Chủ Đề:

CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979
 

 

Ngô Bắc dịch  

Lời Người Dịch: 

“Chiến dịch 1979, ít nhất đối với Quân Đội Giải Phóng của Nhân Dân Trung Quốc, là một sự thất bại. Trung Quốc đă phóng ra cuộc tấn công của nó trong một nỗ lực để buộc Việt Nam phải rút lui khỏi Căm Bốt. Trung Quốc đă rút lui khỏi Việt Nam hôm 16 Tháng Ba, 1979, nhưng Việt Nam đă không rời Căm Bốt măi cho đến năm 1989.” ….

“Cuộc chiến tranh theo học thuyết họ Mao chưa dứt, nhưng phía Trung Quốc đă học được một bài học quan trọng.”

Trên đây là phần kết luận chắc nịch của Edward C. ODow’d, một tác giả hàng đầu về Chiến Tranh Biên Giới Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979, chủ đề của loạt bài nghiên cứu dưới đây về biến cố quan trọng diễn ra 33 năm trước. Đối chiếu với bài học lịch sử lâu dài của đất nước, rơ ràng vấn đề sinh tử của dân tộc Việt Nam hiện nay là phải t́m mọi cách đê duy tŕ được sự độc lập và vẹn toàn lănh thố, đồng thời thoát ra khỏi sự lệ thuộc ngoại giao và quân sự đáng tủi hổ đối với Trung Quốc.

 

1.Sun Dreyer
VIỆC NÀY DẪN DẮT VIỆC KIA:
V̉NG XOÁY TRÔN ỐC SỰ VẤN ĐỀ VÀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM (1979)
One Issue Leads to Another: Issue Spirals and the Sino-Vietnamese War (1979)
.


2. Steven J. Hood,
BẮC KINH, HÀ NỘI, VÀ ĐÔNG DƯƠNG –
CÁC BƯỚC TIẾN TỚI SỰ ĐỤNG ĐỘ
(Beijing, Hanoi, and Indochina – Steps to the Clash,
trong quyển Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War, 1992.


3. Zhang Xiaoming,
ĐẶNG TIỂU B̀NH VÀ
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRUNG QUỐC
ĐI ĐÊN CHIẾN TRANH
VỚI VIỆT NAM
(Deng Xiaoping and China’s Decision to Go to War with Vietnam),
Journal of Cold War Studies, Summer 2010, vol. 12, No. 3, 3-29.


4, Nicolas Khoo,
HỒI KẾT CUỘC CỦA
MỘT T̀NH HỮU NGHỊ BẤT KHẢ HỦY DIỆT:
Sự Tái Xuất Hiện Của Sô Viết và
Sự Chấm Dứt Liên Minh Trung Quốc – Việt Nam, 1975-1979
trong quyển Collateral Damage: Sino – Soviet Rivalry and the Termination
of The Sino – Vietnamese Alliance, Columbia University Press, 2011, 103-136.

 

5. Herbert S. Yee,
CUỘC CHIẾN TRANH
BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC – VIỆT NAM:
CÁC ĐỘNG LỰC, CÁC TÍNH TOÁN VÀ
CÁC CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG
trong quyển The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives,
Calculations and Strategies, China Report (xuất bản
tại New Delhi, India), Bộ 16, số 1, 1980, các trang 15-32.

 

6. Edward C. ODow’d,
CHIẾN DỊCH NĂM 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.

 

7.  Edward C. ODow’d,
TRẬN ĐÁNH LẠNG SƠN, THÁNG HAI – THÁNG BA 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.

 

8. Harlan W. Jenks,
CUỘC CHIẾN TRANH “TRỪNG PHẠT”
CỦA TRUNG QUỐC ĐÁNH VÀO VIỆT NAM:
MỘT SỰ LƯỢNG ĐỊNH VỀ QUÂN SỰ
(“China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military
Assessment”, Asian Survey 14, no. 8 (1979): 801-815.

 

9. Chen C. King,
CUỘC CHIẾN CỦA TRUNG QUỐC
ĐÁNH VIỆT NAM:
MỘT PHÂN TÍCH QUÂN SỰ
(“China’s War Against Vietnam: A Military Analysis”),
Journal of East Asian Affairs, no. 1 (1983): 233-63.
 

 

10. John M. Peppers, ,
CHIẾN LƯỢC TRONG XUNG ĐỘT CẤP VÙNG:
MỘT TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU
ĐIỂN H̀NH VỀ TRUNG QUỐC
TRONG CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
LẦN THỨ BA NĂM 1979
(Strategy In Regional Conflict:
A Case Study of China In The Third Indochina Conflict of 1979),
U.S. Army War College, Carlisle Barracks, 2001.

 

11. Alexander Woodside
DÂN TỘC CHỦ NGHĨA VÀ
NẠN NGHÈO ĐÓI
TRONG SỰ TAN VỠ CÁC QUAN HỆ
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
Nationalism and poverty in the Breakdown
of Sino-Vie6namese Relations,
Pacific Affairs, Fall 1979,
các trang 381-409.

   

12. Dennis Duncanson

CHIẾN TRANH VIỆT NAM
CỦA TRUNG QUỐC:
CÁC Đ̉I HỎI CHIẾN LƯỢC CŨ VÀ MỚI
China’s Vietnam War:
new and old strategy imperatives,
The World Today, 35, số 6 (1979),
các trang 241-248.

 

13. James Mulvenon

CÁC GIỚI HẠN CỦA NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH:
CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Limits of Coercive Diplomacy:
The 1979 Sino-Vietnamese Border War,
Journal of Northeast Asian Studies; Fall 95,
Vol. 14 Issue 3, các trang 68-88.

 

14. Andrew Scobell

NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH NỬA VỜI:
CUỘC TẤN CÔNG NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC 
ĐÁNH VIỆT NAM
“Explaining China’s Use of Force”,
China’s Use of Military Force Beyond the Great Wall and the Long March
Cambridge, United Kingdom: Cambridge University Press, 2003
các trang 192-198.

 

15. Daniel Tretiak

CHIẾN TRANH VIỆT NAM CỦA TRUNG QUỐC
VÀ CÁC HẬU QUẢ CỦA NÓ
“China’s Vietnam War and Its Consequences,” The China Quarterly 80 (1979), các trang 740-67.

   

16. Bruce Burton

CÁC SỰ GIẢI THÍCH ĐỐI CHỌI
 VỀ CUỘC CHIẾN TRANH
 TRUNG QUỐC - VIỆT NAM NĂM 1979
“Contending explanations of the 1979 Sino – Vietnamese War”,
International Journal, Volume XXXIV, no. 4/Autumn 1979, các trang 699-722.

 

17. Ramesh Thakur

TỪ SỐNG CHUNG ĐẾN XUNG ĐỘT:
CÁC QUAN HỆ
HÀ NỘI – MẠC TƯ KHOA – BẮC KINH
VÀ CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG – VIỆT
Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War,
The Australian Outlook, Volume 34, số 1, 1980, các trang 64-74.

 

18. Todd West

TỪ SỐNG SỰ NGĂN CẤM  KHÔNG THÀNH  CÔNG
CUỘC XUNG ĐỘT TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Failed Deterrence, The 1979 Sino-Vietnamese Conflict,
Stanford University Journal of East Asian Affairs,  Vol. 6, No. 1, Winter 2006, các trang 73- 85.
 

 

19. Colonel G.D Bakshi

Cuộc Chiến Tranh Trung Quốc - Việt Nam năm 1979:
Trường Hợp Nghiên Cứu Điển H́nh
Trong Các Cuộc Chiến Tranh Hạn Chế
VSM, The Sino-Vietnam War – 1979: Case Studies in Limited Wars,
Indian Defence Review, Volume 14 (2) July – September 2000

 

20. Bruce Elleman

Các Quan Hệ Sô Viết – Trung Quốc Và Cuộc Xung Đột
Trung Quốc – Việt Nam Tháng Hai 1979
Đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium,
“After the Cold War: Reassessing Vietnam”,
được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996
tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas

 

21. Henry J. Kenny

CÁC NHẬN THỨC CỦA VIỆT NAM VỀ CUỘc CHIẾN TRANH,
1979 VỚI TRUNG QUỐC “Vietnamese Perceptions of the 1979 War with China,
Chinese Warfighting: The PLA Experience Since , đồng biên tập bởi
Mark A. Ryan, David Michael Frakelstein, Michael A. McDevitt, Chapter 10, các trang 217-241s

 

22. Xiaoming Zhang

CUỘC CHIẾN TRANH
NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC VỚI VIỆT NAM: MỘT SỰ
TÁI LƯỢNG ĐỊNH, “China’s War with Vietnam: A Reassessment”,
The China Quarterly, số 184, December 2005, các trang 851-874.

 

23. Edward C. O’Dowd & John F. Corbett, Jr.

CHIẾN DỊCH NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC
TẠI VIỆT NAM:
CÁC BÀI HỌC LĨNH HỘI ĐƯỢC
The Lessons of History: The Chinese People’s Liberation Army at 75, Carlisle, PA.:
Strategic Studies Institute, U.S. Army War College, July 2003, các trang 353-378.

 

24. Douglas E. Pike,

CỘNG SẢN ĐẤU CỌNG SẢN
TẠI ĐÔNG NAM A”
 (“Communism vs Communism in Southeast Asia), International Security, Vol. 4, No. 1 (Summer, 1979), từ trang 20.
 

 

25. Henry Kissinger,

“SỜ MÔNG CON HỔ”
CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM THỨ BA”
 Chương 13: “Touching the Tiger’s Buttocks”: The Third Vietnam War, các trang 340-375,
trong quyển On China, xuất bản bởi The Penguin Press, New York, 2011.

   

26. Jimmy Carter,

GHI NHỚ VỀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
NĂM 1979
cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, trích dịch từ các hồi kư Keeping Faith, Memoirs Of A President,
A Bantam Book: New York, November 1982, các trang 194-211, và White House Diary, New York: Farrar, Straus and Giroux, 2010,
các trang 281-296, và rải rác, cùng các phụ lục trích dịch phần ghi nhớ về Chiến Tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979 của:
Phụ Lục 1: Cyrus Vance, cố Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Hard Choices, Critical Years In America’s Foreign Policy, New York: Simon and Schuster, 1983, các trang 120-127.
Phụ Lục 2: Zbigniew Brzezinski, cựu Cố Vấn Tổng Thống Hoa Kỳ về An Ninh Quốc Gia, Power and Principle, Memoirs of the National Security Adviser, 1977-1981, New York: Farrar, Straus and Giroux, 1983, các trang 404-414.
Phụ Lục 3: Anatoly Dobrynin, cựu Đại Sứ Liên Sô tại Hoa Kỳ, In Confidence, Moscow’s Ambassador to America’s Six Cold War Presidents, New York: Times books, a division of Random House, Inc., 1995, các trang 418-19.

 

 

Henry Kissinger

Cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ

 

“SỜ MÔNG CON HỔ”

CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM THỨ BA

 

 

Ngô Bắc dịch

 

       Trong Tháng Tư 1979, Hoa Quốc Phong, vẫn c̣n là Thủ Tướng Trung Quốc, đă tóm tắt các kết quả của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Thứ Ba, trong đó Trung Quốc đă xâm lăng Việt Nam và đă triệt thoái sau sáu tuần lễ, trong một sự châm chọc khinh thường vai tṛ của Sô Viết: “Họ đă không dám cử động.  Như thế sau hết chúng tôi vẫn c̣n có thể sờ vào mông của con hổ.” 1

       Trung Quốc đă xâm lăng Việt Nam để”dạy cho nó một bài học” sau khi các binh sĩ Việt Nam đă chiếm đóng Căm Bốt trong sự đáp ứng với một chuỗi các vụ đụng độ biên giới với Khmer Đỏ, phe đă kiểm soát Căm Bốt trong năm 1975, và trong sự theo đuổi tối hậu mục đích của Hà Nội nhằm tạo lập một Liên Bang Đông Dương.  Trung Quốc đă làm như thế trong sự thách đố một hiệp ước pḥng thủ hỗ tương giữa Hà Nội và Mạc Tư Khoa, được kư kết chưa đầy một thàng trước đó [sic, hiệp ước được kư kết vào ngày 3 Tháng Mười Một, 1978, tức gần bốn tháng trước ngày Trung Quốc tiến đánh Việt Nam, chú của người dịch].  Cuộc chiến tranh đă gây hao tổn cực kỳ cho các lực lượng vũ trang của Trung Quốc, vốn chưa hồi phục hoàn toàn từ các sự đánh phá của Cuộc Cách Mạng Văn Hóa. 2 Nhưng cuộc xâm lăng đă phục vụ mục tiêu nền tảng của nó: khi Liên Bang Sô Viết đă không đáp ứng, nó phô bày các giới hạn trong tầm tay với chiến lược của nó.  Từ quan điểm đó, nó có thể được xem là một điểm ngoặt của Chiến Tranh Lạnh, cho dù nó chưa được hiểu đầy đủ như thế vào lúc đó.  Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Thứ Ba cũng là cao điểm của sự hợp tác chiến lược Trung Quốc – Mỹ trong cuộc Chiến Tranh Lạnh.

