photo:https://frieze.com

 

ĐÀO TRUNG ĐẠO

giles deleuze: triết học & không triết học



(kỳ 3)


kỳ 1, kỳ 2,

Chương 1

Hình ảnh Tư tưởng

 

Hình ảnh Tư tưởng là khởi đầu thiết yếu của triết học. Sau Proust et les Signes Giles Deleuze dành Chương III quyển Différence et Répétition[DR] để xem xét bản chất của những “giả thiết” (postulats) của hình ảnh tư tưởng trong triết học truyền thống. Cùng thời với DR trong bài “Phỏng vấn với Gile Deleuze” do Jean-Noël Vuarnet thực hiện năm 1968 Deleuze phát biểu: “Chúng ta sống với một hình ảnh tư tưởng riêng biệt, nghĩa là, trước khi chúng ta bắt đầu tư tưởng, chúng ta đã có một hình ảnh không rõ ràng việc tư tưởng nghĩa là gì, về phương tiện cũng như cứu cánh của nó.”[16] Tháng 9, 1988 trong bài phỏng vấn với Raymod Bellour và François Ewald Deleuze trở lại vấn đề này: “Tôi cho rằng có một hình ảnh tư tưởng thay đổi rất nhiều, nó đã thay đổi rất nhiều trong lịch sử. Bằng hình ảnh tư tưởng, tôi không hiểu là phương pháp, nhưng là một cái gì đó sâu hơn nhiều, luôn luôn được giả định, một hệ thống những tọa độ, những năng động, những định hướng: tư tưởng được hiểu là gì, và “việc định hướng trong tư tưởng.” […] Hình ảnh tư tưởng như là cái tiền giả định của triết học, nó có/đi trước triết học, đó không phải một sự am hiểu không triết học, nhưng là một sự am hiểu tiền-triết học. […] và chỉ khi nào đặt những hình ảnh tư tưởng ra ngoài ánh sáng người ta mới có thể xác định được những điều kiện của triết học.”[17]

   Trong bài Tựa cho bản Anh văn quyển Difference & Repetition Deleuze khuyên người đọc cần đọc chương The Image of Thought như dẫn nhập vào những tác phẩm sau này của Deleuze. “Sau hết, trong quyển sách này đối với tôi dường như những sức mạnh của sự khác biệt và sự lập lại chỉ có thể nắm bắt bằng cách đặt hình ảnh tư tưởng truyền thống thành vấn đề.”[18] Thế nhưng những tác giả viết về Deleuze bằng tiếng Anh lại phớt lờ lời khuyên này. Phải chăng vì chương sách này quá khó, quá chuyên môn triết?

