Chủ Đề:

CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979

 

 

Ngô Bắc dịch

 

 

Lời Người Dịch:

 

“Chiến dịch 1979, ít nhất đối với Quân Đội Giải Phóng của Nhân Dân Trung Quốc, là một sự thất bại. Trung Quốc đă phóng ra cuộc tấn công của nó trong một nỗ lực để buộc Việt Nam phải rút lui khỏi Căm Bốt. Trung Quốc đă rút lui khỏi Việt Nam hôm 16 Tháng Ba, 1979, nhưng Việt Nam đă không rời Căm Bốt măi cho đến năm 1989.” ….

 

“Cuộc chiến tranh theo học thuyết họ Mao chưa dứt, nhưng phía Trung Quốc đă học được một bài học quan trọng.”

 

Trên đây là phần kết luận chắc nịch của Edward C. ODow’d, một tác giả hàng đầu về Chiến Tranh Biên Giới Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979, chủ đề của loạt bài nghiên cứu dưới đây về biến cố quan trọng diễn ra 33 năm trước. Đối chiếu với bài học lịch sử lâu dài của đất nước, rơ ràng vấn đề sinh tử của dân tộc Việt Nam hiện nay là phải t́m mọi cách đê duy tŕ được sự độc lập và vẹn toàn lănh thố, đồng thời thoát ra khỏi sự lệ thuộc ngoại giao và quân sự đáng tủi hổ đối với Trung Quốc.

 

1.Sun Dreyer
VIỆC NÀY DẪN DẮT VIỆC KIA:
V̉NG XOÁY TRÔN ỐC SỰ VẤN ĐỀ VÀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM (1979)
One Issue Leads to Another: Issue Spirals and the Sino-Vietnamese War (1979)
.


2. Steven J. Hood,
BẮC KINH, HÀ NỘI, VÀ ĐÔNG DƯƠNG –
CÁC BƯỚC TIẾN TỚI SỰ ĐỤNG ĐỘ
(Beijing, Hanoi, and Indochina – Steps to the Clash,
trong quyển Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War, 1992.


3. Zhang Xiaoming,
ĐẶNG TIỂU B̀NH VÀ
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRUNG QUỐC
ĐI ĐÊN CHIẾN TRANH
VỚI VIỆT NAM
(Deng Xiaoping and China’s Decision to Go to War with Vietnam),
Journal of Cold War Studies, Summer 2010, vol. 12, No. 3, 3-29.


4, Nicolas Khoo,
HỒI KẾT CUỘC CỦA
MỘT T̀NH HỮU NGHỊ BẤT KHẢ HỦY DIỆT:
Sự Tái Xuất Hiện Của Sô Viết và
Sự Chấm Dứt Liên Minh Trung Quốc – Việt Nam, 1975-1979
trong quyển Collateral Damage: Sino – Soviet Rivalry and the Termination
of The Sino – Vietnamese Alliance, Columbia University Press, 2011, 103-136.

 

5. Herbert S. Yee,
CUỘC CHIẾN TRANH
BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC – VIỆT NAM:
CÁC ĐỘNG LỰC, CÁC TÍNH TOÁN VÀ
CÁC CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG
trong quyển The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives,
Calculations and Strategies, China Report (xuất bản
tại New Delhi, India), Bộ 16, số 1, 1980, các trang 15-32.

 

6. Edward C. ODow’d,
CHIẾN DỊCH NĂM 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.

 

7.  Edward C. ODow’d,
TRẬN ĐÁNH LẠNG SƠN, THÁNG HAI – THÁNG BA 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.

 

8. Harlan W. Jenks,
CUỘC CHIẾN TRANH “TRỪNG PHẠT”
CỦA TRUNG QUỐC ĐÁNH VÀO VIỆT NAM:
MỘT SỰ LƯỢNG ĐỊNH VỀ QUÂN SỰ
(“China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military
Assessment”, Asian Survey 14, no. 8 (1979): 801-815.

 

9. Chen C. King,
CUỘC CHIẾN CỦA TRUNG QUỐC
ĐÁNH VIỆT NAM:
MỘT PHÂN TÍCH QUÂN SỰ
(“China’s War Against Vietnam: A Military Analysis”),
Journal of East Asian Affairs, no. 1 (1983): 233-63.
 

 

10. John M. Peppers, ,
CHIẾN LƯỢC TRONG XUNG ĐỘT CẤP VÙNG:
MỘT TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU
ĐIỂN H̀NH VỀ TRUNG QUỐC
TRONG CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
LẦN THỨ BA NĂM 1979
(Strategy In Regional Conflict:
A Case Study of China In The Third Indochina Conflict of 1979),
U.S. Army War College, Carlisle Barracks, 2001.

 

11. Alexander Woodside
DÂN TỘC CHỦ NGHĨA VÀ
NẠN NGHÈO ĐÓI
TRONG SỰ TAN VỠ CÁC QUAN HỆ
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
Nationalism and poverty in the Breakdown
of Sino-Vie6namese Relations,
Pacific Affairs, Fall 1979,
các trang 381-409.

   

12. Dennis Duncanson

CHIẾN TRANH VIỆT NAM
CỦA TRUNG QUỐC:
CÁC Đ̉I HỎI CHIẾN LƯỢC CŨ VÀ MỚI
China’s Vietnam War:
new and old strategy imperatives,
The World Today, 35, số 6 (1979),
các trang 241-248.

 

13. James Mulvenon

CÁC GIỚI HẠN CỦA NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH:
CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Limits of Coercive Diplomacy:
The 1979 Sino-Vietnamese Border War,
Journal of Northeast Asian Studies; Fall 95,
Vol. 14 Issue 3, các trang 68-88.

 

14. Andrew Scobell

NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH NỬA VỜI:
CUỘC TẤN CÔNG NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC 
ĐÁNH VIỆT NAM
“Explaining China’s Use of Force”,
China’s Use of Military Force Beyond the Great Wall and the Long March
Cambridge, United Kingdom: Cambridge University Press, 2003
các trang 192-198.

 

15. Daniel Tretiak

CHIẾN TRANH VIỆT NAM CỦA TRUNG QUỐC
VÀ CÁC HẬU QUẢ CỦA NÓ
“China’s Vietnam War and Its Consequences,” The China Quarterly 80 (1979), các trang 740-67.

   

16. Bruce Burton

CÁC SỰ GIẢI THÍCH ĐỐI CHỌI
 VỀ CUỘC CHIẾN TRANH
 TRUNG QUỐC - VIỆT NAM NĂM 1979
“Contending explanations of the 1979 Sino – Vietnamese War”,
International Journal, Volume XXXIV, no. 4/Autumn 1979, các trang 699-722.

 

17. Ramesh Thakur

TỪ SỐNG CHUNG ĐẾN XUNG ĐỘT:
CÁC QUAN HỆ
HÀ NỘI – MẠC TƯ KHOA – BẮC KINH
VÀ CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG – VIỆT
Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War,
The Australian Outlook, Volume 34, số 1, 1980, các trang 64-74.

 

18. Todd West

TỪ SỐNG SỰ NGĂN CẤM  KHÔNG THÀNH  CÔNG
CUỘC XUNG ĐỘT TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Failed Deterrence, The 1979 Sino-Vietnamese Conflict,
Stanford University Journal of East Asian Affairs,  Vol. 6, No. 1, Winter 2006, các trang 73- 85.
 

 

19. Colonel G.D Bakshi

Cuộc Chiến Tranh Trung Quốc - Việt Nam năm 1979:
Trường Hợp Nghiên Cứu Điển H́nh
Trong Các Cuộc Chiến Tranh Hạn Chế
VSM, The Sino-Vietnam War – 1979: Case Studies in Limited Wars,
Indian Defence Review, Volume 14 (2) July – September 2000

 

20. Bruce Elleman

Các Quan Hệ Sô Viết – Trung Quốc Và Cuộc Xung Đột
Trung Quốc – Việt Nam Tháng Hai 1979
Đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium,
“After the Cold War: Reassessing Vietnam”,
được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996
tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas

 

21. Henry J. Kenny

CÁC NHẬN THỨC CỦA VIỆT NAM VỀ CUỘc CHIẾN TRANH,
1979 VỚI TRUNG QUỐC “Vietnamese Perceptions of the 1979 War with China,
Chinese Warfighting: The PLA Experience Since , đồng biên tập bởi
Mark A. Ryan, David Michael Frakelstein, Michael A. McDevitt, Chapter 10, các trang 217-241s

 

22. Xiaoming Zhang

CUỘC CHIẾN TRANH
NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC VỚI VIỆT NAM: MỘT SỰ
TÁI LƯỢNG ĐỊNH, “China’s War with Vietnam: A Reassessment”,
The China Quarterly, số 184, December 2005, các trang 851-874.

 

23. Edward C. O’Dowd & John F. Corbett, Jr.

CHIẾN DỊCH NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC
TẠI VIỆT NAM:
CÁC BÀI HỌC LĨNH HỘI ĐƯỢC
The Lessons of History: The Chinese People’s Liberation Army at 75, Carlisle, PA.:
Strategic Studies Institute, U.S. Army War College, July 2003, các trang 353-378.

 

24. Douglas E. Pike,

CỘNG SẢN ĐẤU CỌNG SẢN
TẠI ĐÔNG NAM A”
 (“Communism vs Communism in Southeast Asia), International Security, Vol. 4, No. 1 (Summer, 1979), từ trang 20.
 

 

25. Henry Kissinger,

“SỜ MÔNG CON HỔ”
CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM THỨ BA”
 Chương 13: “Touching the Tiger’s Buttocks”: The Third Vietnam War, các trang 340-375,
trong quyển On China, xuất bản bởi The Penguin Press, New York, 2011.

   

26. Jimmy Carter,

GHI NHỚ VỀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
NĂM 1979
cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, trích dịch từ các hồi kư Keeping Faith, Memoirs Of A President,
A Bantam Book: New York, November 1982, các trang 194-211, và White House Diary, New York: Farrar, Straus and Giroux, 2010,
các trang 281-296, và rải rác, cùng các phụ lục trích dịch phần ghi nhớ về Chiến Tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979 của:
Phụ Lục 1: Cyrus Vance, cố Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Hard Choices, Critical Years In America’s Foreign Policy, New York: Simon and Schuster, 1983, các trang 120-127.
Phụ Lục 2: Zbigniew Brzezinski, cựu Cố Vấn Tổng Thống Hoa Kỳ về An Ninh Quốc Gia, Power and Principle, Memoirs of the National Security Adviser, 1977-1981, New York: Farrar, Straus and Giroux, 1983, các trang 404-414.
Phụ Lục 3: Anatoly Dobrynin, cựu Đại Sứ Liên Sô tại Hoa Kỳ, In Confidence, Moscow’s Ambassador to America’s Six Cold War Presidents, New York: Times books, a division of Random House, Inc., 1995, các trang 418-19.

 

 

John M. Peppers

Trung Tá, Lục Quân Hoa Kỳ

 

CHIẾN LƯỢC TRONG XUNG ĐỘT CẤP VÙNG:

MỘT TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU

ĐIỂN H̀NH VỀ TRUNG QUỐC

TRONG CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG

LẦN THỨ BA NĂM 1979

 

Ngô Bắc dịch

***

Lời Người Dịch:

       Tác giả bài nghiên cứu này, John M. Peppers, là một quân nhân Hoa Kỳ và bài viết được ấn hành vào năm 2001, tức hơn 20 năm sau cuộc chiên.  Lời văn tuy không được chau chuốt, đôi khi khó hiểu, nhưng với một thời khoảng lùi lại khá xa, tác giả đă có một số nhận định khác với các quan điểm được phát biểu sớm hơn, ngay sau cuộc chiến 1979.  Việt Nam tuy được nh́n nhận là thắng lợi về mặt chiến thuật quân sự, nhưng theo tác giả, rơ ràng đă thua trên b́nh diện chiến lược.  Tác giả c̣n phóng chiếu dự kiến đáng sợ về khả tính tấn công chiến lược của một quân đội Trung Quốc hùng mạnh hơn trong ṿng 50 tới, với chiến trường tất yếu là tại Á Châu Thái B́nh Dương, theo quan điểm của chính các nhà chiến lược Trung Quốc.  V́ địa lư chính trị, Việt Nam là nước gần sát với Trung Quốc, có nhiều vấn đề đụng chạm nhất với Trung Quốc, hiện đang yếu thế nhất, và do đó trở thành mục tiêu dề tấn công nhất cho Trung Quốc.  Điều mỉa mai nhất rằng hiện nay, bởi nhu cầu chính trị của hai chế độ cộng sản Á Châu c̣n sót lại, Việt Nam chỉ có một đồng minh duy nhất, lại chính là Trung Quốc.  Chính người dân Việt Nam hẳn phải suy ngẫm và quyết định cho vận mệnh và tương lai của Việt Nam.

 

NỘI DUNG

TÓM  LƯỢC ĐẠI Ư

       XUNG ĐỘT CẤP VÙNG – MÔI TRƯỜNG CHIẾN LƯỢC

       Các Quan Hệ Trung Quốc – Việt Nam – Một Quan Điểm Lịch Sử

       Các Siêu Cường Liên Bang Sô Viết  – Hoa Kỳ - Trung Quốc, 1973-1979

XUNG ĐỘT CẤP VÙNG – CÁC CHUYỂN ĐỘNG MỞ MÀN: CĂM BỐT & VIỆT NAM, 1975-1978

       Cuộc Xâm Lăng Của Việt Nam – Tháng Mười Hai 1978

       Các Phản Ứng Của Trung Quốc

       XUNG ĐỘT CẤP VÙNG – SỰ ĐÁP ỨNG QUÂN SỰ

       Các Lực Lượng Và Sự Bố Trí

       Chiến Dịch Quân Sự (17 Tháng Hai – 16 Tháng Ba)

       Gai Đoạn I – Sự Pḥng Thủ Biên Giới Ngoan Cường (17-22 Tháng Hai)

       Giai Đoạn II – Cuộc Tiến Quân của QĐGPNDTQ đến Lạng Sơn (22-27 Tháng Hai)

       Giai Đoạn III – Trận Đánh Lạng Sơn /Từ Pḥng Vệ đến Triệt Hủy (28 Tháng Hai – 5 Tháng Ba)

       Giai Đoạn IV – Triệt Thoái (6-16 Tháng Ba)

       Các Kết Quả và Sự Lượng Định Quân Sự

       XUNG ĐỘT CẤP VÙNG – HẬU QUẢ CHIẾN LƯỢC CHO CÁC THẬP NIÊN 1980 VÀ 1990

       Các Hiệu Ứng – Toàn Cầu và Cấp Vùng

       Các Hiệu Ứng – Sự Hiện Đại Hóa QĐGPNDTQ Vào Cuối Thế Kỷ Thứ 20

       CÁC HÀM Ư – ÂM HƯỞNG TRONG QUÂN ĐỘI CHNDTQ THẾ KỶ THỨ 21

       KẾT LUẬN

CHÚ THÍCH

THƯ TỊCH

***

Tóm Lược Đại Ư:

Trong Tháng Hai 1979, một cuộc chiến tranh 28 ngày bị giới hạn một cách lạ lùng và rất bạo động giữa hai đấu thủ cộng sản Á Châu xảy ra tại vùng biên giới phía bắc xa xôi của Việt Nam.  Mục đích của cuộc nghiên cứu chiến dịch này nhằm khảo sát về mặt lịch sử sự áp dụng chiên lược của Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QĐGPNDTQ, tiêng Anh là People’s Liberation Armay: viết tắt PLA) trong cuộc xung đột cấp vùng và lượng định thành quả hành quân của QĐGPNDTQ trong Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba.  Chính sách kiên tŕ của Trung Quốc nhằm ngăn chặn bá quyền Việt Nam tại Đông Nam Á sau hết dẫn dắt giới lănh đạo Công Ḥa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ, tiếng Anh là People’s Republic of China, viết tắt PRC) lựa chọn một sự đáp ứng quân sự hạn chế một cách cẩn trọng được ủng hộ bởi các thành phần khác của quyền lực quốc gia.  Chiến dịch chiến lược quốc gia tổng hợp này đă đạt được phần lớn mục tiêu chính trị của nó nhằm trừng trị Việt Nam, nhưng việc thiếu vắng sự thành công trên chiến trường quyết đoán, sớm sủa bởi QĐGPNDTQ gây tổn hại cho uy tín và lợi thế điều đ́nh của CHNDTQ.  Các sự khiếm khuyết của QĐGPNDTQ năm 1979 ở mức độ phối hợp/điều hành cuộc chiến tranh và trong sự tổ chức chiến thuật tấn công, về học thuyết và tài liệu đă hạn chế cuộc nghiên cứu biến cố này.  Chiều hướng này khiến không thể nh́n nhận Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba như một trường hợp thành công tổng quát và gần đây trong sự vận dụng chiến lược của Trung Quốc trong cuộc xung đột cấp miền và thực hiện chiến dịch quân sự trong chiến tranh hạn chế.  Sau cùng, các kết quả của cuộc xung đột giúp giải thích các sự cải cách quân sự cuối thế kỷ thứ 20 của Trung Quốc và vẫn c̣n quan trọng cho việc t́m hiểu tiềm năng quân sự và phong cách chiến lược/điều hành của CHNDTQ trong tương lai.

Giải mật, ngày 08 Tháng Tư, 2001

***

       Thế giới thời hậu Chiến Tranh Lạnh tim thấy Hoa Kỳ đang đối diện với một thử thách chiến lược rất độc đáo, dù tam thời, trong việc đảm nhận một vai tṛ như siêu cường duy nhất của thế giới.  Năm mươi năm của sự đua tranh lưỡng cực toàn cầu đă bị thay thế bởi một môi trường an ninh ít được xác định hơn nhiều, trong đó sự lan tràn của nạn khủng bố, các đe dọa xuyên quốc gia và Các Vũ Khí Hủy Diệt Tập Thể (Weapons of Mass Destruction: WMD) gia tăng, cùng với sự co thắt không đồng đều và không thể tiên đoán của các sự biến đổi mau chóng mẫu mực văn hóa/kinh tế đặt căn bản trên chiều hướng lan tràn của sự toàn cầu hóa.  Khi chúng ta tiến vào thế kỷ thứ 21, các hiệu ứng tạo bất ổn của các thực tại mới phát sinh này tiếp tục và mở rộng tiềm năng cho xung đột cấp miền được thực hiện về mặt quân sự.

