Chủ Đề:

CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979

 

 

Ngô Bắc dịch

 

 

Lời Người Dịch:

 

“Chiến dịch 1979, ít nhất đối với Quân Đội Giải Phóng của Nhân Dân Trung Quốc, là một sự thất bại. Trung Quốc đă phóng ra cuộc tấn công của nó trong một nỗ lực để buộc Việt Nam phải rút lui khỏi Căm Bốt. Trung Quốc đă rút lui khỏi Việt Nam hôm 16 Tháng Ba, 1979, nhưng Việt Nam đă không rời Căm Bốt măi cho đến năm 1989.” ….

 

“Cuộc chiến tranh theo học thuyết họ Mao chưa dứt, nhưng phía Trung Quốc đă học được một bài học quan trọng.”

 

Trên đây là phần kết luận chắc nịch của Edward C. ODow’d, một tác giả hàng đầu về Chiến Tranh Biên Giới Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979, chủ đề của loạt bài nghiên cứu dưới đây về biến cố quan trọng diễn ra 33 năm trước. Đối chiếu với bài học lịch sử lâu dài của đất nước, rơ ràng vấn đề sinh tử của dân tộc Việt Nam hiện nay là phải t́m mọi cách đê duy tŕ được sự độc lập và vẹn toàn lănh thố, đồng thời thoát ra khỏi sự lệ thuộc ngoại giao và quân sự đáng tủi hổ đối với Trung Quốc.

 

1.Sun Dreyer
VIỆC NÀY DẪN DẮT VIỆC KIA:
V̉NG XOÁY TRÔN ỐC SỰ VẤN ĐỀ VÀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM (1979)
One Issue Leads to Another: Issue Spirals and the Sino-Vietnamese War (1979)
.


2. Steven J. Hood,
BẮC KINH, HÀ NỘI, VÀ ĐÔNG DƯƠNG –
CÁC BƯỚC TIẾN TỚI SỰ ĐỤNG ĐỘ
(Beijing, Hanoi, and Indochina – Steps to the Clash,
trong quyển Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War, 1992.


3. Zhang Xiaoming,
ĐẶNG TIỂU B̀NH VÀ
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRUNG QUỐC
ĐI ĐÊN CHIẾN TRANH
VỚI VIỆT NAM
(Deng Xiaoping and China’s Decision to Go to War with Vietnam),
Journal of Cold War Studies, Summer 2010, vol. 12, No. 3, 3-29.


4, Nicolas Khoo,
HỒI KẾT CUỘC CỦA
MỘT T̀NH HỮU NGHỊ BẤT KHẢ HỦY DIỆT:
Sự Tái Xuất Hiện Của Sô Viết và
Sự Chấm Dứt Liên Minh Trung Quốc – Việt Nam, 1975-1979
trong quyển Collateral Damage: Sino – Soviet Rivalry and the Termination
of The Sino – Vietnamese Alliance, Columbia University Press, 2011, 103-136.

 

5. Herbert S. Yee,
CUỘC CHIẾN TRANH
BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC – VIỆT NAM:
CÁC ĐỘNG LỰC, CÁC TÍNH TOÁN VÀ
CÁC CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG
trong quyển The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives,
Calculations and Strategies, China Report (xuất bản
tại New Delhi, India), Bộ 16, số 1, 1980, các trang 15-32.

 

6. Edward C. ODow’d,
CHIẾN DỊCH NĂM 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.

 

7.  Edward C. ODow’d,
TRẬN ĐÁNH LẠNG SƠN, THÁNG HAI – THÁNG BA 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.

 

8. Harlan W. Jenks,
CUỘC CHIẾN TRANH “TRỪNG PHẠT”
CỦA TRUNG QUỐC ĐÁNH VÀO VIỆT NAM:
MỘT SỰ LƯỢNG ĐỊNH VỀ QUÂN SỰ
(“China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military
Assessment”, Asian Survey 14, no. 8 (1979): 801-815.

 

9. Chen C. King,
CUỘC CHIẾN CỦA TRUNG QUỐC
ĐÁNH VIỆT NAM:
MỘT PHÂN TÍCH QUÂN SỰ
(“China’s War Against Vietnam: A Military Analysis”),
Journal of East Asian Affairs, no. 1 (1983): 233-63.
 

 

10. John M. Peppers, ,
CHIẾN LƯỢC TRONG XUNG ĐỘT CẤP VÙNG:
MỘT TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU
ĐIỂN H̀NH VỀ TRUNG QUỐC
TRONG CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
LẦN THỨ BA NĂM 1979
(Strategy In Regional Conflict:
A Case Study of China In The Third Indochina Conflict of 1979),
U.S. Army War College, Carlisle Barracks, 2001.

 

11. Alexander Woodside
DÂN TỘC CHỦ NGHĨA VÀ
NẠN NGHÈO ĐÓI
TRONG SỰ TAN VỠ CÁC QUAN HỆ
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
Nationalism and poverty in the Breakdown
of Sino-Vie6namese Relations,
Pacific Affairs, Fall 1979,
các trang 381-409.

   

12. Dennis Duncanson

CHIẾN TRANH VIỆT NAM
CỦA TRUNG QUỐC:
CÁC Đ̉I HỎI CHIẾN LƯỢC CŨ VÀ MỚI
China’s Vietnam War:
new and old strategy imperatives,
The World Today, 35, số 6 (1979),
các trang 241-248.

 

13. James Mulvenon

CÁC GIỚI HẠN CỦA NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH:
CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Limits of Coercive Diplomacy:
The 1979 Sino-Vietnamese Border War,
Journal of Northeast Asian Studies; Fall 95,
Vol. 14 Issue 3, các trang 68-88.

 

14. Andrew Scobell

NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH NỬA VỜI:
CUỘC TẤN CÔNG NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC 
ĐÁNH VIỆT NAM
“Explaining China’s Use of Force”,
China’s Use of Military Force Beyond the Great Wall and the Long March
Cambridge, United Kingdom: Cambridge University Press, 2003
các trang 192-198.

 

15. Daniel Tretiak

CHIẾN TRANH VIỆT NAM CỦA TRUNG QUỐC
VÀ CÁC HẬU QUẢ CỦA NÓ
“China’s Vietnam War and Its Consequences,” The China Quarterly 80 (1979), các trang 740-67.

   

16. Bruce Burton

CÁC SỰ GIẢI THÍCH ĐỐI CHỌI
 VỀ CUỘC CHIẾN TRANH
 TRUNG QUỐC - VIỆT NAM NĂM 1979
“Contending explanations of the 1979 Sino – Vietnamese War”,
International Journal, Volume XXXIV, no. 4/Autumn 1979, các trang 699-722.

 

17. Ramesh Thakur

TỪ SỐNG CHUNG ĐẾN XUNG ĐỘT:
CÁC QUAN HỆ
HÀ NỘI – MẠC TƯ KHOA – BẮC KINH
VÀ CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG – VIỆT
Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War,
The Australian Outlook, Volume 34, số 1, 1980, các trang 64-74.

 

18. Todd West

TỪ SỐNG SỰ NGĂN CẤM  KHÔNG THÀNH  CÔNG
CUỘC XUNG ĐỘT TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Failed Deterrence, The 1979 Sino-Vietnamese Conflict,
Stanford University Journal of East Asian Affairs,  Vol. 6, No. 1, Winter 2006, các trang 73- 85.
 

 

19. Colonel G.D Bakshi

Cuộc Chiến Tranh Trung Quốc - Việt Nam năm 1979:
Trường Hợp Nghiên Cứu Điển H́nh
Trong Các Cuộc Chiến Tranh Hạn Chế
VSM, The Sino-Vietnam War – 1979: Case Studies in Limited Wars,
Indian Defence Review, Volume 14 (2) July – September 2000

 

20. Bruce Elleman

Các Quan Hệ Sô Viết – Trung Quốc Và Cuộc Xung Đột
Trung Quốc – Việt Nam Tháng Hai 1979
Đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium,
“After the Cold War: Reassessing Vietnam”,
được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996
tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas

 

21. Henry J. Kenny

CÁC NHẬN THỨC CỦA VIỆT NAM VỀ CUỘc CHIẾN TRANH,
1979 VỚI TRUNG QUỐC “Vietnamese Perceptions of the 1979 War with China,
Chinese Warfighting: The PLA Experience Since , đồng biên tập bởi
Mark A. Ryan, David Michael Frakelstein, Michael A. McDevitt, Chapter 10, các trang 217-241s

 

22. Xiaoming Zhang

CUỘC CHIẾN TRANH
NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC VỚI VIỆT NAM: MỘT SỰ
TÁI LƯỢNG ĐỊNH, “China’s War with Vietnam: A Reassessment”,
The China Quarterly, số 184, December 2005, các trang 851-874.

 

23. Edward C. O’Dowd & John F. Corbett, Jr.

CHIẾN DỊCH NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC
TẠI VIỆT NAM:
CÁC BÀI HỌC LĨNH HỘI ĐƯỢC
The Lessons of History: The Chinese People’s Liberation Army at 75, Carlisle, PA.:
Strategic Studies Institute, U.S. Army War College, July 2003, các trang 353-378.

 

24. Douglas E. Pike,

CỘNG SẢN ĐẤU CỌNG SẢN
TẠI ĐÔNG NAM A”
 (“Communism vs Communism in Southeast Asia), International Security, Vol. 4, No. 1 (Summer, 1979), từ trang 20.
 

 

25. Henry Kissinger,

“SỜ MÔNG CON HỔ”
CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM THỨ BA”
 Chương 13: “Touching the Tiger’s Buttocks”: The Third Vietnam War, các trang 340-375,
trong quyển On China, xuất bản bởi The Penguin Press, New York, 2011.

