ý niệm và hữu. Thật vậy, tư tưởng bị che kín bởi một “hình ảnh” được kết hợp bởi những giả thiết, những giả thiết này làm méo mó cả sự thao dượt lẫn nguyên ủy của tư tưởng. Những giả thiết này đạt cao điểm trong vị trí của một chủ thể tư tưởng đồng nhất, được coi như nguyên tắc nhất thể cho khái niệm nói chung. Có một sự trượt đi từ thế giới của Platon sang thế giới của sự hình dung.[…] Cái “cùng một” của Ý niệm của Platon như kiểu mẫu, được cái Thiện đảm bảo, dọn chỗ cho nhất tính của khái niệm nguyên ủy, được xây trên chủ thể tư tưởng. Chủ thể tư tưởng đem tới cho khái niệm những đặc trưng chủ quan của nó, [như] ký ức, sự nhận biết, ý thức bản ngã. Thế nhưng, chính nhãn quan luân lý về thế giới cũng kéo dài ra, và biểu trưng , trong cái nhất tính chủ quan được xác quyết như ý nghĩa chung (cogitatio natura universalis).[38]
________________________________________
[34] Gilles Deleuze, Différence et Répétition trang 182: Les conditions d’une véritable critique et d’une véritable création sont les mêmes: destruction de l’image d’une pensée qui se présuppose elle-même, genèse de l’acte de penser dans la pensée même.
[35] Sđd trang 182: L’objet de la rencontre, au contraire, fait réellement naître la sensibilité dans le sens. Ce n’est pas un αίσθητόυ mais un αίσθητέου. Ce n’est pas une qualité, mais un signe. Ce n’est pas un être sensible, mais l’être du sensible. Ce n’est pas un donné, mais ce par quoi le donné est donné.[…] La sensibilité en présence de ce qui ne peut être que senti (l’insensible en même temps) se trouve devant une limite propre – le signe – et s’élève à un exercice transcendant – la nième puissance. Le sens commun n’est plus là pour limiter l’apport spécifique de la sensibilité aux conditions d’un travail conjoint; celle-ci entre alors dans un jeu discordant, ses organes deviennent métaphysiques.
[36] Sđd trang 183: Il y a une grande différence entre cet oubli essentiel et un oubli empirique. La mémoire empirique s’adresse à des choses qui peuvent et meme doivent être autrement saisies: ce que je rappelle, il faut que je l’aie vue, entendu, imaginé, ou pensé. L’oublié, au sens empirique, est ce qu’on n’arrive pas à ressaisir par la mémoire quand on le cherche une seconde fois (c’est trop loin, l’oubli me separe du souvenir ou l’a effacé). Mais la mémoire transcendantale saisit ce qui, dans la première fois, dès la première fois, ne peut être que rappelé: non pas un passé contingent, mais l’être du passé comme tel et passé de tout temps. Oubliée, c’est de cette manière que la chose apparaît en personne, à la mémoire qui l’apprehende essentiellement. Elle ne s’adresse pas à la mémoire sans s’adresser à l’oubli dans la mémoire. Le memorandum y est aussi l’immémorable, l’immémorial. L’oubli n’est plus une impuissance contingente qui nous sépare d’un souvenir lui-même contingent, mais existe dans le souvenir essentiel comme la nième puissance de la mémoire à l’égard de sa limite ou de ce qui ne peut être que rappelé.
[37] Sđd trang 184: Du sentiendum au cogitandum, s’est developpée la violence de ce qui force à penser. Chaque faculté est sortie de ses gonds. Mais qu’est-ce que les gonds, sauf la forme du sens commun qui faisait tourner et converger toutes les facultés? Chacune a, pour son compte et dans son ordre, brisé la forme du sens commun qui la maintenait dans l’élément empirique de la doxa, pour atteindre à sa nième puissance comme à l’élément du paradoxe dans l’exercice transcendant. Au lieu que toutes les facultés convergent, et contribuent à l’effort commun de reconnaître un objet, on assiste à un effet divergent, chacune étant mise en présence de son “propre” en ce qui la concerne essentiellement. Discorde des facultés, chaîne de force et cordon de poudre où chacune affronte sa limite, et ne reçoit de l’autre (ou ne communique à l’autre) qu’une violence qui la met en face de son propre élément, comme de son disparate ou de son incomparable.
[38] Sđd trang 341: La représentation est le lieu de l’illusion transcendantale. Cette illusion a plusieurs formes, quatre formes interprénétrées, qui correspondent particulièrement à la pensée, au sensible, à l’Idée et à l’être. La pensée, en effet, se recouvre d’une “image”, composée de postulats qui en dénaturent l’exercice de la pensée. Ces postulats culminent dans la position d’un sujet pensant identique, comme principe d’identité pour le concept en général. Un glissement s’est peoduit, du monde platonicien au monde de la représentation […] Le “même” de l’Idée platonicienne comme modèle, gatranti par le Bien, a fait place à l’identité du concept originaire, fondé sur le sujet pensant. Le sujet pensant donne au concept ses concomitants subjectifs, mémoire, récognition, conscience de soi. Mais, c’est la vision morale du monde qui se prolonge ainsi, et se represente, dans cette identité subjective affirmée comme sens commun (cogitatio natura universalis).
(còn tiếp)
đào trung đạo
 http://www.gio-o.com/DaoTrungDao
2019