 

Việt Nam: Kẻ Đă Làm Chưng Hửng Các Đại Cường

       Trung Quốc nhận thấy ḿnh liên can đến Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Thứ Ba bởi các yếu tố khả sánh với những ǵ đă lôi kéo Hoa Kỳ vào cuộc chiến thứ nh́.  Một vài điều ǵ đó trong dân tộc chủ nghĩa Việt Nam gần như điên cuồng đă thúc đẩy các xă hội khác đánh mất cảm giác thăng bằng và hiểu lầm các động lực của Việt Nam và các khả tính của riêng chúng.  Điều đó chắc chắn là định mệnh của Mỹ trong sự kiện giờ đây được mệnh danh bởi các sử gia là Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Thứ Nh́ (cuộc chiến đầu tiên là là chiến tranh chống thực dân của Việt Nam đối với Pháp).  Người Mỹ nhận thấy khó khăn để chấp nhận rằng một dân tộc đang phát triển cỡ trung b́nh lại có thể vun bồi một cam kết mạnh mẽ đến thế chỉ v́ các nguyên nhân có tính chất địa phương hạn hẹp của riêng nó.  Từ đó họ đă giải thích các hành động của Việt Nam như các biểu tượng của của một ư đồ sâu xa hơn.  Chiến đấu tính của Hà Nội được xem như một kẻ tiên phong của một âm mưu có phối hợp của Sô Viết – Trung Cộng để thống trị ít nhất Á Châu.  Và Hoa Thịnh Đốn cũng đă tin tưởng rằng một khi mũi tấn công đầu tiên bởi Hà Nội bị ngăn chặn, một số thỏa hiệp ngoại giao có thể xuất hiện.

       Sự lượng định này sai lầm trên cả hai căn bản.  Hà Nội đă không phải là kẻ thụ ủy của bất kỳ nước nào khác.  Nó đă chiến đấu cho dự kiến của ḿnh về nền độc lập và, tối hậu, cho một Liên Bang Đông Dương, khối đă chỉ định cho Hà Nội tại Đông Nam Á vai tṛ khống chế mà Bắc Kinh đă thủ giữ trong lịch sử tại khu vực Đông Á.  Đối với những kẻ sống sót mang tư tưởng độc nhất này sau nhiều thế kỷ xung đột với Trung Hoa, sự thỏa hiệp là điều không thể tưởng tượng được giữa ư tưởng của họ về nền độc lập và khái niệm ổn định của bất kỳ nước ngoài nào.  Sự nhức nhối của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Thứ Nh́ tại Đông Dương đă là sự tương tác giữa ao ước của Mỹ cho một sự thỏa hiệp và sự khẳng quyết của Bắc Việt trên sự chiến thắng.

       Trong ư nghĩa đó, lỗi lầm bao trùm của Mỹ trong Chiến Tranh Việt Nam đă không phải là điều đă làm phân hóa công luận Mỹ: liệu chính phủ Hoa Kỳ đă dành đủ sự tận tâm cho một kết cuộc ngoại giao hay không.  Đúng hơn, đó là sự vô khả năng để đối diện với sự kiện rằng một kết cuộc được gọi là có tinh chất ngoại giao, được t́m kiếm một cách thiết tha – lẫn tuyệt vọng nữa – biết bao bởi các chính quyền liên tiếp của cả hai đảng chính trị Mỹ, đ̣i hỏi các áp lực tương đương với những ǵ dẫn đến sự bại trận hoàn toàn của Hà Nội – và rằng Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh đă chỉ có một vai tṛ tạo điều kiện thuận lợi, chứ không phải chỉ đạo.

       Trong một chiều hướng hạn chế hơn, Bắc Kinh đă rơi vào một sự hiểu lầm tương tự.  Khi sự củng cổ của Hoa Kỳ tại Việt Nam khởi sự, Bắc Kinh đă giải thích việc đó theo quan điểm wei qi (vi kỳ: cờ vây): như một thí dụ khác của các căn cứ Mỹ bao vây Trung Quốc từ Hàn Quốc xuống tời Eo Biển Đài Loan và giờ đây đến tận Đông Dương.  Trung Quốc đă ủng hộ cuộc chiến tranh du kích của Bắc Việt, một phần v́ các lư do ư thức hệ, một phần để đẩy lùi các căn cứ Mỹ cách xa các biên giới Trung Quốc càng nhiều càng tốt.  Chu Ân Lai có nói với Thủ Tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng hồi Tháng Tư 1968 rằng Trung Quốc đă ủng hộ Bắc Việt để ngặn chặn sự bao vây chiến lược nhắm vào Trung Quốc, điều mà Phạm Văn Đồng đă đưa ra một sự trả lời lấp lửng – phần lớn bởi việc ngăn chặn sự bao vây Trung Quốc đă không phải là một mục tiêu của Việt Nam và các mục tiêu của Việt Nam là những mục tiêu có tính cách dân tộc:

CHU: Trong thời gian dài, Hoa Kỳ đă bao vây phân nửa Trung Quốc.  Giờ đây Liên Bang Sô Viết cũng đang bao vây Trung Quốc.  Sự bao vây đang trở nên trọn vẹn, ngoại trừ [phần thuộc] Việt Nam.

PHẠM: Chúng tôi tất cả đều quyết tâm hơn để đánh bại đế quốc Hoa Kỳ trên toàn lănh thổ Việt Nam.

CHU: Đó là lư do tại sao chúng tôi ủng hộ các ông.

PHẠM:  Khi chúng tôi chiến thắng điều đó sẽ có một tác động tích cực tại Á Châu.  Cuộc chiến thắng của chúng tôi sẽ mang lại các kết cuộc không thể tiên đoán được.

CHU: Ông nên nghĩ theo cách đó. 3

       Trong sự theo đuổi một chiến lược Trung Quốc mà Phạm Văn Đồng đă cẩn thận tách ra xa khỏi nó, Trung Quốc đă gửi hơn 100,000 nhân viên phi quân sự để trợ giúp hạ tầng cơ sở và sự tiếp vận của Bắc Việt.  Hoa Kỳ đă chống đối Bắc Việt như mũi giáo của một ư đồ của Nga-Hoa.  Trung Quốc đă ủng hộ Hà Nội để làm cùn nhụt một sự công kích Mỹ được nhận thức nhằm thống trị Á Châu.  Cả hai đều đă sai lầm.  Hà Nội đă chiến đấu chỉ cho lư lẽ dân tộc của chính nó.  Và một Việt Nam thống nhất do Cộng San lănh đạo, chiến thắng trong cuộc chiến tranh thứ nh́ của nó vào năm 1975, hóa ra sẽ là một mối đe dọa chiến lược lớn hơn nhiều đối với Trung Quốc chứ không phải đối với Hoa Kỳ.

       Phía Việt Nam nh́n lân bang phương bắc của họ với sự nghi ngờ dẫn đến hoảng loạn.  Trong các thời kỳ kéo dài của sự đô hộ của Trung Hoa, Việt Nam đă hấp thụ hệ thống chữ viết và các h́nh thức văn hóa và chính trị của Trung Hoa (được làm bằng, một cách ngoạn mục nhất, với hoàng cung và các lăng tẩm tại cố đô Huế).  Tuy nhiên, Việt Nam đă sử dụng các định chế “Trung Hoa” này để xây dựng một quốc gia riêng biệt và củng cố nền độc lập của riêng ḿnh.  Địa dư đă không cho phép Việt Nam rút lui về sự cô lập như Nhật Bản đă từng làm ở những thời kỳ tương tự trong lịch sử của nó.  Từ thế kỷ thứ nh́ trước Công Nguyên cho đến thế kỷ thứ mười, Việt Nam nằm dưới sự cại trị ít nhiều trực tiếp của Trung Hoa, đă chỉ vùng lên một cách trọn vẹn như một quốc gia độc lập với sự sụp đổ của triều đại nhà Đường trong năm 907.

       Căn cước dân tộc Việt Nam đă kết tụ để phản ảnh di sản của hai lực lượng phần nào mâu thuẫn nhau: một mặt, sự hấp thụ văn hóa Trung Hoa; mặt khác, sự chống đối việc đô hộ quân sự và chính trị của Trung Hoa.  Sự kháng cự Trung Quốc đă trợ lực vào việc sản sinh ra một niềm tự hào nhiệt thành trong sự độc lập của Việt Nam và một truyền thống quân sự đáng vị nể.  Sự hấp thụ văn hóa Trung Hoa đă mang lại cho Việt Nam một giới tinh hoa Khổng học theo kiểu Trung Hoa sở đắc một điều ǵ đó của một mặc cảm Vương Quốc Trung Tâm cấp miền của chính họ đối với các lân bang.  Trong các cuộc chiến tranh Đông Dương của thế kỷ thứ hai mươi, Hà Nội đă phô bày cảm thức của nó về phẩm cách văn hóa và chính trị qua việc lợi dụng lănh thổ trung lập của Lào và Căm Bốt như thể là hợp lư và, sau chiến tranh, nối dài “các mối quan hệ đặc biệt” với các phong trào Cộng Sản tại mỗi nước này, đến mức độ chẳng khác nào sự thống trị của Việt Nam.

       Việt Nam đă đối đầu với Trung Quốc với một sự thách đố địa chính trị và tâm lư chưa từng có.  Các nhà lănh đạo Hà Nội quen thuộc với Binh Pháp của Tôn Tử và đă sử dụng các nguyên tắc của nó với hiệu quả đáng kể chống lại cả nước Pháp lẫn Hoa Kỳ.  Ngay trước khi chấm dứt các cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài, trước tiên với người Pháp t́m cách thu hồi thuộc địa của họ sau Thế Chiến II, và sau đó với Hoa Kỳ từ 1963 đến 1975, cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội đều bắt đầu nhận thức rằng cuộc tranh chấp sắp tới sẽ là giữa họ với nhau để khống chế Đông Dương và Đông Nam Á.

       Sự gần gũi văn hóa có thể chịu trách nhiệm cho sự vắng bóng tương đối của sự chứng thực kỹ lưỡng trong sự phân tích chiến lược vốn thường hướng dẫn chính sách Trung Quốc trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam của Mỹ.  Một cách mỉa mai, quyền lợi chiến lược dài hạn của Bắc Kinh có thể tương đồng với quyền lợi của Hoa Thịnh Đốn: một kết cuộc trong đó bốn quốc gia Đông Dương (Bắc và Nam Việt Nam, Căm Bốt và Lào) cân đối lẫn nhau.  Điều này có thể giải thích lư do tại sao họ Mao, khi phác họa các kết cuộc khả hữu của cuộc chiến với [kư giả Mỹ] Edgar Snow trong năm 1965, đă liệt kê một kết cuộc duy tŕ Nam Việt Nam là khả hữu và, do đó, được giả định có thể chấp nhận được. 4

       Trong cuộc du hành bí mật của tôi đến Bắc Kinh trong năm 1971, họ Chu đă giải thích các mục tiêu của Trung Quốc tại Đông Dương là không có tính chất chiến lược hay ư thức hệ.  Theo họ Chu, chính sách của Trung Quốc tại Đông Dương được đặt hoàn toàn trên một món nợ lịch sử bị vướng mắc bởi các triều đại cổ xưa.  Các nhà lănh đạo Trung Quốc có lẽ đă giả định rằng Mỹ không thể bị bại trận và rằng miền bắc của một Việt Nam bị phân chia sẽ đi đến việc lệ thuộc vào sự ủng hộ của Trung Quốc nhiều như Bắc Hàn đă lệ thuộc sau khi chấm dứt Chiến Tranh Triều Tiên.

       Khi cuộc chiến tiếp diễn, đă có vài dấu hiệu rằng Trung Quốc đă tự chuẩn bị -- mặc dù miễn cưỡng – cho sự chiến thắng của Hà Nội.  T́nh báo ghi nhận sự xây dựng đường xá Trung Quốc tại miền bắc Lào là không có liên quan ǵ đến cuộc xung đột đang tiếp diễn với Hoa Kỳ, nhưng sẽ hữu dụng cho chiến lược hậu chiến tranh để đối cân với Hà Nội hay ngay cả một cuộc xung đột khả hữu trên nước Lào.  Trong năm 1973, sau Hiệp Định Paris chấm dứt Chiến Tranh Việt Nam, họ Chu và tôi đang thương thảo một giải pháp hậu chiến cho Căm Bốt dựa trên một liên hiệp giữa Norodom Sihanouk (nhà cựu lănh đạo Căm Bốt lưu vong, cư trú tại Bắc Kinh), chính phủ đương quyền tại Nam Vang, và phe Khmer Đỏ.  Mục đích chính của nó là tạo lập một chướng ngại vật cho một sự chiếm đoạt Đông Dương bởi Hà Nội.  Sự thỏa thuận sau hết đă bị yểu tử khi Quốc Hội Hoa Kỳ trong thực tế đă ngăn cấm bất kỳ vai tṛ quân sự nào khác cho Mỹ trong vùng, khiến cho vai tṛ của Mỹ không c̣n quan trọng. 5

       Sự thù nghịch ngấm ngầm của Hà Nội đối với đồng minh của nó khi đó được tỏ rơ với tôi trong một cuộc thăm viếng Hà Nội hồi Tháng Hai 1973, được trù liệu để giải quyết sự thi hành Hiệp Định Paris, vốn được kư kết hai tuần trước.  Lê Đức Thọ đă đưa tôi đi thăm bảo tàng viện quốc gia của Hà Nội, chủ yếu để chỉ cho tôi thấy các phần dành cho các cuộc đấu tranh lịch sử của Việt Nam  chống lại Trung Quốc – vẫn chính thức là một đồng minh của Việt Nam.