   

26. Jimmy Carter,

GHI NHỚ VỀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
NĂM 1979
cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, trích dịch từ các hồi kư Keeping Faith, Memoirs Of A President,
A Bantam Book: New York, November 1982, các trang 194-211, và White House Diary, New York: Farrar, Straus and Giroux, 2010,
các trang 281-296, và rải rác, cùng các phụ lục trích dịch phần ghi nhớ về Chiến Tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979 của:
Phụ Lục 1: Cyrus Vance, cố Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Hard Choices, Critical Years In America’s Foreign Policy, New York: Simon and Schuster, 1983, các trang 120-127.
Phụ Lục 2: Zbigniew Brzezinski, cựu Cố Vấn Tổng Thống Hoa Kỳ về An Ninh Quốc Gia, Power and Principle, Memoirs of the National Security Adviser, 1977-1981, New York: Farrar, Straus and Giroux, 1983, các trang 404-414.
Phụ Lục 3: Anatoly Dobrynin, cựu Đại Sứ Liên Sô tại Hoa Kỳ, In Confidence, Moscow’s Ambassador to America’s Six Cold War Presidents, New York: Times books, a division of Random House, Inc., 1995, các trang 418-19.

 

 

Ramesh Thakur

University of Otago

 

TỪ SỐNG CHUNG ĐẾN XUNG ĐỘT:

CÁC QUAN HỆ

HÀ NỘI – MẠC TƯ KHOA – BẮC KINH

VÀ CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG – VIỆT

 

Ngô Bắc dịch

 

       Có thể phân biệt ít nhất ba quan điểm bao quát từ đó cuộc chiến tranh năm 1979 giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể được phân tích.  Một là cái nh́n của một nhà chuyên môn trong lănh vực các quan hệ Trung – Việt, Đông Dương, hay c̣n rộng lớn hơn, Đông Nam Á.  Một cách khác trong việc khảo cứu cuộc chiến sẽ đặt nó dưới sự thẩm tra như một cuộc mạo hiểm quan trọng trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc.  Khảo hướng thứ ba, được chấp nhận trong bài viết này, là nh́n cuộc chiến tranh từ quan điểm của một người nghiên cứu chính trị quốc tế.

       Hơn nữa, có thể hữu dụng để nhận thức cuộc xung đột Trung – Việt về việc liệu có một nước nào trong hai nước nổi bật lên, nếu phủ chùm lên các tam giác: một tam giác cấp vùng bao gồm Kampuchea, Việt Nam và Trung Quốc, và một tam giác liên lục địa bao gồm Việt Nam, Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết.  Phạm vi phân tích nghiên cứu của tôi là thuộc tam giác kể sau, và lập luận của tôi rằng cuộc chiến tranh Trung – Việt trong năm 1979 đă là một đỉnh điểm, chứ không phải một sự phủ định, các sắc thái biến thiên trong các quan hệ đại cường kể từ Thế Chiến II.  Xa hơn, chúng ta có thể ước định số phận trong trường kỳ của một Việt Nam theo xă hội chủ nghĩa sẽ được xác định nhiều bởi trận đấu của các quan hệ giữa Hà Nội, Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh hơn sự thù nghịch hay ḷng nhân từ của Hoa Thịnh Đốn.  Dĩ nhiên, điều này không hàm ư rằng nước kể sau cùng không có tầm quan trọng.  Nhưng sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Việt Nam là một sự hiện diện có tính cách tạm thời, một sự xâm nhập của trục Chiến Tranh Lạnh có bóng dáng bị che khuất khỏi tầm nh́n, song không phân biệt được các sự tranh giành trong phe xă hội chủ nghĩa.  Điều có thể quan trọng trong sự nối kết này rằng trong cuộc chiến tranh năm 1979, trong khi Việt Nam, Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết thao diễn các động tác phức tạp của chúng, vai tṛ của Mỹ được giảm xuống thành một vai tṛ né tránh bên lề. 1 Sự can thiệp quan sự của Mỹ tại Việt Nam đă bảo đảm một sự chung sống thích nghi giữa ba chế độ xă hội chủ nghĩa; sự rút lui của Mỹ ra khỏi sự tham dự tích cực vào các sự vụ trong vùng đă bảo đảm rằng các sự xung đột âm ỷ từ lâu sẽ bùng cháy lên.

T̀NH TRẠNG SỐNG CHUNG CHO ĐẾN NĂM 1978

       Các quan hệ lịch sử Trung – Việt và cuộc tranh giành giữa các ảnh hưởng ấn độ hóa và hán hóa tại Đông Dương đủ nổi tiếng để không cần nhắc lại.  Tuy nhiên, có một khía cạnh xứng đáng đề cập tới v́ mục đích của bài viết này, tức, tính nhị nguyên hay lưỡng diện (duality) trong các quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc.  Một mặt, ngay dù Việt Nam đă bị khuất phục trước sự thống trị của Trung Quốc và sự hán hóa mănh liệt trong các thời khoảng lâu dài trong lịch sử của họ, và văn hóa của họ vay mượn rất nhiều từ Trung Quốc, văn hóa Việt Nam vẫn c̣n bảo tồn một căn cước riêng biệt, và người dân Việt Nam đă dựng lên một sự kháng cự mănh liệt và phần lớn thành công, chống lại sự không chế và sáp nhập bởi phía Trung Quốc.  Mặt khác, bản thân Việt Nam đă từng là một tác nhân tích cực của sự hán hóa tại Đông Dương, trong nhiều dịp với sự trợ lực của Trung Hoa.  Thí dụ, trong thế kỷ thứ ba, Việt Nam đă can dự vào cả một loạt các cuộc nổi dậy chống lại Trung Hoa lẫn các bước khởi đầu cho sự xung đột với người Chàm.  Sự phức tạp đă phát sinh từ sự kiện rằng sự trợ giúp của Trung Hoa th́ cần thiết để đẩy lui người Chàm.  Điều này có tầm quan hệ “mang tính chất ẩn dụ” cho chúng ta: trong thời đại của chính chúng ta, Bắc Việt Nam đă phải đề kháng việc đánh mất căn cước chính trị của họ đối với phía Trung Quốc ngay dù trong khi nhất thiết phải cần đến sự giúp đỡ của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh chống lại người Mỹ.  Một khi người Mỹ rút đi, các quan hệ đối nghịch của Hà Nội với Bắc Kinh có thể được ước định lại trổi bật lên.

       Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH) được tuyên cáo bởi Hồ Chí Minh hôm 2 Tháng Chín 1945, với Hà Nội là thủ đô.  Vào cuối năm 1946, Việt Minh tham dự vào một cuộc chiến tranh với Pháp đă diễn ra ác liệt cho đến năm 1954.  Trong thời khoảng ở giữa, sự thành lập Công Ḥa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ) trong năm 1949 đă thay đổi tính chất các quan hệ của VNDCCH không chỉ với Trung Quốc mà c̣n với LBSV.  Hồ Chí Minh đă mau mắn công nhận chế độ mới tại Bắc Kinh.  Trung Quốc đổi lại đă loan báo sự thừa nhận VNDCCH vào ngày 18 Tháng Một 1950.  Có lẽ trùng hợp, LBSV đă theo sau vào ngày 30 Tháng Một.  Tuy nhiên, đă không có sự đồng nhất trong các quan điểm tại ba thủ đô xă hội chủ nghĩa.  Chính v́ thế, ngay trong các Hiệp Định Geneva năm 1954, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐNDVN) đă bị áp lực bởi các đồng chí của nó để chấp thuận các nhượng bộ trên hai vấn đề chủ yếu. 2 Về địa điểm của lằn ranh đ́nh chiến có hiệu lực phân chia “tạm thời” Việt Nam, Phạm Văn Đồng đă bị thuyết phục bởi Chu Ân Lai để lùi dần về phía bắc hai vĩ tuyến cho đến vĩ tuyến thứ mười sáu, và bởi Molotov để di chuyển một lần nữa hầu giải quyết vấn đề tại vĩ tuyến thứ mười bẩy.  Về vấn đề các cuộc tuyển cử, cũng thế, Molotov đă bác bỏ sự khẳng quyết của QĐNDVN rằng một sự tŕ hoăn lâu hơn sáu tháng th́ không thể chấp nhận được, và đă đạt tới sự thỏa thuận với khối Tây để tổ chức các cuộc tuyển cử hai năm sau cuộc hội nghị.  Về một vấn đề lân bang, họ Chu đă đi xa đến mức thông báo cho ông Anthony Eden [ngoại trưởng Anh, đồng chủ tịch Hội Nghị Geneva năm 1954 về Đông Dương, chú của người dịch] rằng QĐNDVN có thể đựoc thuyết phục để triệt thoái khỏi Lào và Căm Bốt, và rằng Trung Quốc sẽ chuẩn bị để thừa nhận các chính phủ hoàng gia của hai nước này.  Đổi lại, ông ta muốn có các sự cam đoan rằng các căn cứ của Mỹ sẽ không được phép hiện diện tại các lănh thổ này.