   Đem hình ảnh tư tưởng ra ánh sáng: Hình ảnh Tư tưởng luôn được coi là một vấn đề tế vi bởi vì khởi đầu có nghĩa loại bỏ tất cả những thứ được giả định từ trước (présupposés, presuppositions). Trong khi nơi khoa học những tiền giả định là khách quan (objectifs) và có thể được loại bỏ bằng một tiền đề nghiêm xác (axiomatique rigoureuse) thì trong triết học có cả giả định khách quan lẫn chủ quan. Giả định chỉ được coi là khách quan khi là những khái niệm (concepts) được đặt ra một cách minh bạch trên một khái niệm có sẵn. Deleuze khái lược ba thí dụ trong lịch sử triết học về tiền giả định vừa có tính cách khách quan lẫn chủ quan và sau đó đưa ra phê phán: Trước hết là Descartes lấy cái tôi tư duy (le Cogito) làm khái niệm khởi đầu nhằm tránh tất cả những tiền giả định khách quan ngăn cản những thể thức (procédés) do loại hạng (genre) và sự khác biệt tác hành. Nhưng rõ ràng khi làm như vậy cái tôi tư duy Descartes đề nghị cũng không thể tránh khỏi những tiền giả định thuộc một thể loại khác chủ quan hay ngầm chứa (implicite), nghĩa là chúng nằm trong một cảm nghĩ (sentiment) thay vì trong một khái niệm. Nói cách khác Descartes đã giả định rằng ai cũng biết cái tôi, tư tưởng, hiện hữu là gì mà không cần đặt trên một khái niệm nào. Như vậy cái tôi thuần túy của Tôi tư duy chỉ có vẻ ngoài là sự khởi đầu vì nó đã qui chiếu tất cả những cái nó giả thiết về cái tôi kinh nghiệm (le moi empirique). Kế đến là Hegel, sau khi đã phê phán Descartes, lại cũng  mắc lỗi lầm tương tự khi khởi đầu bằng hữu thuần túy (être pur). Tuy nhiên hữu thuần túy lại chỉ là một khởi đầu khi nó qui chiếu tất cả những cái nó giả định trước vào hữu kinh nghiệm, cảm nhận và cụ thể (être empirique, sensible, concret) một cách cưỡng ép. Tóm lại, cả Descartes lẫn Hegel tuy từ chối những tiền giả định khách quan nhưng lại chấp nhận những tiền giả định chủ quan dù dưới hình thức này hay hình thức khác. Điều này cũng thấy ở Heidegger khi viện dẫn sự am hiểu tiền-hữu-thể-luận (compréhension préontologique) của Hữu làm hình ảnh tư tưởng. Thế nên ta có thể rút ra từ đó kết luận rằng không có khởi đầu triết học thật sự, hay đúng ra sự khởi đầu thật sự trong triết học là sự Khác biệt, trong khi chính Khác biệt đã là sự Lập lại.[19]  Nhưng công thức này cũng như việc cho rằng triết học như một Vòng tròn là chủ đề của nhiều diễn giải khác nhau. Vấn đề đặt ra ở đây phải chăng triết học khi đi tìm cái ở cuối đường hóa ra lại tìm thấy cái đã đặt ra ở đầu đường, và phải chăng đó là vấn đề phải nhận ra và đưa ra ánh sáng, đưa ra một cách minh bạch hay đưa vào khái niệm cái chỉ được biết đến mà không cần khái niệm, và theo một cách thế ngầm. Dù cho sự phức tạp của việc đưa ra ánh sáng, dù cho những những khác biệt trong cách làm của từng triết gia có thế nào đi nữa thì sự kiện vẫn cứ là tất cả điều này đều quá đơn giản và cái vòng tròn này chưa hành hạ đủ. “Hình ảnh cái vòng tròn thật ra cho thấy triết học bất lực trong việc thực sự bắt dầu, hay thực sự lập lại một cách xác thực.”[20]  