       Tiềm năng nội tại của quốc gia-dân tộc để áp dụng quyền lực quân sự có tổ chức trong các cuộc xung đột như thế tiếp tục sẽ là một khả năng đáng được đo lường cẩn thận bởi quân đội Hoa Kỳ.  Điều này đặc biệt đúng cho các cuộc xung đột trong đó các quốc gia-dân tộc hùng mạnh ở cấp miền có thể tương tác.  Vượt quá các tác nhân đối kháng xác định rất rơ được tiên đóan trong các kịch bản Chiến Tranh Trên Chiến Trường Chính (Major Theater War: MTW) của chúng ta, Hoa Kỳ cũng theo dơi chặt chẽ các hoạt động khủng hoảng cấp vùng tiềm ẩn của các quốc gia hàng đầu chẳng hạn như Nga và Trung Quốc.  Thật hoàn toàn khôn ngoan để làm như thế.  Chiến sự với bất kỳ một trong các quốc gia-dân tộc độc đáo này mang một mức độ sâu xa của bất trắc và hậu quả có thế mau chóng vượt xa những ǵ được dự phóng cho ngay cả kịch bản xấu nhất  xảy ra [là] “Chiến Tranh Trên Hai Chiến Trường Chính hay đồng thời”, như phần lớn sự hoạch định hiện thời của Ngũ Giác Đài đặt định trên đó.  V́ thế, thật có tính chất giáo dục để nghiên cứu về cách thức các nước này đă đối phó với sự xung đột cấp vùng trong quá khứ ra sao và thu lượm sự quán triệt về cách mà họ có thể phản ứng trong cuộc xung đột cấp vùng trong tương lai.

       Trong trường hợp Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ, tiếng Anh là People’s Republic of China: PRC), sự nghiên cứu các biến cố cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980 và cuộc xung đột cấp vùng trên đất liền sau cùng của nó với Việt Nam cung cấp một cơ hội đích xác như thế.  Việc cấu tạo quyết định chiến lược năm 1979 và các phương pháp áp dụng quyền lực và bạo động quân sự của CHNDTQ trong cuộc khủng hoảng cấp vùng này vẫn c̣n rất xứng đáng cho sự nghiên cứu kỹ lưỡng.  Sự phân tích các sự thành công và thất bại tương đối của quân đội CHNDTQ trong chiến dịch quân sự ngắn ngủi, nhưng rất bạo động này chống lại một quân đội Việt Nam lăo luyện và dầy kinh nghiệm vẫn cung cấp các cái nh́n quán triệt hiện hành nhất khả cung về: 1) cuộc giao chiến trên quy mô rộng lớn tại Á Châu giữa các đối thủ Á Châu; 2) thành quả gây ấn tượng của CHNDTQ ở mức độ chiến lược của chiến tranh và sự kết hợp quân sự với các thành tố khác của quyền lực quốc gia; 3) sự phô bày yếu kém của CHNDTQ ở các mực độ hành quân và phối hợp chiến đấu trong chiến tranh; và 4) sự  hiểu biết về cách thức CHNDTQ đă giải thích (và tiếp tục giải thích) và đă hành động ra sao về các sự phân nhánh chiến lược và quân đội trong cuộc chiến, các sự quán triệt và các bài học.  Chính từ phần sau cùng này mà hầu hết các hoạt động quân sự của CHNDTQ trong các thập niên 1980 và 1990 có thể được am hiểu đầy đủ hơn và sự nhận thức về phản ứng của họ đối với các sự khai triển của thế kỷ thứ 21 có thể thu lượm được.

XUNG ĐỘT CẤP VÙNG – MÔI TRƯỜNG CHIẾN LƯỢC

Ngay vào lúc Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nh́ kết thúc với sự chiến thắng của cách mạng tại Việt Nam, Kampuchea, và Lào, sự đối nghịch ngấm ngầm cho đến giờ giữa ba bên – Trung Quốc, Việt Nam và Kampuchea – đă trồi mặt lên.  Các sự căng thẳng này sau rốt đă dẫn đến các sự giao chiến công khai và đưa đẩy đến Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba.

David W. Elliot 1

      Để hiểu được động lực song phương Việt Nam – Trung Quốc trong năm 1978-79, một sự t́m hiểu thấu đáo cả về khuôn mẫu lịch sử của mối quan hệ, sự tranh giành cấp vùng hiện đại của chúng ảnh hưởng trên Lào và Căm Bốt, lẫn động lực chiến lược toàn cầu của các quan hệ Hoa Kỳ - Sô Viết – Trung Quốc hồi cuối thập niên 1970 là điều bắt buộc.  Sau cùng, để hiểu biết sự đan kết của hai động lực này trong Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba, điều quan trọng cần theo dơi theo niên lịch phản ứng và ảnh hưởng mà các biến cố then chốt trên toàn cầu và cấp miền đă có trong suốt các năm quan yêu từ 1975 đến 1979. 2

 

CÁC QUAN HỆ TRUNG QUỐC – VIỆT NAM

–  MỘT QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ

       Các căn nguyên của mối quan hệ Trung – Việt lâu hàng nhiều thế kỷ.  Từ năm 700 Trước Công Nguyên cho đên thập niên 1850 có một khuôn mẫu lịch sử của các thời kỳ có sự xâm lăng hay ảnh hưởng chế ngự của Trung Hoa và sự  bảo tồn đầy thách đố của Việt Nam trên các khía cạnh then chốt trong văn hóa riêng của Việt Nam (ngay dù khi họ hấp thụ các ảnh hưởng của Trung Hoa trong các hệ thống hành chính, giáo dục và chính trị), đối nghịch với các thời kỳ rơ rệt của sự tái khẳng quyết mănh liệt chủ nghĩa dân tộc và sự độc lập của Việt Nam trong chính sách và hành động.  Cuộc xâm lăng của Pháp năm 1857 và thời kỳ thực dân tiếp nối cho thấy Trung Hoa trở thành một căn cứ thân thiện cho các lực lượng dân tộc chủ nghĩa Việt Nam chống lại người Pháp.  Nhưng, trong thời kỳ hỗn loạn từ cuối thập niên 1930 cho đến thời hậu Thế Chiến II, cả hai phe Dân Tộc Chủ Nghĩa Trung Hoa và Cộng Sản Trung Hoa sẽ cảnh giác và cân nhắc mức độ ủng hộ của họ cho các lực lượng dân tộc chủ nghĩa Việt Nam/cộng sản Việt Nam phù hợp với mối quan hệ được tŕnh bày ở trên.  Phía Trung Hoa sẽ chỉ nhất quán trong sự chống đối của họ đối với sự hiện diện của Nhật Bản tại Việt Nam và nỗi lo sợ kế đó ảnh hưởng của tây phương, tức của Pháp hay Hoa Kỳ. 3

       Ngay sự liên kết đồng chí cộng sản giữa giới lănh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ, tiếng Anh là Chinese Communist Party, viết tắt: CCP) với lănh tụ cộng sản Hồ Chí Minh, trong khi được tăng cường vào lúc khởi thủy bởi các cuộc đấu tranh sinh tồn giống nhau từ các năm 1946-1954 chống lại lần lượt phe Quốc Dân Đảng Trung Hoa và người Pháp, đă bị căng thăng đáng kể tại Geneva năm 1954.  Sự kiện được nhận thức là “bán đứng” của Trung Quốc cho các nước tây phương và sự thỏa thuận một giải pháp “hai” nước Việt Nam được nh́n bởi phe cộng sản Việt Nam như một sự phung phí cuộc chiến thắng trên chiến trường quyết định của Việt Minh tại Điện Biên Phủ. 4 V́ thế dễ dàng hiểu được lư do tại sao phía cộng sản Việt Nam đă mau chóng giải thích các chính sách của Trung Quốc đề cập đến các biến cố trong các năm 1972-1975 (sự triệt thoái của Hoa Kỳ, các cuộc thương thảo của Hoa Kỳ tại Paris, sự sụp đổ của Nam Việt Nam) là một lần nữa bị thúc đẩy bởi quan điểm “dân tộc chủ nghía cổ xưa của Trung Hoa vốn nh́n một cách kiên quyết rằng Việt Nam là một phần trong khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc.  Muốn được như thế, Việt Nam v́ thế sẽ bị làm cho suy yếu, phân hóa và dễ bảo trong các vụ thương thảo của nó với Trung Quốc.  Sự thù hận này của Việt Nam đă mang lại ít sự tín nhiệm đối với bất kỳ khái niệm nào cho rằng các quan điểm của Trung Quốc trong giai đoạn 1972-1975 đă quan ngại sâu xa về ảnh hưởng của Liên Bang Sô Viết lên cao tại “mặt trận phương nam” của Trung Quốc tiếp theo sau các cuộc đụng độ biên giới Nga Sô – Trung cộng nằm 1969. 5

       Một khuôn mẫu lịch sử trong mối quan hệ Trung – Việt một lần nữa xảy ra nơi đây.  Trong diễn tiến của hơn 2000 năm của mối quan hệ này, khi Trung Hoa mạnh lên, “đệ tử” Việt Nam triều cống, trên danh nghĩa và tượng trưng, đến “bậc thầy” đáng kính của nó ở phương bắc.  Tuy nhiên, khi Trung Hoa suy yếu, lơ là hay tập chú vào nội bộ, Việt Nam tích cực trong sự độc lập của ḿnh và kháng cự lại sự đô hộ.  Đặc biệt với cuộc khủng hoảng trong giới lănh đạo Trung Quốc trong giai đoạn 1976-1978 (sức khỏe suy sụp và cái chết của Mao Trạch Động, sự lên ngôi và sụp đổ của “tứ nhân bang”, sự từ trần của chính khách khéo léo Chu Ân Lai, và sự trổi lên quả quyết nắm quyền hành của một trong các người do Chu Ân Lai bảo trợ, Đặng Tiểu B́nh), chính sách ngoại giao của Bắc Kinh đối với Đông Dương và, một cách đặc biệt, mối quan hệ với Việt Nam, thường thiếu sự chú tâm, tiêu điểm và sự chính xác. 6

 

CÁC SIÊU CƯỜNG

LIÊN BANG SÔ VIẾT-HOA KỲ-TRUNG QUỐC,

1973-1979

       Câu hỏi là liệu các nguyên do chính yếu của Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba là các vấn đề cấp vùng giữa các nước liên can hay đúng hơn đă bị thực sự gây ra bởi cuộc chơi từ các sự tranh giành của siêu cường trong vùng là một câu hỏi với các sự bênh vực mạnh mẽ ở cả hai phía.  Gỡ rối các sự quan tâm toàn cầu và cấp vùng thường đan kết chặt chẽ với nhau trong thực tế là việc khó khăn.  Trong cuộc Chiến Tranh “Mỹ” ở Việt Nam từ 1965-1973, sự vươn cao liên hệ của sự hiện diện và ảnh hưởng của Liên Bang Sô Viết tại Đông Nam Á là điều rất thực.  Sự kiện này tiếp tục mở rộng tiếp theo các biến cố kết thúc cuộc chiến tranh vào năm 1975, lên đến đỉnh điểm với sự kư kết hôm 3 Tháng Mười Một 1978 một hiệp ước Hữu Nghị và Hợp Tác giữa Việt Nam và Liên Bang Sô Viết. 7 Chắc chắn, chính sách ngoại giao giữa thập niên 1970 của Trung Quốc tại Đông Nam Á đă t́m cách đối đầu với chiều hướng này và chủ yếu đă làm như thế bằng việc chống đối ảnh hưởng và bá quyền khu vực của Việt Nam xuyên qua sự ủng hộ chế độ Khmer Đỏ chống Việt Nam tại Căm Bốt và đă gia tăng ảnh hưởng với Lào, Thái Lan, và Phi Luật Tân (các thành viên then chốt của khối ASEAN: Association of Southeast Asia Nations). 8 Xem Bản Đồ 1 – Tổng Quan Toàn Vùng.

 

BẢN ĐỒ 1: TỔNG QUAN TOÀN VÙNG

       Trong khi canh bạc của siêu cường được chơi rất nhiều vào cuối thập niên 1970 tại Đông Nam Á, các vấn đề trực tiếp liên can đến Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba là các vấn đề mang tinh chất cấp vùng rất nhiều.  Một loạt các sự tranh chấp lănh thổ kéo dài là trung tâm của quyết định giao chiến, giữa các nước này: Quần Đảo Trường Sa bị tranh nghị nhiều tại Biển Nam Hải, sự bất đồng mạnh mẽ về sự phân định biên giới và lănh hải Vịnh Bắc Bộ cùng các quyền đánh cá liên hệ, và các vấn đề biên giới, ít được công bố, nhưng tranh chấp một cách bạo động, giữa Cambodia của Pol Pot và Việt Nam.  Các vấn đề lănh thổ này trở nên phức tạp bởi các khát vọng rất thực của Việt Nam nhằm lănh đạo một “Liên Bang Đông Dương” sẽ bao gồm cả Lào và Căm Bốt.  Hơn nữa, sự ngược đăi chính trị và kinh tế hàng trăm ngh́n người gốc Hoa cần cù và giàu có sinh sống tại Việt Nam và cuộc di cư ồ ạt của họ trong Tháng Năm 1978 đă bổ túc chiều kích tỵ nạn gai góc vào mớ vấn đề hỗn tạp. 9

       Để thẩm định trọn ven sự tác động hỗ tương của thực tại trong vùng với các động lực toàn cầu, sự tương tác cụ thể và biên niên của một số biến cố then chốt cần phải được t́m hiểu (xem Bảng 1)

 

NIÊN SỬ CUỘC XUNG ĐỘT ĐÔNG DƯƠNG LẦN THỨ BA 10

NHẬT KỲ                          BIẾN CỐ THEN CHÔT

Tháng 12, 1973                  Sự t́m hiểu của Hà Nội đối với Trung Quốc cho việc chấp thuận sự thăm ḍ dầu khí ở Biển Nam Hải bị tảng lờ; CHNDTQ đơn phương chiếm cứ các đảo then chốt ở Hoàng Sa khỏi sự

- Tháng 2, 1974                  kiểm soát của Sàig̣n.

 

Tháng 4, 1975                    Sàig̣n thất thủ; Việt Nam xuất hiện như một quốc gia duy nhất

 

Tháng 5-6, 1975                 Các tàu tuần cảnh Căm Bốt và Việt Nam bắn lẫn nhau tại ngoài khơi đảo Phú Quốc; Việt Nam chiếm giữ dàn khoan dầu bị tranh chấp gần đảo Poulo Wai (sự tiếp tục các vấn đề biên giới âm ỷ từ lâu giờ đây mở rộng)

 

Tháng 9, 1975                    Cuộc viếng thăm cấp quốc gia gay gắt của Lê Duẩn tại Bắc Kinh; đường lối cứng rắn của Trung Quốc không làm thay đổi đường lối toàn cầu và cấp vùng của Việt Nam

  

Tháng 1, 1976                    Chu Ân Lai, ủy viên quyền thế của Bộ Chính Trị và chính khách nổi danh thế giới, từ trần.

 

Tháng 4-5, 1976                 - Các cuộc thương thảo biên giới giữa Căm Bốt-Việt Nam không mang lại các kết quả rơ ràng.

                                           - Nhân danh họ Mao, Đặng Tiểu B́nh bị thanh trừng bởi Tứ Nhân Bang.

                                           - Trung Quốc cố gắng tiếp tục chính sách ngoại giao của Chu Ân Lai liên kết với Căm Bốt mà không đánh mất mối quan hệ với Việt Nam – không có hiệu quả.

 

Tháng 9 – 10, 1976            Chủ Tịch Mao Trạch Đông mất trong Tháng 9; cuộc nổi dậy chống lại Tứ Nhân Bang thành công và bọn họ bị bắt giữ.

 

Tháng 4-9, 1977                 Các cuộc đột kích/pháo kích biên giới của Căm Bốt như một chiến thuật thương thảo, từ từ leo thang thành các cuộc đột kích có phối hợp sâu đến 7 cây số bên trong Việt Nam vào Tháng 9.

 

Tháng 7, 1977                    - Cuộc phục hồi lần thứ nh́ của Đặng Tiểu B́nh

                                           - Hiệp Ước Hữu Nghị Việt Nam – Lào được kư kết củng cố quan hệ này

 

Tháng 12, 1977 -                Việt Nam thực hiện các cuộc tấn công giới hạn cấp sư đoàn với không quân và thiết giáp vào Căm Bốt; các cuộc phản công và đột kích băng qua biên giới của Căm Bốt ở gần Hà Tiên đă Tháng 1, 1978             thành công bất ngờ

 

Tháng 2-4, 1978                 Đề nghị/các điều khoản thương thảo mới nhất của Việt Nam bị bác bỏ là một chiều; Trung Quốc cung cấp các chuyến vũ khí mới và các kỹ sư đường xe hỏa quân sự cho Căm Bốt; Việt Nam gia tăng hoạt động khuynh đảo và tuyên truyền trong khi Khmer Đỏ gia tăng các cuộc tấn công biên giới của nó trong Tháng Ba và Tháng Tư.  Chính sách của Trung Quốc rất phân hóa, không nhất trí.

 

9-14 Tháng 5, 1978            Cuộc di cư của cư dân gốc Hoa từ Bắc Việt Nam vào miền nam Trung Quốc khởi sự; Trung Quốc cắt giảm viện trợ cho Việt Nam và đơn phương loan báo hôm 8 Tháng Sáu sự cập bến của các chiếc tàu chở dân tỵ nạm tại Hải Pḥng; các con tàu không hề chở được đầy người [các nguồn tin khác nói không chở được ai cả và quay về Trung Quốc trống trơn, chú của người dịch].

 

24 Tháng 5, 1978               So Phim [?Phin], kẻ khởi nghĩa do Việt Nam bảo trợ tại khu Miền Đông Căm Bốt bị buộc phóng ra cuộc nổi dậy quá sớm và bị đánh đuổi bởi các lực lượng của Pol Pot.

 

25 Tháng 6, 1978               Cuộc tấn công của Việt Nam tái diễn với 80,000 binh sĩ, không quân và thiết giáp.

 

29 Tháng 6, 1978               Việt Nam trở thành hội viên Á Châu đầu tiên của khối Tương Trợ Kinh Tế (COMECON) thuộc Hội Đồng theo Thỏa Ước LBSV/Warsaw.

 

Tháng 8, 1978                    Hiệp Ước HữuNghị và Ḥa B́nh Trung – Nhật được kư kết

 

Tháng 9, 1978                    Các chuyến tàu chở vũ khí đáng kể của Sô Viết đến Vịnh Cam Ranh và Hà Nội.

 

3 Tháng 11, 1978               Hiệp Ước Hợp Tác & Hữu Nghị Sô Viết – Việt Nam được kư kết tại Moscow. *

 

15 Thángg 11                     Hội Nghị Công Tác Trung Ương và các phiên họp Bộ Chính Trị mở rộng tại Bắc Kinh đoan quyết chính sách và các kế hoạch của CHNDTQ *; báo chí Trung Quốc gia tốc và lớn tiếng

– 15 Tháng 12,1978           tường thuật định kỳ về các cuộc đột nhập biên giới “đẫm máu” của Việt Nam.

 

3 Tháng 12, 1978               Đài Phát Thanh Hà Nội loan báo sự thành lập tại Việt Nam một Mặt Trận Thống Nhất Kampuchea Giải Phóng Dân Tộc Căm Bốt (tổ chức của Heng Samrin).