       Như chúng ta hoàn toàn biết rất rơ, Nam Việt Nam với sự hậu thuẫn của Mỹ đă từ chối không xem bản thân ḿnh bị ràng buộc bởi các hiệp ước mà người Pháp đă kư kết bất chấp các sự phản đối của họ, và hậu quả là các điều khoản về tuyển cử đă không được thi hành.  Các viễn ảnh về các cuộc tuyển cử mất hút, Hà Nội trở nên lệ thuộc vào Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh cho sự thu đoạt mục đích hằng ấp ủ của nó, bởi chỉ có chính trị toàn cầu mới có thể tạo ra các t́nh huống cho sự tái thống nhất Việt Nam dưới xă hội chủ nghĩa.  Tuy nhiên, Liên Bang Sô Viết và Trung Quốc không phải lúc nào cũng thỏa thuận trên các vấn đề liên hệ đến Việt Nam.  Phái đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế (UHKSQT), thí dụ, đă nhận thấy ḿnh bị mắc kẹt giữa các luồng sóng nghịch chiều của các áp lực phân hóa từ các đồng minh của nó, Việt Nam, Trung Quốc, và Liên Bang Sô Viết, trên nhiều vấn đề. 3 Các sự khác biệt tăng nhanh với sự rạn nứt Nga-Hoa trong thập niên sáu mươi [1960].  Luôn luôn có một thành phần tại Hoa Kỳ lập luận rằng họ Hồ có thể là một Tito ở Phương Đông, với giả thiết rằng người Mỹ đă chơi đúng ván bài của họ.  Hệ luận của quan điểm này là sự lượng định đă được đưa ra vào lúc mà VNDCCH lo sợ một sự đổ vỡ trong thế giới cộng sản sẽ ném nó hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc.  Chế độ Hà Nội đă không được xem là đủ mạnh để lèo lái cuộc tranh chấp theo các mục đích của chính nó theo mô h́nh Rumania. 4

       Hà Nội đă nghiêng về phía Bắc Kinh vào năm 1963 trong việc kết án Mạc Tư Khoa về hiệp ước hạn chế thử nghiệm hạt nhân, nhưng chỉ với sự rất dè dặt.  Môi trường ngoại giao của họ đă bị biến đổi một cách nền tảng đối với phía Việt Nam trước các biến cố tại Vịnh Bắc Việt hồi năm 1964 và sự đổ bộ ồ ạt của các binh sĩ chiến đấu Mỹ.  Trong Tháng Một năm 1965, họ Mao có thông báo cho Edgar Snow [một kư giả người Mỹ, chú của người dịch] rằng Trung Quốc sẽ không đi đến chiến tranh với Hoa Kỳ trừ khi bị tấn công trực tiếp. 5  Tuy nhiên, với các vụ không kích dội bom vào Bắc Việt trong tháng kế đó, Bắc Kinh quan tâm nhiều hơn đến hai điểm.  Trước tiên, có sự lo ngại rằng áp lực của Mỹ sẽ đẩy Hà Nội hướng đến Mạc Tư Khoa.  Trong thực tế, các nhà lănh đạo VNDCCH đă bắt đầu thận trọng hơn trong các lời loan báo của họ về cuộc tranh chấp giữa Bắc Kinh – Mạc Tư Khoa, và Kossygin đă đến thăm Hà Nội.  Đă có sự đ́nh chỉ cùng lúc các cuộc khẩu chiến của VNDCCH về “chủ nghĩa xét lại hiện đại” và một lời hứa hẹn viện trợ kinh tế và quân sự từ LBSV. 

       Sự lo âu quan trọng hơn là câu hỏi về các mục tiêu của Hoa Kỳ, đặc biệt khi xét đến sự gia tăng liên tục quân số của họ tại Việt Nam trong năm 1966 và 1967.  Bản thân Hoa Thịnh Đốn đă hay biết rất rơ về khía cạnh này trong việc đẩy cuộc chiến tranh trên không ra ngoài Bắc.  Tổng Thống Johnson có thông báo cho Thủ Tướng Pearson của Gia Nă Đại trong năm 1965 rằng ông đă loại bỏ một số mục tiêu quân sự ra khỏi danh sách ném bom bởi v́ chúng quá gần biên giới Trung Quốc.  Pearson cảm thấy tái bảo đảm 6; nhưng phía Trung Quốc, không được hay biết một cách riêng tư tin tức này, đă không thể chia sẻ sự an tâm của ông.  Họ đă phải cứu xét đến khả tính của một cuộc tấn công của Mỹ đặt căn cứ ở Việt Nam, và trù hoạch các chiến lược để đói phó với một t́nh trạng khẩn cấp như thế.  Tuy nhiên, vấn đề một chiến lược thích đáng cho Việt Nam bị đụng chạm với các sự lựa chọn về giới lănh đạo nội bộ, các chiều hướng xă hội và các quan hệ với LBSV.  Các giới cao cấp hơn trong tầng lớp lănh đạo ở Bắc Kinh đă tranh luận một cách dữ dội chiến lược thích hợp cho việc ủng hộ Hà Nội một mặt, không khiêu khích Hoa Thịnh Đốn, và mặt kia, trở nên lệ thuộc vào Mạc Tư Khoa.  Bởi v́ một sự tham gia tích cực hơn vào sự pḥng thủ của VNDCCH sẽ tăng cường vị thế của quân đội chuyên nghiệp và đ̣i hỏi một sự ḥa giải với LBSV.  Các sự cứu xét này giúp giải thích cho sự khước từ của Bắc Kinh về đề nghị quyến rũ cho hành động thống nhất tại Việt Nam mà Liên Bang Sô Viết đưa ra hôm 17 Tháng Tư 1965.  Cùng lúc, Bắc Kinh đă cấn trọng để tỏ dấu hiệu cho sự quyết tâm của nó để cứu nguy Hà Nội một khi nhu cầu phát sinh, bằng việc phái sang VNDCCH một số lượng nhân viên quân sự Trung Quốc đông đảo dưới h́nh thức các đơn vị công binh và xây dụng.  Tuy thế điều vẫn c̣n được ghi nhận rằng ngay từ 1965, sự tranh giành với LBSV đă ảnh hưởng một cách lớn lao các quyết định then chốt của Trung Quốc về Việt Nam. 7

       Tác động của sự tranh giành Nga – Hoa trên các quan hệ Hoa – Việt đă gia tăng trong suốt Cuộc Cách Mạng Văn Hóa.  Thí dụ, các phần tử Vệ Binh Đỏ đă ảnh hưởng đến các biến cố ở Việt Nam xuyên qua các phương cách chẳng hạn như chặn đường xe hỏa chuyên chở đạn dược từ thành tŕ của chủ nghĩa xét lại.  Vào lúc đó, v́ cần sự ủng hộ của cả hai nước cộng sản, Việt Nam đă giữ sự b́nh lặng của họ.  Ngày nay, cuộc đấu khẩu mà Trung Quốc và Việt Nam tham gia đă làm dễ dàng hơn cho mỗi bên để tiết lộ các sự vận động chính trị trong quá khứ của bên kia. 8 Hoàng Tùng, chủ biên của tờ báo đảng hàng ngày, Nhân Dân, chấm định năm 1966 như thời điểm khởi đầu cho sự suy đồi của xă hội chủ nghĩa tại Trung Quốc.  Kể từ đó trở đi, Trung Quốc bị cáo giác đă nghiêng về một chính sach ngoại giao phi cộng sản.  Trung Quốc đă phải viện trợ và ủng hộ Việt Nam từ 1966 đến 1973 bởi v́ nền an ninh của chính họ sẽ bị đe dọa trực tiếp nếu Hoa Kỳ nắm quyền kiểm soát trên toàn thể Việt Nam.  Lưu tâm đến việc thiết lập một khối cộng sản Á Châu, phía Trung Quốc bị cáo giác đă mưu toan ràng buộc viện trợ của họ với một liên minh chặt chẽ hơn giữa hai nước.  Sự tiến tại gần nhau giữa Trung Quốc – Mỹ khởi sự trong 1971-72 đă loại bỏ yếu tố quyết đoán nhất trong viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam: các nhà lănh đạo ở Hà Nội đă giải thích bản thông cáo chung Thượng Hải có nghĩa là một sự trao đổi Đài Loan lấy một Đông Dương ḥa b́nh kiểu Mỹ [pax Americana, tiếng la tinh trong nguyên bản, chú của người dịch].   

       Một sự ghi nhận về sự thận trọng th́ thích hợp ở điểm này.  Tầm quan trọng của sự ủng hộ cho Hà Nội biến đổi ở cả Mạc Tư Khoa lẫn Bắc Kinh qua ḍng thời gian, nhưng cả hai đă cung cấp sự giúp đỡ thường xuyên – bằng miệng và cụ thể -- suốt trong cuộc chiến tranh chống lại Hoa Kỳ.  Liên Bang Sô Viết đă tập trung vào trang thiết bị nặng, tinh vi, phần bổ túc của Trung Quốc là thực phẩm và vũ khí nhẹ.  Trị giá tiền tệ của viện trợ Sô Viết theo đó lớn hơn: khi người Mỹ đă rút lui, LBSV tuyên bố  khoản phân chia đến 70% trong tổng số ngoại viện đă được cung cấp cho Bắc Việt.

       Bất kể tính thường trực của sự ủng hộ, đă có các sự mơ hồ trong các lập trường của Sô Viết và Trung Quốc.  Các sự dè dặt của Mạc Tư Khoa phát khởi từ sự kiện rằng nó đă không thể được bảo đảm về một sự kiểm soát hoàn toàn trên Hà Nội.  Thí dụ, trong năm 1971, các đồ tiếp liệu quân sự của Sô Viết cho VNDCCH đă gia tăng một cách đáng kể, được giả định để dự liệu cho một cuộc công kích.  Có lẽ LBSV đă hy vọng rằng các nhà lănh đạo Hà Nội sẽ phóng ra một cuộc tấn công hợp thời để làm bối rối cho các chủ nhân tổ chức phiên họp trong Tháng Hai 1972 giữa [Tổng Thống] Nixon và các nhà lănh đạo Trung Quốc tại Bắc Kinh.  Thay vào đó, cuộc tấn công đă xảy ra hôm 30 Tháng Ba 1972, chỉ vài tuần trước khi có cuộc thăm viếng của Nixon tại Mạc Tư Khoa – cuộc thăm viếng đầu tiên Liên Bang Sô Viết bởi một Tổng Thống Mỹ.  Michel Tatu, một phóng viên lâu năm tại Mạc Tư Khoa của tờ Le Monde viết là có “bằng chứng áp đảo để xác nhận lời tuyên bố rằng các nhà lănh đạo Sô Viết đă không được thông báo,  chứ đừng nói đến việc được tham khảo, trước về cuộc tấn công ồ ạt của Bắc Việt”. 9 LBSV cũng không xuất hiện với uy tín được nâng cao khi bị buộc vào một chính sách dửng dưng có tính toán, đáp lại phản ứng dữ dội của Nixon trước cuộc tấn công của VNDCCH.  (Một sự biểu dương lực lượng của hải quân Sô Viết tại Biển Nam Hải đă không tạo ấn tượng ǵ.) Một sự dè dặt thứ nh́ của Sô Viết hẳn phải phát khởi từ một điểm liên hệ chặt chẽ: mục đích tại thống nhất của Hà Nội không đáng là một cuộc chiến tranh trung tâm.  Cộng đồng xă hội chủ nghĩa đă phải được pḥng thủ, nếu cần thiết bằng vũ lực, nhưng chiến tranh sẽ được né tránh nhằm việc mở rộng quản hạt lănh thổ cộng sản: sự chung sống ḥa b́nh th́ an toàn hơn.  Các sự quyến rũ của Sô Viết nằm ở việc nhấn mạnh các điểm tuyên truyền chống lại kẻ thách đố chủ nghĩa cộng sản trong khi làm suy yếu nghiêm trọng đối thủ toàn cầu của nó.