    Dạng thức chung của tiền giả định là nhận xét “mọi người đều biết rằng...” (tout le monde sait...). Mọi người đều biết, trước cả khái niệm và theo một cách thế tiền triết học, rằng ai cũng biết tư duy và hữu nghĩa là gì, như thể khi Descartes nói “Tôi tư duy, tôi hiện hữu” Descates đã ngầm giả định đó là một điều phổ quát của những tiền đề về hữu và về tư duy có nghĩa là gì, và không ai có thể phủ nhận rằng nghi ngờ (douter) là tư duy và tư duy là hữu. Ai cũng biết, không ai có thể phủ nhận là hình thức của hình dung/tưởng (représentation) và là ngôn từ của kẻ dung tưởng (représentant). Có thể coi triết gia là vô tư khi đi từ tiền giả định được mọi người nhìn nhận đơn giản như tư duy là gì, hữu và cái tôi nói chung là hình thức của hình dung/tượng hay của sự nhận biết (recognition) nói chung. Hình thức tổng quát của hình dung/tượng nằm trong yếu tố cho rằng ý nghĩ/kiến chung (sens commun) có bản chất ngay thẳng và thiện chí. Thế nên tiền giả định ngầm chứa của triết học ý nghĩ chung như tư duy tự nhiên phổ quát/cogitatio natura universalis triết học có thể lấy làm khởi điểm. Deleuze chỉ ra: “Những giả thiết trong triết học không phải là những mệnh đề triết gia đòi hỏi người ta đồng ý với ông ta, nhưng trái lại là những chủ đề của những mệnh đề nằm ngầm chứa. Theo nghĩa đó, tư tưởng ý niệm lấy một giả định ngầm làm một Hình ảnh của tư tưởng, tiền triết học và tự nhiên, vay mượn từ yếu tố kinh nghiệm.”[21] Chúng ta không cần phải đưa ra thêm những tuyên bố của các triết gia khác nữa từ “theo bản chất ai cũng lòng ham muốn hiểu biết” cho đến “lương năng là cái được chia đều hơn hết ở trên đời” để kiểm chứng sự hiện hữu của cái được giả định. Giá trị của câu nói này không do những mệnh đề minh bạch nó được dẫn khởi, mà ở chỗ các triết gia bảo lưu nó nhưng lại che dấu nó. Nói cách khác tư tưởng triết học theo ý niệm (la pensée conceptuelle) đã ngầm giả định một Hình ảnh Tư tưởng tiền triết học và tự nhiên, hình ảnh này vay mượn từ yếu tố thuần túy của ý nghĩ chung. Theo hình ảnh này, tư tưởng là gắn kết với cái đúng, sở hữu cái đúng một cách hình thức và thực sự muốn có cái đúng.”[22] Deleuze gọi Hình ảnh Tư tưởng này là hình ảnh võ đoán, giáo điều (image dogmatique), một thứ hình ảnh luân lý (image morale). Tuy hình ảnh này có những biến thái nhưng cách những triết gia cả duy lý lẫn duy nghiệm dựng nó lên lại khác nhau. Thế nên không cần phải nói tới hình ảnh tư tưởng khác nhau tùy theo các triết gia nhưng chỉ cần xét tới một hình ảnh tư tưởng nói chung, hình ảnh này tạo thành cái giả định chủ quan trong toàn bộ triết học. Nietszche đã chỉ ra tất cả những giả định tổng quát nhất của triết học thiết yếu phải là luân lý bởi chỉ có Luân lý (la Morale) là có thể thuyết phục chúng ta rằng tư tưởng có bản chất tốt và nhà tư tưởng có thiện chí, và chỉ có Thiện là có khả năng tạo được sự gắn kết được giả định của tư tưởng với chân lý. Chính từ nhận định này của Nietszche chúng ta có thể nhận rõ hơn những điều kiện của một triết học không có những giả định: thay vì dựa trên hình ảnh luân lý của tư tưởng, triết học nay lấy khởi điểm trong việc phê bình triệt để Hình ảnh cũng như những “giả thiết” (postulats) nó ngầm chứa. Triết học này tìm được sự lập lại chính thực trong tư tưởng không hình ảnh, dù phải liên minh với nghịch lý (paradoxe) và từ chối hình thức của dung tưởng cũng như yếu tố ý nghĩ chung. Deleuze khằng định: “Như thể tư tưởng chỉ thể bắt đầu tư tưởng, và luôn luôn bắt đầu lại khi nào đã thoát ra khỏi Hình ảnh và những giả thiết.”[23]