 

15 Tháng 12, 1978             Các quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc được chính thức b́nh thường hóa; nhật kỳ được đẩy nhanh hơn thay v́ ngày 1 Tháng Một 1979 theo lời yêu cầu của giới lănh đạo CHNDTQ.

  

25 Tháng 12 – 10 Tháng 1, 1979: Việt Nam xâm lăng Căm Bốt; 7 Tháng Một, Nam Vang thất thủ trước các lực lượng Việt Nam; 10 Tháng 1, chế độ Heng Samrin nắm quyền kiểm soát tại Nam Vang.

 

28 Tháng 1 – 5 Tháng 2, 1979: Đặng Tiểu B́nh du hành sang Hoa Kỳ và công khai cho hay rằng Trung Quốc phải dạy cho Việt Nam “một bài học”; lực lượng đặc nhiệm hải quân Sô Viết đến ngoài khơi Việt Nam.

 

BẢNG 1: NIÊN BIỂU

       Tóm tắt, chiên tranh Trung – Việt chính yếu phát sinh từ các động lực độc đáo của môi trường chiến lược cấp vùng, hơn là từ môi trường chiến lược toàn cầu của sự tranh giành giữa LBSV và CHNDTQ hay các động lực siêu cường.  Không may các hạt mầm của cuộc chiến tranh này, giống như quá nhiều cuộc chiến tranh trước nó, sẽ được t́m thấy tại vô số các ngôi làng bị đốt cháy dọc theo các biên giới bị tranh chấp trong vùng trong nửa phần sau của thập niên 1970.

 

XUNG ĐỘT CẤP VÙNG –

CÁC CHUYỂN ĐỘNG MỞ MÀN:

CĂM BÔT & VIỆT NAM 1975-1978

       Thực ra sự tranh đua trong nội bộ Đông Dương đă là tin tức thứ yếu trong năm 1975 và sẽ dâng cao thành chiến tranh công khai trong các năm 1978 và 1979, vốn đă sôi động nhất vào lúc kết thúc Cuộc Chiến Tranh Mỹ tại Việt Nam.  Ngay từ cuối năm 1971 các sự đụng độ đáng kể đă xẩy ra giữa các lực lượng Việt Nam [cộng sản] với phe Khmer Đỏ của Căm Bốt về sự sử dụng riêng biệt các khu vực dọc theo Đường Ṃn Hồ Chí Minh và trên các vấn đề về trào lượng viện trợ và tiếp liệu.  Như niên biểu trong Bảng 1 đă chỉ dẫn, các sự chiến thắng trong Tháng Tư 1975 để “giải phóng” Sàig̣n và Phnom Penh đă mau chóng được đánh dấu bởi các cuộc đụng độ trên đất liền mới mẻ và các hoạt động của tàu tuần cảnh hải quân. 11

       Một loạt dồn dập các nỗ lực ngoại giao chặn đứng sự giao tranh trong gần một năm khi hai chế độ cộng sản thương thảo và toan tính thăm ḍ các ư định thực của đối phương.  Vào Tháng Tư 1976 điều trở nên rơ ràng rằng các cuộc thương nghị ngoại giao đang lâm vào t́nh trạng bế tắc, đă bị làm rối tung bởi các sự khác biệt then chốt trong di sản của các phong trào cộng sản Việt Nam và Căm Bốt và các sự ngờ vực mang tính chất dân tộc chủ nghĩa. 12 Vào đầu năm 1977, việc tuần tra vũ trang được tái diễn và t́nh h́nh tồi tệ hơn cho đến cuối năm 1977 và đầu năm 1978 khi phe Khmer Đỏ tiếp tục thực hiện các vụ pháo kích qua biên giới lớn hơn, lâu hơn và đẫm máu hơn và các vụ đột kích trong sự vô vọng rằng điều đó sẽ là một chiến thuật thương thảo hữu hiệu.  Sự việc này sau rốt đă dẫn dắt Việt Nam đến một trận đánh phá biên giới trong Tháng Mười Hai 1977 ở một kích thước lớn, với ít nhất 30,000 binh sĩ cùng thiết giáp và máy bay trong một cuộc hành quân “cấp sư đoàn”. 13 Trong suốt bốn tháng đầu tiên năm 1978 nhiều lời kêu gọi của Việt Nam cho việc thương thảo theo các điều kiện đă được đưa ra trước đây của họ đă bị bác bỏ bởi Pol Pot, trong khi phe Khmer Đỏ đă có được sự thành công bất ngờ trong các cuộc phản công và phản đột kích gần Hà Tiên, Việt Nam. 14

       Trong các năm xáo động này, chính sách của Trung Quốc th́ yếu ớt và manh múng.  Bị rối trí bởi các vấn đề đối nội quan trọng, CHNDTQ đă không nhất quán trong việc hậu thuẫn của nó cho Căm Bốt, và gắng sức để duy tŕ một mối quan hệ nguyên trạng (staus quo) với Việt Nam.  Một số vũ khí của Trung Quốc được gửi đến Căm Bốt trong Tháng Một 1978, kể cả đại pháo 130 mmm đă được sử dụng bởi Khmer Đỏ và được dùng để chống lại các binh sĩ và làng xă Việt Nam.  15 Vào Tháng Tư 1978 lời lẽ chống Trung Quốc của Việt Nam trở nên nghiêm khắc hơn một cách đáng kể và Tháng Năm đă mang lại cuộc di cư ồ ạt đă đề cập trước đây của người gốc Hoa rời khỏi Việt Nam, tuyên bố v́ có sự ngược đăi chính trị và kinh tế.  Sự phản đối của Trung Quốc và trên toàn cầu, cấp vùng đă không mang lại sự thay đổi nào trong các hành động của Việt Nam liên quan đến khối tăng trưởng thành hàng 100,000 người tỵ nạn gốc Hoa, nhiều người trong họ đă lũ lượt băng qua một biên giới chung giữa Trung – Việt ngày càng căng thẳng. 16

       Theo sau một đợt các cuộc tấn công khác của Khmer Đỏ, phía Việt Nam một lần nữa đă đánh sâu vào trong nội địa Căm Bốt trong Tháng Sáu 1978.  Lần này lực lượng đột nhập lên tới 80,000 quân với các thành phần của sáu sư đoàn cùng với không quân và thiết giáp, và đă tiến quân sâu đến 65 dậm trong nội địa Căm Bốt trước khi bắt đầu triệt thoái. 17 Mùa hè cũng đă mang đến cuộc chiến tranh kinh tế khi Trung Quốc đáp ứng trước sự bất động của Việt Nam đối với người tỵ nạn gốc Hoa và sự gia nhập của Việt Nam vào khối kinh tế COMECON theo Thỏa Ước Warsaw bằng việc cùng lúc cắt bỏ các vụ bán nhiên liệu sau cùng của Trung Quốc và mọi loại viện trợ cho Việt Nam, cũng như cho triệu hồi đại sứ Trung Quốc.  CHNDTQ cũng khởi sự một sự củng cố quân sự rơ rệt các lực lượng quân sự tại miền nam Trung Quốc. 18 Sự đáp ứng của Việt Nam là tăng cường các lực lượng vũ trang vào khoảng 350,000 người và thực hiện một sự củng cố quan trọng các vũ khi do Sô Viết cung cấp của chính họ trong Tháng Chín và Tháng Mười 1978. 19 V́ thế việc kư kết vào ngày 3 Tháng Mười Một 1978 bản hiệp ước Hợp Tác và Hữu Nghị LBSV – Việt Nam và lời loan báo của Đài Phát Thanh Hà Nội hôm 3 Tháng Mười Hai về sự thành lập Mặt Trận KNUFNS (Kampuchean National United Front for Natiuonal Salvation: Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia Kampuchea Cứu Nguy Dân Tộc) dưới sự chỉ huy của Heng Samrin, đối thủ tương lai của Pol Pot, chỉ đơn giản sắp xếp cho những ǵ sắp diễn ra:

“ … t́nh h́nh đă chín mùi cho một sự đối đầu giữa Trung Quốc – Việt Nam trên hai mặt trận: bởi sự ủy nhiệm dọc biên cương Việt Nam – Căm Bốt với Căm Bốt, và xuyên qua trận đánh trực tiếp dọc biên giới Trung – Việt”. 20

       Bất kể các sự đoan quyết của Việt Nam và Trung Quốc đối với các nước bên ngoài rằng họ đă t́m cách né tránh sự xung đột lần lượt tại Căm Bốt và Việt Nam, từng sự đối đầu này đă đựoc hoạch định và chuẩn bị một cách sốt sắng.

 

CUỘC XÂM LĂNG CỦA VIỆT NAM – THÁNG MƯỜI HAI 1978

       Khi cuộc xâm lăng Căm Bốt diễn ra hôm 25 Tháng Mười Hai 1978, nó đă xảy ra dưới h́nh thức 12 sư đoàn lực lượng chính quy Việt Nam tấn công băng ngang biên giới trên một mặt trận trải rộng.  Các sư đoàn Việt Nam có từ 9-10,000 quân mỗi sư đoàn tạo thành một lực lượng độ 120,000 binh sĩ với các xe tăng, xe bọc sắt, pháo binh và sự yểm trợ không quân hữu hiệu.  Đối đầu chúng là Quân Đội Khmer Đỏ của Pol Pot với 60,000 binh sĩ được tổ chức thành 4 sư đoàn và 3 trung đoàn độc lập được trang bị tương đối nhẹ với trang thiết bị hỗn tạp, không theo tiêu chuẩn (của Sô Viết, Trung Quốc, Mỹ).  Sự kháng cự của Khmer Đỏ ban đầu th́ dữ dội tại một số vùng, nhưng phần lớn bị tan ră và vài tỉnh lỵ đă lọt vào tay quân xâm nhập Việt Nam trong một dây chuyền nhanh chóng.  Các lực lượng Khmer Đỏ đă không bám trụ và giao tranh trong cuộc “tấn công chớp nhoáng” này, thay vào đó lùi ra khỏi các khu vực đô thị và rút sâu về vùng thôn quê để theo đuổi chiến tranh du kích có tổ chức”. 21

       Cuộc xâm lăng đă tạo ra một làn sóng chấn động khắp phần lớn Á Châu.  Nhiều nước thuộc khối ASEAN (Association of South East Asian Nations – Thái Lan, Phi Luật Tân, Mă Lai và Singapore trong số các nước đó) mới được đoan chắc gần đây bởi Hà Nội rằng không có hành động quân sự nào như thế được dự liệu. 22 Cả khối ASEAN lẫn Liên Hiệp Quốc đều kêu gọi một sự triệt thoái tức th́ nhưng không đi đến đâu.  Nam Vang bị thất thủ hôm 7 Tháng Một và chính phủ của Heng Samrin được thành lập.  Vào đầu Tháng Hai điều rơ ràng đối với phần lớn các quan sát viên rằng sẽ không có một sự triệt thoái mau lẹ của các lực lượng Việt Nam lần này và sự giao chiến tập trung vào khu lân cận của biên giới với Thái Lan. 23 Ngay các sự phơi bày cho thế giới thấy bản chất thực sự kinh khiếp của chế độ Pol Pot cũng không đủ giúp cho Việt Nam tránh khỏi sự kết án.

 

PHẢN ỨNG CỦA TRUNG QUỐC

       Một thủ đô không ngạc nhiên bởi hành động này là Bắc Kinh.  Trong thực tế ngay từ Tháng Tám 1978 giới lănh đạo CHNDTQ đă có sự hay biết đáng tin cậy về ư định xâm lăng Căm Bốt của Việt Nam và nhằm loại bỏ chế độ Pol Pot và đă khởi sự cứu xét sự đáp ứng của Trung Quốc. 24 Nhiều phần giới lănh đạo CHNDTQ đă quyết định về hành động quân sự đánh Việt Nam ngay từ giữa Tháng Mười Một 1978 và đă làm như thế để tái khẳng định tự nền tảng sự hiện diện nổi bật của Trung Quốc tại Đông Nam Á. 25 Để hiểu được sự đáp ứng của Trung Quốc đối với cuộc xâm lăng vào Căm Bốt, trong thực tế, toàn thể chiều hướng của Trung Quốc về cuộc xung đột nhiều chiều kích này với Việt Nam, sự vận dụng chính trị toàn cầu và trong vùng, cùng khả năng lănh đạo quốc gia của Đăng Tiểu B́nh cần phải được nh́n nhận.  Chính trong suốt Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ 15 Tháng Mười Một đến 15 Tháng Mười Hai 1978 và Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Ba của Ủy Ban Trung Ương Lần Thứ 11 từ 18 đến 22 Tháng Mười Hai, 1978 mà họ Đặng đă củng cố được quyền hành của ông ta.  Tại các phiên họp này, nhiều phần rằng sự đáp ứng bằng quân sự của Trung Quốc trước “bá quyền” Việt Nam và sự b́nh thường hóa các quan hệ với Hoa Kỳ đă được quyết định và việc ấn định thời điểm các khả tính đă được phác họa. 26 

       Việc ấn định thời điểm của buổi lễ kư kết chính thức “Các Quân Hệ B́nh Thường Hóa” giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, liên quan đến bất kỳ sự đáp ứng quân sự nào của Trung Quốc trước các hành động dự liệu của Việt Nam có tính chất then chốt.  Việc này phải diễn ra khá lâu trước khi có bất kỳ hành động quân sự nào của Trung Quốc đánh lại Việt  Nam.  Sự đồng bộ hóa thích hợp của các yếu tố quân sự và ngoại giao trong sức mạnh là điều cần thiết.  Các văn kiện ngoại giao được kư kết vào ngày 15 Tháng Mười Hai 1978. 27 Sự thành công ngoại giao này cho phép Đặng Tiểu B́nh và giới lănh đạo CHNDTQ phản ứng công khai lúc ban đầu đối với sự xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt trong một cung cách nhẹ nhàng, để cho dư luận trong vùng và thế giới phản ứng một cách bén nhậy hơn nhiều.  Sau đó, khi các ư định thực sự của Việt Nam được phơi bày tại Căm Bốt, Đặng Tiểu B́nh lúc bấy giờ có thể xây dựng trên dư luận thế giới này xuyên qua tài hùng biện lợi hại của ông ta tại Hoa Thịnh Đốn và Nhật Bản về nhu cầu “trừng phạt” hay “dạy một bài hóc cho Việt Nam. 28

       Trong khung cảnh của quyết định sử dụng vũ lực quân sự này, Trung Quốc cũng bắt đầu cứu xét trọn vẹn các giải pháp quân sự khả ứng.  Một giải pháp có tính chất hiển nhiên, và rơ ràng đă nhận được một sự lắng nghe chăm chú trong các buổi họp này, là việc chuyên chở bằng tàu trực tiếp hay di chuyển các binh sĩ của QĐGPNDTQ đến chính Căm Bốt, trợ giúp trực tiếp Khmer Đỏ và chống lại mưu toan của Việt Nam trở thành bá quyền cấp vùng tại Đông Dương.  Cuộc tranh luận riêng biệt này đă được quyết định trên nguyên tắc chính trị xă hội chủ nghĩa có tính chất rất nền tảng rằng việc phái các binh sĩ và máy bay từ nước này đến nước khác, làm vang vọng về ngay chính loại đế quốc chủ nghĩa mà CHNDTQ từ lâu chống đối, và do đó sẽ làm suy yếu nghiêm trọng vị thế của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc và trong công luận thế giới.  Quan trọng không kém của một giải pháp như thế mà Trung Quốc dính líu vào là nó có thể trở thành một sự sa lầy, giống như Triều Tiên trong các năm 1952-54 và như A Phú Hăn sẽ tạo ra cho LBSV. 29

       Đặng Tiểu B́nh và Bộ Chính Trị đă lựa chọn một phương cách hoạt động quân sự tương tự như cuộc chiến tranh biên giới của Trung Quốc năm 1962 với Ấn Độ -- một “cuộc hoàn kích tự vệ” hạn chế để tiến đánh với tính chất trừng phạt Việt Nam ngang qua biên giới chung của hai nước.  Một số tác giả đă lập thuyết rằng trong các thời kỳ đ̣i hỏi sự điều hành cuộc xung đột, chẳng hạn như năm 1950 tại Triều Tiên, cuộc chiến tranh biên giới năm 1962 với Ấn Độ, và sự leo thang ủng hộ cuộc Chiến Tranh với Hoa Kỳ của cộng sản Việt Nam trong các năm 1964-65, các hành động của Trung Quốc đi theo cùng một khuôn mẫu rơ rệt.  Khuôn mẫu hay mô thức điều hành xung đột này, di chuyển qua năm giai đoạn khả dĩ tiên đoán được và leo thang dần dần: thăm ḍ, cảnh cáo, biểu dương, tấn công, và ḥa hoăn.  Ở mỗi giai đoạn, một loạt các hành động của Trung Quốc áp dụng được tính toán để làm áp lực khiến cho đối thủ phải thay đổi thái độ của ḿnh, hay đi theo một sự lượng định về phản ứng của đối phương, để leo thang các hành động đến giai đoạn kế tiếp.  Mô thức này là một thấu kính rất khả thi xuyên qua đó ngắm nh́n sự điều hành xung đột cẩn trọng của giới lănh đạo CHNDTQ và của Đặng Tiểu B́nh ngay trong cuộc khủng hoảng của các năm 1978 và 1979 này. 30 Vào khoảng Tháng Mười Hai 1978, Trung Quốc đă sẵn vượt qua giai đoạn “thăm ḍ” bao gồm nhiều năm khẩu chiến với giới lănh đạo Việt Nam và hoạt động quân sự gia tăng chẳng hạn như việc tuần cảnh biên giới nghiêm ngặt và các sự di chuyển binh sĩ và tàu thủy trong mùa hè và mùa thu.  Đến Tháng Một 1979, CHNDTQ chắc chắn đă nằm trong giai đoạn “cảnh cáo”, đưa ra các lời cảnh cáo rơ ràng, không mơ hồ cho đối phương dưới h́nh thức tuyên truyền hàng ngày, cũng như các sự loan báo chính thức tại Liên Hiệp Quốc hay từ diễn đàn của một cuộc viếng thăm cấp quốc gia tại Hoa Thịnh Đốn. 31 Chiến lược cấp vùng của Trung Quốc (hàm chứa các sự cứu xét toàn cầu) của việc ngăn chặn bá quyền Việt Nam tại Đông Nam Á đă hướng dẫn CHNDTQ đến việc lựa chọn một sự đáp ứng quân sự hạn chế, được xác định một cách thận trọng nhằm đạt được các mục tiêu chính trị cá biệt.  Trung Quốc đă sẵn sàng cho các giai đoạn thứ tư và thứ năm – biểu dương và tấn công.