       Sự ủng hộ cho Bắc Việt xảy ra một cách tự nhiên hơn đối với Trung Quốc: đó là một cuộc xung đột ở Á Châu tại các biên giới của Trung Quốc với các sự liên kết lịch sử mật thiết.  Các sự dè dặt của họ hẳn phải phát sinh từ ư thức rằng một Việt Nam thống nhất, khống chế cả Đông Dương, rất có thể trở thành một Roumania của khu vực địa dư Trung Quốc, trong các quan hệ của nó với LBSV.  Với một sự sáp lại gần nhau giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, một sự hiện diện c̣n lại của Mỹ tại Á Châu sẽ được mong muốn hơn là các cơ hội mới cho sự bành trướng ảnh hưởng và sự hiện diện của Sô Viết.  Trong quan điểm này, một Việt Nam bị chia cắt, với miền nam duy tŕ các quan hệ với Hoa Kỳ, có thể xem ra là một viễn ảnh hấp dẫn hơn một Việt Nam thống nhất có các sự liên kết mạnh mẽ với Liên Bang Sô Viết.

       Trong năm 1972, chính v́ thế cả Mạc Tư Khoa lẫn Bắc Kinh đều mở ngỏ trước các đề nghị rằng Hà Nội cần phải được dẫn đến việc kư kết một nền  ḥa b́nh.   Với Henry Kissinger, Chính Quyền Mỹ đă có một viên chức không chỉ là một bậc thầy của sự thương thảo mà cũng c̣n hay biết về tính khả dĩ bị xâm kích của Bắc Việt trước một sự hội tụ tế nhị của các lực lượng ngoại giao.  Chính v́ thế Kissinger đă viết khi c̣n ở đại học Harvard rằng “Hà Nội th́ lệ thuộc một cách khác thường vào môi trường quốc tế ….  Vị thế mặc cả của nó tùy thuộc vào một sự lượng định xác đáng các yếu tố quốc tế -- đặc biệt của khu rừng các quan hệ trong nội bộ khối cộng sản”. 10 Trong thực tế điều mỉa mai rằng trong khi sự hiện diện của Mỹ tại Đông Dương được biện minh một cách liên tục trên các căn bản ngăn chặn sự xâm lược cộng sản quốc tế, chung cuộc chiến lược của Nixon-Kissinger cho ḥa b́nh đă sử dụng, một cách thành công, cả Mạc Tư Khoa lẫn Bắc Kinh  để áp lực Hà Nội tiến vào các cuộc thương thảo.

Cuộc Chiến Tranh Trong Năm 1979

       Có một thời, chính Trung Quốc và Việt Nam tự ḿnh tuyên cáo sẽ khắng khít như môi với răng.  Tuy nhiên, một  khi Hoa Kỳ đă giải kết và tự ḿnh rút khỏi Đông Dương vào năm 1973, và Việt Nam đă đạt được sự tái thống nhất xuyên qua sức mạnh của vũ khí trong các năm 1975-76, các quan hệ của chúng ngày càng liên tục trở nên xa cách hơn.  Ngày nay, đôi môi cong lên thóa mạ trong khi các chiếc răng đẫm máu.  Các sự sắp xếp hàng ngũ quốc tế đă được kết tinh tại Đông Dương vào cuối năm 1978, và các cuộc xung đột bộc phát thành bạo động trong năm kế tiếp.  Phía Trung Quốc, đau đớn bởi sự chiếm đóng của Việt Nam tại Kampuchea và các hành vi khiêu khích của Việt Nam tại biên giới, đă phóng ra một cuộc viễn chinh ‘biển sóng người” trong Tháng Hai để trừng phạt Việt Nam.  Trong khi phía Trung Quốc đă có khả năng xâm nhập vào lănh thổ Việt Nam dọc theo phần lớn biên giới, họ đă không toan tính để chọc thủng tuyến pḥng thủ ngoại vi bắc Hà Nội mà thay vào đó lựa chọn việc triệt thoái trong Tháng Ba.

       Công việc của tôi ở đây không phải tiến vào một sự phân tích thấu đáo về cuộc chiến.  Tôi quan tâm nhiều hơn việc tŕnh bày mạng lưới các quan hệ giữa Hà Nội – Mạc Tư Khoa – Bắc Kinh thực sự đă ảnh hưởng ra sao trên mọi khía cạnh của cuộc chiến, trong các căn nguyên, sự giao tranh cụ thể, các hậu quả tiềm tàng và kết quả chung cuộc.  Liên can đến các căn nguyên, sự kiện nổi bật nhất rằng hầu như toàn thể biên giơi Hoa – Việt đă được phân định và không có các cuộc tranh chấp lănh thổ quan trọng hiện hữu.  Các sự khác biệt nhỏ có hiện hữu mang nặng bản chất tranh căi về thẩm quyền quản hạt.  Các biến cố biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam trong suốt năm 1978 và đầu năm 1979 phải được nh́n một cách thích đáng hơn như các triệu chứng và các hậu quả thứ yếu của các quan hệ đang suy đồi giữa hai nước, chứ không phải là nguyên do.  Giữa các tranh chấp nhỏ là các sự tuyên xác xung đột nhau về chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Biển Nam Hải.  Theo chứng liệu được cung cấp gần đây bởi Hà Nội, Việt Nam vào ngày 26 Tháng Mười Hai [1973?] có đề nghị các cuộc thương thảo với Trung Quốc về ranh giơi tại Vịnh Bắc Bộ.  Lời phúc đáp hôm 18 Tháng Một [1974?] đồng ư về các cuộc đàm phán, được tiếp nối ngay trong ngày kế tiếp bởi một sự chiếm đoạt của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa từ Nam Việt Nam.  Hà Nội về phần minh đă mở rộng cuộc tấn công của nó tại Nam Việt Nam để chiếm giữ quân đảo Trường Sa [sau Tháng Tư 1975?].

       Một nguyên do chính yếu của sự căng thẳng dâng cao dẫn đến một t́nh trạng quân sự hóa liên tục tại biên giới của cả hai bên trong năm 1978 là sự bất trắc bao quanh số phận của 150,000 người dân gốc Hoa quyết định di cư sang Trung Quốc.  Cũng có các sự khác biệt trong sự giải thích về tư cách công dân của khoảng một triệu rưỡi các cư dân gốc Trung Hoa này tại Việt Nam.  Cuộc tranh chấp ở đây dính líu đến các câu hỏi quen thuộc nhưng khó khăn về ḷng trung thành bị phân hóa.  Những người Hoa này phải được xem như người Việt gốc Trung Hoa hay như các công dân Trung Quốc cư ngụ ở hải ngoại? Đặc biệt, t́nh cảnh của họ sẽ nằm nơi đâu trong trường hợp có xung đột vũ trang giữa nước cư trú và sinh ra và nước mang nguồn gốc chủng tộc?  Hai đảng [cộng sản] đă đồng ư một cách chính thức trong năm 1955 rằng người Trung Quốc tại Việt Nam và người Việt Nam tại Trung Quốc sẽ phải chịu quyền tài phán của các chính phủ tại lănh thổ cư trú của họ.  Tuy nhiên, tại một hội nghị Hoa Kiều Hải Ngoại hồi Tháng Mười Hai 1977, Bắc Kinh xem ra đă tháo lui khỏi sự thỏa thuận này và đă quay ngược về khái niệm Trung Hoa cổ truyền về ḷng trung thành bất khả chuyển nhượng đối với Vương Quốc Trung Tâm. 12

       Một thành tố quan trọng thứ nh́ cho các quan hệ căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc là cuộc chiến tranh biên giới liên tục giữa Kampuchea và Việt Nam.  Trong năm 1978, điều này liên can đến các cuộc xung đột lănh thổ, các cuộc đụng độ lớn và các cuộc xâm nhập nhỏ.  Trong năm 1979, người dân Căm Bốt chịu đau khổ từ lâu được giải phóng một lần nữa bởi các binh sĩ do Hà Nội lănh đạo.  Bắc Kinh đă nh́n biến cố không như sự giải phóng mà như việc hoàn tất sự theo đuổi của Việt Nam từ 1930 cho một Liên Bang Đông Dương thống trị bởi Hà Nội.  Trong năm 1951,  sức ép của t́nh huống đă đặt giấc mơ vào một sự ngưng treo tạm thời khi Đảng Cộng San Đông Dương bị giải tán để nhường bước cho các phong trào dân tộc, bao gồm Đảng Nhân Dân Khmer và Đảng Lao Động Việt Nam.  Trong năm 1978, Trung Quốc và Kampuchea đă gia tăng các sự cáo giác rằng Việt Nam đă phục sinh giấc mơ và tái dựng lại phong trào cho sự hoàn thành của nó.  Các nhà lănh đạo lịch sử Việt Nam đă đạt được ba mục tiêu chính của họ của năm mươi năm trước: xă hội chủ nghĩa, độc lập và tái thông nhất.  Họ có chuẩn bị để từ bỏ các kế hoạch cho một liên minh đặc ưu quyền với các đảng cộng sản của Lào và Kampuchea hay không?