   Thực hiện việc phê bình triệt để những giả thiết ngầm chứa trong hình ảnh tư tưởng trong triết học cổ điển: Trước hết là quan niệm của Descartes. Trên thực tế (en fait) tư duy/tưởng không phải là một hành vi tự nhiên của một khả năng có bản chất tốt đẹp và có thiện chí, hơn nữa “ai cũng biết rằng” hiếm khi con người tư tưởng nếu không bị sốc. Cho nên Deleuze cho rằng câu nói nổi tiếng của Descartes “lương năng (le bon sens) là cái trên đời được chia đều cho mọi người” chỉ là câu nói dựa trên một câu nói đùa cổ xưa nhằm nhắc nhở chúng ta rằng người đời luôn than phiền về việc thiếu ký ức, thiếu trí tưởng tượng hay ngay cả thiếu giác thính, trong khi trí thông minh và tư tưởng lại được chia đều. “Nhưng cái làm cho Descartes là triết gia chính vì ông ta dùng câu nói đùa này để dựng lên một hình ảnh tư tưởng như thể đúng trên nguyên tắc (en droit): cái bản chất tốt lành và sự gần gũi với sự thật trên nguyên tắc đều thuộc về tư tưởng, dù cho có sự khó khăn trong việc diễn dịch nguyên tắc này trong những sự kiện, hay khám phá nó bên ngoài những sự kiện.”[24] Như vậy Descartes đã coi lương năng hay ý nghĩ chung như sự xác định tư tưởng thuần túy. Lương năng có khả năng phán xét chính tính chất phổ quát của nó cũng như tự giả định trên nguyên tắc nó là phổ quát và có thể thông giao. Nhưng để áp đặt, khám phá ra nó tức để cho tinh thần phú bẩm áp dụng được nguyên tắc này nó cần một phương pháp minh bạch. Song le điều không thể nghi ngờ được là trên thực tế việc tư duy/tưởng là rất khó khăn. Vậy mà trong quan niệm của Descartes điều khó khăn nhất trên nguyên tắc lại hóa ra là dễ dàng nhất. Và đó cũng là điều cho thấy lập ra phương pháp đứng trên quan điểm bản chất tư tưởng là dễ dàng. Deleuze cho rằng chính khái niệm về sự dễ dàng này là nọc độc phá hoại toàn bộ học thuyết Descartes. “Khi triết học tìm giả định của nó trong một Hình ảnh Tư tưởng tự coi như có giá trị trên nguyên tắc, vì thế chúng ta chẳng thể hài lòng đặt nó đối lập với những sự kiện trái ngược nữa. Phải đưa cuộc thảo luận lên chính bình diện nguyên tắc và tìm hiểu xem hình ảnh này có phản bội chính yếu tính của tư tưởng như tư tưởng thuần túy hay không. Trong chừng mực trên nguyên tắc nó có giá trị, hình ảnh này giả thiết một có sự phân bổ cái kinh nghiệm và cái siêu nghiệm nào đó; và chính sự phân bổ này phải được phán xét, nghĩa là xem xét kiểu mẫu siêu nghiệm này có hàm chứa trong hình ảnh không.”[25]