       Với sự sụp đổ của Sàig̣n trong năm 1975, các sự tranh giành lịch sử và cố hữu bùng nổ thành công khai, dẫn đến một sự chiến thắng của địa chính trị trên ư thức hệ.  Nó đă chứng tỏ rằng Hoa Kỳ không đơn độc trong việc lượng định một cách sai lầm ư nghĩa của Chiến Tranh Việt Nam.  Khi Hoa Kỳ vừa mới can thiệp lần đầu, Trung Quốc đă nh́n nó như một kiểu hắt hơi sau cùng của chủ nghĩa đế quốc.  Nó đă – gần như thường lệ -- buộc số phận của nó với Hà Nội.  Nó đă giải thích sự can thiệp của Hoa Kỳ như một bước tiến nữa đến sự bao vây Trung Quốc – giống như nó đă nh́n sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Triều Tiên một thập niên trước đó.

       Một cách mỉa mai, từ một quan điểm địa chính trị, các quyền lợi trường kỳ của Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn phải song hành với nhau.  Cả hai đều ưa thích sự duy tŕ nguyên trạng (status quo), tức một Đông Dương được phân chia giữa bốn quốc gia.  Hoa Thịnh Đốn đă kháng cự sự thống trị của Hà Nội tại Đông Dương bởi ư tưởng từ thời [Tổng Thống] Wilson về trật tự toàn cầu – quyền tự quyết của các quốc gia hiện hữu – và khái niệm về một âm mưu Cộng Sản toàn cầu.  Bắc Kinh đă có cùng mục tiêu tổng quát, nhưng từ quan điểm địa chính trị, bởi v́ nó đă muốn né tránh sự xuất hiện của một khối Đông Nam Á ở biên giới phía nam của nó.

       Trong một lúc, Bắc Kinh dường như tin tưởng rằng ư thức hệ Cộng Sản sẽ đánh thắng một lịch sử ngh́n năm chống đối của Việt Nam đối với sự chế ngự của Trung Hoa.  Hoặc nó đă không nghĩ rằng có khi nào mà Hoa Kỳ lại có thể bị dẫn tới một sự bại trận hoàn toàn.  Với hậu quả của sự sụp đổ của Sàig̣n, Bắc Kinh bị buộc phải đối diện với các hàm ư trong chính sách của chính nó.  Và nó đă co ṿi trước chúng.  Kết cuộc tại Đông Dương ḥa nhập với nỗi lo sợ thường trực của Trung Quốc về sự bao vây.  Việc ngăn chặn một khối Đông Dương được nối kết với Liên Bang Sô Viết đă trở thành mối bận tâm vượt trội của chính sách ngoại giao Trung Quốc dưới thời họ Đặng và là một mối dây nối kết với sự hợp tác gia tăng với Hoa Kỳ.  Hà Nội Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa, và Hoa Thịnh Đốn đang chơi một trận đánh cờ vây (wei qi: vi kỳ) bốn bên.  Các biến cố tại Căm Bốt và tại Việt Nam sẽ xác định ai là kẻ sẽ sau hết bị bao vây và trung lập hóa: Bắc Kinh hay Hà Nội.

       Cơn ác mộng bị bao vây của Bắc Kinh bởi một quyền lực thù nghịch rơ ràng đă trở thành sự thực.  Việt Nam không thôi đă đủ đáng nể sợ.  Nhưng nếu nó thực hiện mục tiêu của nó về một Liên Bang Đông Dương, nó sẽ tiến tới một khối có dân số 100 triệu người, và sẽ ở vào một vị thế tạo áp lực đáng kể trên Thái Lan và các quốc gia Đông Nam Á khác.  Trong khung cảnh này, sự độc lập của Căm Bốt như một đối lực với Hà Nội trở thành một mục tiêu chính yếu của Trung Quốc.  Ngày từ Tháng Tám 1975—ba tháng sau khi có sự sụp đổ của Sàig̣n—Đặng TiỂu B́nh có nói với nhà lănh đạo Khmer Đỏ đang sang thăm, Khieu Samphan: “Khi một siêu cường [Hoa Kỳ] bị buộc phải triệt thoái các lực lượng của nó ra khỏi Đông Dương, siêu cường khác [Liên Bang Sô Viết] đă nắm lấy cơ hội … để vươn các ṿi độc ác của nó đến Đông Nam Á … trong một mưu toan nhằm thực hiện sự bành trướng ở đó”. 6  Căm Bốt và Trung Quốc, họ Đặng nói, “cả hai … đều đối diện với công tác chiến đấu chống lại chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa bá quyền … Chúng ta vững tin rằng … hai dân tộc chúng ta sẽ đoàn kết chặt chẽ hơn nữa và cùng tiến bước đến các sự chiến thắng mới trong cuộc đấu tranh chung”. 7 Trong một cuộc thăm viếng hồi Tháng Ba 1976 của Thủ Tướng Lào Kaysone Phomvihane tại Bắc Kinh, Hoa Quốc Phong, khi đó là Thủ Tướng, đă cảnh cáo về Liên Bang Sô Viết một cách cơ bản rằng “Đặc biệt, siêu cường tuyên truyền “ḥa hoăn” trong khi vươn các móng vuốt chụp bắt ở mọi nơi đang xúc tiến sự bành trướng vũ trang của nó và các sự chuẩn bị chiến tranh và đang mưu toan để mang nhiều nước hơn vào trong khu vực ảnh hưởng của nó và đóng vai vị chúa tể nắm bá quyền”. 8

       Được giải thoát khỏi nhu cầu liên đới Cộng Sản giả tạo trong sự đối diện với mối de dọa “đế quốc chủ nghĩa” của Mỹ, các đối thủ đă tiến tới sự chống đối lẫn nhau công khai không lâu sau sự sụp đổ của Sàig̣n hồi Tháng Tư 1975.  Trong ṿng sáu tháng sau sự sụp đổ của toàn thể Đông Dương, 150000 người Việt Nam đă bị buộc phải rời khỏi Căm Bốt.  Một số lượng tương tự các công dân Việt Nam gốc Hoa bị buộc phải chạy trốn khỏi Việt Nam.  Vào Tháng Hai 1976, Trung Quốc đă chấm dứt chương tŕnh viện trợ của nó cho Việt Nam, và một năm sau đó, nó đă căt đứt bất kỳ sự chuyển giao nào dựa trên các chương tŕnhhiện có.  Cùng lúc, Hà Nội đă hướng đén Liên Bang Sô Viết.  Tại một phiên họp của Bộ Chính Trị Việt Nam hồi Tháng Sáu 1978, Trung Quốc đă bị xác định là “kẻ thù chính” của Việt Nam.  Trong cùng tháng đó, Việt Nam đă gia nhập khối Comecon, khối mậu dịch do Sô Viết cầm đầu.  Trong Tháng Mười Một 1978, Liên Bang Sô Viết và Việt Nam đă kư kết Hiệp Ước Hợp Tác và Hữu nghị, có chứa đựng các điều khoản về quân sự.  Trong Tháng Mười Hai 1978, bộ đội Việt Nam đă xâm lăng Căm Bốt, lật đổ phe Khmer Đỏ, và dựng lên một chính phủ thân Việt Nam.

       Ư thức hệ đă biến mất khỏi cuộc xung đột.  Các trung tâm quyền lực Cộng Sản đang thực hiện một cuộc tranh giành cán cân quyền lực không dựa trên ư thức hệ mà dựa trên quyền lợi quốc gia.

       Nh́n từ Bắc Kinh, một cơn ác mộng chiến lược đang tiến triển dọc các biên giới của Trung Quốc.  Tại phía bắc, sự củng cố của Sô Viết tiếp tục không suy giảm: Mạc Tư Khoa vẫn duy tŕ gần năm mươi sư đoàn dọc biên giới.  Tại phía tây của Trung Quốc, A Phú Hăn đă trải qua một cuộc đảo chính Mác Xít và chịu ảnh hưởng Sô Viết ngày càng công khai. 9 Bắc Kinh cũng nh́n thấy bàn tay của Mạc Tư Khoa trong cuộc cách mạng tại Iran, lên đến cực điểm với sự bỏ chạy của Quốc Vương Iran (Shah) vào ngày 16 Tháng Một, 1979.  Mạc Tư Khoa tiếp tục thúc đẩy một hệ thống an ninh tập thể tại Á Châu với không mục đích khả tín nào khác hơn là để ngăn chặn Trung Quốc.  Trong khi đó, Mạc Tư Khoa đang thương thảo Hiệp Ước SALT II với Hoa Thịnh Đốn.  Trong sự nhận thức của Bắc Kinh, các thỏa ước như thế phục vụ cho việc “đẩy các ḍng nước độc hại của Liên Bang Sô Viết hướng về phía đông” đến Trung Quốc.  Trung Quốc xem ra sẽ ở vào một vị thế dễ bị xâm hại một cách khác thường.  Giờ đây Việt Nam đă gia nhập vào cánh Sô Viết.  “Các kết cuộc không thể nh́n trước được” được tiên đoán bởi Phạm Văn Đồng với họ Chu trong năm 1968 rơ ràng bao gồm sự bao vây của Sô Viết đối với Trung Quốc.  Một sự phúc tạp bổ túc là tất cả các sự thách đố này đă diễn ra trong lúc họ Đặng vẫn c̣n đang củng cố vị thế của ông ta trong đợt quay lại nắm quyền lần thứ nh́ – một tiến tŕnh không hoàn tất cho đến năm 1980.         

       Một sự khác biệt chính yếu giữa chiến lược ngoại giao của Trung Quốc và Tây Phương là phản ứng đối với tính khả dĩ bị xâm hại nhận thức được.  Các nhà ngoại giao Mỹ và Tây Phương kết luận rằng họ phải tiến bước một cách thận trọng để né tránh sự khiêu khích; sự đáp ứng của Trung Quốc nhiều phần sẽ làm lớn hơn sự thách đố.  Các nhà ngoại giao Tây Phương có khuynh hướng để kết luận, từ một cán cân lực lượng không thuận lợi, về một mệnh lệnh cho một giải pháp ngoại giao; họ đă thúc giục các sáng kiến ngoại giao để đặt phía bên kia vào chỗ “sai trái” nhằm cô lập nó về mặt tinh thần nhưng từ bỏ sự sử dụng vũ lực – đây thực sự là lời khuyến cáo của Mỹ cho họ Đặng sau khi Việt Nam xâm lăng Căm Bốt và chiếm đóng xứ này.  Các chiến lược gia Trung Quốc nhiều phần sẽ gia tăng sự cam kết của họ để thay thế cho sự can đảm và áp lực tâm lư chống lại lợi thế cụ thể của đối phương.  Họ tin tưởng nơi sự cấm chỉ dưới h́nh thức đánh phủ đầu.  Khi các nhà hoạch định Trung Quốc kết luận rằng đối thủ của họ đang giành đoạt lợi thế không thể chấp nhận được và rằng chiều hướng chiến lược đang quay ngược lại họ, họ đáp ứng bằng cách theo đuổi việc triệt hạ sự tự tin của địch thủ và cho phép Trung Quốc thu hồi thế thượng phong về tâm lư, nếu không phải về mặt cụ thể.

       Đối diện với một sự đe dọa ở mọi mặt trận, họ Đặng đă quyết định tiến hành cuộc tấn công chiến lược và ngoại giao.  Mặc dù vẫn chưa kiểm soát hoàn toàn tại Bắc Kinh, ông ta đă di chuyển một cách táo bạo trên vài mức độ ở hải ngoại.  Ông đă thay đổi lập trường của Trung Quốc đối với Liên Bang Sô Viết từ sự ngăn chặn sang sự thù nghịch chiến lược công khai và, trong thực tế, đẩy lùi [nó].  Trung Quốc sẽ không c̣n tự giới hạn ḿnh vào việc cố vấn Hoa Kỳ về phương cách ngăn chặn Liên Bang Sô Viết; giờ đây nó sẽ đóng một vai tṛ tích cực trong việc xây dựng một liên hiệp chống Sô Viết và chống Việt Nam, đặc biệt tại Á Châu.  Nó sẽ sắp xếp các sự việc vào đúng chỗ cho một sự biểu dương khả hữu với Hà Nội.

 

Chính Sách Ngoại Giao Của Họ Đặng –

Đối Thoại Với Mỹ Và B́nh Thường Hóa

       Khi họ Đặng quay trở lại từ cuộc lưu đầy thứ nh́ trong năm 1977, ông đă đảo ngược chính sách đối nội của họ Mao nhưng giữ lại phần lớn chính sách ngoại giao của họ Mao.  Điều này xảy ra bởi cả hai cùng chia sẻ các cảm nhận dân tộc mạnh mẽ và đă có các quan điểm tương tự về quyền lợi quốc gia của Trung Quốc.  Nó cũng đă xảy ra bởi chính sách ngoại giao đă đặt ra nhiều giới hạn tuyệt đối đối với các xung động cách mạng của họ Mao nhiều hơn chính sách đối nội.