       Câu trả lời cho vấn nạn đó, chúng ta không có.  Tuy nhiên, chúng ta biết được rằng các sự tranh giành ở Đông Dương làm lợi cho Mạc Tư Khoa, trong đó Liên Bang Sô Viết, xuyên qua các đồng minh Việt Nam và Lào của nó, có thể tăng cường cho vị thế chiến lược của nó trong vùng và đe dọa sườn phía nam của Trung Quốc.  Cuộc xung đột Kampuchea – Việt Nam có liên hệ đối với chúng ta và có ư nghĩa đối với thế giới chính xác là v́ cung cách theo đó nó được nối buộc với sự tranh giành của Nga – Hoa.  Về mặt lịch sử, Căm Bốt theo truyền thống đă hướng tới Bắc Kinh t́m sự bảo vệ chống lại một Việt Nam theo chủ nghĩa bành trướng.  Trong đương đại, các quan hệ của Hà Nội với Mạc Tư Khoa phát hiện một khát vọng tương tự để đối cân với ảnh hưởng của Trung Quốc.  Đúng thực, Việt Nam và Kampuchea của Pol Pot mặc nhiên thách đố các tiền đề căn bản của nhau như là các kiểu mẫu cách mạng, bởi họ đă h́nh thành khi đối diện với các điều kiện khác biệt và đi theo các đường lối riêng biệt. 13 Tuy thế, điều khiến sự căng thẳng nội tại này trở nên không thể điều khiển được chính là sự kết bện của nó với các quyền lợi an ninh của Sô Viết – Trung Quốc.  Đặng Tiểu B́nh đă nhiều lần cảnh cáo trong chuyến thăm viếng thành công tại Úc Đại Lợi của ông ta rằng v́ mục đích ḥa b́nh và ổn định, Việt Nam sẽ phải bị dậy cho một bài học: 14

Chúng ta không thể … dung chấp cho bọn Cuba ở Phương Đông du côn đánh thuê tại Lào, Kampuchea hay ngay ở các khu vực biên giới Trung Quốc.  Giờ đây, một số người trên thế giới lo sợ xúc phạm chúng, ngay dù chúng có làm một vài điều ǵ khủng khiếp.  Những người này sẽ không dám có hành động chống lại chúng.    

       Lời tuyên bố có thể được giải thích như một sự quở trách mặc nhiên khối Tây Phương v́ sự đáp ứng ngần ngại của nó trước chủ nghĩa phiêu lưu của Sô Viết.  Trong mọi cơ hội khi ở tại Hoa Kỳ, họ Đặng đă chửi bới chống lại các tham vọng “bá quyền” của “con gấu bắc cực” cũng như chống lại sự “xâm lược” của Việt Nam.

       Luận điểm của tôi ở đây thực sự là có lẽ Trung Quốc có thể dung chấp một sự chiêm cứ Kampuchea bởi Việt Nam nêu Đông Dương được cách ly khỏi ảnh hưởng của Sô Viết.  Nhung điều Trung Quốc không thể chấp nhận là Kampuchea đă bị chiếm cứ bởi, như Bắc Kinh nh́n sự việc, một kẻ thừa  ủy nhiệm của Sô Viết: chính v́ thế, là “bọn Cuba ở Phương Đông”.  Chính sách bá quyền Sô Viết được nh́n đang bao vây thế giới qua hai phong trào gọng ḱm, một của Cuba tại Phi Châu và một của Việt Nam tại Á Châu.  Khi đó, trong quan điểm này, một sự thách đố gợi hứng bởi Sô Viết ngay ở ngưỡng cửa của Trung Quốc rơ ràng là không thể chấp nhận được: các kẻ đại bá quyền đă liên kết với một tiểu bá quyền tại sân sau của Trung Quốc, và đôi găng tay đấu kiếm bằng sắt đă phải cầm lên.

       Chúng ta giờ đây tiến tới các quan hệ Sô Viết – Trung Quốc một cách trực tiếp như là một trong các nguyên do của cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam.  Kampuchea của Pol Pot đă chỉ là một trong vài trường hợp nơi mà Bắc Kinh đă chuẩn bị để phát triển các quan hệ nhà nước với nhà nước với các nước bày tỏ các khuynh hướng chống lại Sô Viết, bất kể các đường nét nội bộ hay các chứng từ xă hội chủ nghĩa của chúng.  Ngược lại, Trung Quốc không c̣n che dấu sự thù nghịch của nó đối với bất kỳ nước nào thân thiện với Liên Bang Sô Viết.  Từ quan điểm của Mạc Tư Khoa, Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng có thể cấu thành một nhược điểm (soft underbelly) của Trung Quốc.  Sự t́m kiếm của Brezhnev từ 1969 một hệ thống an ninh Á Châu đă bị chứng tỏ là vô ích, Việt Nam xem ra sẽ mang lại cơ hội tốt nhất -- có lẽ là độc nhất --  cho một sự ngăn chặn ngoại giao do Sô Viết lănh đạo đối với Trung Quốc tại Á Châu.  Phía Việt Nam, sau hết, đă ngày càng bàng hoàng hơn về sự ve văn của Bắc Kinh đối với Hoa Kỳ từ lúc mà Nixon lần đầu tiên sang thăm viếng Trung Quốc năm 1972  trong khi các quả bom của ông ta vẫn c̣n đang đổ xuống Việt Nam.  

       Sau sự sụp đổ của Nam Việt Nam năm 1975, [kư giả] Fox Butterfield đă viết rằng “sự kết thúc vội vă của cuộc chiến tranh Đông Dương” đă góp phần vào “một sự tương thích các quyền lợi của Trung Quốc và Hoa Kỳ tại Á Châu” trong việc ngăn chặn ảnh hưởng của Sô Viết.  Không lâu sau đó, ông viết về các nỗi lo lắng của Trung Quốc rằng Việt Nam có thể chuẩn cấp một căn cứ quân sự cho LBSV và sự đau khổ của Trung Quốc rằng Hà Nội đă đi theo đường lối của Mạc Tư Khoa một cách không phê phán. 15 Trong năm 1977, trước khi sự chào đón ông ta không c̣n và thảm đỏ đă bị cuốn lại, Ross Munro đă tường thuật rằng nhà lănh đạo Việt Nam, Lê Duẩn, thực hiện một cuộc thăm viếng ba ngày tại Bắc Kinh, cho thấy các quan hệ gây nhiều suy tưởng hơn là căng thẳng.  “Ở một tầm mức lớn lao, sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa hai nước cộng sản lớn nhất tại Á Châu chạy quanh đối thủ chính của Trung Quốc, Liên Bang Sô Viết”. 16 Trong Tháng Mười Hai 1977, vào ngay ngày mà Kampuchea quyết định cắt đứt các quan hệ với Việt Nam, Trung Quốc đă loan báo rằng tất cả các sự hợp tác kỹ thuật với quân đội Việt Nam được đ́nh chỉ.  Khi vào giữa năm kế tiêp Việt Nam trở thành hội viên thực thụ thứ mười của khối Comecon, Trung Quốc đă trả đũa bằng cách khóa ṿi viện trợ, vốn sẵn giảm bớt xuống mức nhỏ giọt, một cách hoàn toàn.  Tuần kế tiếp, trong một sự đảo ngược chính sách quan trọng, Việt Nam loan báo rằng nó chuẩn bị để mở các quan hệ ngoại giao đầy đủ với Hoa Kỳ mà không đ̣i hỏi bất kỳ lời hứa hẹn viện trợ nào từ Mỹ.  Hoa Thịnh Đốn đă phản ứng với sự lạnh nhạt ngoại giao.  Trong Tháng Tám, khi Trung Quốc kư kết hiệp ước ḥa b́nh của nó với Nhật Bản, khung cảnh quốc tế hẳn phải bắt đầu xem ra rất u ám trong thực tế đối với Việt Nam.  Họ đă kư kết hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Bang Sô Viết hôm 3 Tháng Mười Một.  Điều 6 của bản hiệp ước xem ra ám chỉ một liên minh quân sự trong thực tế (de facto): “Trong trường hợp bất kỳ bên nào bị tấn công hay bị đe dọa tấn công, hai bên kết ước sè tức thời tham khảo lẫn nhau nhằm t́m cách loại trừ mối đe dọa đó, và thực hiện các biện pháp thích đáng và hữu hiệu”.  Bản hiệp ước khẳng định, như đă từng có trong bản hiệp ước giữa Trung Quốc và Nhật Bản, rằng bản hiệp ước không dùng để chống lại bất kỳ nước thứ ba nào.  Nhưng, như mọi người đều hiểu rằng điều khoản “chống bá quyền” hồi Tháng Tám là để chỉ LBSV, điều cũng hiển nhiên như thế rằng đối tượng của hiệp ước Tháng Mười Một là Trung Quốc.  Trong một biểu tượng thích hợp cho các thời khoảng thay đổi, các bản hiệp ước năm 1978 được tiếp nối trong năm 1979 bởi quyết định của Bắc Kinh cho măn hạn bản hiệp ước năm 1950 có hiệu lực ba mươi năm của nó với LBSV.  Trong một sự vặn tréo kỳ lạ của lịch sử, trong khi các nước cộng sản từng có thời đáng lo sợ  lại xô đẩy và cắn xé nhau, các con cờ domino trước đây lại đứng thẳng và hănh diện, cho dù với một cơn nhức đầu nhỏ nhặt, tại khối ASEAN.  Với các biên cương của Việt Nam trong thực tế mở rộng tới Thái Lan, liệu các con cờ domino sẽ đứng vững hay không?  Có lẽ chúng sẽ đứng vững, với sự trợ giúp của cảnh sát viên Trung Quốc.