   Liên hệ tới kiểu mẫu siêu nghiệm nói trên Deleuze đưa ra diễn giải kiểu mẫu siêu nghiệm của sự nhận biết (modèle de la récognition) – một kiểu mẫu siêu nghiệm (modèle transcendental) – vì nhận biết thiết yếu bao gồm trong hình ảnh tư tưởng. Trong triết học Platon, Descartes, Kant nhận biết là vị hoàng đế “hướng dẫn” diễn giải tư tưởng có nghĩa là gì. Nhận biết có thể định nghĩa là sự thao dượt hòa điệu tất cả mọi khả năng trên một đối tượng được coi là chính nó đã được nhìn thấy, sờ thấy, nhớ tới, tưởng tượng, quan nhận…Dĩ nhiên mỗi khả năng đều có những dữ kiện riêng biệt (donnés particulières) của nó như cái cảm giác được, nhớ lại được, nhận thức được…theo cách riêng, những hành vi của sự đồng nhất riêng của khả năng khi rà soát dữ kiện. Song một đối tượng được nhận biết khi một khả năng nhắm đến đối tượng này như đồng nhất với một đối tượng khác hay khi mọi khả năng trong toàn bộ đều qui hợp dữ kiện của chính chúng về một hình thức của sự đồng nhất của đối tượng. Do đó đồng thời sự nhận biết lại dựa trên một nguyên tắc chủ quan của sự hợp tác của các khả năng ở “tất cả mọi người,” nghĩa là coi ý kiến chung như Concordia facultatum, và với triết gia cái hình thức của sự đồng nhất trong những đối tượng mà nó tuyên nhận này lại đặt cơ sở trong tính đơn nhất của một chủ thể tư duy, đối với chủ thể tư duy này tất cả mọi khả năng khác đều phải là những kiểu mẫu. “Đó là ý nghĩa của cái Tôi tư duy được coi như sự khởi đầu: nó biểu tỏ tính đồng nhất của mọi khả năng trong chủ thể, do đó nó biểu lộ khả tính cho tất cả những khả năng sẽ kết hợp với một hình thức đối tượng phản ánh sự đồng nhất chủ quan, nó cho cái được giả định của ý kiến chung một khái niệm triết học, nó là ý kiến chung trở thành có tính triết học.”[26] Deleuze cho rằng trong triết học của Descartes cũng như triết học của Kant chính nhất tính của cái Tôi (l’identité du moi) trong cái Tôi tư tưởng/duy được dùng làm nền tảng cho sự hòa hợp của mọi khả năng, và hình thức của một đối tượng được giả thiết là cái Một (le Même). Thế nhưng người ta nêu ra phản biện rằng chúng ta chẳng bao giờ đứng trước một đối tượng hình thức, phổ quát cả mà luôn luôn đứng trước một đối tượng nào đó cụ thể. Chính vì phản bác này Deleuze cho rằng cần phân biệt một cách chính xác ý nghĩ chung (sens commun) với lương năng (bon sens). Nếu như ý nghĩ chung là tiêu chuẩn của nhất tính thì lương năng lại có tiêu chuẩn là sự chia phần (partage). Lương năng xác định sự đóng góp của những khả năng trong khi ý nghĩ chung cho ta cái hình thức của Cùng Một (le Même). “Và nếu như một đối tượng nào đó chỉ hiện hữu như một phẩm tính, thì ngược lại việc định phẩm tính chỉ tác hoạt khi giả thiết có một đối tượng nào đó.”[27]  Như vậy ý nghĩ chung và lương năng tất yếu bổ túc nhau trong hình ảnh tư tưởng, mỗi cái góp phần mình tạo thành ý kiến, tin tưởng chung (doxa). Tóm lại, ta nhận thấy có sự hấp tấp, vội vã của chính ba giả thiết: hình ảnh một tư tưởng đúng đắn một cách tự nhiên, biết tư tưởng nghĩa là gì (vì nó không phải là một trong những khả năng như những khả năng khác, nhưng nó gắn liền với một chủ thể, là sự đồng nhất của mọi mọi khả năng khác, và nó hướng về hình thức của cái Cùng Một trong kiểu mẫu của sự nhận biết); yếu tố thuần túy của ý nghĩ chung “có quyền” đi theo hình ảnh này, và kiểu mẫu nhận biết vốn dĩ đã là hình thức của hình dung cũng từ đó mà ra. Thế nhưng ba yếu tố này chỉ thể tạo nên một lý tưởng của sự chính thống (idéal de l’orthodoxie) và triết học không có phương cách nào để thực hiện dự án để thoát khỏi cái doxa này. Tất nhiên triết học từ chối mọi doxa riêng biệt, không bảo lưu một mệnh đề riêng biệt về ý nghĩa chung và về lương năng. Nhưng triết học vẫn giữ lại từ doxa cái hình thức thiết yếu, cái yếu tố, và sự nhận biết kiểu mẫu của nó. Theo Deleuze, hình ảnh tư tưởng chỉ là một hình dạng (figure) dưới đó người ta phổ quát hóa doxa bằng cách nâng nó lên tầm mức lý tính (rationnel), nhưng người ta vẫn cứ là tù nhân của doxa khi chỉ rút bỏ nội dung kinh nghiệm của nó trong khi vẫn giữ lại việc dùng những khả năng tương ứng với nó, và thầm giữ lại khía cạnh thiết yếu của nội dung.

______________________________________________

[16] Bài này được dịch sang Anh văn trong Giles Deleuze, Desert Island trang 139: We live with a particular image of thought, that is to say, before we begin to think, we have a vague idea of what it means to think, its means and ends.