 

XUNG ĐỘT CẤP VÙNG – SỰ ĐÁP ỨNG QUÂN SỰ

       Với quyết định áp dụng sức mạnh quân sự cho vấn đê chiến lược này đă được lấy, các hoạt động hoạch định, phần lớn nhằm xúc tiến một số mức độ của các kế hoạch dự pḥng sẵn có cho cuộc xung đột với Việt Nam, 32 rơ ràng đă diễn ra theo sau các diễn biến vào cuối Tháng Mười Hai 1978.  Sự vắng mặt của các tư lệnh quân sự chủ chốt trong các sự xuất hiện thông thường, đă dự trù công khai và việc tập hợp không có ǵ là quá kín đáo các binh sĩ tại các khu vực biên giới tại miền nam Trung Quốc được ghi nhận rất rơ bởi mọi quan sát viên quan tâm, từ Hoa Kỳ và hải ngoại và chắc chắn từ Việt Nam. 33

 

CÁC LỰC LƯỢNG VÀ SỰ BỐ TRÍ

       Giới lănh đạo CHNDTQ và QĐGPNDTQ và Không Lực của QĐGPNDTQ (PLA Và PLAAF) bắt đầu sự tổ chức quân đội của ḿnh với tư tưởng, sự tổ chức và hoạch định rơ ràng.  Các sự cứu xét cẩn thận được thực hiện cho các đặc điểm điều hành và chiến lược quân sự của cuộc xung đột sắp đến.  Các vị thế và các khả tính quân sự trong vùng của LBSV, Lào, và Căm Bốt, cùng các yếu tố của Việt Nam đều được cứu xét một cách kỹ lưỡng, chẳng hạn như về các thực tế của đia dư cụ thể, địa thế, các năng lực tương đối của lực lượng quân sự, và tài lực của mỗi bên, và các khía cạnh quân sự và chính trị của việc ấn định thời biểu hành quân. 34 Sự không tham gia của Hoa Kỳ cũng là một giả định nền tảng.

       Về mặt địa dư xem ra Diễn Trường của Cuộc Chiến được lượng định sẽ là tất cả các quân khu hợp thành vùng Miền Nam Trung Quốc, và không chỉ giới hạn ở biên giới Trung – Việt dài 1300 cây số (Xem Bản Đồ 2 – Bản Đồ Chiến Dịch).  Ngoài ra, một phần của Biển Nam Hải, đặc biệt các hải phận tiếp giáp Đảo Hải Nam cho tới Đảo Paracel (Hoàng Sa) của Quần Đảo Tây Sa [Xisha trong nguyên bản, theo cách gọi của Trung Quốc, tức Hoàng Sa của Việt Nam, chú của người dịch], nơi mà hạm đội Nam Hải và máy bay yểm trợ của Trung Quốc hoạt động, được xem là thuộc Chiến Trường. 35 Các khu vực Căm Bốt và Lào được hiểu rất rơ sẽ nằm trong Khu Vực Quyền Lợi (Area of Interest) (và có thể là Khu Vực Ảnh Hưởng (Area of Influence) với hoạt động phối hợp bởi Khmer Đỏ). 36 Điều rơ ràng là đối với cuộc chiến hiển hiện sắp tới giới lănh đạo chiến tranh của CHNDTQ đă cứu xét kỹ lưỡng không gian trận đánh chiến lược quân sự của nó dưới các điều kiện bao quát và rộng lớn – phù hợp với sự kiểm tra của họ về khung cảnh ngoại giao trong vùng và toàn cầu. 37

       Về mặt hành quân, QĐGPNDTQ đă lượng định một cách tổng quát địa dư và địa h́nh của Miền Bắc Việt Nam với cái nh́n thực tiễn của một láng giềng thường đă hoạt động trên địa thế, từ nhiều cuộc xâm lăng trong quá khứ đến các nỗ lực ủng hộ gần đây trong các năm có cuộc Chiến Tranh Hoa Kỳ của Việt Nam.  Đă có một sự thẩm định vững chắc cho các tuyến hành quân khả dĩ tại địa thế bị cắt ngang một cách chằng chịt (Xem Bản Đồ 2).  Địa thế bị cắt chéo c̣n tệ hại hơn ở phía tây, nhưng vài thung lũng đổ xuống thành thung lũng dẫn đến Lào Cai (và kế đó đến vùng đông nam của Hà Nội), trong khi địa thế tương đối rộng mở hơn ở phía đông, với một tuyến hành quân trực tiếp hơn từ Hữu Nghị Quan ở biên giới hay Cao Bằng tới Lạng Sơn, vượt quá điểm đó địa thế nói chung mở rộng hơn xuống các cánh đống trồng lúa trên khoảng cách c̣n lại chừng 85 dậm Anh (miles)  đến Hà Nội.  Như một tác giả đă mô tả:

Địa thế của miền bắc Việt Nam là đồi núi và hiểm trở với rất ít đường lộ.  Có hàng trăm đỉnh núi đá vôi lởm chởm, các thung lũng dân cư thưa thớt khó sinh sống, dốc dựng đứng, và các khu rừng rậm rạp tại vùng tây bắc. Cao độ từ 3000 đến 10,000 bộ Anh (feet), với ngọn núi cao nhất của Việt Nam, Fan Si Pan, cao đến 10,308 bộ Anh … cách Lào Cai khoảng 20 dặm Anh về phía tây nam.  Lạng Sơn nằm dọc hai bên giao lộ của Đường 4 (trong nguyên bản là Quốc Lộ 1, sic) với con đường dẫn đến cửa ải chính, Hữu Nghị Quan sang Trung Quốc, khoảng 15 dậm Anh về hướng bắc.  Đây là con đường xâm lăng lịch sử … 38

 

Bản Đồ 2 – Bản Đồ Chiến Dịch


Ngoài ra, QĐGPNDTQ đă có một sự hiểu biết “địa dư vũ khí” (weapons geography) khá tốt về địa thế.  Các lực lượng diện địa của họ dễ bị xâm kích bởi máy bay Việt Nam tương đối hiện đại hơn nếu chúng vượt quá tầm yểm trợ đạn đạo nằm nghiêng 50 cây số của các hệ thống pḥng không SA-2 tương đối bất động của Trung Quốc.  Thực tế quân sự này cùng với sự hướng dẫn chính trị có thể đă trải qua một bước đường dài để xác định chiều sâu hạn chế của các cuộc hành quân của họ vào nội địa Việt Nam. 39

       Một khía cạnh hiển nhiên quan yếu của việc hoạch định chiến dịch (hay sự hiểu biết các kết quả của nó sau trận chiến) là phải có một sự thẩm định rơ ràng về phẩm chất và định lượng tương đối về các lực lượng quân sự cung ứng của cả hai bên.  Bảng 2 cung cấp một sự định lượng các lực lượng cung ứng lần lượt của Trung Quốc và Việt Nam và cách thức mà chúng được điều động cho cuộc chiến tranh này cũng như các điều kiện quan trọng khác mà xứ sở đối diện.  Trong trường hợp Trung Quốc, QĐGPNDTQ được kính nể trên mặt căn bản định lượng nhờ kích thước tuyệt đối về nhân lực, các đội h́nh [không và hải quân [? formations trong nguyên bản, không rơ nghĩa ở đây, chú của người dịch] và pháo binh, mặc dù lỗi thời.  Các sư đoàn chủ lực quân của  QĐGPNDTQ đă có một tiếng tăm xứng đáng là tuyệt hảo về bộ binh – từ các chiến thuật của đơn vị nhỏ cho đến sự dẻo dài và các kỹ năng chiến đấu của cá nhân người lính.  Ngay trong dân quân, có lần bị gạt bỏ bởi Khrushchev như chỉ là một “đống thịt người”, đă được cải thiện đáng kể trong thập niên 1970 nhờ một sự gia nhập của lớp cán bộ lực lượng chính quy lớn tuổi và sự cung cấp các vũ khí nhỏ thích hợp, được sản xuất trong nước.  Tuy nhiên, tổng số sức mạnh của QĐGPNDTQ trong năm 1979 đă bị sụt giảm bởi thiếu hỏa lực và tính lưu động, chính yếu bởi trang thiết bị lỗi thời của các xe tăng, pháo binh cho đến các phương tiện tiếp vận. 40 Không Lực (PLAAF) và Hải Quân (PLAN) của QĐGPNDTQ là các lực lượng có bản chất c̣n nặng về pḥng thủ hơn với không lực chỉ có ít máy bay có khả năng phi hành trong mọi thời tiết, thiết bị khoa học phi hành và pḥng không yếu kém dựa trên kỹ thuật của thập niên 1950.  Hải Quân Trung Quốc thiếu các chiếc tàu di hành trên mặt biển, các tàu ngầm hiện đại, hay một lực lượng thủy quân lục chiến to lớn, và chỉ có thể dựa vào một học thuyết về nhiều tàu nhỏ tấn công nhanh để cự tuyệt các hải phận ven bờ đối với kẻ xâm lăng. 41 Trong năm 1979, các lực lượng quân sự đă phát sinh từ một thời kỳ 15 năm xáo trộn trong đó sự phân hóa Nga – Hoa trong thập niên 1960 đă làm mất đi một nguồn then chốt của kỹ thuật vũ khí hiện đại và Cuộc Cách Mạng Văn Hóa cùng guồng máy chính trị của Bộ Trưởng Quốc Pḥng Lâm Bưu đă chính trị hóa và làm phân hóa cả cơ cấu quân khu/dân quân với nhiều tổng hành dinh của chủ lực quân.  Hiệu năng của quân đội gặp phải một số sự ngờ vực. 42

       CHNDTQ đă tổ chức các lực lượng của nó cho chiến tranh từ thượng tầng trở xuống như dự kiến bởi Bộ Chính Trị và Thẩm Quyền Trung Ương.  Bộ Chính Trị đă chính thức bổ nhiệm Đặng Tiểu B́nh làm tư lệnh thời chiến, và cả hai tư lệnh phó cùng Geng Biao, Tham Mưu Trưởng của ông ta, cũng đều được rút ra từ Bộ Chính Trị. 43 Kế đó, Đặng Tiểu B́nh đă kích hoạt các mặt trận thời chiến hay các chiến trường tại miền bắc và miền nam xây dựng quanh nhiều quân khu.  Mặt Trận Phương Bắc, đặt tiêu điểm vào mối đe dọa trên đất liền – không phận từ LBSV được đặt dưới sự chỉ huy của Li Desheng, tư lệnh Quân Khu Thẩm Dương, và bao gồm cả các Quân Khu Bắc Kinh, Tế Nam, Lan Châu, và Tân Cương. 44 Mặt Trận Phương Nam (cho hoạt động tại Việt Nam) được chỉ huy bởi viên tư lệnh Quân Khu Quảng Châu 73 tuổi, Xu Shiyou (Hứa Thế Hữu).  Ông ta cũng huy Chiến Trường Phía Đông hay các lực lượng thuộc Cánh Phía Đông.  Chiến Trương Phía Tây (Cánh Phía Tây) được chỉ huy một cách hiệu quả bởi Yang Dezhi (Dương Đắc Chí), với các lực lượng chính yếu rút từ quân khu Côn Minh, mặc dù gần như mọi quân khu đều có đóng góp một số binh sĩ cho Mặt Trận Phương Nam. 45

       Các lực lượng về phía Việt Nam cần phải được xem xét một cách cẩn thận.  Quân đội của họ được kính nể nhờ kinh nghiệm thu hoạch được trong 25 năm chiến chinh diễn ra trước cuộc xung đột này.  Sự thất trận của Pháp, Mỹ [sic] và Khmer Đỏ c̣n mới mẻ trong động lực của đội ngũ. 46 Sự hiện diện của hơn 3,000 cố vấn Sô Viết tại Việt Nam là một nguồn cội về kỹ thuật, tính chuyên nghiệp và sự đụng chạm.  Không Lực Việt Nam th́ nhỏ nhưng khá hiện đại và dầy kinh nghiệm, trong khi Hải Quân của Việt Nam là một phiên bản thu nhỏ của hải quân Trung Quốc, với hy vọng có được sự hiện đại hóa và huấn luyện của Sô Viết. 47 Khi cuộc khủng hoảng được mở ra, Việt Nam đă mời gọi sự lănh đạo của anh hùng Điện Biên Phủ và Chiến Tranh Hoa Kỹ, Tướng Vơ Nguyên Giáp để chỉ huy các đơn vị đối phó với cuộc khủng hoảng.  Ông ta hiểu ngay bằng trực giác các vấn đề cấp vùng đang lâm nguy, cũng như các động lực “hạn chế một cách cẩn thận của cuộc xung đột, và t́nh h́nh quân sự của Việt Nam với các lực lượng vị phân tán rộng lớn khắp Đông Dương. 48  Không may cho ông Giáp, như kẻ pḥng thủ, khởi thủy ông không nắm được thế chủ động, thay vào đó phải chờ đợi các quyết định về thời điểm hành quân từ đối thủ của ông ta.

 

 

CÁC LỰC LƯỢNG ĐIỀU DỤNG – TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM 49

TRUNG QUÔC                                                                                                                                                                                       

Năng Lực Quốc Gia:

Lục Quân: Lực lượng vũ trang gồm 4.3 triệu lính, thuộc 11 quân khu; QĐGPNDTQ: 3.6 triệu, 175 sư đoàn, 9000 xe tăng T-59, 20,000 khẩu pháo phần lớn quá hạn.

Không Quân: 5000 máy bay chiến đấu – phần lớn đă lỗi thời (chủ yếu MIG-19, cũng có MIG-17, Il-28, và một ít F-6bis và MIG-21.                                         

Hải Quân: 1500 tàu [kể cả 14 khu trục/hộ tống hạm, hơn 140 tàu tuần tra chạy nhanh, hơn 70 tàu ngầm thời Thế Chiến II] thuộc ba hạm đội                               

Chiến Trường Khác: (Mặt Trận Phương Bắc) tại biên giới Nga-Hoa – Báo động toàn diện vào lúc khởi sự cuộc chiến tranh; 300,000 dân không tham chiến được di tản; Con số chính xác các sư đoàn                                                                          không được hay biết – nhưng Bắc Kinh thông thường được bảo vệ bởi 55 sư đoàn & 4,700 xe tăng và 3 quân khu khác cũng cung cấp lực lượng.                                  

Lực Lượng LBSV: 44 Sư Đoàn (một phần ba đầy đủ quân số; Bộ Chỉ Huy Không Quân Sô Viết tại biên giới với 2,000 máy bay tân tiến.

CHIẾN TRƯỜNG: Mặt Trận Nam Trung Quốc                 

Tư Lệnh: Xu Shiyou (Hứa Thế Hữu) (kiêm Tư Lệnh Cánh Đông).                                   

Không Quân: 984 phi cơ ở 15 căn cứ; Pḥng không: SA2 từ biên giới yểm trợ sâu 50 km trong Việt Nam     

Hải Quân: Hạm đội Nam Hải – 2 khu trục hạm, 31 tàu tuần tra chạy nhanh/hộ tống khu trục hạm, 20 tàu ngầm.                                                                                   

Lực Lượng Xâm Lăng                                                       .         

Hai Cánh; 8 Quân Đoàn và 7 sư đoàn biệt lập (31 sư đoàn); 330,000 lính (sau tăng lên 400,000); và 1200 xe tăng.                  

Cánh Tây : [3 Quân Đoàn, 2 Sư Đoàn, 1 Sư Đoàn Pháo Binh & 1 Sư Đoàn Pḥng Không] (Tuyến hoạt            động chính[?]: Lào Cai-Hà Nội; tuyến phụ [?]: Lai Châu / Hà Giang – Lào Cai)

Cánh Đông: [5 Quân Đoàn, 1 Sư Đoàn Pháo Binh & 1Sư Đoàn Pḥng Không] (tuyến hoạt động chính: Hữu Nghị Quan – Lạng Sơn – Hà Nội; tuyến phụ: Cao Bằng – Lạng Sơn.                                                           

 

[đấu với]

 

VIỆT NAM

Năng Lực Quốc Gia:          

Lục Quân:1.5triệu lính; 615,000 quân chính quy được huấn luyện hoàn hảo gồm 25 sư đoàn; các trung đoàn đặc biệt (thiết giáp, công binh…)

Không Quân: 300 máy bay chiến đấu, MIG-17, MIG-19, SU-7*, MIG-21 – 23, pḥng không lăo luyện [?], SAM (SA 3,6, 7) và súng pḥng không (ZU-33, ZSU-23-4, ZSU 57-2)

Hải Quân: 2 khu trục hạm Petya, 32 tàu tuần tra chạy nhanh. [Ghi chú: Hơn 3000 cố vấn Sô Viết có mặt trong nước) *

Chiến Trường Khác: (Mặt Trận Căm Bốt/Lào) Tại Lào: 6 sư đoàn chính quy.  Tại Căm Bốt: 12 sư đoàn chính quy * (18 trên 25sư đoàn).  Lực Lượng Khmer Đỏ:  60,000 lính thuộc 4 sư đoàn và 3 trung đoàn độc lập; đồ trang thiết bị hỗn tạp từ Sô Viết, Trung Quốc và Mỹ.    

CHIẾN TRƯỜNG: Mặt Trận Bắc Việt Nam

Tư Lệnh: Vơ Nguyên Giáp

Không Quân: Không lực khả cung tại miền bắc nhưng không được sử dụng; Pḥng không: không bị thách đố bởi Không Lực Trung Quốc

Hải Quân: không ghi nhận được hoạt động; nhiều phần nhờ có đoàn tàu đặc nhiệm 14 chiếc của LBSV trong hải phận Việt Nam

Pḥng Vệ Sâu Rộng:

Lực Lượng An Ninh Biên Giới: 70,000 lính 50,000 dân quân * [gồm 6 sư đoàn địa phương và một trung đoàn địa phương].