       Sự xâm nhập của Trung Quốc vào Việt Nam trong Tháng Hai 1979 đă đặt ra sự thử thách nghiêm trọng đầu tiên cho khả năng của Mạc Tư Khoa để trợ giúp một đồng minh.  LBSV trong Tháng Chín 1978 đă khởi sự việc chuyển vận ồ ạt các vũ khí cho Việt Nam đến mức gần gấp đôi số quân khí của nó trong sáu tháng.  Cùng lúc, Hà Nội đă gia tăng nhân số các lực lượng vũ trang của nó tới 50%, từ 615,000 quân trong Tháng Chín 1978 lên 920,000 trong Tháng Hai 1979.  Hơn nữa, sự tinh vi của các vũ khí cung cấp cho Việt Nam, trong một số loại, vượt quá mức độ tinh xảo trong khí giới được sử dụng bởi các nước trong Thỏa Ước Warsaw Pact.  Trong khung cảnh này, các cuộc đột nhập của Trung Quốc chứa đầy sự nguy hiểm, và các hậu quả của nó đối với Trung Quốc và thế giới có thể nặng nề.  Phản ứng của Sô Viết trước sự thách thức của Trung Quốc sẽ ra sao? Các sự lựa chọn của Mạc Tư Khoa bao gồm từ việc phóng ra một cuộc viễn chinh trừng phạt của chính nó, kể cả các cuộc không kích, đánh vào các mục tiêu được tuyển chọn chẳng hạn như các cơ sở hạt nhân tại Lop Nor, gia tăng một cuộc hành quân hải quân để chiếm giữ Quần Đảo Hoàng Sa do Trung Quốc kiểm soát, và phá hoại các dàn khoan dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc tại Biển Nam Hải, đến việc khuyến khích các vụ gây rối của Việt Nam đối với các bộ đội Trung Quốc khi chúng sau rốt đă khởi sự tiến tŕnh giải chiến.

       Như sự việc đă diễn ra, bởi v́ phía Việt Nam lẩn tránh đă cự tuyệt phía Trung Quốc các cơ hội để có được một sự trừng phạt quyết đoán, Mạc Tư Khoa đă có thể giới hạn sự trợ giúp của nó vào các đồ tiếp liệu quân sự.  Các chiếc tàu thủy và máy bay vận tải của Sô Viết đă bốc dỡ thiết bị quân sự tân tiến, các máy bay thám thính của Sô Viết canh chừng mặt trận cho cả Mạc Tư Khoa và Hà Nội, và một hạm đội mười ba chiếc tàu Sô Viết được điều hợp tại Biển Nam Hải bởi chiếc soái hạm của Hạm Đội Sô Viết Thái B́nh Dương, tàu Admiral Senyavin.  Tại Mạc Tư Khoa, Bộ Trưởng Quốc Pḥng Dmitri Ustinov đă tố cáo Trung Quốc về sự khiêu khích nguy hiểm và mưu toan đẩy thế giới vào một cuộc chiến tranh.  Vào ngày 18 Tháng Hai, một bản tuyên bố chính thức của chính phủ cảnh cáo Trung Quốc hăy đ́nh chỉ cuộc tấn công của nó trước khi quá trễ, trong khi Ustinov tái xác định rằng Liên Bang Sô Viết “sẽ tôn trọng các nghĩa vụ của nó theo bản hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Việt Nam”.  Người ta có thể phỏng đoán một cách an toàn rằng, cùng với các biện pháp khác, 700,000 bộ đội Sô Viết (vào khoảng một phần tư số nhân lực vũ trang của nó) tại biên giới dài 7000 cây số với Trung Quốc đă không phải ở trong một trạng thái bất động.

       Hơn thế, hành động của Trung Quốc đă là một cơ hội tuyên truyền quan trọng cho điện Cẩm Linh.  Giới lănh đạo Bắc Kinh đă tạo lập một cách công khai sự xâm lăng như một phương pháp giải quyết các vụ tranh chấp.  Đối chiếu, và chừng nào Hà Nội hay Hải Pḥng không bị đe dọa nghiêm trọng, Mạc Tư Khoa đă có thể phóng rọi sự kiềm chế của chính nó như một tác phong quốc tế có trách nhiệm.  Ngược lại, nếu Trung Quốc tiến sâu hơn nữa xuống phía nam, Liên Bang Sô Viết sè không thiếu lập luận để chứng minh cho sự can thiệp trực tiếp.  Không phải Hoa Kỳ hay Trung Quốc thụ hưởng được một độc quyền ưu đăi trên ước muốn duy tŕ sự khả tín và né tránh các sự sỉ nhục.  Vào lúc phát động chiến dịch ngoại giao để t́m kiếm sự kết án trên toàn thế giới đối với Trung Quốc, Mạc Tư Khoa cảnh cáo các nước khác đừng bịt mắt trước chính sách “bá quyền” của Bắc Kinh tại Đông Nam Á.  Bản thân Brezhnev đă mô tả cuộc viễn chinh của Trung Quốc như một cuộc tấn công “thổ phỉ, chưa từng có tiền lệ” theo đó các nhà lănh đạo Trung Quốc “cuối cùng đă bị phơi bày trước toàn thể thế giới bản chất xâm lược tráo trở trong chính sách đại cường của họ”.

       Tóm lại, mặc dù có chuẩn bị để hành động về mặt quân sự, cuộc tấn công của Sô Viết được bố trí chính yếu trên mặt trận ngoại giao trong nỗ lực làm mất uy tín Trung Quốc và cản trở sự tiếp thu ḷng kính trọng.  Tuy nhiên, gần như chắc chắn sẽ sai lầm khi kết luận rằng điện Cẩm Linh đă thống nhất trong đường lối ngoại giao kiềm chế vốn được thi hành ttong suốt cuộc chiến.  Các nỗi lo sợ được cất lên tại một số thủ đô khối Tây Phương rằng các tướng lĩnh Sô Viết sẽ thuyết phục giới lănh đạo dân sự già nua rằng thời điểm cho một hành động đánh phủ đầu Trung Quốc đă tới.  Một nhóm trong điện Cẩm Linh đă lập luận từ các năm 1968-9 rằng các quyền lợi trường kỳ của Sô Viết có thể đạt được một cách tốt nhất bằng một cuộc tấn kích chính xác vào Trung Quốc.  Bởi, mặc dù yếu kém về quân sự trong hiện tại, Trung Quốc có thời gian đứng về phía nó.  Ngoài ra, dưới sự lănh đạo của họ Đặng, Trung Quốc đă tự thảo bỏ các gông cùm ư thức hệ vốn ngăn ngừa sự mở rộng kỹ thuật mau lẹ.  Các sự khai thông đến các nguồn tín dụng và kỹ thuật Tây Phương được nghĩ có thể nhấc Trung Quốc lên tới một mức độ ứng chiến quân sự ngăn ngừa (hay cấm chỉ) cùng với sự pḥng thủ trong ṿng một thập niên.  Có thể LBSV sẽ không có được một lần nữa một cơ hội thuận tiện như thế trong khi vẫn c̣n thời gian cho một cuộc tấn kích phủ đầu (hay tiên kích): duyên cớ chính trị của việc bảo vệ một đồng minh chống lại sự xâm lăng bởi một nước lớn, “theo chủ nghĩa bá quyền” kết hợp với lợi thế chiến thuật của việc giao chiến với Trung Quốc trên hai mặt trận.

       Cũng sẽ là một sự nhầm lẫn để kết luận rằng LBSV đă nhất quyết từ bỏ ư tưởng “trừng phạt” Truung Quốc.  Vào đầu Tháng Ba 1979, đă có một sự gia tăng chút ít trong mối căng thẳng tại biên giới Trung Quốc – Lào.  Vào ngày 2 Tháng Ba, Mạc Tư Khoa đă đưa ra một bản tuyên bố chính thức đe dọa Bắc Kinh với “sự thù đáp nghiêm khắc” nếu nó không triệt thoái các lực lượng của nó ra khỏi Việt Nam.  Bản văn cũng cảnh cáo Trung Quốc không được xâm lăng Lào, tuyên bố rằng “quân xâm lược Trung Quốc càng phạm phải các tội ác bao nhiêu, sự trừng phạt sẽ càng nặng nề bấy nhiêu”. (Bản tuyên bố cũng tấn công các nước không chỉ danh rơ về việc “khuyến khích kẻ xâm lược”).  Đáng ghi nhớ trong đầu rằng Trung Quốc đă không làm bất kỳ điều ǵ trong suốt cuộc tấn công của Việt Nam vào Kampuchea, mà đă đợi chờ một số tuần lễ trước khi có hành động trả đũa.  Liên Bang Sô Viết cũng có thể ưa thích việc phóng ra một cuộc viễn chinh trừng phạt, trong cung cách và ở thời điểm và không gian do sự lựa chọn của chính nó, theo khái niệm “trừng trị” đă sẵn được thiết lập bởi Bắc Kinh.

       Bất kể diều kiện nêu trên, điều vẫn đúng là trong Tháng Hai – Tháng Ba 1979, LBSV đă không đă không đi đến các chiến trường và thay vào đó du hành trên đường lối ngoại giao để t́m kiếm các sự kết án đối với hành vi của Trung Quốc.  Chứng từ của Hà Nội – Mạc Tư Khoa về điều này cũng không thuyết phục ǵ hơn chứng liệu của Bắc Kinh trên các chiến trường, bởi đă không có việc che dấu sự kiện rằng cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam đă được đi trước bởi một cuộc xâm lăng thường trực hơn của Việt Nam vào Căm Bốt.  Và một lần nữa Hà Nội đă không thể thích nghi hành động của nó vào một khuôn mẫu chống thực dân hay chống đế quốc.  Điều đă giúp ích cho Hà Nội là sự ghê tởm được chấp nhận phổ biến đối với chế độ Pol Pot, đưa đến việc chỉ có ít giọt nước mắt quốc tế đă nhỏ xuống trên việc ông ta bị buộc quay về các rừng rú.