[17] Giles Deleuze, Pourparlers trang 202-203: Je suppose qu’il y a une image de la pensée qui varie beaucoup, qui a beaucoup varié dans l’histoire. Par image de pensée, je n’entend pas la méthode, mais quelque chose de plus profond, toujours présupposé, un système de coordonnées, des dynamismes, des orientations: ce que signifie penser, et “s’orienter dans la pensée.” […] L’image de la pensée est comme le présupposé de la philosophie, elle la precède, ce n’est pas une compréhension non philosophique cette fois, mais une compréhension pré-philosophique.

[18] Giles Deleuze, Difference & Repetition, bản Anh văn của Paul Patton, Preface to the English Translation trang XVI: Finally, in this book it seems to me that the powers of difference and repetition could be reached only by putting into question the traditional image of thought.

[19] Giles Deleuze, Différence et Répétition trang 169-170: On peut en tirer la conclusion qu’il n’y a de vrai commencement en philosophie, ou plutôt que le vrai commencement philosophique, c’est-à-dire la Différence, est dejà en lui-même Répétition.   

[20] Sđd trang 170: Mais cette formule, et le rappel de la philosophie comme Cercle, sont sujets à tant d’interprétations possibles qu’on ne saurait montrer trop de prudence. Car s’il s’agit de retrouver à la fin ce qui était dans le debut, s’il s’agit de reconnaître, de tirer au clair, à l’explicite ou au concept ce qui était simplement connu sans concept et de manière implicite – quelque soit la complexité du tirage, quelles que soient les différences entre les procédés de tels ou tels auteurs – c’est le cas de dire que tout cela est encore trop simple, et que ce cercle vraiment n’est pas assez tortueux. L’image du cercle temoignerait plutôt pour la philosophie d’une impuissance à commencer véritablement, mais aussi à repéter authentiquement.

[21] Sđd trang 172: Les postulats en philosophie ne sont pas des propositions dont le philosophe demande qu’on les lui accord, mais au contraire entendus sur un mode préphilosophique. En ce sens, la pensée conceptuelle philosophique a pour présupposé implicite une Image de la pensée, préphilosophique et naturelle, umpruntée à l’élément du sens commun.

[22] Sđd trang 172: D’après cette image, la pensée est en affinité avec le vrai, possède formallement le vrai et veut matériellement le vrai.

[23] Sđd trang 173: Comme si la pensée ne pouvait commencer à penser, et toujours recommencer, que liberée de l’Image et des postulats.

[24]  Sđd trang 173: Mais si Descartes est philosophe, c’est parce qu’il se sert de cette plaisanterie pour ériger une image de la pensée telle qu’elle est en droit: la bonne nature et l’affinité avec le vrai appartiennent à la pensée en droit, quelque soit la difficulté de traduire le droit dans les faits, ou de retrouver le droit par-delà les faits.

[25] Sđd trang 174: Quand la philosophie trouve son présupposé dans une Image de la pensée qui prétend valoir en droit, nous ne pouvons pas, dès lors nous contenter de lui opposer des faits contraires. Il faut porter la discussion sur le plan même du droit, et savoir si cette image ne trahit pas l’essence même de la pensée comme pensée pure. En tant qu’elle vaut en droit, cette image présuppose une certaine répartition de l’empirique et du transcendental; et c’est cette répartition qu’il faut juger, c’est-à-dire ce modèle transcendental impliqué dans l’image.

[26] Sđd trang 174: Tel est le sens du Cogito comme commencement: il exprime l’unité de toutes les facultés dans le sujet, il exprime donc la possibilité pour toutes le facultés de se rapporter à une form d’objet qui réfléchit l’identité subjective, il donne un concept philosophique au presupposé du sens commun, il est le sens commun devenu philosophique.

[27] Sđd trang 175: Et si l’objet quelconque n’existe que comme qualifié, inversement la qualification n’opère qu’en supposant l’objet quelconque.

(còn tiếp)

đào trung đạo

­­­­­­­­­ http://www.gio-o.com/DaoTrungDao

 

2019