Lực Lượng Chính Quy:[2 sư đoàn tại vùng phụ cận Lạng Sơn]

Trừ Bị: Đóng quân gần Hà Nội – [5 sư đoàn chính quy & 4 trung đoàn đặc biệt – 1 trung đoàn thiết giáp, 1 trung đoàn pháo binh, 1 trung đoàn công binh, 1 trung đoàn pḥng không]

      

BẢNG 2: CÁC LỰC LƯỢNG ĐƯỢC ĐIỀU DỤNG

       Các sự cứu xét thời biểu quân sự then chốt cho việc thực hiện cuộc hành quân hồi giữa Tháng Hai 1979 được xây dựng chung quanh cả các thực tế ngoại giao lẫn các khía cạnh quân sự về thời tiết, tiếp vận và sự bất ngờ chiến thuật.  Về mặt chính trị, Tháng Hai 1979 là thời điểm đúng cho chiến tranh giới hạn này không chỉ bởi làn sóng của dư luận thế giới chống lại Việt Nam tiếp theo sau cuộc xâm lăng vào Căm Bốt và trận đấu ngoại giao được hoàn tất một cách quyết định tại Hoa Kỳ, mà cũng c̣n bởi các hiệu ứng làm cùn nhụt các lựa chọn đáp ứng của LBSV do các giai đoạn sau cùng đang diễn ra của các cuộc thương thảo Hiệp Ước SALT II đưa đến.  Các khía cạnh quân sự của việc ấn định thời biểu phải bao gồm các sự kiện không chỉ sự kiện Việt Nam đă trải mỏng các lực lượng quan trọng ở cả Lào lẫn Căm Bốt giờ đây, mà cả sự kiện Việt Nam đang ở vào điểm tiếp vận thấp dựa trên việc bị mất 50% số nhập cảng xăng dầu hàng tháng do sự cắt đứt sự chuyển giao của Trung Quốc hồi Tháng Mười Một 1978.  Ngoài ra, các điều kiện thời tiết Tháng Hai trùng hợp tại miền bắc Trung Quốc và miền bắc Việt Nam, chỉ cùng thuận lợi trong thời khoảng vài tuần lễ.  Các trận mưa Tháng Tư tại miền bắc Việt Nam sẽ được né tránh, trong khi sự tan băng trên mặt đất và các con sông then chốt tại biên giới Nga – Hoa sẽ không bắt đầu cho đến Tháng Tư.  Việc thực hiện mau chóng cuộc chiến tranh giới hạn nhằm kết thúc nó dưới thời tiết thuận lợi cho sự pḥng thủ của Trung Quốc ở phương bắc, nếu cần thiết.  Sau cùng, đă có một cơ hội giành được một số sự bất ngờ chiến thuật bằng việc khởi sự cuộc chiến tranh đánh Việt Nam trong thời gian có cuộc thăm viếng Bắc Kinh lần đầu tiên bởi một viên chức nội các Ấn Độ, Ngoại Trưởng Vajpayee, kể từ cuộc chiến tranh biên giới năm 1962 với Ấn Độ.  Việt Nam đang theo dơi chặt chẽ biến cố này và có lẽ sẽ không chờ đợi một cuộc tấn công trong khi cuộc thăm viêng đang diễn ra. 50

 

CHIẾN DỊCH QUÂN SỰ (17 THÁNG HAI – 5 THÁNG BA)

       Trong khi theo đuổi cuộc chiến tranh này, Trung Quốc đă t́m kiếm một số mục tiêu chiến lược trên chiến trường được xác định rơ ràng và các mục tiêu khác không được nh́n nhận một cách công khai.  Các mục tiêu đó là:

       - Trừng phạt Chính Phủ Việt Nam (không phải dân chúng [sic]) và “phá vỡ huyền thoại về một Việt Nam không bị khuất phục”. 51

       - Lấy đi một vài mức độ trong tính linh động của Hà Nội trên một số vấn đề quan yếu; biểu lộ sự nghiêm nghị của Bắc Kinh khi nh́n ngắm thái độ cứng đầu của Hà Nội và tiềm năng của Trung Quốc để làm điều ǵ đó đối với thái độ đó. 52

       - Đánh bại “Cuba Á Châu”, theo đó làm mất uy tín của LBSV như một đồng minh đáng tin cậy. 53

       - Không phát biểu: tránh đ̣i hỏi đổi chác sự triệt thoái khỏi Căm Bốt hầu giảm thiểu khả tính của sự leo thang và trắc nghiệm vô hạn ư chí quốc gia. 54

       - Không phát biểu (mà c̣n quyết liệt phủ nhận): phô bày sức mạnh quân sự cấp vùng của Trung Quốc. 55

       - Không phát biểu: trắc nghiệm quân đội Trung Quốc để xem là liệu QĐGPNDTQ đă hồi phục hay chưa từ óc bè phái (factionalism) của Lâm Bưu và chứng thực rằng các đề xướng hiện đại hóa là cần thiết.

Các mục tiêu chiến lược của Việt Nam, trong khi it được phổ biến hơn, gồm:

       - Bảo tồn các thắng lợi / các hoạt động tại một Liên Bang Đông Dương rộng lớn hơn (có nghĩa Lào và đặc biệt tại  Căm Bốt). 56

       -Hướng dư luận thế giới vào sự xâm lược của Trung Quốc và kế đó sự thiếu vắng các kết quả quân sự.

       - Thực hành các nghĩa vụ theo hiệp ước của LBSV đến mức tối đa khả dĩ  (các cố vấn, tái tiếp tế các vũ khí then chốt, và sự hiện diện của hải quân). 57

       - Đánh bại về mặt hành quân/chiến thuật lực lượng xâm lăng của Trung Quốc mà không có sự tham chiến lớn lao của các lực lượng chính quy, sự triệt thoái lực lượng ra khỏi Căm Bốt hay sự động viên sâu rộng (tốn kém).     

Giai Đoạn I: Sự Pḥng Vệ Biên Giới Ngoan Cường (17-22 Tháng Hai)

       Chiến dịch bắt đầu lúc 5 giờ sáng ngày 17 Tháng Hai 1979, theo sau một loạt pháo kích dữ dội với các cuộc tấn công mạnh mẽ bởi 100,000 lính QĐGPNDTQ tại nhiều điểm khác nhau nằm dọc theo biên giới Việt Nam (xem Bản Đồ 2).  Cả hai Cánh Đông và Cánh Tây của Mặt Trận Phương Nam đă phóng ra 5 mũi tấn công chính băng qua biên giới với các vụ vượt biên thực sự diễn ra tại những 26 địa điểm khác nhau. 58 Với việc tấn công trong một cung cách phân tán như thế, QĐGPNDTQ đă khiến cho phía Việt Nam bị bất ngờ về các mục tiêu thực sự của Trung Quốc và cùng lúc cho thấy họ t́m kiếm một điều ǵ đó khác hơn chiến thắng quân sự quyết định. 59 Tại phía tây, một mũi chính (Quân Đoàn 13 và Quân Đoàn 11) đă nhắm trực tiếp vào Lào Cai, với các cuộc tấn công yểm trợ bởi các sư đoàn của chúng lần lượt nhắm vào các tỉnh lỵ Lai Châu và Hà Giang.  Tại phía Đông, Quân Đoàn 41 nhắm vào Cao Bằng và Đồng Khê, trong khi Quân Đoàn 42 tấn công xuyên qua Hữu Nghị Quan , tiến tới Đồng Đăng và sau đó đến Lạng Sơn, trong khi một Sư Đoàn tiến quân đến Móng Cái nằm dọc theo bờ biển. 60

       Các mục tiêu cấp chiến dịch của Mặt Trận Phương Nam là: 1) chiếm đoạt mau chóng giải đất sâu đến 50 km trong nội điạ Việt Nam và các tỉnh lỵ (đặc biệt Lào Cai và Lạng Sơn); 2) giao chiến và hủy diệt vài sư đoàn Việt Nam tại tiền tuyến; và 3) triệt tiêu “các nơi đặt súng và các cơ sở đe dọa Trung Quốc”. 61 Từ lúc khởi đầu giới lănh đạo CHNDTQ đă giới hạn nghiêm ngặt các mục đích, khuôn khổ và thời hạn của chiến dịch quân sự, 62  

       Các mục tiêu cấp chiến dịch của Việt Nam là: 1) tŕ hoăn và gây tổn thất cho các cuộc tấn kích khởi đầu của QĐGPNDTQ tại các khu vực biên pḥng địa phương vững chắc; trong khi, 2) tập hợp đội quân chính quy của họ tại các đồng bằng phía nam của Cao Bằng và Lạng Sơn; hầu 3) đánh bại quân Trung Quốc đă suy yếu trong một trận đánh chính yếu tại hay vừa quá tầm 50 km của sự yểm trợ pháo binh tính từ biên giới Trung Quốc. 64

       Địa thế, sự tiếp vận và các sự pḥng thủ biên giới, đă sớm làm giảm bớt nhuệ khí ban đầu của cuộc tấn công của QĐGPNDTQ.  Địa h́nh núi non, với các cánh rừng rậm và thiếu vắng các đường lộ dọc theo các trục tấn công đă được lựa chọn, đă mau chóng đè bẹp nỗ lực tiếp vận của Trung Quốc chưa được hiện đại.  Quan trọng không kém, tuy thế, là sự pḥng vê biên giới của phía Việt Nam mănh liệt không ngờ: các sư đoàn trong vùng và các dân quân địa phương đàng sau một mê cung của các đường hầm, hang động, hào chiến đấu, băi ḿn, bẫy sập, bẫy cọc và các khu vực hạ sát được chuẩn bị kỹ lưỡng với hỏa lực pháo binh được tập trung.  Phía Trung Quốc thường trực bị phân chia thành các đơn vị ngày càng nhỏ hơn nữa (tiểu đoàn, rồi đại đội, và rồi trung đội) để thực hiện bất kỳ sự tiến quân nào; điều sớm xảy ra là sự giao tranh từng đường hầm một, từng ngọn đồi một”. 65 QĐGPNDTQ đă phải cần đến vài ngày để sau cùng băng qua được các cửa ải biên giới và tiến được khoảng 5 dậm Anh hầu vươn tới mạng lưới đường lộ nội địa Việt Nam.  Sau đó, chúng ngừng nghỉ và chờ đợi đạn dược và quân tăng phái.  Phía Việt Nam phóng ra hai cuộc phản công.  Cuộc phản công đầu tiên tại Lào Cai, chiếm giữ một khúc đường trong hai ngày và đă phục kích các đoàn xe tái tiếp tế trong khi cuộc phản công kia đạt được ít thành công trên con đường duyên hải phía tây Móng Cái. 66

       Vào các ngày 21 và 22 Tháng Hai, một sự ngưng chiến ngắn được tiếp nối bởi điều mà một số người cảm thấy đă đánh dấu sự kết thúc giai đoạn biểu dương của CHNDTQ, trong đó CHNDTQ đă lượng định phản ứng và tuyên truyền của Việt Nam, các ư định của LBSV, và phản ứng toàn cầu nói chung. 67 Trong khi đó, mỗi phía đều đưa ra các lời tuyên bố trái ngược về sự thành công cho báo chí quốc tế.  Việt Nam tuyên bố đă gây ra tổn thất nặng nề tại vùng phụ cận của Cao Bằng và đă tiêu diệt bốn tiểu đoàn, nhiều xe tăng và quân xa, được nói đă được thực hiện hoàn toàn bởi các binh sĩ biên pḥng mà không có sự tham chiến của các lực lượng chính quy.  Phía Trung Quốc tuyên bố đă gây ra một tổn thất cho hơn 10,000 người Việt Nam với số thiệt hại cho Trung Quốc ít hơn 3,000 lính. 68 Với t́nh trạng cô lập của khu vực giao chiến, bản chất toàn trị độc tài của hai chế độ với các guồng máy tuyên truyền của họ hoạt động tối đa, cùng với sự xuyên tạc tin tức bổ túc của LBSV, các nguồn tin về các kết quả chiến trường chính xác khá nhất chỉ là nguồn tin thứ yếu và luôn luôn đáng nghi ngờ.  Hậu quả, đă có các sự biến đổi lớn lao trong các sự ước lượng các lực lượng can dự, ngay bởi các nguồn tin tức đặt cơ sở ở Á Châu, và các chi tiết như thế tiếp tục biến mất ngay cả trong các cuộc điều tra thâm cứu nhất về cuộc chiến tranh này bởi các sử gia. 69

Giai Đoạn II: Nỗ Lực Của QĐGPNDTQ Tiến Tới Lạng Sơn (22-27 Tháng Hai)

       Vào ngày 22 Tháng Hai hoạt động trên chiến trường một lần nữa  gia tăng và QĐGPONDTQ, sử dụng hai sư đoàn tinh khôi, tái lập các cuộc tấn công của họ giữa lúc có nhiều báo cáo về các lực lượng chính quy của Việt Nam bắt đầu di chuyển lên hướng bắc. 70 Trong trận đánh nặng nề nhất của cuộc chiến 6 ngày, binh sĩ QĐGPNDTQ đă phóng ra các cuộc tấn công bổ túc trên Xa Lộ 1 phía bắc Lạng Sơn và hoàn tất sự chiếm giữ của họ tại các tỉnh lỵ của Lào Cai và Cao Bằng, cũng như lănh thổ khắp bốn tỉnh miền bắc then chốt.  Vào ngày 23 Tháng Hai QĐGPNDTQ đụng độ lần đầu tiên với các trung đoàn được trang bị hoàn hảo của hai sư đoàn quân chính quy Việt Nam tại vùng phụ cận của Lạng Sơn (xem Bảng 2). 71 Tiêu điểm rơ ràng của hoạt động được khai triển chung quanh Lạng Sơn đối với cả hai bên.

       Trong 10 ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh rơ ràng là các năng lực và sự sử dụng Không Lực của QĐGPNDTQ sẽ bị hạn chế nghiêm trọng trong suốt cuộc xung đột này. 72 Trong khi chắc chắn sự kiện này có thể biện minh được trên một căn bản chính trị,  chẳng hạn như tương ứng với các mục tiêu hạn chế của cuộc chiến tranh và ước muốn không leo thang, rơ ràng nó đă có một căn bản quân sự thực tiễn hơn nhiều.  Bất kể một số lượng lớn lao các máy bay Trung Quốc có trong tay và nằm trong tầm mức của trận chiến (xem Bảng 1), mối đe dọa của máy bay tinh vi được lái bởi các phi công lăo luyện, và đặc biệt, dăy dàn hàng oai phong của các vũ khí pḥng không của Việt Nam có nguồn gốc Sô Viết (các hỏa tiễn SA3, SA6, các súng pḥng không ZSU-23-4, và ZSU-57-2) khiến cho giới lănh đạo CHNDTQ và Không Lực QĐGPNDTQ phải tiến hành một cách thận trọng.  Kết quả chỉ có một số rất hạn chế các phi vụ băng qua biên giới của Không Lực QĐGPNDTQ, trong thực tế tất cả đều có bản chất “yểm trợ trên trời” và rất ít phi vụ “yểm trợ không-địa” để trợ lực vào sự trấn áp các tuyến pḥng thủ Việt Nam ngoan cường, gây chết người, hay tạo sự thuận lợi cho các sự khai thông cho cuộc tấn công.  Trong khi đó, QĐGPNDTQ đang phải gánh chịu các tổn thất nặng nề trên mặt đất. 73

       Ngay cả khi cuộc giao tranh đẫm máu này gia tăng cường độ và cả hai bên đă dự tưởng về một trận đánh chung cuộc, dữ dội nhất [trong nguyên bản ghi sai từ climatic battle, thay v́ phải là climactic, th́ câu văn mới có ư nghĩa, chú của người dịch], phía Trung Quốc tiếp tục đưa ra các dấu hiệu ngoại giao của nó về các chủ định hạn chế.  Vào ngày 23 Tháng Hai, Geng Biao, Trưởng Ban Liên Lạc Đối Ngoại và Đặng Tiểu B́nh, Tham Mưu Trưởng cuộc chiến, đă thông báo với các đại sứ tây phương then chốt rằng cuộc chiến sẽ kéo dài khoảng một tuần đến mười ngày nữa và rằng Trung Quốc sẽ rút ra ngay khi các mục tiêu của nó đă đạt được.  Cùng lúc, Đăng Tiểu B́nh đă chuyển thông điệp này đến chủ tịch Cộng Đồng Kinh Tế Âu Châu cũng như chủ tịch Hăng Thông Tấn Kyodo của Nhật Bản.  Vào ngày 25 Tháng Hai, Phó Thủ Tướng Đặc Trách Kỹ Nghệ của CHNDTQ, Weng Chan, cũng tuyên bố thẳng thừng rằng không có ư định di chuyển xuống Hà Nội.  LBSV theo dơi kỹ lưỡng tất cả các sự kiện này, nhưng ngoài một số di chuyển hải quân tuyển chọn tại Biển Nam Hải, các chuyến bay tái tiếp tế đến Việt Nam, và lời lẽ đ̣i hỏi có tính chất đe dọa rằng Trung Quốc “hăy rút tay ra khỏi” Việt Nam, Liên Bang Sô Việt đă âm thầm thông báo cho vài nhà ngoại giao á châu và tây phương tại Mạc Tư Khoa, rằng chừng nào cuộc chiến tranh c̣n được hạn chế, LBSV sẽ không can thiệp. 74

       Vào ngày 26 Tháng Hai, binh sĩ Trung Quốc mỗi lúc tập hợp nhiều hơn tại vùng phụ cận của Lạng Sơn. 75 Một lần nữa, giới lănh đạo CHNDTQ đă lượng định t́nh t́nh, từ sự bày bố chiến thuật cho đến phản ứng trên toàn cầu.  Với giai đoạn “biểu dương” của Trung Quốc không có thể chiêu gọi sự đáp ứng mong muốn từ phía Việt Nam, giới lănh đạo CHNDTQ đă đẩy mạnh hoạt động của họ sang “giai đoạn tấn công”.  Giai đoạn này được tŕnh bày như một hoạt động trên đất liên đại quy mô được thiết kế để gây tổn hại nghiêm trọng trên các lực lượng của phe địch, với các mục tiêu vượt quá các mục tiêu bị giới hạn nhiều của giai đoạn biểu dương. 76 Tiêu điểm của trận đánh chính yếu này sẽ là tỉnh lỵ của Lạng Sơn và các lực lượng Việt Nam, kể cả các lực lượng chính quy, được tập hợp ở đó.  Ngay trong khi họ khởi sự nâng cao cường độ lên một mức độ mới, giới lănh đạo CHNDTQ đă cẩn thận gửi đi tín hiệu “chiến tranh hạn chê’ đến mọi thính giả.  Vào ngày 26 Tháng Hai Phó Thủ Tướng họ Đặng một lần nữa đă nói với Thông Tấn Xă Kyodo tại Nhật Bản rằng cuộc xâm lăng của Trung Quốc sẽ kết thúc trong ṿng khoảng 10 ngày. 77

Giai Đoạn III – Trận Đánh Lạng Sơn/ Từ Pḥng Thủ Đến Triệt Hủy (28 Tháng Hai – 5 Tháng Ba)

       Vào ngày 27 Tháng Hai, phía Trung Quốc đă tăng cường nỗ lực quan trọng kế tiếp của ḿnh bằng việc đẩy thêm hai sư đoàn đến Lạng Sơn từ các đơn vị QĐGPNDTQ đă đánh chiếm Đồng Đăng và Lộc B́nh, cũng như đă phái các đơn vị mới băng qua biên giới. 78 Dự trù các biến cố then chốt sắp tới, Tướng Giáp đă sẵn phái các sư đoàn chính quy Việt Nam đến Lạng Sơn, kể cả Sư Đoàn 308 nổi tiếng ở trận Điện Biên Phủ.  Ông ta giờ đây cũng phái một sư đoàn chính quy từ Đà Nẵng ra Móng Cái và cho rút một sư đoàn từ Lào để di chuyển đến trận đánh tại Lào Cai, trong khi giữ lại hầu hêt 5 sư đoàn chính quy làm trừ bị quanh Hà Nội, chưa tham chiến. 79