       Kết quả trực tiếp của cuộc chiến tranh khi đó không có tính cách quyết đoán.  Cả hai bên đều có thể tuyên bố chiến thắng.  Trung Quốc đă chứng tỏ rằng nó sẽ không ngần ngại để hành động về mặt quân sự một khi sự kiên nhẫn của nó bị cạn kiệt.  Việt Nam về phần ḿnh có thể tuyên bố đă đánh đuổi được một cường quốc khác ra khỏi lănh thổ của nó trong kư ức sống động.  Việc các nhà lănh đạo Hà Nội lựa chọn không quấy nhiễu các lực lượng Trung Quốc triệt thoái tuy thế đă đưa ra một số dấu hiệu cho thấy là biến cố hẳn đă mang lại cho họ những thời khắc lo ngại.  Ở mức tối thiểu, phía Trung Quốc đă biểu lộ một cách quả quyết một ư chí và năng lực để hành động ngay dù để chống lại một hiệp ước hữu nghị với Liên Bang Sô Viết.  Nhưng Hà Nội sẽ không sắp sửa từ bỏ vị thế đặc quyền của nó tại Lào và Kampuchea.  Trong thực tế, nước kể trước [Lào] hôm 7 Tháng Ba 1979 đă yêu cầu Trung Quốc triệt thoái “một cách tạm thời” các bộ đội công binh đă từng xây dựng các con đường tại tỉnh Phong Saly ở miền bắc từ thập niên 1950.  Trong một cuộc phỏng vấn ngay trước khi có cuộc xâm lăng của Trung Quốc, vào lúc sắp sửa khởi hành sang Phnom Penh để kư kết một hiệp ước với chế độ vừa mới được thành lập của Heng Samrin, Phạm Văn Đồng có tuyên bố: “t́nh liên đới chiến đấu nối liền ba nước [Đông Dương] là một yếu tố có tầm quan trọng tối cao đă xác định chiến thắng của cách mạng tại mỗi nước.  Điều tất nhiên là đi đến việc củng cố và phát triển t́nh liên đới truyền thống này”.  17 Phía Việt Nam cũng lấy làm thỏa măn với sự hiểu biết rằng “lần đầu tiên trong 200 năm, phía Trung Quốc đă phải đi đến Hà Nội để thảo luận về ḥa b́nh sau một cuộc xung đột”. 18

       Cho đến giờ tôi đă gạt bỏ Hoa Kỳ ra khỏi sự thảo luận, bởi nó nằm chính yếu bên ngoài khuôn khổ tham chiếu của chúng ta.  Tuy nhiên, vị thế của nó không phải là không quan trọng trong bất kỳ cuộc khủng hoảng quốc tế nào; nếu nó không liên hệ, nó sẽ không c̣n là một siêu cường.  Hoa Thịnh Đốn đă chơi ván bài tóe lửa một cách b́nh tĩnh, nói rất rơ rằng Hoa Kỳ sẽ không can dự và sẽ không để bị lôi kéo vào các cuộc xung đột giữa các nước cộng sản Á Châu.  Dù thế, cuộc chiến tranh ngắn ngủi đă tác động đến chính sách ngoại giao Mỹ,  và đă làm nổi bật các vị thế toàn cầu của Mỹ.  Trước tiên, có lập luận cho rằng Hoa Thịnh Đốn có thể đă đóng góp một phần nhỏ của cuộc khủng hoảng trong việc đă không đếm xỉa đến các sự đề nghị của Việt Nam trong năm 1978, hậu quả khiến cho Hà Nội bị thẩy càng sâu hơn vào ṿng tay ôm chờ đón của Mạc Tư Khoa.  Các vấn đề chưa được giải quyết trong các quan hệ song phương Mỹ - Việt Nam bao gồm các câu hỏi kinh tế của hoạt động mậu dịch, viện trợ, và các tích sản và tài sản của Mỹ bị phong tỏa và tịch thu, cùng các sự quan tâm nhân đạo chẳng hạn như số phận của các quân nhân vẫn c̣n được ghi nhận là Mất Tích Trong Khi Công Tác, các gia đ́nh bị phân tán trong cuộc di cư điên cuồng năm 1975, và làn sóng liên tục các người tỵ nạn.  Việt Nam t́m cách b́nh thường hóa các quan hệ với Hoa Kỳ bởi v́ nước sau này sẽ là một cội nguồn phong phú của sự trợ giúp kỹ thuật và kinh tế rất cần thiết.  Hơn nữa, sau khi Việt Nam đă đoạn giao với Trung Quốc, Hoa Kỳ đưa ra sự lựa chọn thực tiễn duy nhất,  là sự lệ thuộc gần như hoàn toàn [của Hà Nội] vào Liên Bang Sô Viết.

       Chính v́ thế, người ta nh́n thấy rằng các quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ là hoàn toàn không thể tách rời khỏi tam giác Hà Nội – Mạc Tư Khoa - Bắc Kinh mà chúng ta đă nhắm tới.  Hay chúng cũng không thể cách ly khỏi phương trận của các quan hệ Hoa Kỳ - LBSV – Trung Quốc trên sân khấu quốc tế.  Tờ Washington Post đă b́nh luận trong phần xă thuyết cuối năm rằng “Dưới chính sách Đông Dương đă thành h́nh trong năm qua, Hoa Kỳ đă xem vùng này chính yếu như một khu vực của sự vận động địa chính trị trên tam giác Hoa Thịnh Đốn – Mạc Tư Khoa – Bắc Kinh”. 19 Hoa Thịnh Đốn dường như đă kết luận rằng Việt Nam đă gia nhập vào hàng ngũ các đồng minh có khuynh hướng bành trướng (expansionary) của Mạc Tư Khoa.  Chính sách của Mỹ rơ ràng là hạ thấp các quan hệ với Việt Nam đối với các sự cứu xét đến t́nh trạng ḥa hoăn Trung Quốc – Mỹ và sự tiến triển của một khối ASEAN cố kết như một tác nhân chính trị và kinh tế quan trọng tại Á Châu.  Bởi v́ các quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc đang nảy nở -- và Trung Quốc giờ đây đă gia nhập vào một nhóm chọn lọc các nước cộng sản thụ hưởng quy chế tối huệ quốc với Hoa Kỳ trong hoạt động mậu dịch – gây sự bực dọc cho LBSV, báo chí Sô Viết đă mau chóng nhấn mạnh rằng cuộc xâm lăng của Trung Quốc được phóng ra “gần như ngay sau ngày trở về của họ Đặng từ Hoa Kỳ.  Tờ Prada đă phản đối rằng “không có sự tuyên truyền quanh co nào sẽ giúp che đậy được trách nhiệm của các giới đó tại Hoa Kỳ đă tạo thuận tiện, một cách trực tiếp hay gián tiếp, cho các hành động của Bắc Kinh”. Sự phản đối th́ không xác đáng, và ngay trong suốt cuộc chiến tranh, Hoa Thịnh Đốn đă thận trọng trong việc thúc giục một cách công bằng một sự triệt thoái tất cả các bộ đội ngoại quốc ra khỏi các nước tại Đông Dương.  Bất kể các lời tuyên bố của Mỹ rằng Tổng Thống Carter đă cố gắng thuyết phục họ Đặng rời xa khỏi bất kỳ diễn tŕnh hoạt động “thiếu khôn ngoan” nào, Liên Bang Sô Viết vẫn quan tâm đến việc ấn định thời biểu của cuộc tấn công, trong ṿng hai tuần của cuộc thăm viếng của viên phó thủ tướng Trung Quốc.  Không chỉ điện Cẩm Linh thắc mắc là liệu Hoa Thịnh Đốn có bị vận dụng như một công cụ ngoại giao trong chiến lược xâm lăng của Bắc Kinh hay không.  Tờ Time đă tường thuật rằng theo các giới chỉ trích chính sách của Mỹ, “phía Trung Quốc đă chơi lá bài Mỹ hay hơn Hoa Thịnh Đốn chơi là bài Trung Quốc của nó”. 20

       Đoạn văn nói trên soi sáng vào t́nh trạng phức tạp của cấu h́nh quyền lực toàn cầu mới liên can đến Hoa Thịnh Đốn, Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.  Các quyền lợi an ninh của Trung Quốc và Mỹ gặp nhau trong mục tiêu chung nhằm ngăn chặn bất kỳ cuộc tấn công nào của Sô Viết vào Trung Quốc và sự bành trướng của quyền lực Sô Viết tại Á Châu nói chung.  Song chưa có sự đồng nhất các quyền lợi ngay cả liên quan đến Liên Bang Sô Viết.  Bởi Hoa Thịnh Đốn chấp nhận Liên Bang Sô Viết như một siêu cường với các quyền lợi quốc gia chính đáng và các vai tṛ quốc tế quan trọng, và sẽ kiêng cữ xung đột để tán đồng sự ḥa hoăn.  Trong sự theo đuổi chiến lược cho sự ḥa hoăn, duy tŕ một cán cân quân sự ổn cố giữa hai siêu cường phải là một mục tiêu vượt lên trên cả sự thân thiện với Trung Quốc.  Bắc Kinh, mặt khác, nghi ngờ sự ḥa hoăn và SALT [Các cuộc đàm phán giới hạn vũ khí chiến lược], chỉ lấy làm sung sướng khi sự xích mích gia tăng giữa Mạc Tư Khoa và Hoa Thịnh Đốn.  Các nhà lănh đạo Trung Quốc cũng ít kín đáo hơn về các sự nghi ngờ đến quyết tâm hay năng lực để cân đối một cách hữu hiệu với LBSV.

       Một sự phát triển địa phương tại Đông Dương sẽ là mối quan ngại cho cả Bắc Kinh lẫn Hoa Thịnh Đốn là sự thụ đắc của Mạc Tư Khoa vịnh Cam Ranh như một căn cứ hải quân tại Việt Nam.  Trước khi có cuộc chiến tranh của họ với Trung Quốc, phía Việt Nam cương quyết từ chối không để cho Liên Bang Sô Viết có một căn cứ tại căn cứ hải quân Mỹ trước đây ở Vịnh Cam Ranh hay phi trường Đà Nẵng.  Các Hạm Dội Thái B́nh Dương và Ấn Độ Dương của Sô Viết hoạt động từ các căn cứ tại Vladivostok và Petropavlovsk, xa măi trên phía bắc của Nhật Bản và không tan băng trong mùa đông.  Các quyền đối với Cam Ranh sẽ mang lại cho hải quân Sô Viết một lợi thế mới hùng mạnh và đặt ra một đe dọa tiềm tàng đối với các tuyến vận tải bằng tàu của Trung Quốc, Nhật Bản và Tây Phương.  Với một căn cứ không quân tại Đà Nẵng phụ trợ, các lực lượng Sô Viết sẽ không chỉ cưỡi lên trên các tuyến đường hàng hải chính yếu, mà sẽ c̣n có thể cung cấp cho các hạm đội của nó sự yểm trợ không quân hạn chế.  Các điều này có thể không phải là các sự lo ngại suông: cho đến cuối Tháng Ba 1979, các tàu chiến của Sô Viết đă thả neo tại Vịnh Cam Ranh lần đầu tiên.  Tuy nhiên, trong Tháng Tư, Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Duy Trinh đă đoan quyết với ông Kurt Waldheim [Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc khi đó, chú của người dịch] đang thăm viếng rằng bất kể sự hiện diện của các tàu chiến Sô Viết trong Vịnh, Cam Ranh sẽ không trở thành một căn cứ hải quân của Sô Viết.  Điều cần ghi nhận rằng sự sử dụng phương sách ngoại giao quân sự và hải quân cưỡng hành của Sô Viết đă gia tăng một cách mănh liệt kể từ thời Khruschev.  Và cũng cần ghi nhận rằng các cơ sở hải và không quân của Sô Viết đang được xây cất tại Đà Nẵng và Cam Ranh.