       Tuy nhiên, đă có một sự khác biệt đáng kể về phong cách giữa sự phê b́nh của họ Mao và họ Đặng.  Họ Mao đă tra vấn về các chủ định chiến lược trong chính sách đối với Sô Viết của Mỹ.  Họ Đặng giả định một sự đồng nhất về các quyền lợi chiến lược và đă tập trung vào việc giành đạt được một sự thi hành tương tự.  Họ Mao đối phó với Liên Bang Sô Viết như một loại hăm dọa chiến lược trừu tượng mà sự dọa nạt không áp dụng nhiều đối với Trung Quốc cho bằng phần c̣n lại của thế giới.  Họ Đặng đă nh́n nhận mối nguy hiểm đặc biệt đối với Trung Quốc, nhất là một mối đe dọa trực tiếp ở biên giới phía nam Trung Quốc cộng với một sự đe dọa tiềm tàng ở phía bắc.  Sự đối thoại v́ thế mang một tính chất hoạt động hơn.  Họ Mao hành động như  một giáo viên tuyệt vọng, họ Đặng như một đối tác đ̣i hỏi hơn.

       Đối diện với mối hiểm nghèo thực sự, họ Đặng đă chấm dứt sự mâu thuẫn về mối quan hệ với Mỹ trong năm cuối cùng của họ Mao.  Không c̣n bất kỳ sự hoài niệm nào của Trung Quốc về các cơ hội nhân danh cách mạng thế giới.  Họ Đặng, trong tất cả các cuộc đàm thoại sau khi ông quay trở về, đă lập luận rằng, trong việc kháng cự mối đe dọa của chính sách của Sô Viết đối với Âu Châu, Trung Quốc và Nhật Bản cần phải được mang đặt vào trong một kế hoạch toàn cầu.

       Bất kể sự gần gủi đến đâu của sự tham khảo đă diễn ra giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, khoảng cách vẫn hiện diện rằng Mỹ c̣n chính thức thừa nhận Đài Loan như chính phủ chính thống của Trung Hoa và Đài Bắc như là thủ đô của Trung Hoa.  Các đối thủ của Trung Quốc dọc theo các biên giới phía bắc và phía nam có thể giải thích sai lạc rằng sự thiếu vắng việc thừa nhận như là một cơ hội.

       Sự b́nh thường hóa các quan hệ đă di chuyển lên trên cùng trong nghị tŕnh Trung Quốc – Mỹ khi Jimmy Carter đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống.  Cuộc thăm viếng đầu tiên đến Bắc Kinh của tân Bộ Trưởng Ngoại Giao, Cyrus Vance, trong Tháng Tám 1977 đă không diễn tiến một cách tốt đẹp.  “Tôi rời Hoa Thịnh Đốn”, ông Vance đă viết trong tập hồi kư của ḿnh:

Tin tưởng rằng sẽ là điều không khôn ngoan để đảm nhận một vấn đề dễ gây tranh luận chính trị như sự b́nh thường hóa với Trung Quốc cho đến khi vấn đề Panama [chỉ sự phê chuẩn hiệp ước Kinh Đào Panama trao trả sự điều hành kinh đào] được thanh lư xong, trừ khi – và tôi đă không kỳ vọng nó sẽ xẩy ra -- phía Trung Quốc chấp nhận toàn thể đề nghị của của chúng ta.  V́ các lư do chính trị, tôi có ư định để phô bày một lập trường tối đa đối với Trung Quốc trên vấn đề Đài Loan … Theo đó, tôi đă không kỳ vọng phía Trung Quốc chấp nhận đề nghị của chúng ta, nhưng tôi đă cảm thấy đó là điều khôn ngoan để làm như thế, cho dù rốt cuộc chúng ta có thể phải từ bỏ nó”. 10

       Đề nghị của Mỹ về Đài Loan chứa đựng một loạt các ư tưởng liên can đến sự duy tŕ một vài sự hiện diện ngoại giao hạn chế của Mỹ về Đài Loan đă được đưa ra và bị bác bỏ dưới thời chính quyền [Tổng Thống] Ford.  Các đề nghị một lần nữa bị bác bỏ bởi họ Đặng, kẻ đă gọi chúng là một bước giựt lùi.  Một năm sau đó, cuộc tranh luận nội bộ phía Mỹ đă chấm dứt khi Tổng Thống Carter quyết định dành ưu tiên cao cho mối quan hệ với Trung Quốc.  Các áp lực của Sô Viết tại Phi Châu và Trung Đông đă thuyết phục vị tân Tổng Thống lựa chọn sự b́nh thường hóa mau lẹ với Trung Quốc, bằng điều không khác ǵ lời yêu cầu một liên minh chiến lược trong thực tế với Trung Quốc.  Vào ngày 17 Tháng Năm 1978, Tổng Thống Carter đă phái viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của ông, Zbigniew Brzezinski, sang Bắc Kinh với các chỉ thị này:

Ông cần nhấn mạnh rằng tôi nh́n Liên Bang Sô Viết trong bản chất có một quan hệ cạnh tranh với Hoa Kỳ, tuy rằng cũng có một số khía cạnh hợp tác …

Để nói một cách cô đọng nhất, sự quan ngại của tôi rằng sự kết hợp của quyền lục quân sự Sô Viết gia tăng và sự thiển cận về chính trị, được nuôi dưỡng bởi các tham vọng đại cường, có thể lôi cuốn Liên Bang Sô Viết đến cả việc khai thác sự xáo trộn địa phương (đặc biệt trong Thế Giới Thứ Ba) lẫn việc dọa nạt các thân hữu của chúng ta hầu t́m kiếm lợi thế chính trị và sau rốt ngay cả ưu thế chính trị. 11

       Brzezinski cũng được phép để tái khẳng định năm nguyên tắc được đề ra bởi Nixon với họ Chu trong năm 1972. 12 Một người bênh vực mạnh mẽ từ lâu cho sự hợp tác chiến lược với Trung Quốc, Brzezinski thi hành các chỉ thị của ông với ḷng nhiệt thành và sự khéo léo.   Khi ông đén viếng thăm Bắc Kinh trong Tháng Năm 1978 để theo đuổi các quan hệ b́nh thường hóa, Brzezinski t́m thấy một thính giả đón nhận.  Họ Đặng th́ hăng hái để xúc tiến việc b́nh thường hóa hầu chiêu mộ Hoa Thịnh Đốn một cách vững chắc hơn vào một liên hiệp chống lại, bằng điều mà ông gọi là “công việc cụ thể, chắc chắn và không viển vông”, các sự tiến bước của Sô Viết ở khắp mọi ngóc ngách của hoàn cầu.

       Các nhà lănh đạo Trung Quốc nhận thức sâu xa về các mối nguy hiểm chiến lược bao quanh họ; nhưng họ đă tŕnh bày sự phân tích của họ ít mang vẻ quan tâm quốc gia hơn là một cái nh́n bao quát về các t́nh trạng toàn cầu.  “Sự xáo trộn dưới ṿm trời”, “trục nằm ngang” “Ba Thế Giới”: tất cả đều tượng trưng cho các lư thuyết đại cương về các quan hệ quốc tế; không phải là các nhận thức dân tộc riêng biệt.  

       Sự phân tích của Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoàng Hoa về t́nh h́nh quốc tế phô bày một sự tự tin rơ rệt.  Thay v́ xuất hiện như một kẻ khẩn nài trong điều là, sau hết, một t́nh trạng vô cùng khó khăn cho Trung Quốc, họ Hoàng đă có thái độ của một giáo viên Khổng học, thuyết giảng về cách thức để thực hiện một chính sách ngoại giao bao quát.  Ông ta mở đầu với một sự lượng định tổng quát về “các mâu thuẫn” giữa hai siêu cường, sự vô ích của các cuộc thương thảo với Liên Bang Sô Viết, và tính tất yếu của một cuộc thế chiến:

Liên Bang Sô Viết là nguồn gốc nguy hiểm nhất của chiến tranh.  Ông đă đề cập rằng Liên Bang Sô Viết bị đối diện với nhiều khó khăn.  Điều đó th́ đúng.  Gắng sức cho một bá quyền thế giới là mục đích chiến lược cố định của chủ nghĩa đế quốc xă hội Sô Viết.  Mặc dù nó có thể phải gánh chịu nhiều sự thoái bộ, nó sẽ không bao giờ từ bỏ tham vọng của nó. 14

       Họ Hoàng đă nêu lên các quan ngại cũng quấy rầy các sinh viên Mỹ về chiến lược – đặc biệt những ai cố gắng liên hệ các vũ khí hạt nhân với các phương cách suy nghĩ cổ truyền về chiến lựoc.  Sự lệ thuộc vào các vũ khí hạt nhân sẽ mở ra một khoảng trống giữa các đe dọa cấm chỉ và sự sẵn ḷng để thi hành chúng: “Về lập luận rằng Liên Bang Sô Viết sẽ không dám sử dụng các khí giới quy ước bởi lo sợ sự tấn công hạt nhân từ khối Tây, đây chỉ là một ư nghĩ ước mơ.  Đặt một lập trường chiến lược trên ư nghĩ này không chỉ nguy hiểm mà c̣n không đáng tin cậy”. 15

       Tại Trung Đông – “cạnh sườn của Âu Châu” và một “nguồn năng lượng trong một cuộc chiến tranh tương lai” – Hoa Kỳ đă thất bại để ngăn chặn các bước tiến của Sô Viết.  Nó đă đưa ra một bản tuyên bố chung về Trung Đông với Liên Bang Sô Viết (mời các quốc gia trong vùng đến dự một hội nghị để thăm ḍ triển vọng của một giải pháp toàn diện cho Palestine), “chính từ đó mở rộng cánh cửa cho Liên Bang Sô Viết để xâm nhập sâu hơn vào Trung Đông”.  Hoa thịnh Đốn đă để cho Tổng Thống Anwar Sadat của Ai Cập – kẻ mà “hành động táo bạo” đă “tạo ra một t́nh trạng bất lợi cho Liên Bang Sô Viết” -- ở vào một vị thế nguy hiểm và đă cho phép Liên Bang Sô Viết “nắm lấy cơ hội để nâng cao sự phân hóa nghiêm trọng giữa các nước Ả Rập”. 16

       Họ Hoàng đă tóm tắt t́nh h́nh bằng việc viện dẫn một châm ngôn cổ của Trung Quốc: “sự nhượng bộ” trước Mạc Tư Khoa, ông ta nói, th́ “giống như chắp thêm cánh cho một con hổ để tăng cường sức mạnh cho nó”.  Nhưng một chính sách của áp lực có phối hợp sẽ thắng thế, bởi v́ Liên Bang Sô Viết đă “chỉ mạnh bề ngoài nhưng yếu bên trong.    Nó dọa nạt nước yếu và sợ các nước mạnh”. 17

       Tất cả điều này là để cung cấp khung cảnh cho Đông Dương.  Họ Hoàng đă nói đến “vấn đề bá quyền cấp miền”.  Mỹ, dĩ nhiên, đă giẫm chân trên con đường này khoảng gần mười năm trước đây.  Việt Nam đă nhắm thống trị Căm Bốt và Lào và thành lập một Liên Bang Đông Dương – và “đàng sau sự việc đó là Liên Bang Sô Viết”.  Hà Nội đă sẵn đạt được một vị trí khống chế tại Lào, đang đồn trú binh sĩ ở đó và duy tŕ “các cố vấn ở mọi bộ và trong mọi cấp ở Lào”.  Nhưng Hà Nội đă gặp phải sự kháng cự tại Căm Bốt, nước chống đối các tham vọng cấp miền của Việt Nam.  Sự căng thẳng giữa Việt Nam – Căm Bốt tượng trưng “không chỉ một vài vụ đụng độ rời rạc dọc biên giới” mà là một cuộc xung đột lớn “có thể kéo dài trong một thời khoảng lâu dài”.  Trừ khi Hà Nội từ bỏ mục đích của nó nhằm thống trị Đông Dương.  “vấn đề sẽ không được giải quyết trong một thời kỳ ngắn ngủi”. 18

       Họ Đặng đă tiếp nối sự phê b́nh của Hoàng Hoa sau đó trong cùng ngày.  Các sự nhượng bộ và các thỏa ước sẽ không bao giờ tạo ra sự kiềm chế của Sô Viết, ông ta đă cảnh cáo Brzezinski.  Mười lăm năm của các thỏa ước về vũ khí đă cho phép Liên Bang Sô Viết đạt được sự ngang bằng chiến lược với Hoa Kỳ.  Mậu dịch với Liên Bang Sô Viết có nghĩa rằng “Hoa Kỳ đang trợ giúp Liên Bang Sô Viết khắc phục các nhược điểm của nó”.  Họ Đặng đă đề nghị một sự lượng định chế diễu về các sự đáp ứng của Mỹ đối với chính sách phiêu lưu của Sô Viết tại Thế Giới Thứ Ba và quở trách Hoa Thịnh Đốn về việc cố gắng “làm vừa ḷng” Mạc Tư Khoa:

Các phát ngôn viên của ông thường trực biện minh và xin lỗi cho các hành động của Sô Viết.  Đôi khi họ nói rằng không có các dấu hiệu chứng minh là có sự can thiệp của Liên Bang Sô Viết và Cuba trong trường hợp Cộng Ḥa Zaire [tức Congo thuộc Bỉ trước đây, chú của người dịch] hay Angola.  Nó chẳng có ích ǵ khi ông nói như thế.  Xin thẳng thắn với ông, bất kỳ khi nào quư ông sắp sửa kư kết một thỏa ước với Liên Bang Sô Viết, đó chính là một sản phẩm của [một] sự nhượng bộ về phía Hoa Kỳ để làm vui ḷng phía Sô Viết”. 19

       Đó là một màn tŕnh diễn khác thường.  Xứ sở vốn đă mục tiêu chính yếu của Liên Bang Sô Viết đang đề nghị hành động chung như một nghĩa vụ theo quan niệm luận, không phải như một sự thương nghị giữa các nước, càng không phải như một yêu cầu.  Vào thời khắc có sự nguy hiểm quốc gia lớn lao – điều mà sự phân tích của chính nó phơi bày – Trung Quốc tuy thế đă hành động như một giảng viên về chiến lược, không phải như một khách tiêu thụ thụ động các toa  thuốc của Hoa Kỳ, giống như các đồng minh Âu Châu của Mỹ thường làm.