       Cuộc tấn công của Cánh Phía Đông, Mặt Trận Phương Nam để chiêm cứ Lạng Sơn tŕnh chiếu một cuộc tấn công chính dọc Xa Lộ 1A trong đó các số tổn thất thật nặng nề cho cả hai bên (được tường thuật có cả ngh́n xác chết rải rác dọc Xa Lộ), trong khi các cuộc tấn công thứ yếu trải rộng diễn ra khắp vùng thôn quê bao quanh thành phố. 80 Sự giao tranh thường diễn ra ban đêm, gần sát các vị trị đóng quân, với các trung đoàn QĐGPNDTQ t́m cách đi ṿng quanh các cạnh sườn của tuyến pḥng thủ Lạng Sơn trải dài.  Phía Trung Quốc quyết tâm rải quân để cắt đứt mọi đường lộ thứ yếu của sự di chuyển và tăng viện cho quân pḥng thủ Việt Nam, từ đó né tranh trận đánh kéo dài của sự tái tiếp tế và tăng viện mà viên tư lệnh Quân Đội Việt Nam t́m kiếm. 81 Các cuộc tấn công của QĐGPNDTQ vào phức hợp đồi núi bao quanh đă bị kháng cự dừ dội nhưng sau cùng đă thành công vào cuối ngày 2 Tháng Ba.  Lạng Sơn bị bao vây ngoại trừ vị trí then chốt trên ngọn núi Khấu Mă Sơn. 82 Sự kéo dài của tuyến pḥng thủ có thể không được dự liệu, bởi phía Trung Quốc đă báo cáo sai lạc sự thất thủ của Lạng Sơn trong ba ngày liên tiếp, trong khi sự giao tranh “đă chứng kiến loại chiến đấu tàn bạo nhất, khi quân pḥng thủ bị đánh đuổi ra từng ngôi nhà một., từ căn hầm một, và từng đường hầm một”. 83

       Trong suốt thời kỳ nguy kịch này, sự giao tranh thứ yếu tiếp diễn khắp miền bắc Việt Nam, tại tây nam Lào Cai, và nam Cao Bằng, và tại vùng phụ cận của Móng Cái.  Để làm giảm một số áp lực, phía Việt Nam đă phóng ra thành công các cuộc đột kích băng qua biên giới vào hai thị trấn của Trung Quốc ở tỉnh Quảng Tây, lợi dụng bản chất cách quăng, không kề cận nhau trong các cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam và phơi bày tính khả dĩ bị xâm kích của Trung Quốc tại khu vực hậu phương. 84

       Vào ngày 3 Tháng Ba các cuộc tấn kích sau cùng của trận đánh Lạng Sơn đă được phóng ra để giành đoạt ngọn núi Khấu Mă Sơn.  Một cuộc tấn kích mạnh mẽ của bộ binh-xe tăng Trung Quốc chiếm cứ Đồi 303 làm khu vực xuất quân cho cuộc tấn công sau cùng, thu hút một loạt pháo kích mau lẹ của Việt Nam.  Dù thế các xe tăng và bộ binh đă tái lập cuộc tấn công, loại trừ từng vị trí một trong 6 vị trí hỏa lực của Việt Nam trên ngọn núi.  Ít giờ sau khi có sự thất thủ của vị trí trên ngọn núi, QĐGPNDTQ tiến vào thành phố Lạng Sơn. 85 Như một phần kết hợp trong các hoạt động. của nó từ 1 đến 5 Tháng Ba, các đơn vị QĐGPNDTQ đă củng cố địa h́nh chiếm đoạt được và tái tiếp tế cho các đơn vị tiền phương của chúng.  Một số nhà phân tích có nhận thấy sự tăng cường nỗ lực khi QĐGPNDTQ dự liệu và mong ước một cuộc phản công quy mô cu/a Việt Nam với các lực lượng chính quy.  Sự việc này sẽ cho phép QĐGPNDTQ thực hiện nhiều hơn mục tiêu tiêu diệt., “các đơn vị chủ lực .. và để đạt được mục tiêu làm chảy máu nghiêm trọng phía Việt Nam”, cũng như mang lại loại kết cuộc cho cuộc “hoàn kích tự vệ” của CHNDTQ  mà giới lănh đạo hằng mong đợi. 86

Giai Đoạn IV: Sự Triệt Thoái Của QĐGPNDTQ (6-16 Tháng Ba)

       Với cuộc phản công chờ đợi (và mong muốn) từ phía Việt Nam đă không khai triển tại vùng phụ cận Lạng Sơn, vào ngày 5 Tháng Ba giới lănh đạo CHNDTQ đă lượng định một mức độ vừa đủ của sự hoàn thành các mục tiêu của họ và tiến tới “giai đoạn ḥa hoăn”, loan báo công khai ư định của họ bắt đầu sự triệt thoái mau lẹ các lực lượng xâm lăng. 87 Cùng lúc, CHNDTQ gửi đi các lời yêu cầu ngoại giao để khởi sự các cuộc đàm phán về cuộc khủng hoảng và các vấn đề, cũng như đưa ra một sự đe dọa về sự quấy rối hay giao chiến của Việt Nam đối với các lực lượng triệt thoái. 88 Sự đáp ứng của Việt Nam gồm hai mặt, trước tiên, bác bỏ các cuộc đàm phán được yêu cầu như một tṛ lừa gạt và đưa ra một lời kêu gọi tổng động viên, và thứ nh́, chấp nhận “phương cách trải thảm đỏ” cho phép các đơn vị QĐGPNDTQ được rút lui khỏi miền bắc Việt Nam mà không bị quấy nhiễu. 89

       Sự triệt thoái cụ thể của QĐGPNDTQ được tổ chức có hệ thống và được thực hiện với an ninh trọn vẹn, sử dụng một kỹ thuật nhẩy chồm tới (bounding technique) với các đơn vị bảo vệ sau đuôi.  Với phương cách này trong khi thực hiện sự triệt hủy rất đặc biệt hạ tầng cơ sơ khi chúng đi qua, QĐGPNDTQ đă vẽ lại con đường xâm nhập của nó và thoát ra khỏi Việt Nam tương đối không bị quấy nhiễu, hoàn tất cuộc di hành của nó vào ngày 16 Tháng Ba. 90 Các điểm xâm nhập của QĐGPNDTQ đo được sâu từ 18 đến 25 dậm Anh, với điểm sâu nhất trên trục tiến quân Lào Cai.  Sự thi hành chính sách tiêu thổ (scorched earth policy) xảy ra khắp nơi và hữu hiệu.  Mọi cây cầu, đường xá, dây điện, kênh tưới tiêu, và kiến trúc bên trong khu vực chiếm đóng đều bị phá hư hay triệt hạ.  Hà Nội đă tố giác quân Trung Quốc đă san bằng hơn 320 làng trong sáu tỉnh, cũng như các tỉnh lỵ của Lào Cai, Lạng Sơn, và Móng Cái. 91

       Các sự kiện này không phải là các sự thù nghịch sau cùng của Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba.  Chỉ vài tuần sau khi có sự triệt thoái của Trung Quốc ra khỏi Bắc Việt Nam, phe Khmer Đỏ đă tái lập áp lực của họ bằng việc phóng ra các cuộc đột kích quy mô tương đối thành công vào các tỉnh lỵ Việt Nam kề cận trong mùa xuân 1979. 92 Trong thực tế, như thời kỳ 1980-1983 sẽ cho thấy, t́nh h́nh quân sự tại Căm Bốt vẫn chưa được giải quyết và tiếp tục vang vọng dọc biên giới Trung – Việt từng hồi.

 

CÁC KẾT QUẢ VÀ SỰ LƯỢNG ĐỊNH QUÂN SỰ

       Các “kết quả” phác họa nơi Bảng 3 cung cấp một sự phân tích hay nhất về việc tường tŕnh thổi phồng và mâu thuẫn trên các sự kiện chung quanh các số tổn thất trong cuộc chiến tranh Tháng Hai-Tháng Ba 1979 đối với Trung Quốc và Việt Nam.

 

KẾT QUẢ: CÁC TỔN THẤT NHÂN MẠNG VÀ VẬT CHẤT 93

Loại                                                                        Trung Quốc                                   Việt Nam

Tổn Thất Nhân Mạng:

Bị Chết Khi Hoạt Động                                           26,000                                            30,000

Bị Thương Khi Hoạt Động                                      37,000                                            32,000

Tù Binh Chiến Tranh                                                   260                                             1,638

 

Tổn Thất Trang Thiết Bị:

Xe tăng, xe bọc sắt                                                       420                                                 185

Súng và súng cối hạng nặng                                           66                                                 200

Địa điểm đặt dàn hỏa tiễn                                               0                                                     6

(Không có tổn thất không / hải quân đối với cả hai bên)

 

Tổn Thất Hạ Tầng Cơ Sở:  

Một số làng và thị trân bên trong Trung Quốc bị đột kích bởi                                        3 tỉnh lỵ và 320 làng bị san bằng – các kiến trúc,                               

Kích bởi các lực lượng phản cộng                                                                                  cầu, kinh đào, đường dây điện/điện thoại bị phá hủy.                        

 

BẢNG 3: CÁC KẾT QUẢ QUÂN SỰ

       Có lẽ “kết quả” được chấp nhận phổ biến nhất của cuộc chiến tranh “hạn chế” 18 ngày này là nó th́ kịch liệt và đẫm máu.  Một sự hiểu biết toàn diện hơn về cuộc xung đột và “các kết quả”(results) của nó có thể có được bằng cách khảo sát trước tiên cả các khía cạnh quân sự trong sự thực hiện của Trung Quốc trong năm 1979, sau đó phác họa hậu quả (aftermath) chiến lược bộc lộ ra của cuộc xung đột trong các biến cố của thập niên 1980 và 1990, để bao gồm chiều hướng thay đổi của CHNDTQ trong quân đội của nó trong thời kỳ này.

       Sự phân tích hoạt động của Trung Quốc trong cuộc xung đột cấp vùng và bản thân chiến dịch quân sự mang lại ba nhận định chiến lược bao quát và ba nhận định đặc biệt quân sự. Trước tiên, sự phân tích hậu quả chiến lược của cuộc xung đột cấp vùng này sẽ cho thấy, chiến dịch quân sự của Trung Quốc sau rốt đă đạt được mục tiêu ấn định của nó về việc trừng phạt Việt Nam – về mặt quân sự, kinh tế, và ngoại giao.  Thứ nh́, sự tại duyệt hậu quả chiến lược cũng sẽ cho thấy mức độ theo đó sự thiếu sót thắng lợi chiến trường sớm sủa, có tính cách thuyết phục bởi QĐGPNDTQ làm phương hại đến uy tín và đ̣n bẩy thương thuyết của CHNDTQ, cho phép Việt Nam tŕ hoăn một cách thành công các sự nhượng bộ và kéo dài các hoạt động tại Căm Bốt.  Tuy nhiên, nhận định chiến lược quan hệ nhất là về tầm mức của sự thành công mà CHNDTQ đạt được trong việc xử lư cuộc xung đột cấp vùng được quy kết gần như chuyên độc cho hoạt động tinh vi bởi CHNDTQ trong lănh vực thực hiện chiến dịch chiến lược quốc gia (national strategic campaigning).  Ở mức độ này, Trung Quốc đă kết hợp và đồng bộ hóa một cách khéo léo mọi yếu tố của quyền lực quốc gia với hoạt động quân sự của nó – từ các hoạt động kinh tế chống Việt Nam, đến ngoại giao cấp vùng và toàn cầu rộng răi, đến chiến dịch thông tin công chúng có hiệu quả cao.  Đặc biệt, điều này giúp cho Trung Quốc nắm giữ một cách cẩn trọng công cụ không mấy sắc bén của chiến tranh (blunt instrument), phần lớn là nhờ ở khả năng của nó để nối kết các mục đích quốc gia với các phương pháp điều hành quân đội và các cứu cánh [end states trong nguyên bản, chỉ các trạng thái chung cuộc, tức một loạt các điều kiện phải có để xác định sự thành đạt mục tiêu mà cấp chỉ huy đă đề ra, trong ư nghĩa quân sự, chú của người dịch] trong một cung cách được ấn định ở tầm cao.  Tối hậu, thành quả chiến lược của CHNDTQ, phải được phán đoán là một chiến dích quân sự hữu hiệu trong một cuộc chiến tranh hạn chế (mặc dù, phán đoán theo các tiêu chuẩn của tây phương, là vô hiệu năng một cách bi thảm trong số tổn thất về nhân mạng của nó).  Như là thí dụ gần nhất của sự xung đột cấp vùng của Trung Quốc trong một khung cảnh quyền lực trên đất liền, Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba xứng đáng cho sự nghiên cứu kỹ càng hơn đặc biệt bởi các quân đội tây phương.  Nhiều phần điều này đă không xảy ra bởi giá trị này thường bị che dấu bởi thành quả tồi hay không hoàn tất của Trung Quốc ở các mức độ hành quân và chiến thuật trong cuộc chiến hồi Tháng Hai – Tháng Ba 1979.

       Trong thực tế, sự phân tích cẩn thận về các công trạng quân sự cá biệt của chiến dịch phải phán đoán thành quả của QĐGPNDTQ hay nhất như là “các kết quả hỗn hợp”.  Trước tiên, QĐGPNDTQ và các binh chủng liên hệ của nó đă không thể thực hiện chiến tranh liên quân thô sơ – phối hợp không, hải và lục quân – do bởi các giới hạn toàn diện về trang thiết bị và sự hiểu biết về sự giao chiến hiện đại.  Ở tầm mức chiến thuật của chiến tranh, bất kể các binh sĩ và giới chỉ huy từ cấp tiêu đoàn trở xuống khá tốt, QĐGPNDTQ không có học thuyết két hợp liên quân cơ hữu, các năng lực kiểm soát và chỉ huy đơn vị lớn hơn, và năng lực tiếp vận hiện đại.  Kết quả ṛng rằng QĐGPNDTQ vào năm 1979 th́ vô hiệu năng như một lực đe dọa tấn công hiện đại và v́ thế CHNDTQ trong thập niên 1980 không là một lực đe dọa quân sự tấn công cấp vùng nội tại bởi có các khiếm khuyết chồng chất này ở mức độ điều hành chiến tranh.  Các khuyết điểm này, được xác nhận với Đặng Tiểu B́nh và giới lănh đạo bởi các kết quả hồi Tháng Hai – Tháng Ba, 1979, sẽ định h́nh nhiều cho các sự cải cách và các sự hiện đại hóa của QĐGPNDTQ trong thập niên 1980 và đầu thập niên 1990.  Nhưng, như với mọi vấn đề, các nhu cầu quân sự của Trung Quốc sẽ được cân nhắc với các nhu cầu hiện đại hóa cạnh tranh khác của đất nước, đặc biệt các nhu cầu kinh tế, và được cân nhắc với hậu quả chiến lược toàn cầu và cấp vùng của Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba.

 

XUNG ĐỘT CẤP VÙNG –

HẬU QUẢ CHIẾN LƯỢC

CHO CÁC THẬP NIÊN 1980 VÀ 1990

“ … một trường hợp nghiên cứu điển h́nh về sự thất bại của ngoại giao … bi kịch của cuộc xung đột Đông Dương Lần Thứ Ba là mọi bên đều thua và không có ai thắng lợi”.  – David W. P. Elliot 94

       Hậu quả của cuộc chiến tranh này có thể được đo lường hay nhất trong các hiệu ứng mà nó đă gây ra cho các tác nhân chính trong vùng và toàn cầu, và các hiệu ứng lâu dài mà nó đă mang lại cho các lực lượng vũ trang của CHNDTQ.  Trong những năm ngay sau cuộc chiến tranh này, các thành tố thiết yếu của t́nh h́nh tiếp tục không thay đổi.  Trong thực tế, đối với Trung Quốc, Việt Nam, Căm Bốt, và các nước thuộc khối ASEAN (đặc biệt Thái Lan) các vấn đề, và các nguồn cội của sự bạo động và sự bất an ninh phát sinh từ chúng, chỉ xấu hơn, trở nên nan giải hơn sau cuộc “hoàn kích tự vệ” của Trung Quốc năm 1979  so với trước đó.

 

CÁC HIỆU ỨNG – TOÀN CẦU VÀ CẤP VÙNG

Để trả đũa cho các cuộc đột kích của Khmer hồi mùa xuân 1979, các đơn vị Việt Nam đă ép quân Khmer Đỏ vào vùng tây bắc của Căm Bốt, đặt các lực lượng Việt Nam ở sát cận một cách nguy hiểm với biên giới Thái Lan, tạo ra các sự phức tạp và cảng thẳng trường kỳ.  Ở vị trí này, phe Khmer Đỏ, được tái tiếp tế từ Trung Quốc theo một “mạng lưới giống như đường ṃn Hô Chí Minh ngang qua Thái Lan”, đă có thể phóng ra chiến tranh du kích thành công chống lại các lực lượng Việt Nam mà không bị trừng phạt. 95 Kế tiếp, điều này đơn giản tán trợ một chu kỳ tái diễn bạo động trong đó quân Việt Nam tại miền bắc Căm Bốt đặt áp lực quân sự và đánh phá sang Thái Lan, khiến Trung Quốc lại tái lập áp lực quân sự dọc biên giới Trung – Việt.  Áp lực này của Trung Quốc gồm từ các sự cải thiện đáng kể các lực lượng không quân miền nam [Trung Quốc], hải quân của nó và các đường lộ quân sự trong vùng, đến việc ủng hộ tích cực các phong trào chống đối tại Việt Nam và Lào, và pháo kich định kỳ ngang qua biên giới cũng như đối khi phóng ra các cuộc đột nhập quân sự cấp trung đoàn hay lớn hơn vào Việt Nam. 96

Đối với Căm Bốt thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 là một thời gian chiếm đóng của Việt Nam và và phải chịu đựng chiến tranh cấp thấp mà, cùng với di sản giết chóc và tàn sát của thời kỳ cai trị của Pol Pot, biến nó thành một trong những nước khốn cùng nhất trên thế giới.  V́ thế, hiệu ứng dài hạn của Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba là đă cứu vớt Căm Bốt, trước tiên, khỏi một cuộc tự sát toàn dân áp đặt bởi Pol Pot và, sau đó, khỏi một sự tiêu tùng căn cước trong một Liên Bang Đông Dương, nhưng với một sự tổn hại cao đến thế về nhân mạng, hạ tầng cơ sở quốc gia và sự cố kết xă hội khiến ta tự hỏi là liệu một vài hinh thức được chấp nhận sớm hơn của chủ nghĩa đế quốc ngoại lai dẫn đến sự độc lập có tốt hơn hay không.