 

Các Kết Luận

       Tôi đă lập luận rằng các sự khác biệt đă hiện hữu từ lúc khởi đầu giữa Hà Nội, Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh về đường lối hành động thích hợp sẽ được theo đuổi tại Việt Nam.  Các sự khác biệt này nói chung đă được đè nén trong suốt cuộc chiến tranh chống lại kẻ thù chung, Hoa Kỳ.  Với trước tiên sự rạn nứt Nga – Hoa và sau đó sự sáp lại gần nhau của Mỹ - Trung Quốc, nhiệt t́nh của Trung Quốc dành cho giới lănh đạo Hà Nội đă phai nhạt; với sự triệt thoái của Mỹ ra khỏi Đông Dương, các sự khác biệt Nga – Hoa trong các quan hệ với các nước trong vùng nổi bật lên.  Việt Nam hướng tới LBSV để đối cân với ảnh hưởng của Trung Quốc phát sinh từ sự gần cận địa dư.  Sự đối xử liên tục của Mỹ đối với Việt Nam như một kẻ bị bỏ rơi bên lề, làm Việt Nam nghiêng về phía Mạc Tư Khoa gần như hoàn toàn lệ thuộc, điều kế đó làm sôi sục các xúc cảm của Trung Quốc hơn nữa.  Khi các đại diện Việt Nam loại bỏ Chính Quyền Pol Pot do Trung Quốc hậu thuẫn tại Kampuchea, Trung Quốc đă phản đ̣n dữ dội vào Việt Nam.  Tuy nhiên, ư thức được con gấu bắc cực đầy đe dọa, nó chỉ tiến hành đên mức hiện nay trong cuộc viễn chinh trừng phạt.

       Nếu kết quả quân sự của cuộc chiến tranh đă là một sự bế tắc, 21 đâu là các viễn ảnh chính trị?  Ch́a khóa để lượng định tương lai khu vực là các biến cố tại Kampuchea.  Không phải là điều xác thực để mô tả cuộc xung đột Kampuchea – Việt Nam như một cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết, bởi các động lực địa phương của cuộc chiến tranh cũng quan trọng như các động lực quốc tế.  Điều chính xác để lập luận rằng các cuộc xung đột tại Đông Dương không thể được giải quyết cho đến thời điểm mà Trung Quốc và LBSV đạt được một tạm ước (modus Vivendi) về vùng đất này, kể cả việc thừa nhận ngầm các khu vực ảnh hưởng được bảo kê.  Hiện thời, Việt Nam tiếp tục kiểm soát hữu hiệu đất nước Kampuchea, nhưng Hoa Kỳ và Trung Quốc có khả năng không cho Heng Samrin có được sự thừa nhận quốc tế rất đáng thèm thuồng.  Sự thất vọng hỗ tương là kết quả.  Thoạt tiên, Việt Nam bác bỏ tất cả mọi lời kêu gọi bộ đội của nó triệt thoái ra khỏi Kampuchea.  Tuy nhiên, trong Tháng Năm, Nguyễn Văn Linh, ủy viên Bộ Chính Trị và chủ tịch Tổng Công Đoàn Việt Nam, có loan báo tại Tokyo rằng các bộ đội nước ông sẽ triệt thoái nếu Bắc Kinh đ́nh chỉ sự trợ giúp cho nó cho Pol Pot đă bị lật đổ.  Với sự kiện rằng ông ta đă không đ̣i hỏi một sự thừa nhận chế độ Heng Samrin như một điều kiện tiên quyết đă làm gia tăng các sự ức đoán về một thỏa hiệp chung cuộc trên ông Hoàng Norodom Sihanouk. 22 Ông Hoàng xem ra sẽ mang lại một cơ hội cho mọi phía về một “nền ḥa b́nh trong danh dự”.  V́ thế, có thể là ở một lúc nào đó trong tương lai, các điều trầm tư của Norodom Sihanouk về một Hội Nghị Geneva mới để giải quyết vấn đề Căm Bốt (nó là một “truyền thông’, ông nói như thế 23), sẽ mang lại kết quả và giúp vào việc gỡ rối mạng lưới của các sự xung đột tại Đông Dương./-                    

___

* Giảng viên về Chính Trị Học, Đại Học University of Otago.  Tác giả xin cám ơn các ông David Routledge và Carlyle Thayer về các ư kiến của họ trên một phiên bản trước đây của bài viết này.

 

CHÚ THÍCH

1. Mặc dù có lập luận đă được đưa ra rằng Hoa Kỳ đă theo đuổi thành công một chiến lược khéo léo, một cách quái ác, trong việc thúc ép các sự việc đi đến khủng hoảng tại Đông Dương.  Xem Lowell Finley, “The Major Powers Still Play for Keeps in Indochina”, Southeast Asia Chronicle, số 64 (Tháng Chín – Tháng Mười 1978), trang 26.

2. Muốn có các chi tiết, xem Phillippe Devillers và Jean Lacouture, End of a War: Indochina, 1954 (Praeger, New York, 1969), các trang 239, 292-3 và 308-11.

3. Xem Mieczylaws Maneli, War of the Vanquished (Harper and Row, New York, 1971), rải rác.  Maneli là có vấn pháp lư cho phái đoàn Ba Lan (1954-55) và chủ tịch của phái đoàn (1963-64).  Muốn có một sự phân tích về công việc của Ủy Hội, xem Ramesh Thakur, “Peacekeepng and Foreign Policy: Canada, India and the International Commission in Vietnam, 1954-1965”, British Journal of International Studies (sắp xuất bản).

4. Sự lượng định này được gồm trong các báo cáo của Blair Seaborn, Ủy Viên Gia Nă Đại trong Ủy Ban Kiểm Soát Quốc Tế, là người trong năm 1964 đă thực hiện một loạt các cuộc du hành đến Hà Nội với các lời nhắn nhủ từ và phúc đáp đến Hoa Thịnh Đốn. “Canada in the Pentagon Papers”, Canadian Forum, Tháng Chín 1973, trang 14.

5. Edgar Snow, Red Star Over China, (Pelican, Harmondsworth, 1972), trang 36.

6. Mike: The Memoirs of the Rt. Hon. Lester B. Pearson, Vol. 3, 1957 – 1968, (Signet, Toronto, 1976, trang 153.

7. Donald F. Lach and Edmund S. Wehrle, International Politics in East Asia since World War II, (Praeger, New York, 1975), các trang 221-6.  Allen S. Whiting, The Chinese Calculus of Deterrence: India and Indochina, (University of Michigan Press, Ann Arbor, 1975), and “ Nixon’s Gamble War with China?, (New Republic, 20 May 1972, các trang 12-3, và Donald S. Zagoria, Vietnam Triangle: Moscow Peking Hanoi, (Pegasus, New York, 1967), trang 79.

8. Muốn có một bản tóm lược súc tích về các sự tiết lộ, xem Roland Pierre Paringaux, “China and Vietnam, The  Indochina Power Seesaw”, Guardian Weekly, 29 Tháng Mười 1978.

9. Michel Tatu, “Moscow, Peking and the Conflict in Vietnam”, trong sách do Anthony Lake biên tập, The Vietnam Legacy (New York University Press, New York, 1976), trang 31.

10. Henry Kissinger, “The Vietnam Negotiations”, Foreign Affairs, Vol. 47 (Tháng Một 1969), trang 219.  Cũng xem Morton H. Halperin, “The Lessons Nixon Learned”, trong sách biên tập bởi Lake, Vietnam Legacy.

11. Far Eastern Economic Review (FEER), 4 Tháng Năm 1979,  các trang 8-9.

12. Wilfred Burchett, “Between Devil and Deep Blue Sea”, Guardian Weekly, 22 Tháng Bẩy 1979.

13. Xem Stephen R. Heder, “Origins of the Conflict”, Southeast Asia Chronicle, số 64 (Tháng Chín – Tháng Mười 1978), các trang 3-18.

14. Được tường thuật trong tạp chí Time, 12 Tháng Ba 1979.

15. New York Times, 19 Tháng Mười và 4 Tháng Mười Một 1975.

16. Globe and Mail, 24 Tháng Mười Một 1977.

17. Asiaweek, 2 Tháng Ba 1979, trang 17.

18. Một nhà ngoại giao Việt Nam, được trích dẫn trong tạp chí FEER, 4 Tháng Năm 1979, trang 8.

19. Guardian Weekly, 21 Tháng Mười 1979.

20. Time, 12 Tháng Ba 1979.

21. Xem Harlan W. Jencks, “China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military Assessment”, Asian Survey, Vol. 19, số 8 (Tháng Tám 1979), các trang 801-15.

22. FEER, 25 Tháng Năm 1979, trang 5.

23. Guardian Weekly, 1 Tháng Tư 1979.

_____

Nguồn: Ramesk Thakur, Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War, The Australian Outlook, Volume 34, số 1, 1980, các trang 64-74.

 

Ngô Bắc dịch và phụ chú

08.10.2012    

 

 http://www.gio-o.com/NgoBac.html

 

© gio-o.com 2012