       Các chất liệu của phần lớn sự tranh luận của Mỹ -- luật quốc tế, các giải pháp đa phương, sự đồng thuận của dân chúng – th́ vắng mặt trong sự phân tích của Trung Quốc ngoại trừ như các công cụ thực tiễn cho một mục tiêu đă đồng ư.  Và mục tiêu đó, như họ Đặng đă vạch ra với Brzezinski, là “đối đầu với con gấu bắc cực và sự thể là như thế đó”. 20

       Nhưng đối với người Mỹ có một giới hạn với điều được gọi là khảo hướng hiện thực trong các giá trị nền tảng của xă hội Mỹ.  Và phe sát nhân Khmer Đỏ cai trị Căm Bốt tượng trưng cho một giới hạn như thế.  Không vị Tổng Thống Mỹ nào lại có thể đối xử với Khmer Đỏ như một viên đá khác trong chiến lược cờ vây (wei qi).  Hành động diệt chủng của nó – xua đuổi dân chúng Nam Vang vào rừng, hạ sát tập thể các loại thường dân bị chỉ danh – không thể đơn giản được phớt lờ (mặc dù như chúng ta sẽ nh́n thấy sự bắt buộc đă xảy ra trong vấn đề nguyên tắc [về sự] phá thai) [sic, câu này không rơ nghĩa, chú của người dịch].

       Hoa Quốc Phong, vẫn c̣n là Thủ Tướng, c̣n nhấn mạnh hơn nữa trong một phiên họp trong ngày kế đó:

Chúng tôi có nói với nhiều thân hữu của chúng tôi rằng mối nguy hiểm chính của chiến tranh phát sinh từ Liên Bang Sô Viết.  Khi đó làm sao chúng tôi đối phó với nó?  Điều đầu tiên là người ta phải thực hiện các sự chuẩn bị … Nếu người ta đă chuẩn bị và một khi chiến tranh bùng nổ, người đó sẽ không thấy ḿnh ở vào một vị thế bất lợi.  Điều thứ nh́ là bắt buộc phải cố gắng đảo lộn sự bố trí chiến lược của sự xâm lược Sô Viết.  Bởi v́ để đoạt được bá quyền trên thế giới, Liên Bang Sô Viết trước tiên phải có được các căn cứ không và hải quân khắp nơi trên thế giới, v́ thế nó phải thực hiện [một] sự bố trí chiến lược.  Và chúng ta phải cố gắng làm đảo lộn các kế hoạch của nó nhằm bố trí trên toàn cầu. 21

       Không thành viên nào của Liên Minh Đại Tây Dương đă đưa ra một lời kêu gọi bao quát tương tự để hành động chung – chủ yếu để đánh phủ đầu -- hay cho thây rằng nó đă chuẩn bị để hành động một ḿnh trên sự lượng định của nó.

       Về mặt hành động, các nhà lănh đạo Trung Quốc đă đề nghị một loại hợp tác trong nhiều cách mật thiết hơn và chắc chắn chấp nhận nhiều rủi ro hơn Liên Minh Đại Tây Dương.  Họ t́m cách để thi hành chiến lược tấn công cấm chỉ (offensive deterrence) được mô tả trong các chương trước đây.  Tính chất đặc biệt của nó là họ Đăng đă đề nghị cơ cấu chính thức hay nghĩa vụ dài hạn.  Một sự lượng định chung sẽ cung cấp các sự thúc đẩy cho hành động chung, nhưng liên minh trong thực tế sẽ không tồn tại nếu các sự lượng định bắt đầu dị biệt – Trung Quốc nhấn mạnh đến sự tự lực ngay khi ở trong t́nh trạng cực kỳ nguy hiểm.  Chính bởi Trung Quốc đă quá khăng khăng về hành động chung bất kể sự chỉ trích gay gắt về các chính sách Mỹ cá biệt cho thấy rằng sự hợp tác với Hoa Kỳ v́ an ninh đă được nhận thức là khẩn thiết.

       Sự b́nh thường hóa đă xuất hiện như một bước đầu tiên tiến đến một chính sách toàn cầu chung.  Tù lúc có cuộc thăm viếng bí mật hồi Tháng Bảy 1971, các điều kiện của Trung Quốc cho sự b́nh thường hóa được công khai hóa và không thay đổi: sự triệt thoái tất cả các lực lượng Mỹ ra khỏi Đài Loan; chấm dứt hiệp ước pḥng thủ với Đài Loan; và thiết lập các quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, chỉ riêng với chính phủ tại Bắc Kinh không thôi.  Nó đă là một phần của lập trường của Trung Quốc trong bản Thông Cáo Thượng Hải.  Hai vị Tổng Thống – Richard Nixon và Gerald Ford đă đồng ư với các điều kiện này.  Tổng Thống Nixon cho thấy ông sẽ thực hiện chúng trong nhiệm kỳ thứ nh́ của ông.  Cả Nixon và Ford đều nhấn mạnh đến sự quan tâm của Mỹ về một giải pháp ḥa b́nh cho vấn đề, kể cả sự tiếp tục của một số trợ giúp an ninh cho Đài Loan.  Họ đă không thể hoàn thành các lời hứa hẹn này bởi tác động của vụ Watergate.

       Trong một hành vi khác thường của chính sách ngoại giao phi đảng phái, Tổng Thống Carter vào lúc ban đầu của nhiệm kỳ ông đă tái khẳng định tất cả các sự cam kết liên quan đến Đài Loan mà Nixon đă đưa ra với họ Chu hồi Tháng Hai 1972.  Trong năm 1978, ông đă đưa ra một công thức cá biệt cho sự b́nh thường hóa giúp cho cả hai bên duy tŕ được các nguyên tắc đă thiết định: sự tái khẳng định các nguyên tắc đă được chấp nhận bởi Nixon và Ford; một lời tuyên bố của Mỹ nhấn mạnh đến sự cam kết của xứ sở đối với sự thay đổi ḥa b́nh; sự ưng thuận của Trung Quốc đối với một số vụ bán vũ khí của Mỹ cho Đài Loan.  Carter đă đưa ra các ư tưởng này một cách cá nhân trong một cuộc đàm thoại với đại sứ Trung Quốc, Chai Zemin, trong đó ông đă đe dọa rằng, trong trường hợp không có các vụ bán vũ khí của Mỹ, Đài Loan sẽ bị buộc phải nhờ cậy đến việc phát triển các vũ khí hạt nhân – như thể Hoa Kỳ đă không có ảnh hưởng ǵ trên các kế hoạch hay hành động của Đài Loan. 22

       Sau cùng, sự b́nh thường hóa đă xảy ra khi Carter cung cấp một hạn kỳ bằng việc mời họ Đặng sang thăm viếng Hoa Thịnh Đốn.  Họ Đặng đồng ư về các vụ bán vũ khí không xác định cho Đài Loan và đă không bác bỏ một sự tuyên bố của Mỹ rằng Hoa Thịnh Đốn đă kỳ vọng rằng giải pháp tối hậu cho vấn đề Đài Loan sẽ có tính chất ḥa b́nh – ngay dù Trung Quốc đă đưa ra một tài liệu dài rằng nó sẽ không cam kết một nghĩa vụ chính thức nào trên căn bản đó.  Lập trường của Bắc Kinh vẫn c̣n, như họ Đặng đă nhấn mạnh với Brzezinski, rằng “sự giải phóng Đài Loan một một công việc nội bộ của Trung Quốc trong đó không nước ngoài nào có quyền can thiệp”. 23

       Sự b́nh thường hóa có nghĩa rằng Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ sẽ di chuyển từ Đài Bắc sang Bắc Kinh; một nhà ngoại giao từ Bắc Kinh sẽ thay thế đại diện của Đài Bắc tại Hoa Thịnh Đốn.  Để đáp ứng, Quốc Hội Hoa Kỳ đă thông qua Đạo Luật Các Quan Hệ Đài Loan trong Tháng Tư 1979, bày tỏ sự quan tâm của Mỹ về tương lai như một đạo luật cưỡng hành đối với Mỹ.  Dĩ nhiên, nó không thể ràng buộc Trung Quốc.

       Sự cân bằng này giữa các mệnh lệnh khẩn thiết của Mỹ và Trung Quốc minh họa lư do tại sao sự mơ hồ đôi khi là sinh huyết của ngoại giao.  Phần lớn sự b́nh thường hóa đă được chống đỡ trong bốn mươi năm bởi một loạt các sự mơ hồ.  Nhưng nó không thể làm như thế một cách vô hạn định.  Tài trí chính khách khôn ngoan ở cả hai bên th́ cần thiết để đẩy tiến tŕnh tiến về phía trước.

 

Các Hành Tŕnh Của Họ Đặng

       Khi họ Đặng di chuyển từ sự cổ vũ sang sự thi hành, ông đă nh́n thấy rằng Trung Quốc sẽ không chờ đợi một cách thụ động các quyết định của Mỹ.  Bất kỳ nơi nào có thể -- đặc biệt tại Đông Nam Á – ông sẽ tạo ra khuôn khổ chính trị mà ông đang biện hộ.

       Trong khi họ Mao đă triệu vời các lănh tụ ngoại quốc đến nơi cư ngụ của ông như một vị hoàng đế, họ Đặng đă chấp nhận chiều hướng ngược lại -- du hành Đông Nam Á, Hoa Kỳ, và Nhật Bản và thực hành kiểu ngoại giao xuất hiện rơ rệt, bộc trực, và đôi khi làm phách của riêng ông.  Trong năm 1978 và 1979, họ Đặng đă thực hiện một loạt các hành tŕnh để thay đổi h́nh ảnh của Trung Quốc ở hải ngoại từ kẻ thách đố cách mạng thành nạn nhân đồng hành của các ư đồ địa chính trị của Việt Nam và Sô Viết.  Trung Quốc đă từng ở phía bên kia trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam.  Tại Thái Lan và Mă Lai, Trung Quốc trước đây có khuyến khích cách mạng trong số Hoa Kiều hải ngoại và các sắc dân thiểu số. 24 Tất cả điều này giờ đây là thứ yếu trước sự đối phó với mối đe dọa tức thời.

       Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Time hồi Tháng Hai 1979, họ Đặng đă quảng cáo ư đồ chiến lược Trung Quốc đến một công luận rộng lớn: “Nếu chúng ta thực sự muốn có khả năng để đặt các sự kiềm chế trên con gấu bắc cực, điều thực tế duy nhất cho chúng ta là đoàn kết lại.  Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mạnh của Hoa Kỳ không thôi, điều đó không đủ.  Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mạnh của Âu Châu không thôi, điều đó không đủ.  Chúng tôi là một xứ sở nghèo đói, không quan trọng, nhưng nếu chúng ta hợp nhất, vâng, khi đó nó sẽ có trọng lượng”. 25  

       Trong suốt các cuộc du hành của ông, họ Đặng nhấn mạnh đến sự lạc hậu tương đối của Trung Quốc và ước vọng của nó để thụ đắc kỹ thuật và sự tinh thông chuyên nghiệp từ các nước kỹ nghệ tiền tiến.  Nhưng ông cho rằng sự thiếu phát triển của Trung Quốc đă không làm thay đổi quyết tâm của nó để kháng cự sự bành trướng của Sô Viết và Việt Nam, nếu cần bằng vũ lực và một ḿnh.

       Sự du hành ra ngoại quốc của họ Đặng – và các sự viện dẫn nhiều lần sự nghèo đói của Trung Quốc – đă là các sự tách rời nổi bật khỏi truyền thống của nghệ thuật trị quốc của Trung Hoa.  Ít nhà lănh đạo Trung Hoa đă từng đi ra nước ngoài.  (Dĩ nhiên, bởi trong ư niệm truyền thống, họ cai trị mọi thứ dưới gầm trời, về mặt kỹ thuật không có “nước ngoài” để đi đến).  Sự sẵn ḷng công khai của họ Đặng để nhấn mạnh đến sự lạc hậu của Trung Quốc và nhu cầu cần học hỏi từ các nước khác tương phản một cách rơ rệt với sự cách biệt của các hoàng đế Trung Hoa và giới quan lại thuơng thảo với các ngoại kiều.  Chưa từng có một nhà cầm uyền Trung Hoa nào đă tuyên bố với các người nước ngoài một nhu cầu về sản phẩm ngoại quốc.  Triều đ́nh nhà Thanh đă chấp nhận các sự canh tân ngoại quốc với các liều lượng hạn chế, thí dụ, trong thái độ chào đón đối với các nhà toán học và thiên văn học thuộc Ḍng Tên) nhưng luôn luôn nhấn mạnh rằng ngoại thương đă là một sự biểu lộ thiện chí của Trung Hoa, chứ không phải là một nhu cầu đối với Trung Hoa.  Họ Mao cũng thế, đă nhấn mạnh đến sự tự lực, ngay dù với giá phải trả của sự bần cùng và cô lập. 