Đối với các nước khối ASEAN tại Đông Nam Á, Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba chứng kiến các nỗ lực không thành công của Lào và Thái Lan nhằm né tránh sự liên lụy khiến cả hai phải đối diện với các sư đe dọa ở biên giới và các cuộc nổi dậy.  Mặc dù không mong muốn, chúng đều đă bị lôi kéo một cách không xót thương vào cuộc hỗn chiến đẫm máu của các lân bang.  Đối với khối ASEAN như một thực thể, sự xuất hiện đột ngột của quốc gia bá quyền Việt Nam đối lập và được thừa nhận chung đă có một vài hiệu ứng tích cực.  Cả nhóm đă tiến tới cộng đồng kinh tế và chính trị cố kết nhau một cách nhanh hơn dự liệu. 97 Điều này mang lại hai kết quả trong trường kỳ.  Thứ nhất, sự phát triển kinh tế của Đông Nam Á và sự trổi dậy của “các con hổ nhỏ”, và thứ nh́, sự thế chỗ của Việt Nam vào cuối thập niên 1990 bằng một quốc gia bá quyền cấp vùng lớn hơn nhiều và đe dọa hơn nhiều nơi một Trung Quốc tái vươn lên.

Đối với Việt Nam, Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba thoạt tiên được phán đoán là một sự thành công.  Thành quả tốt trên chiến trường chắc chắn mang lại các kết quả đáng mong ước ở mức độ điều hành: không có sự triệt thoái bị áp đặt các lực lượng ra khỏi Căm Bốt và Lào, sự tồn tại của quốc gia và sự toàn vẹn lănh thổ.  Nhưng, nh́n từ ư nghĩa chiến lược, ngay trong năm 1979 và chắc chắn sau năm 1989 (khởi đầu sự sụp đổ của LBSV), Việt Nam phải được phán đoán là một kẻ bại trận rơ ràng trong cuộc chiến này [in đậm để làm nổi bật bởi người dịch].  Trước tiên, bởi sự theo đuổi đường lối đă dẫn đến chiến tranh, Việt Nam đă trở nên bị nối kết hoàn toàn với LBSV hơn mức Việt Nam mong muốn với bất kỳ một nước ngoại lại nào.  Nó đánh mất sự cân băng ảnh hưởng truyền thống, quư giá giữa Trung Quốc và các cường quốc cách xa (như LBSV hay Hoa Kỳ). 98 Chính v́ thế, Việt Nam, giống như Cuba, đă phải trả giá đắt hơn phần lớn các nước khác với sự sụp đổ của Liên Bang Sô Viết.  Thứ nh́, Việt Nam đă không đạt được mục đích hay vấn đề ǵ của nó với Trung Quốc.  Từ ngay chính vấn đề biên giới, cho đến lănh hải tại Vịnh Bắc Bộ và các quyền đánh cá, cho đến Quần Đảo Trường Sa, sự tiến triển đă bị tŕ hoăn trong 20 năm.  Thứ ba, Việt Nam đă bị gán nhăn hiệu trên b́nh diện quốc tế như một mối đe dọa cấp vùng (và một chư hầu của Sô Viết), mất đi viện trợ thiết yếu từ Úc Đại Lợi, Nhật Bản, Thụy Điển, Đan Mạch, cũng như dầu hỏa của Trung Quốc.  Kết quả là một hiệu ứng tàn phá chồng chất trên nền kinh tế trong trường kỳ.  Sau cùng sự căng thẳng và cạn kiệt của năm 1979 và hậu quả của nó trên các vấn đề đối nội của Việt Nam không thể được ước lượng thấp, “bởi đối với Việt Nam, cái giá chiến đấu hai trận chiến tranh trong một thời kỳ ba tháng th́ đắt giá.  Nền kinh tế dọc biên giới Trung Quốc đă bị tàn phá”. 99 Cuộc tổng động viên được ban hành tại Việt Nam ngày 5 Tháng Ba, 1979 đă đánh dấu sự khởi đầu của một sự củng cố quân sự đáng kể thường xảy ra với một giá phải trả đắt về mặt xă hội và kinh tế quốc gia. 100

Trung Quốc đă xuất hiện từ Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba với các kết quả hỗn hợp dưới những t́nh huống thuận lợi nhất.   Các sự thành công trong sự điều hành xung đột cấp vùng của một vị thế chiến lược được cải thiện đối diện với LBSV, sự thiết lập các quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, và ở cấp vùng, “sự trừng phạt” Việt Nam, chắc chắn phải bị điều tiết bởi các kết quả khác.  Các kết quả quân sự và trên chiến trường của Trung Quốc không thể được xếp loại như một sự thành công, với các khuyết điểm rơ ràng được xác định trong học thuyết giao chiến hiện đại, thành quả chiến đấu và tiếp liệu.  Các yêu cầu của Trung Quốc đ̣i hỏi sự thay đổi thái độ của Việt Nam – bất luận đó là sự triệt thoái ra khỏi Căm Bốt, sự liên kết với LBSV, hay các sự bất đồng lănh thổ/biên giới – không mang lại các kết quả tích cực trung hay ngắn hạn.  Theo đó, Trung Quốc đă bổ túc biên giới phương nam của nó vào các khu vực quan tâm về an ninh khác của nó: Đài Loan, và biên giới Trung Quốc – Sô Viết.  Sau cùng nếu Trung Quốc đă t́m cách đối đầu với ảnh hưởng của Sô Viết trong khu vực quyền lợi của nó, đặc biệt tại Đông Nam Á, các biến cố năm 1979 đă có một hiệu ứng hoàn toàn đối nghịch – chỉ làm bành trướng hơn và gia tốc sự hiện diện của LBSV.  Các cố vấn không quân và lục quân Sô Viết trở nên phổ biến khắp Đông Dương (Việt Nam, Lào, và Căm Bốt), một sự hiện diện hải quân quan trọng của Sô Viết được thiết lập bán thường trực tại Vịnh Cam Ranh, và ảnh hưởng kinh tế của Khối Tương Trợ Kinh Tế COMECON theo Thỏa Ước Warsaw trở nên sinh tử đối với Việt Nam. 101 Trên tất cả các điểm này, Trung Quốc không thể cảm thấy sự an ủi, bất kể sự thành công tổng quát chung cuộc của nó trong cuộc xung đột.  Nơi mà nó có thể lấy làm an ủi nằm ở quan điểm kinh tế trường kỳ của Trung Quốc, vẫn c̣n là ưu tiên trong chương tŕnh “Tứ Hiện Đại” của nó, làm phương hại cho các nhu cầu hiện đại hóa quân sự trong thập niên 1980. 102

 

CÁC HIỆU ỨNG – SỰ HIỆN ĐẠI HÓA QĐGPNDTQ

VÀO CUỐI THẾ KỶ THỨ 20

       Từ cuộc chiến tranh ngắn, bạo đông, nhỏ, bí mật này thế giới đă rút ra đuợc một số kết luận (và đôi khi mâu thuẫn) về các năng lực quân sự của CHNDTQ.  QĐGPNDTQ có thể đă mạnh dạn và ĺ lợm trong sự theo đuổi các mục tiêu chiến lược của nó song c̣n lạc hậu về học thuyết và các chiến thuật, chỉ huy và kiểm soát, tiếp vận và đặc biệt về trang thiết bị.  Một trường hợp rơ ràng là sự hoạt động của Không Lực QĐGPNDTQ: “Quyết định không gửi các đơn vị không quân Trung Cộng đi không chiến hay yểm trợ binh sĩ là hậu quả của … một sự thừa nhận rơ ràng thế yếu kém của việc không chiến và trang thiết bị yểm trợ lục quân của Không Lực QĐGPNDTQ, ngoài các han chế về chính trị và các sự quan ngại chiến lược tổng quát của CHNDTQ”. Điều này làm sáng tỏ không kém rằng các lực lượng không quân cấp vùng nhỏ bé, được yểm trợ bởi các hệ thống pḥng không khá tinh vi (chẳng hạn như Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, v.v…) đă không bị đe dọa bởi Không Lực QĐGPNDTQ trong các thập niên 1980 và 1990, đừng nói đến các lực lượng không quân miền tây LBSV. 103 Thực tế, tiếp theo sau cuộc chiến, các quan khách đên thăm quân đội CHNDTQ đă nhận thấy sự chú ư rơ rệt của CHNDTQ trong việc thụ đắc một số lượng hạn chế các vũ khí kỹ thuật cao cấp Hoa Kỳ hiện đại nếu chúng được cung cấp. 104

       Giới lănh đạo CHNDTQ đă không chỉ nghe thấy các kết luận này mà c̣n thường chia sẻ chúng, trong khi vẫn c̣n tuyên bố về sự thích đáng và sự thành công tổng quát của cuộc chiến tranh han chế của họ với Việt Nam.  Sự tái duyệt của họ về chiến dịch đă dẫn dắt giới lănh đạo CHNDTQ và QĐGPNDTQ đến việc theo đuổi sự sửa chữa trong các lănh vực học thuyết và chiến thuật, cơ cấu tổ chức, trang bị và huấn luyện.  Đến năm 1985 sự áp dụng chuyên độc ư niệm quốc gia về “Chiến Tranh Nhân Dân” và sự pḥng thủ sử dụng nhân lực dân chúng và chiến tranh du kích, phần lớn, mặc dù không chuyên quyết, được bổ túc bằng một học thuyết về “sự pḥng thủ tích cực đ̣i hỏi các chiến thuất liên binh chủng điêu luyện với các khả năng tấn công mạnh mẽ và tiếp vận chuyên nghiệp. 105 Trong lănh vực thay đổi sự tổ chức, nỗ lực trong thập niên 1980 của QĐGPNDTQ để tạo lập các tổ chức liên binh chủng thực sự, thường xuyên bị cản trở bởi việc thiếu thốn trang thiết bị hiện đại và sự chống đối từ các sĩ quan cao cấp già nua.  Chỉ vào lúc cuối thập niên 1980 QĐGPNDTQ mới thiết định một hệ thống hồi hưu dựa trên tuổi tác và sự tái thực hiện một cơ cấu cấp bậc bao quát cho các sĩ quan và hạ sĩ quan. 106

       Trong số “Tứ Hiện Đại” được tŕnh bày bởi chính sách quốc gia, hiện đại hóa quân sự luôn luôn có tính cách thứ yếu so với hiện đại hóa kinh tế và cũng thường theo sau các nhu cầu chính trị của đảng cộng sản.  V́ thế, các sự khiếm khuyết trang thiết bị rât rơ ràng của QĐGPNDTQ, Không và Hải Quân QĐGPNDTQ trong suốt chiến dịch Việt Nam đă không hoàn toàn được nhắm tới và chỉ bắt đầu được cải tiến trên một quy mô rộng lớn sau sự thành đạt của một số thành công của kinh tế quốc gia hồi thập niên 1990.  Sự thiếu thốn trang thiết bị hiện đại đă làm suy yếu các chiến thuật liên quân toàn diện, cũng như cho sự phát triển huấn luyện và tổ chức trong thập niên 1980.  Trong thập niên đó, chính trong lănh vực giáo dục và huấn luyện mà QĐGPNDTQ đă thực hiện được các sự tiến bộ đáng kể.  Các tiến triển này bao gồm sự  phục hoạt sinh khí của các học viện quân sự chuyên nghiệp dành cho các ứng viên sĩ quan và các cấp chỉ huy trong khi các sĩ quan cao cấp được gửi đi học tại Đại Học Quốc Pḥng của QĐGPNDTQ.  Tại các trường học này, cũng như tại diễn trường, học thuyết mới, các chiến thuật và sự tổ chức mới được giới thiệu và học tập. 107

 

CÁC HÀM Ư – CÁC ÂM VANG TRONG QUÂN ĐỘI

CỦA CHNDTQ THẾ KỶ THỨ 21

       Ngày nay rơ ràng Trung Cộng đă thực sự khởi sự cuộc tiến hóa nghiêm chỉnh đầu tiên học thuyết quân sự quốc gia vượt quá chiến lược của họ Mao về “Chiến Tranh Nhân Dân” tiếp theo sau cuộc “hoàn kích tự vệ” của CHNDTQ vào năm 1979. 108 Điều này đánh dấu một điểm tách rời rơ rệt trong 25 năm, trong sự cam kết của QĐGPNDTQ cho sự tiến hóa trong tư tưởng quân sự.  Giờ đây, vào năm 2001 [năm bài nghiên cứu này được công bố, chú của người dịch] sự tiến hóa dường như được suy ngẫm để tiếp tục hầu du nhập các thực tế của cuộc Cách Mạng đang tiếp diễn vào các sự vụ quân sự.  Hiện tại các khái niệm về sự “tấn công chiến lược” phủ đầu (preemptive) và “đánh nhanh và giải quyết nhanh” (rapid war and rapid resolution),  nay đă gia nhập vào thuật ngữ của chiến lược quân sự Trung Quốc, trong nỗ lực để thúc đẩy các sự tiến bước của CHNDTQ về hỏa tiễn phóng đi ở tầm thấp để tranh radar (cruise missiles), kỹ thuật không gian, và chiến tranh thông tin.  Điều rơ ràng không kém là CHNDTQ đang t́m kiếm một vai tṛ “vượt quá cấp vùng” trong t́nh trạng địa lư chiến lược (geostrategic) của thế giới hiện tai. 109

       Song, ngay khi quân đội Trung Quốc tiến vào thế kỷ thứ 21, việc xây dựng các đinh chế trí thức của nó trên các ḥn đá nền tảng như ư thức hệ bị kiềm chế một cách chặt chẽ của họ Mao đối với các quân nhân, cùng với tiêu điểm gần đây hơn của Đặng Tiểu B́nh về sự hiện đại hóa quốc pḥng trong khuôn khổ các nguồn tài nguyên hạn chế, các hiệu ứng của cuộc chiến tranh khá lớn, diễn ra trên đất liền với Việt Nam hồi năm 1979 vẫn c̣n là một thành tố then chốt.  Quay cuồng qua quyết định được đưa ra chung quanh loại quân đội nào của Trung Quốc trong thế kỷ thứ 21 nên được xây dựng, các kết quả của năm 1979 cũng quan trọng như các biến cố chính yếu của thập niên 1990, chẳng hạn như sự tan vỡ của Liên Bang Sô Viết, sự vươn lên về mặt kinh tế của Trung Q!uốc, và các chiến dịch được nghiên cứu nhiều của Cuộc Chiến Tranh Vùng Vịnh Ba Tư năm 1991, cuộc khủng hoảng Đài Loan năm 1996, và cuộc xung đột ở Kosovo năm 1999. 110

       Sự nhận thức của Trung Quốc về bản thân liên quan đên các siêu cường vốn đă được thừa nhận vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980 vẫn c̣n quan hệ lớn lao.  Các sự thất vọng về sự vô năng lực của họ trong năm 1979 để đối đầu với không lực Việt Nam và hệ thống pḥng không do Sô Viết sản xuất hay lực lượng đặc nhiệm hải quân Sô Viết đă chỉ đơn giản được cập nhật hóa và khuếch đại trong cuộc khủng hoảng Đài Loan năm 1996 và việc dội bom Ṭa Đại Sứ Trung Quốc tại Belgrade [thuộc Nam Tư khi đó, chú của người dịch].  Chính ngay khao khát quốc gia ngày nay cho tư thế đại cường hay siêu cường cũng đă có các gốc rẽ sâu xa trong cuộc chiến tranh Tháng Hai – Tháng Ba năm 1979. 111

       Có lẽ một câu hỏi quan trọng hơn, cho năm mươi năm kế tiếp, rằng đâu là khuôn khổ nhiều xác xuất nhất trong đó một chiến lược quân sự tương lai của Trung Quốc về sự tấn công chiến lược, phủ đầu có thể được diễn ra?  Điều đó không thuộc trường phái tư tưởng “Chiến Tranh Nhân Dân” chuyên độc về pḥng thủ hay trương phái tiên tiến về tương lai của phái Cách Mạng trong Sự Vụ Quân Sự (Revolutuion in Military Affairs: RMA). 112 Đúng hơn khuôn khổ nhiều khả tính nhất rằng “trường phái chiến tranh địa phương hay hạn chế”, đích xác rất gần với cuộc chiến tranh đă được thực hiện trong năm 1979, bao trùm cả tầm mức rộng lớn nhất khả hữu của các kịch bản chiến tranh lẫn đáp ứng được các cuộc chiến tranh ở quy mô nhỏ cho đến vừa lớn mà nhiều tư tưởng gia chiến lược cuả Trung Quốc nh́n như không thể tránh khỏi tại khu vục Á Châu-Thái B́nh Dương. 113   Sự nghiên cứu và phân tích liên tục chiến dịch chiến tranh hạn chế năm 1979 của Trung Quốc đánh Việt Nam để giành đoạt các mục tiêu chiến lược được ấn định một cách sắc bén, là điều khôn ngoan cho các nhà nghiên cứu quân sự hiện đại về chiến tranh.

 

KẾT LUẬN

       Cuộc chiến tranh Trung – Việt năm 1979 phát sinh chính yếu từ các động lực độc đáo của môi trường chiến lược cấp vùng hơn là các môi trường chiến lược toàn cầu của sự canh tranh Nga-Hoa hay sự tương tác siêu cường.  Chiến lược cấp vùng của Trung Quốc nhằm ngặn chặn sự bành trướng của Việt Nam tại Đông Nam Á (cũng như các khát vọng toàn cầu của LBSV) trước tiên đă hướng dẫn giới lănh đạo CHNDTQ đến việc lựa chọn một sự đáp ứng quân sự, và sau đó đă vạch và ấn định một cách cẩn thận các giới hạn của hành động quân sự đó trong phạm vi các sự kiềm hăm và hạn chế chính trị cấp vùng cụ thể.  Chiến dịch này tối hậu đă đạt được mục tiêu chính trị cấp vùng chủ định nhằm trừng phạt Việt Nam, nhưng sự thiếu vắng sự thắng lợi trên chiến trường quả quyết bởi QĐGPNDTQ làm thiệt hại đến uy tín và đ̣n bẩy thương thảo của CHNDTQ.  Các sự bất thích nghi của Trung Quốc ở tŕnh độ phối hợp / điều hành chiên tranh và sự tổ chức chiến thuật tấn công, học thuyết và đặc biệt về tiếp liệu, đă dẫn dắt nhiều người đến việc xem thường biến cố này là không xứng đáng cho sự nghiên cứu thường lệ bởi các giới quân sự tây phương.  Chiều hướng này không nh́n nhận Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba như một trường hợp thành công tổng quát và cận đại của sự điều hành của Trung Quốc trong việc phát động chiến dịch chiến lược và xung đột cấp vùng.  Các diễn trường của các sự đáp ứng của Trung Quốc, sự sử dụng kết hợp mọi yếu tố của sức mạnh quốc gia, và sự sắp hàng chặt chẽ các mục đích chiến lược quốc gia với các phương pháp điều hành quân sự và các cứu cánh chung cuộc,  tất cả đánh dấu sự kiên này như  một sự tŕnh bày hữu hiệu cao độ của việc phát động chiến dịch chiến lược quân sự trong chiến tranh hạn chế.  Hơn nữa, các kết quả của Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Ba tiếp tục sẽ là một nền tảng thử nghiệm quan trọng và cung cấp động năng cho nhiều kế hoạch và chương tŕnh của Trung Quốc chung quanh các nỗ lực hiện đại hóa quân sự vào cuối thập niên 1980 và thập niên 1990.  Trong thực tế, ngay trong các cuộc thảo luận hiện nay về sự tiến hóa của kỹ thuật quân sự và các phương pháp chiến tranh của thế kỷ thứ 21, các bài học của Cuộc Xung Đột Đông Dương Lần Thứ Ba tiếp tục tạo âm vang tại cuộc tranh luận nội bộ của Trung Quốc./-

_____

CHÚ THÍCH

1. David W. Elliot, biên tập, The Third Indochina Conflict (Boulder, Co.: Westview Press, 1981), 1.

2. Cùng nơi dẫn trên, trang 4.

3. Steven J. Hood, Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War (Armonk, N. Y.: East Gate Book, 1992), 8, 12 và 14-16.  Tác giả Hood cung cấp sự duyệt xét tuyệt hảo về bốn thời kỳ chính yếu mô tả lịch sử [quan hệ] Trung-Việt cho đến thế kỷ thứ 19.

4. Cùng nơi dẫn trên, trang 19 và Robert S. Ross, The Indochina Tangle: China’s Vietnam Policy, 1975-1979, (New York: Columbia University Press, 1988), 19.

5. Gareth Porter, “Vietnamese Policy and the Indochina Crisis”, trong quyển The Third Indochina Conflict, biên tập bởi David W. P. Elliot, (Boulder, CO.: Westview Press, 1981), trang 76.

6. Edward W. Ross, “Chinese Conflict Management”, Military Review Vol. LX, No. 1 (January 1980), các trang 17-18.

7. Douglas Pike, “Communist vs. Communist in Southeast Asia”, International Security, Vol. 4, No. 1 (Summer 1979), 32-34.

8. Robert G. Sutter, “China’s Strategy Toward Vietnam and its Implications for the United States”, trong quyển The Third Indochina Conflict, biên tập bởi David W. P. Elliot (Boulder, CO.: Westview Press, 1981), 168-170.

9. Hood, Tác giả đă dành phần lớn Chương 5 và Chương 6 duyệt xét các nguyên nhân trong vùng với chi tiết thực tế.

10.  Bảng 1 – biên tập các nguồn tin được giải thích bởi giai thoại (? hay chú giải; legend) này:___[?] Chen, ____[?] O’ Balance, ____ [?] Heder hay [?] Porter (trong sách biên tập bởi Elliot), S. Ross (cuộc viếng thăm của Lê Duẩn, 150. [chú thích này c̣n thiếu sót các chi tiết cần thiết trong nguyên bản, nên có phần khó hiểu và không rơ nghĩa, chú của người dịch, chỉ đoán là Bảng 1 này đă được lập với các chi tiết rut ra từ các bài viết của các tác giả nêu tên, trong sách biên tập bởi David W. P. Elliot].

11. Stephen P. Heder, “The Kampuchean-Vietnamese Conflict, trong quyển The Third Indochina Conflict, biên tập bởi David W. P. Elliot (Boulder, CO.: Westview Press, 1981), 27.  Gần như song hành với biến cố chiệc tàu US Mayguez hồi Tháng Năm 1975, các lực lượng Khmer Đỏ chiếm cứ một dàn khoan dầu của Việt Nam và ḥn đảo Tou Chau [?Thổ Châu].  Việt Nam sau đó đáp ứng bằng việc tấn công căn cứ tàu tuần duyên của Căm Bốt và chiếm giữ đảo Poulo Wai.

12. Cùng nơi dẫn trên, 40-42.  Giống như Đảng Cộng Sản Trung Quốc đă làm đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam trong năm 1954, Hồ Chí Minh đă bỏ rơi phong trào Cộng Sản Căm Bốt tại các Cuộc Ḥa Đàm ở Geneva.  Ngoài ra trong Tháng Chín 1975, nhiều cán bộ cộng sản Căm Bốt được huấn luyện bởi Việt Nam trong thgời Chiến Tranh “Mỹ” đă bị thanh trừng bởi Pol Pot, kẻ mà chủ nghĩa bài ngoại bao gồm một sự ngờ vực lịch sử về các ư định muốn thống trị của Việt Nam.  Sự kiện này tự biểu lộ nơi một nguyên lư nền tảng của Việt Nam cho một “khối liên đới xă hội chủ nghĩa” và một quan điểm của Khmer Đỏ cự tuyệt nguyên lư nền tảng và khối liên đới.

13. Cùng nơi dẫn trên, trang 34.  Nhiều cuộc trong các cuộc đột kích của Khmer hồi năm 1977 này đánh phá các tỉnh biên giới, chẳng hạn như Tây Ninh, tại miền nam Việt Nam, cũng như khu vực Châu Thổ sông Mekong.  Đây là các vùng đất đang trải qua tiến tŕnh kết hợp đau thương với phe công sản chiến thắng từ miền bắc.

14. Cùng nơi dẫn trên, các trang 42-44.

15. Cùng nơi dẫn trên, các trang 49-50, và Hood 50-52 cho hay đồ tiếp tế bao gồm vũ khí, radar pḥng không, và một toán khảo sát đường rày quân sự.

16. Hood, 45.

17. Robert Ross, 156, và William S. Turley và Jeffrey Race, “The Third Indochina War”, Foreign Policy No. 38 (Spring 1980): mi

18. Edgar O’ Balance, “Chinese Crime and Punishment: Kampuchea and Vietnam 1978-79”, Marine Corps Gazette Vol. 65, No. 3 (March 1981): 41.

19. Roibert Ross, 208-209 và Heder, 58. Tổng số các vũ khí và đồ tiếp liệu chuyển giao bởi Sô Viết trong năm 1978 rơ ràng vượt quá các nhu cầu tương xứng với các vụ đụng độ biên giới đang diễn ra của Việt Nam với Căm Bốt.

20. Hood, 47-49.  Và Chen, 35-36 tŕnh bày về sự loan báo của Đài Phát Thanh Hà Nội về Mặt Trận KNUFNS.

21. O’ Balance, trang 41.

22. Turley and Race, 102.

23. Hood, 50.

24. Turley and Race, 103 và King C. Chen, China’s War with Vietnam, 1979 (Stanford, CA.: Hoover Institution Press, 1987), trang 85.

25. Charles R. Nelson, “The Sino-Viet War: Causes, Conduct and Consequences”, Parameters Vol. IX, No. 3 (September 1979): 24.

26. Edward Ross, 18.  Cũng xem Chen, 75, 76 và Các Bảng nơi trang 78, 79 cho thấy một sự song hành ăn khớp của sự phục hồi lần thứ nh́ của Đặng Tiểu B́nh hồi Tháng Bẩy 1977 và tác động hỗ tương toàn diện của các biến cố then chốt trong Cuộc xung đột Đông Dương Lần Thứ Ba.  Một điều kỳ lạ nhỏ là đôi khi cuộc xung đột được đề cập tới như “Cuộc Chiến Tranh của họ Đặng”.  Tại Hội Nghị Công Tác Trung Ương và ở Phiên Họp Khoáng Đại [? Của ĐCSTQ] Tháng Mười Một, Đặng Tiểu B́nh đă thăng cấp hay phục chức trọn vẹn chín ủy viên chính thức vào Ủy Ban Trung Ương [? Bộ Chính Trị] mang lại cho ông ta một tỷ lệ bỏ phiếu quyết định.  Trên nhiều phương diện, đây là hành vi sau cùng của 18 tháng tranh đấu thời hậu Tứ Nhân Bang giữa Chủ Tịch Hoa Quốc Phong và Đặng Tiểu B́nh.

27. Edward Ross, 19 và Chen, 76.  Dựa trên sự phân tích của Hội Nghị Công Tác [Trung Ương] Tháng Mười Một 1978, CHNDTQ xác định rằng buổi lễ kư kết của Tổng Thống Hoa Kỳ Jimmy Carter định vào ngày 1 Tháng 1 năm 1979 sẽ quá trễ (quá gần với hành động quân sự trừng phạt khả hữu chống lại Việt Nam) và v́ thế một lời yêu cầu đẩy ngày kư kết sớm hơn đă được đề nghị với Hoa Thịnh Đốn, và đă được chấp thuận.  Các Quan Hệ Được B́nh Thường Hóa ngày 15 Tháng Mười Hai 1978 giữa CHNDTQ và Hoa Kỳ củng cố hơn nữa cho địa vị của họ Đặng trong Phiên Họp Khoáng Đại sắp đến và tư thế của Trung Quốc cả trên căn bản toàn cầu (Liên Bang Sô Vi9ết) lẫn ở cấp vùng (Việt Nam và Đông Dương nói chung).

28. O’ Balance, 40.  Kế đó, Đặng Tiểu B́nh đă có thể đưa ra các lời cảnh cáo cuối cùng cho Việt Nam cũng như  bác bỏ nhiều đề nghị khai thông giờ chót của Việt Nam.

29. Robert Ross, 210 và Chen, 86.  Hơn nữa về mặt thực tế quân sự, sự hiện diện gia tăng của hải quân Sô Viết tại các hải phận trong vùng có thể cản trở sự di chuyển và tái tiếp tế trên biển và mau chóng dẫn đến sự leo thang và đối đầu không mong muốn với Liên Bang Sô Viết.

30. Edward Ross, 20.

31. Cùng nơi dẫn trên, 21.

32. Harlan W. Jencks, “China’s ‘Punitivé War on Vietnam: A Military Assessment”, Asian Survey Vol. XIX, No. 8 (August 1979), 805.

33. Chen, 91, 94.

34. Cùng nơi dẫn trên, 88.

35. Chen, 103 về các lực lượng hoạt động trên biển, trên trời và đất liền của Trung Hoa quanh đảo Hải Nam và trên Quần Đảo Xisha [tên Trung Cộng đặt cho Quần Đảo Hoàng Sa, cướp đoạt của Việt Nam Công Ḥa đầu năm 1974, chú của người dịch].  Xem trang 93 về quyết định không sử dụng các lực lượng hải quân Trung Quốc in cuộc xung đột.

36. J. J. Haggerty, Đại Tá, “The Chinese-Vietnamese Border War of 1979”, Army Quarterly and Defence Journal, Vol. 109, No. 3 (July 1979): 270.

37. O’ Balance, 42 và Jencks, 803. 

38. Haggerty, 266.

39. James A. Linder, Đề Đốc (hồi hưu) và Tiến Sĩ A. James Gregor, “The Chinese Communist Air Force in the ‘Punitive’ War against Vietnam”, Air University Review Vol. XXXII, No. 6 (September-October 1981): 73.

40. Harvey W. Nelsen, The Chinese Military System – an Organizational Study of the Chinese People’s Liberation Army (ấn bản lần thứ nh́), (Boulder, CO. : Westview Press, 1981), để biết về tiếng tăm của bộ binh chủ lực, xem trang 115, của dân  quân, xem trang 182.

41. Cùng nơi dẫn trên, muốn biết về Không Lực QĐGPNDTQ, xem các trang 159-162 và 166-167, về Hải Quân QĐGPNDTQ, xem các trasng 170-171.

42. Gerald H. Corr, The Chinese Red Army – Campaigns and Politics Since 1949 (New York:Shocken Books, 1974), 141-157 và Chen, 70, 73.

43. Chen, 102.

44. Jencks, 805-806.

45. Chen, 100-104 và Jencks, 805-806.

46. Nelson, 24.

47. Chen, 103.

48. O’ Balance, 43 và 45.

49. Bảng 2, nhiều nguồn tin khác nhau về các sự kiện này được nh́n nhận sử dụng chú giải sau đây: Các Nguồn: * O’ Balance, 41-42; # Chen, 100-104; % Linder and Gregor, 72-74; ^ Ross, 17. [thiếu các chi tiết cần thiết, xem chú của người dịch nơi cước chú số 10 bên trên]

50. Jencks, 804-805.

51. Nelson, 26.

52. Turley and Race, 102-103.

53. Cùng nơi dẫn trên, 104.

54. Nelson, 26.

55. Jencks, 803.

56. O’ Balance, 45.

57. Hood, 47-48 và Robert Ross, 251.

58. Nelson, 26.

59. Jencks, 802 và Nelson, 26.

60. Chen, 106.

61. Jencks, về các tỉnh lỵ và giới hạn 50 cây số, trang 809; về việc triệt hủy triệt để các cơ sở, trang 802.

62. Nelson, 26.

63. Chen, 107 – trưng dẫn bài báo trên tờ New York Times, số ra ngày 20 Tháng Hai, 1979.

64. Cùng nơi dẫn trên, 107.

65. Cùng nơi dẫn trên, 107. 108.

66. O’ Balance, 42.

67. Edward Ross, 22.

68. Chen, 108.

69. Haggerty, 267 về các nguồn tin tức Á Châu, và Chen, 113 về việc thiếu các dữ liệu lịch sử khách quan và đáng tin cậy.

70. Chen, 108 và Haggerty, 267.

71. Edward Ross, 22 – trưng dẫn một bài báo quan trọng trên tờ L.A. Times (Los Angeles Times).

72. Linder and Greg., 73, các tác giả đi xa đến mức mô tả sự sử dụng Không Lực QĐGPNDTQ như “để trang điểm bề ngoài”.

73. Cùng nơi dẫn trên, 72-73.

74. Chen, 109-110 trưng dẫn các bài báo tường thuật về các sự khai triển của cuộc chiến tranh.

75. Cùng nơi dẫn trên, 108.

76. Edward Ross, 22.  

77. Cùng nơi dẫn trên, 23 – Hăng Thông Tấn Kyodo News Service của Nhật Bản được trích dẫn trên tờ San Francisco Chronicle số ra ngày 27 Tháng Hai 1979.

78. Chen, 110.

79. O’Balance, 43 và Chen, 103, 111, 114.  Vẫn c̣n thông tin trái ngược nhau nhiều về sự bố trí và thời biểu của các sự di chuyển của các sư đoàn chủ lực quân Việt Nam.  Tôi đă lấy tác phẩm uyên thâm hơn và được xuất bản sau này của Tiến Sĩ Chen làm căn bản cho phần lớn sự tŕnh bày của tôi về các sự kiện này.

80. Chen, 110.

81. Jencks, 811.

82. Chen, 110 và Jencks, 811.  Tác giả Chen bàn luận về sự giao tranh dữ dội cho các ngọn đồi mang số 417, 473, 556, 568, 608, và 800, trong giai đoạn từ 28 Tháng Hai đến 2 Tháng Ba, 1979.

83. Jencks, 811.

84. Jencks, 809 và Chen, 111.

85. Chen, 110.

86. Haggerty, 270.

87. Cùng nơi dẫn trên, 270.

88. Chen, 111.

89. Cùng nơi dẫn trên, 111.

90. Cùng nơi dẫn trên, 112-113.

91. O’ Ballance, 43.

92. Cùng nơi dẫn trên, 45.

93. Chen, 114 – cung cấp sự lượng định khả ứng tốt nhất về các con số tổn thất mâu thuẫn được đưa ra bởi Trung Quốc và Việt Nam.

94. Elliot, 246.

95. O’ Balance, 45.

96. Michael Richardson, “Eyewitness at the Dragon’s Mouth”, Pacific Defence Reporter, Vol. IX, No. 12 (June 1983): 41-42 và Turley and Race, 104 và 111, -- về sự chống đối được khuyến khích bởi Trung Quốc tại Việt Nam và Lào; Chen, 146 – về các cuộc đụng độ ở biên giới trong Tháng Mười Hai 1984 và Tháng Tư 1985.

97. Turley and Mace, 107-108.

98. Hood, 37.

99. Nelson, 27-28.

100. Nelson, 27-28 và Chen, 143-144 – các tổn hại  này bao gồm cả sự kháng cự lại lệnh trưng binh và, lần đầu tiên, các khối lượng đông đảo dân tỵ nạn gốc Việt ( giả danh Trung Hoa và các nhóm thiểu số khác) “tự nguyện ra đi”.

101. Hood, 46.

102. Nelson, 222-223.  Nelson, trong phần “Epilogue to the Second Edition” (Đề Bạt cho ấn bản thứ nh́) phác họa đầy đủ sự giới thiệu của Chu Ân Lai và sự chấp thuận của Bộ Chính Trị về nỗ lực hiện đại hóa trong 25 năm cho Trung Quốc.  Đề xuất nổi tiếng này được gọi là “Tứ Hiện Đại Hóa: Four Modernizations” đă ấn định tự nguyên thủy nỗ lực hiện đại hóa của Trung Quốc là: canh nông, sau đó là kỹ nghệ, rồi đến quân sự, và sau cùng là khoa học và kỹ thuật.  Trong năm 1981, Nelson đă có thể xác nhận rằng cuộc tranh luận xa hơn trong giới lănh đạo CHNDTQ đă biến đổi các ưu tiên này một lần nữa, đưa đến một thỏa hiệp đặt sự hiện đại hóa quân sự đứng hàng thư tư trong bốn hiện đại hiện hóa, nhưng cũng khai dụng sự tiếp thu có lựa chọn kỹ thuật quân sự Tây phương để hoàn thiện sự lạc hậu tương đối về vũ khí của QĐGPNTQ (đặc biệt là đối với Liên Bang Sô Viết).

103. Linder và Greg, 73-74.

104. Ginsburgh, trang 44.

105. Jer Donald Get, Thiếu Tá, “Lessons Learned in Vietnam: PLA”, Military Review Vol. LXVII, No. 7 (July 1987): 23.

106. Cùng nơi dẫn trên, 22, 24, 26.

107. Cùng nơi dẫn trên, 26-27.

108. Chen, 147. Tác giả Chen trưng dẫn bài diễn văn Tháng Chín 1981 của Đặng Tiểu B́nh kêu gọi “canh tân hóa các lực lượng và học thuyết vũ trang, lời kêu gọi đầu tiên trong 23 năm.

109. James R. Lilley, “Introduction”, trong quyển People’s Liberation Army After Next , biên tập bởi Susan M. Puska, (Carlisle, PA.: Strategic Studies Institute, U. S. Army War College, 2000), 7-8.

110. Andrew Scobell, Chinese Army Building in the Era of Jiang Zemin, (Carlisle, PA.: Strategic Studies Institute, U. S. Army War College, 2000), 13.

111. Cùng nơi dẫn trên, 23-24.

112. Michael Pulsbury, “PLA Capabilities in the 21st Century: How Does China Assess its Future Security Needs?”, trong quyển The Chinese Armed Forces in the 21st Century, biên tập bởi Larry M. Wortzel (Carlisle, PA.: Strategic Studies Institute, U. S. Army War College, 1999), 111-116.

113. Scobell, 11.

_____

Nguồn: John M. Peppers, Lieutenant Colonel, United States Army, Strategy In Regional Conflicy: A Case Study of China in the Third Indochina Conflict of 1979, Carlisle Barracks, Pennsylvania: U. S. Army War College, 2001, 48 trang.

 

Ngô Bắc dịch và phụ chú

04.06.2012    

 

 http://www.gio-o.com/NgoBac.html

 

© gio-o.com 2012