       Họ Đặng bắt đầu các chuyến du hành của ông tại Nhật Bản.  Duyên cớ là sự phê chuẩn hiệp ước theo đó sự b́nh thường hóa các quan hệ ngoại giao giữa Nhật Bản và Trung Quốc đă từng được thương thảo.  Ư đồ chiến luợc của họ Đặng đ̣i hỏi sự ḥa giải, chứ không chỉ sự b́nh thường hóa, sao cho Nhật Bản có thể trợ lực để cô lập Liên Bang Sô Viết và Việt Nam.

       V́ mục đích này, họ Đặng được chuẩn bị để khép kín lại nửa thế kỷ thống khổ gây ra bởi Nhật Bản.  Họ Đặng cư xử một cách niềm nở, tuyên bố “Trái tim tôi tràn đầy sự hân hoan”, và ôm gh́ lấy đối tác Nhật Bản của ông, một cử chỉ mà vị chủ nhân tiếp đón ông nhận thấy có ít tiền lệ trong xă hội của chính họ, hay, về chuyện đó, tại xă hội của Trung Quốc.  Họ Đặng đă không t́m cách che đậy sự chậm tiến kinh tế của Trung Quốc: “Nếu bạn có một bộ mặt xấu, chẳng có ích chi để giả vờ rằng bạn đẹp trai”.  Khi được yêu cầu kư tên vào sổ khách đến thăm, ông đă viết ra một sự tán thưởng chưa từng có về các thành quả của Nhật Bản: “Chúng tôi học hỏi và kính trọng nhân dân Nhật Bản, những kẻ vĩ đại, cần cù, can đảm và thông minh”. 26

       Trong Tháng Mười Một 1978, họ Đặng viếng thăm Đông Nam Á, du hành đến Mă Lai, Tân Gia Ba và Thái Lan.  Ông đă gọi Việt Nam là “Cuba của Phương Đông” và đă nói về hiệp ước Sô Viết – Việt Nam mới được kư kết như một mối đe dọa ḥa b́nh thế giới. 27 Tại Thái Lan hôm 8 Tháng Mười Một, 1978, họ Đặng đă nhấn mạnh rằng “an ninh và ḥa b́nh của Á Châu, Thái B́nh Dương và toàn thể thế giới bị đe dọa” bởi hiệp ước Sô Viết – Việt Nam: “Hiệp ước này không chỉ nhắm riêng vào Trung Quốc … Nó là một mưu đồ Sô Viết trên toàn thế giới rất quan trọng.  Bạn có thể tin tưởng rằng ư nghĩa của bản hiệp ước là để bao vây Trung Quốc.  Tôi có nói với các nước thân hữu rằng Trung Quốc không sợ hăi v́ bị bao vây.  Nó có một ư nghĩa quan trọng nhất đối với Á Châu và Thái B́nh Dương.  An ninh và ḥa b́nh của Á Châu, Thái B́nh Dương và toàn thể thế giới bị đe dọa”. 28

       Trong cuộc thăm viếng của ông tại Singapore, họ Đặng đă gặp một tinh thần thân thuộc nơi vị Thủ Tướng phi thường Lư Quang Diệu và thoáng nhận thấy một dự kiến về tương lai khả dĩ của Trung Quốc -- một xă hội đa số người gốc Trung Hoa thịnh vượng dưới điều mà họ Đặng sau này sẽ mô tả một cách ngưỡng mộ là “hành chính quản trị nghiêm ngặt” và “trật tự công cộng tốt đẹp”. 29 Vào lúc đó, Trung Quốc vẫn c̣n nghèo khổ một cách thê thảm, và “trật tự công cộng” của chính nó đă chỉ vừa sống sót qua Cuộc Cách Mạng Văn Hóa.  Lư Quang Diệu đă thuật lại một sự trao đổi đáng ghi nhớ:

Ông ta mời tôi đến thăm viếng Trung Quốc lần nữa.  Tôi nói rằng tôi sẽ đi khi Trung Quốc phục hồi từ Cuộc Cách Mạng Văn Hóa.  Việc đó, ông ta nói, sẽ cần một thời gian dài.  Tôi đáp lại rằng họ phải không có khó khăn ǵ để tiến về phía trước và làm tốt hơn cả Singapore, bởi chúng tôi đều là hậu duệ của các nông dân ít học, không có ruộng đất, từ Phúc Kiên và Quảng Đông, trong khi họ là con cháu của các học giả, quan lại, và trí thức sống trong nhà.  Ông ta im lặng. 30

       Họ Lư kính trọng tính thực dụng và sự sẵn sàng học hỏi từ kinh nghiệm của họ Đặng.  Họ Lư cũng sử dụng cơ hội để bày tỏ một số sự quan tâm của Đông Nam Á có thể không được lọt qua sự sàng lọc ngoại giao và giới thư lại Trung Quốc:

Trung Quốc đă muốn các nước Đông Nam Á kết hợp với nó để cô lập “con gấu Nga; sự kiện, là các lân bang của chúng tôi muốn chúng tôi kết hợp và cô lập “con rồng Trung Quốc”.  Không có “các người Nga hải ngoại” tại Đông Nam Á cầm đầu các cuộc nổi dậy cộng sản được ủng hộ bởi Liên Bang Sô Viết, trong khi đă có “Hoa Kiều hải ngoại” khuyến khích và ủng hộ bởi Đảng Cộng Sản và chính phủ Trung Quốc, đặt ra các sự đe dọa với Thái Lan, Mă Lai, Phi Luật Tân, và, ở mức độ ít hơn, Indonesia.  Lại nữa, Trung Quốc công khai khẳng định một mối quan hệ đặc biệt với Hoa Kiều hải ngoại bởi các liên hệ huyết thống, và đă đưa ra các lời kêu gọi trực tiếp ḷng yêu nước của họ trên đầu các chính phủ của các nước này mà họ là các công dân … Tôi đề nghị rằng chúng tôi thảo luận phương thức làm sao để giải quyết vấn đề này. 31

       Trong trường hợp này, họ Lư chứng tỏ là đúng.  Các nước Đông Nam Á, ngoại trừ Singapore, đă xử trí với sự thận trọng lớn lao trong việc đối đầu với Liên Bang Sô Viết hay Việt Nam.  Tuy thế, họ Đặng đă đạt được các mục tiêu nền tảng của ḿnh: nhiều lời tuyên bố công khai của ông cấu thành một sự cảnh cáo về các nỗ lực khả dĩ của Trung Quốc để cứu chữa t́nh h́nh.  Và chúng nhất thiết sẽ được ghi nhận bởi Hoa Kỳ, nước đă là một khối xây dựng then chốt cho ư đồ của họ Đặng.  Ư đồ chiến lược đó cần đến một mối quan hệ được định nghĩa một cách vững chắc hơn với Mỹ.

 

Cuộc Thăm Viếng của họ Đặng tại Mỹ và

Định Nghĩa Mới về Liên Minh

       Cuộc thăm viéng Hoa Kỳ của họ Đặng được loan báo để ăn mừng sự b́nh thường hóa các quan hệ giữa hai nước và để khai mạc một chiến lược chung, khai triển theo Bản Thông Cáo Thượng Hải, được áp dụng chính yếu đối với Liên Bang Sô Viết.

       Nó cũng phô bày một sự khéo léo đặc biệt của ngoại giao Trung Quốc: để tạo ra cảm tưởng ủng hộ bởi các nước trong thực tế đă không đồng ư ở vai tṛ đó hay ngay cả được yêu cầu để đóng vai đó.  Khuôn mẫu đă bắt đầu trong cuộc khủng hoảng về các ḥn đảo ngoài khơi hai mươi năm trước đây.  Họ Mao đă khởi sự cuộc pháo kích năm 1958 trên đảo Quy Môn và Mă Tổ ba tuần sau cuộc thăm viếng căng thẳng của Khrushchev tại Bắc Kinh, tạo ra cảm tưởng rằng Mạc Tư Khoa đă đồng ư trước với các hành động của Bắc Kinh, là điều không đúng trong trường hợp này.  [Tổng Thống] Eisenhower đă đi xa đến mức tố cáo Khrushchev trợ lực vào việc xúi giục cuộc khủng hoảng.

       Theo cùng chiến thuật, họ Đặng đă giáo đầu cuộc chiến tranh Việt Nam bằng cuộc thăm viếng ồn ào của ông đến Hoa Kỳ.  Trong cả hai trường hợp, Trung Quốc đă không yêu cầu sự trợ giúp cho nỗ lực quân sự sắp bùng nổ của nó.  Khrushchev rơ ràng đă không được thông báo về cuộc động binh năm 1958 và bất măn v́ bị đối diện với rủi ro của chiến tranh hạt nhân; Hoa Thịnh Đ0ốn được thông báo về cuộc xâm lăng 1979 sau khi họ Đặng đến Mỹ nhưng đă không đưa ra sự ủng hộ công khai và giới hạn vai tṛ của Mỹ vào việc chia sẻ tin t́nh báo và phối hợp ngoại giao.  Trong cả hai trường hợp, Bắc Kinh đă thành công trong việc tạo ra cảm tưởng rằng các hành động của nó được hưởng lời chúc phúc của một siêu cường, chính từ đó, ngăn trở siêu cường kia khỏi việc can thiệp.  Trong chiến lược táo bạo và tinh vi đó, Liên Bang Sô Viết trong năm 1958 đă không có quyền lực để ngăn cản cuộc tấn công của Trung Quốc vào các ḥn đảo ngoài khơi; liên hệ đến Việt Nam, nó đă mở ngỏ để ước đoán về những ǵ đă được thỏa thuận trong cuộc thăm viếng của họ Đặng và nhiều phần mang vẻ tệ hại nhất từ quan điểm của nó.

       Trong nghĩa đó, cuộc thăm viếng của họ Đặng tại Hoa Kỳ đă là một màn diễn bóng (shadow play), một tṛ chơi mà các mục đích là để dọa nạt Liên Bang Sô Viết.  Cuộc thăm viếng kéo dài một tuần của họ Đặng tại Hoa Kỳ một phần là họp thượng đỉnh ngoại giao, một phần là chuyến đi buôn bán, một phần là chiến dịch vận động chính trị, và một phần chiến tranh tâm lư cho Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Thứ Ba.  Chuyến du hành gồm cả các điểm dừng chân tại Hoa Thịnh Đốn, Atlanta, Houston, và Seattle, và đă tạo ra các quang cảnh không thể tưởng tượng ra được dưới thời họ Mao.  Tại một bữa tiệc quốc gia ở Ṭa Bạch Ốc hôm 29 Tháng Một, nhà lănh đạo “Trung Hoa Đỏ” đă ăn tối với các chủ tịch của các hăng  Coca-Cola, PepsiCo, và General Motors.  Tại một buổi dạ hội ở Trung Tâm Kennedy Center, viên Phó Thủ Tướng nhỏ con đă bắt tay các thành viên của toán bóng rổ Harlem Globetrotters. 32 Họ Đặng đă tŕnh diễn trước đám đông tại một cuộc đấu ḅ và nướng thịt ở Simonton, Texas, đội mũ có dung tích mười gallon [tương đương với 3.78 lít, chú của người dịch] và ngồi trên một cỗ xe ngựa.

       Trong suốt cuộc thăm viếng, họ Đặng đă nhấn mạnh đến nhu cầu của Trung Quốc muốn thụ đắc kỹ thuật và phát triển kinh tế của  nó.  Theo lời yêu cầu của ông ta, họ Đặng đă đi thăm các cơ sở kỹ thuật và sản xuất, kể cả một xưởng lắp ráp xe Ford tại Hapeville, Georgia; Công Ty Hughes Tool Company tại Houston (nơi họ Đặng kiểm tra các đầu mũi khoan được dùng cho sự thăm ḍ dầu hỏa ngoài khơi); và nhà máy Boeing ngoại ô Seattle.  Khi đên Houston, họ Đặng thú nhận ước muốn của ông để “học hỏi về kinh nghiệm tiên tiến của các ông trong kỹ nghệ dầu hỏa và các lănh vực khác”. 33 Họ Đặng đưa ra một lượng định đầy hy vọng của các quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ, tuyên bố ước muốn của ông để “hiểu biết mọi điều của đời sống Mỹ” và “hấp thụ mọi điều có lợi cho chúng tôi”. 34 Tại Trung Tâm Không Gian Johnson ở Houston, họ Đặng đă nấn ná tại buồng máy giả tưởng chuyên bay của phi thuyền không gian.  Một bản tường thuật tin tức đă ghi lại quang cảnh như sau:

Đặng Tiểu B́nh, kẻ đang sử dụng chuyến du hành của ḿnh đến Hoa Kỳ để kịch hóa sự háo hức của Trung Quốc về kỹ thuật tiền tiến, đă leo vào pḥng lái của một chuyến bay giả tưởng nơi đây hôm nay, để khám phá cảm giác ra sao khi đáp chiệc phi thuyền không gian mới nhất của Mỹ này từ một cao độ 100,000 bộ Anh.

Viên Phó Thủ Tướ;ng cao cấp của Trung Quốc [Đặng Tiểu B́nh] dường như đă bị say đắm bởi kinh nghiệm đến nỗi ông đă trải qua một lần đáp thử thứ nh́ và ngay sau đó xem ra c̣n miễn cưỡng để rời pḥng lái giả tưởng. 35

       Đây là những thế giới tách rời khỏi sự lănh đạm cố t́nh của Hoàng Đế nhà Thanh đối với các tặng phẩm và các lời hứa hẹn mậu dịch của Macartney hay sự khăng khăng cứng ngắc của họ Mao về chính sách tự cung tự cấp kinh tế (autarky).  Tại buổi gặp gỡ với Tổng Thống Jimmy Carter hôm 29 Tháng Một, họ Đặng đă giải thích chính sách Tứ Hiện Đại Hóa của Trung Quốc, được đưa ra bởi họ Chu trong lần xuất hiện công khai cuối cùng của ḿnh, đă hứa hẹn hiện đại hóa các lănh vực nông nghiệp, kỹ nghệ, khoa học và kỹ thuật, và quốc pḥng.  Tất cả những điều này tùy thuộc vào mục đích bao trùm của chuyến du hành của họ Đặng: phát triển một liên minh thực tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.  Ông đă tổng kết:

Thưa Tổng Thống, ông hỏi tôi một sự phác họa về chiến lược của chúng tôi.  Để thực hiện chương tŕnh Tứ Hiện Đại Hóa của chúng tôi, chúng tôi cần có một giai đoạn kéo dài của một môi trường ḥa b́nh.  Nhưng ngay giờ đây chúng tôi tin tưởng Liên Bang Sô Viết sẽ phóng ra một cuộc chiến tranh.  Nhưng nếu chúng tôi hành động tốt đẹp và thích đáng, có thể làm tŕ hoăn nó lại.  Trung Quốc hy vọng tŕ hoăn một cuộc chiến tranh trong hai mươi hai năm. 36

Dưới một tiền đề như thế, chúng tôi không đề nghị sự tái thiết lập một liên minh chính thức, nhưng mỗi bên phải hành động trên căn bản lập trường của chúng ta và phối hợp các hoạt động cùng chấp nhận các biện pháp cần thiết.  Mục tiêu này có thể đạt được.  Nếu các nỗ lực của không được cung ứng, khi đó t́nh h́nh sẽ ngày càng trở nên trống rỗng. 37

       Để hành động như các đồng minh mà không thành lập một liên minh có nghĩa đẩy thực tại đến các sự cực đoan.  Nếu tất cả các nhà lănh đạo đều là các chiến lược gia có khả năng và suy nghĩ một cách sâu xa và có hệ thống về chiến lược, họ đều sẽ đi đến cùng các sự kết luận.  Các liên minh sẽ không cần thiết; sự hợp lư của sự phân tích của họ sẽ nhất thiết đi theo cùng các chiều hướng.

       Nhưng các sự khác biệt về lịch sử và địa dư lại phân cách ra; ngay các nhà lănh đạo ở vào t́nh trạng tương tự không nhất thiết đi đến cùng các kết luận – đặc biệt dưới áp lực.  Sự phân tích tùy thuộc vào sự giải thích; các phán đoán khác nhau về những ǵ cấu thành một sự kiện, c̣n dị biệt hơn nữa về ư nghĩa của nó.  Các nước v́ thế đă lập ra các liên minh – các công cụ chính thức ngăn cách quyền lợi chung, đến tầm mức khả dĩ, khỏi các t́nh huống bên ngoài hay các áp lực nội bộ.  Chúng tạo lập ra một nghĩa vụ bổ túc cho các sự tính toán về quyền lợi quốc gia.  Chúng cũng cung cấp một trách vụ pháp định để biện minh cho sự pḥng thủ chung, có thể được thỉnh cầu đén trong một cuộc khủng hoảng.  Sau cùng, các liên minh giảm bớt – tới mức độ mà chúng theo đuổi một cách nghiêm chỉnh – mối nguy hiểm của sự tính toán sai lạc bởi đối thủ tiềm năng và theo đó tiêm một thành tố của tính khả dĩ tính toán được vào sự điều hành chính sách ngoại giao.

       Họ Đặng -- và phần lớn các nhà lănh đạo Trung Quốc – đă xem một liên minh chính thức là không cần thiết trong mối quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc và, trên tổng thể, là rườm rà trong sự điều hành chính sách ngoại giao của họ.  Họ được chuẩn bị để dựa vào các sự thỏa thuận ngấm ngầm.  Nhưng cũng có một sự cảnh cáo mặc nhiên trong câu nói sau cùng của họ Đặng.  Nếu không thể xác định hay thi hành các quyền lợi tương đồng, mối quan hệ sẽ biến thành “rỗng tuếch”, tức có nghĩa, sẽ úa tàn, và Trung Quốc được giả định sẽ quay trở lại khái niệm Ba Thế Giới của họ Mao – vẫn c̣n đang là chính sách chính thức – để giúp Trung Quốc chèo lái giữa các siêu cường.

       Các quyền lợi song hành, trong cái nh́n của họ Đặng, sẽ tự chúng biểu lộ trong một sự sắp xếp toàn cầu không chính thức để ngăn chặn Liên Bang Sô Viết tại Á Châu bằng sự hợp tác chính trị/quân sự với các mục tiêu tương tự như của khối NATO tại Âu Châu.  Nó sẽ ít cơ cấu hơn và lệ thuộc phần lớn vào mối quan hệ chính trị song phương giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.  Nó cũng dựa trên một học thuyết địa chính trị khác biệt.  Khối NATO đă t́m kiếm việc hợp nhất các hội viên của nó, trên hết, trong sự kháng cự lại sự xâm lược thực sự của Sô Viết.  Nó đă né tránh một cách chứng giải bất kỳ ư niệm nào về sự phủ đầu quân sự.  Lo ngại với việc né tránh sự đối đầu về ngoại giao, học thuyết chiến lược của khối NATO có tính chất pḥng thủ một cách chuyên độc.

       Điều mà họ Đặng đề nghị đă là một chính sách phủ đầu trong bản chất: nó là một khía cạnh trong học thuyết gián chỉ ở thế công của Trung Quốc.  Liên Bang Sô Viết sẽ bị làm áp lực dọc theo toàn thể vùng ngoại vi của nó và đặc biệt ở những miền mà nó mở rộng sự hiện diện mới đây, nổi bật tại Đông Nam Á và ngay cả ở Phi Châu.  Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị để khởi phát hành động quân sự nhằm phá hỏng các mưu đồ của Sô Viết – đặc biệt tại Đông Nam Á.

       Liên Bang Sô Viết sẽ không bao giờ bị ràng buộc bởi các thỏa ước, họ Đặng cảnh cáo; nó chỉ hiểu được ngôn ngữ của lực cân đối.  Chính khách La Mă Cato the Elder nổi danh v́ đă kết thúc mọi bài diễn văn của ông với lời kêu gọi rền vang “Carthage delenda est” (“Carthage phải bị tiêu diệt”).  Họ Đặng đă có lời hô hào mang nhăn hiệu riêng của ông ta: rằng Liên Bang Sô Viết phải bị kháng cự.  Ông đă bao gồm trong mọi sự tŕnh bày của ông một vài biến thể trên sự khuyến cáo rằng bản chất không thay đổi của Mạc Tư Khoa là “chen vào bất kỳ nơi đâu có một lỗ hổng mở ta”, 38 và rằng, như họ Đặng đă nói với Tổng Thống Carter, “bất kỳ nơi nào Liên Bang Sô Viết nhúng các ngón tay của nó vào, chúng ta phải chặt chúng đi ở nơi đó”. 39

       Sự phân tích của họ Đặng về t́nh h́nh chiến lược bao gồm một sự thông báo cho Ṭa Bạch Ốc rằng Trung Quốc có ư định đi đến chiến tranh với Việt Nam bởi nó đă kết luận rằng Việt Nam sẽ không dừng bước tại Căm Bốt.  “Cái gọi là Liên Bang Đông Dương là để bao gồm nhiều hơn ba quốc gia”, họ Đặng cảnh cáo.  “Hồ Chí Minh đă ấp ủ ư tưởng này.  Ba quốc gia mới chỉ là bước đầu tiên.  Sau đó Thái Lan sẽ được gồm thâu”. 40 Trung Quốc có một nghĩa vụ để hành động, họ Đặng tuyên bố.  Nó không thể chờ đội các diễn tiến; một khi chúng đă xảy ta, sẽ quá trễ mất rồi.

       Họ Đặng có nói với Carter rằng ông ta đă cứu xét “khả tính xấu nhất” – sự can thiệp ồ ạt của Sô Viết, như bản hiệp ước mới về pḥng thủ của Mạc Tư Khoa – Hà Nội có vẻ đ̣i hỏi.  Trong thực tế, các báo cáo cho thấy rằng Bắc Kinh đă cho di tản đến 300,000 thường dân khỏi các vùng đất biên cương phía bắc của nó và đă đặt các lực lượng của nó dọc biên giới Nga-Hoa vào t́nh trạng báo động tối đa. 41 Nhưng họ Đặng nói với Carter, Bắc Kinh đă phán đoán rằng một cuộc chiến tranh ngắn, hạn chế sẽ không mang lại Mạc Tư khoa đủ thời gian để có “một phản ứng lớn mạnh” và rằng các điều kiện mùa đông sẽ khiến cho việc thực hiện một cuộc tấn công toàn lực của Sô Viết tại miền bắc Trung Quốc gặp khó khăn.  “Trung Quốc th́ “không sợ hăi”, họ Đặng phát biểu, nhưng nó cần “sự ủng hộ tinh thần” của Hoa Thịnh Đốn, 42 theo đó ông muốn nói sự mơ hồ đầy đủ về các dự định của Mỹ khiến cho Sô Viết phải ngập ngừng.

       Một tháng sau cuộc chiến tranh, Hoa Quốc Phong đă giải thích cho tôi về sự phân tích chiến lược cẩn thận xảy ra trước đó:

Chúng tôi cũng cứu xét khả tính này của một phản ứng của Sô Viết.  Khả tính đầu tiên là một cuộc tấn công quan trọng vào chúng tôi.  Điều đó chúng tôi xem là một xác xuất thấp.  Một triệu binh sĩ dọc biên giới, nhưng cho một cuộc tấn công quan trọng vào Trung Quốc, con số đó không đủ.  Nếu họ rút về một số binh sĩ từ Âu Châu, việc đó sẽ cần thời gian và họ sẽ lo ngại về Âu Châu.  Họ biết rằng một trận đánh với Trung Quốc sẽ là một vấn đề quan trọng và không có thể kết thúc trong một thời khoảng ngắn.

       Họ Đặng đối đầu với Carter bằng một sự thách đố cả về nguyên tắc lẫn thái độ công khai.  Trên nguyên tắc, Carter đă không chấp thuận các chiến lược phủ đầu, đặc biệt bởi v́ chúng liên can đến các sự di chuyển quân sự băng ngang các biên giới chủ quyền.  Cùng lúc, ông xem trọng, ngay dù ông đă không chia sẻ hoàn toàn, quan điểm của Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Zbigniew Brzezinski về các hàm ư chiến lược của sự chiếm đóng của Việt Nam tại Căm Bốt, vốn tương tự như quan điểm của họ Đặng.  Carter đă giải quyết nghịch lư của ông bằng việc viện dẫn nguyên tắc nhưng lại để trống không gian cho sự điều chỉnh với t́nh huống.  Ông đă kêu gọi để ư đến vị thế tinh thần thuận lợi mà Bắc Kinh sẽ đánh mất bởi việc tấn công Việt Nam.  Trung Quốc, hiện được nh́n nhận một cách rộng răi là một nước ḥa b́nh, sẽ gặp phải bất trắc v́ bị tố cáo về sự xâm lược:

Đây là một vấn đề nghiêm trọng.  Không chỉ ông phải đối diên, với một sự đe dọa quân sự từ phương Bắc, mà c̣n với một sự thay đổi trong thái độ quốc tế.  Trung Quộc hiện giờ được nh́n là một nước ḥa b́nh, có nghĩa chống lại sự xâm lược.  Các nước khối ASEAN, cũng như Liên Hiệp Quốc, đă kết án Liên Bang Sô Viết, Việt Nam và Cuba.  Tôi không cần biết đến hành động trừng phạt được dự tính, nhung nó có thể gây ra sự leo thang bạo động và một sự thay đổi trong tư thế thế giới từ việc chống lại Việt Nam thành sự ủng hộ một phần cho Việt Nam.

Sẽ khó khăn cho chúng tôi để khuyến khích bạo động.  Chúng tôi có thể cung cấp cho ông các bản tóm tắt tin t́nh báo.  Chúng tôi biết không có sự di chuyển gần đây các binh sĩ Sô Viết hướng đén các biên giới của ông.

Tôi không có câu trả lời khác cho ông.  Chúng ta đă liên kết nhau trong sự kết án Việt Nam, nhưng xâm lăng vào Việt Nam sẽ là [một] hành động gây bất ổn một cách rất trầm trọng. 43

       Từ chối hậu thuẫn bạo động nhưng cung cấp tin t́nh báo về các sự di chuyển binh sĩ Sô Viết là mang lại một chiều kích mới cho sự mâu thuẫn tư tưởng.  Điều đó có thể có nghĩa rằng Carter đă không chia sẻ quan điểm của họ Đặng về một sự đe dọa tiềm ẩn của Sô Viết.  Hay, bằng việc cắt giảm các lo sợ của Trung Quốc về một phản ứng khả hữu của Sô Viết, nó có thể được giải thích như một sự khuyến khích cho sự xâm lăng.

       Ngày hôm sau, Carter và họ Đặng gặp riêng với nhau, và Carter đă trao cho họ Đặng một văn bản (chưa được công báo) tóm tắt lập trường của Mỹ.  Theo Brzezinski: “Đích thân Tổng Thống thảo bằng tay một lá thư cho ông Đặng, giọng điệu ôn ḥa và điềm đạm trong nội dung, nhấn mạnh đén tầm quan trọng của sự kiềm chế và tóm tắt các hậu quả quốc tế bất lợi khả hữu.  Tôi cảm thấy rằng đây là một chiều hướng đúng, bởi chúng ta không thể thông đồng một cách chính thức với Trung Quốc trong việc bảo trợ cho điều không khác ǵ một sự xâm lược quân sự công khai”. 44 Sự thông đồng không chính thức là một vấn đề khác. 

       Theo một văn thư ghi nhớ thuật lại cuộc đàm thoại riêng tư (trong đó chỉ có một thông dịch viên hiện diện), họ Đặng đă nhấn mạnh rằng sự phân tích chiến lược đă phủ định sụ viện dẫn dư luận thế giới của Carter.  Trên hết, Trung Quốc phải không bị nghĩ như dễ uốn nắn: “Trung Quốc vẫn phải dạy cho Việt Nam một bài học.  Liên Bang Sô Viết có thể sử dụng Cuba, V8ệt nam, và sau đó A Phú Hăn sẽ tiến hóa thành một nước thụ ủy [cho Liên Bang Sô Viết].  CHNDTQ đang hướng đến vấn đề này từ một vị trí của sức mạnh.  Hành động sẽ rất hạn chế.  Nếu Việt Nam nghĩ rằng CHNDTQ mềm yếu, t́nh h́nh sẽ trở nên tồi tệ hơn”. 45

       Họ Đặng rời Hoa Kỳ hôm 4 Tháng Hai, 1979.   Trên chuyến trở về từ Hoa Kỳ, ông đă hoàn tất việc đặt con cờ vây sau cùng lên bàn cờ.  Ông dừng chân tại Tokyo lần thứ nh́ trong sáu tháng, để tự thân biết chắc về sự ủng hộ của Nhật Bản cho hành động quân sự sắp xảy ra và để cô lập Liên Bang Sô Viết hơn nữa.  Đối với Thủ Tướng Masayoshi Ohira, họ Đặng lập lại lập trường của Trung Quốc rằng Việt Nam phải bị “trừng phạt” về sự xâm lăng của nó tại Căm Bốt, và ông hứa hẹn: “Để giữ vững các viễn ảnh trường kỳ của ḥa b́nh và ổn định quốc tế …[nhân dân Trung Quốc] sẽ cương quyết chu toàn các bổn phận quốc tế của chúng tôi, và sẽ không ngần ngại ngay cả việc gánh chịu các sự hy sinh cần thiết”. 46

       Sau khi đă thăm viếng Miến Điện, Nepal, Thái Lan, Mă Lai, Singapore, Nhật Bản hai lần, và Hoa Kỳ, họ Đặng đă hoàn tất mục tiêu của ông nhằm kéo Trung Quốc vào thế giới và cô lập Hà Nội.  Ông ta không rời khỏi Trung Quốc lần nào nữa, chấp nhận trong những năm cuối đời sự xa cách và không thể tiếp cận được của các nhà cai trị Trung Hoa cổ truyền.

 

Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Thứ Ba

       Vào ngày 17 Tháng Hai, Trung Quốc đă mở một cuộc xâm lăng nhiều mũi vào miền bắc Việt Nam từ các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam thuộc miền nam Trung Hoa.  Kích thước của lực lượng Trung Quốc phản ảnh tầm quan trọng mà phía Trung Quốc đă gắn vào cuộc hành quân; nó được ước lượng có quân số hơn 200,000 và có thể nhiều đến 400,000 binh sĩ QĐGPNDTQ. 47 Một sử gia đă kết luận rằng lực lượng xâm lăng, bao gồm các lực lượng diện địa chính quy, dân quân, và các đơn vị không và hải quân … th́ tương tự về quy mô với cuộc tấn công mà Trung Quốc đă tạo ra một tác động như thế trong sự gia nhập của nó vào Cuộc Chiến Tranh Triều Tiên hồi Tháng Mười Một, 1950”. 48 Các bài tường thuật báo chí Trung Quốc chính thức gọi đó là “Cuộc Hoàn Kích Tự Vệ Chống Trả Việt Nam” hay Cuộc Phản Công Tự Vệ tại Biên Giới Trung – Việt”. Nó tượng trưng phiên bản Trung Hoa của sự gián chỉ, một cuộc xâm lăng được quảng cáo trước để ngăn chặn sự chuyển động kế tiếp của Việt Nam.    

       Mục tiêu của quân đội Trung Quốc là một nước Cộng Sản đồng hành, gần đây là đồng minh, và kẻ thụ huởng lâu dài sự ủng hộ quân sự và kinh tế của Trung Quốc.  Mục đích là để bảo toàn sự quân bằng chiến lược tại Á Châu, như Trung Quốc nh́n nó.  Hơn nữa, Trung Quốc đă tiến hành chiến dịch với sự ủng hộ tinh thần, sự hậu thuẫn ngoại giao, và sự hợp tác t́nh báo của Hoa Kỳ -- cùng “cường quốc đế quốc” mà Bắc Kinh đă góp phần trục xuất khỏi Đông Dương năm năm trước đó.

       Mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc được phát biểu là nhằm “đặt một sự kiềm chế trên tham vọng hoang đàng của phía Việt Nam và trao cho họ một bài học hạn chế thích đáng”. 49 “Thích đáng” có nghĩa gây ra sự tổn hại đủ để ảnh hưởng đến các sự lựa chọn và tính toán của Việt Nam cho tương lai, “hạn chế” ám chỉ rằng nó sẽ chấm dứt trước khi sự can thiệp bên ngoài hay các yếu tố khác xô đẩy nó ra ngoài sự kiểm soát.  Nó cũng đă là một sự thách đố trực tiếp đối với Liên Bang Sô Viết.

       Sự tiên đoán của họ Đặng rằng Liên Bang Sô Viết sẽ không tấn công Trung Quốc đă được xác minh.  Vào ngày sau khi Trung Quốc phóng ra cuộc xâm lăng của nó, chính phủ Sô Viết đă đưa ra một bản tuyên bố nhạt nhẽo rằng, trong khi kết án cuộc tấn công “tội ác” của Trung Quốc, đă nhấn mạnh rằng “nhân dân Việt Nam anh hùng … có năng lực để đứng lên cho chính ḿnh một lần nữa vào lúc này[.]” 50 Sự đáp ứng quân sự của Sô Viết được giới hạn vào việc phái một lực lượng đặc nhiệm hải quân đên vùng Biển Nam Hải, tiến hành một cuộc không vận vũ khí đến Hà Nội, và gia tăng các sự tuần tra không phận dọc biên giới Nga-Hoa.  Cuộc không vận bị hạn chế bởi địa dư mà c̣n bởi các sự ngập ngừng nội bộ.  Sau cùng, Liên Bang Sô Viết đă cung cấp sự ủng hộ trong năm 1979 cho đồng minh mới của nó, Việt Nam, nhiều như nó đă dành hai mươi năm trước đây cho đồng minh của nó khi đó, Trung Quốc, trong Cuộc Khủng Hoảng Eo Biển Đài Loan.  Trong cả hai trường hợp nào, Liên Bang Sô Viết sẽ không đụng phải bất kỳ rủi ro nào của một cuộc chiến tranh mở rộng.

       Không lâu sau cuộc chiến, Hoa Quốc Phong đă tổng kết kết cuộc bằng một cách nói súc tích coi thường các nhà lănh đạo Sô Viết: “Để đe dọa chúng tôi, họ đă làm việc đó bằng các cuộc thao diễn gần biên giới, gửi các chiếc tàu xuống Biển Nam Hải.  Nhưng họ không dám cử động.  V́ thế sau hết chúng tôi vẫn có thể sờ vào mông của con hổ”.

       Họ Đặng đă bác bỏ một cách châm biếm lời cố vấn của Mỹ nên cẩn thận.  Trong một cuộc thăm viếng hồi cuối Tháng Hai 1979 của Bộ Trưởng Ngân Khố Michael Blumenthal tại Bắc Kinh, Blumenthal đă kêu gọi các binh sĩ Trung Quốc triệt thoái ra khỏi Việt Nam “càng sớm càng tốt” bởi v́ “Bắc Kinh đang gặp phải các rủi ro không có lư do xác đáng”. 51 Họ Đặng phản bác.  Nói với các kư giả Mỹ ngay trước khi có cuộc gặp gỡ của ông với Blumenthal, họ Đặng đă bày tỏ sự khinh thị của minh về sự lập lững, chế ngạo “một số kẻ” “lo sợ việc xúc phạm” đến “Cuba ở Phương Đông”. 52

       Như trong Cuộc Chiến Tranh Trung Quốc - Ấn Độ, Trung Quốc đă thực hiện một cuộc tấn kích “trừng phạt” hạn chế được theo sau tức th́ bởi một sự triệt thoái.  Nó kéo dài hai mươi chín ngày.  Không lâu sau khi QĐGPNDTQ chiếm đoạt (và được tường thuật đă để lại sự tàn phá) các tỉnh lỵ của ba tỉnh Việt Nam dọc theo biên giới, Bắc Kinh đă loan báo rằng các lực lượng Trung Quốc sẽ rút lui ra khỏi Việt Nam, ngoại trừ một vài vùng đất bị tranh chấp.  Bắc Kinh đă không mưu toan để lật đổ chính quyền Hà Nội hay tiên vào Căm Bốt trong bất kỳ khả năng công khai nào.

       Một tháng sau khi các binh sĩ Trung Quốc đă được rút về, họ Đặng đă giải thích chiến lược của Trung Quốc với tôi trong một cuộc thăm viếng tại Bắc Kinh:

ĐẶNG: Sau khi tôi trở về [từ Hoa Kỳ], chúng tôi đă tức thời giao tranh một trận chiến.  Nhưng chúng tôi xin hỏi ư kiến của ông trước.  Tôi có nói về nó với Tổng Thống Carter và khi đó ông ấy đă trả lời trong một cung cách rất chính thức và trang trọng.  Ông đă đọc một bản văn viết tay cho tay.  Tôi có nói với ông ấy: Trung Quốc sẽ đảm nhận vấn đề này một cách độc lập và nếu có bất kỳ rủi ro nào, Trung Quốc sẽ gánh chịu rủi ro một ḿnh.  Nh́n lại, chúng tôi nghĩ nếu chúng tôi tiến sâu hơn nữa vào Việt Nam trong hành động trừng phạt của chúng tôi, điều đó c̣n tốt hơn nữa.

       KISSINGER: Có thẻ như thế.

ĐẶNG: Bởi v́ các lực lượng của chúng tôi th́ đủ sức để đi hết con đường đến Hà Nội.  Nhưng lại không thể khuyến cáo  tiến xa đến thế.

       KISSINGER: Không, có thể nó sẽ đi xa hơn các giới hạn của sự tính toán.

ĐẶNG: Vâng, ông nói đúng.  Nhưng chúng tôi đă có thể tiến 30 cây số sâu hơn nữa vào Việt Nam.  Chúng tôi đă chiếm cứ tất cả các khu vực có công sự pḥng thủ.  Đă không c̣n lại tuyến pḥng thủ nào trên suốt con đường tới Hà Nội.

       Điều được tin tưởng tổng quát trong giới sử gia rằng cuộc chiến tranh đă là một sự thất bại đắt giá của Trung Quốc. 53 Các hiệu ứng của sự chính trị hóa QĐGPNDTQ trong suốt cuộc Cách Mạng Văn Hóa đă trở nên rơ rệt trong chiến dịch bị trở ngại bởi trang bị lỗi thời, sự thiếu hụt nhân viên, và các chiến thuật cứng ngắc.  Các lực lượng Trung Quốc tiến quân chậm chạp và trả giá lớn lao.  Theo sự ước lượng của một số phân tích gia, QĐGPNDTQ đă phải gánh chịu số người bị chêt khi công tác trong một tháng giao chiến Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Thứ Ba nhiều như Hoa Kỳ đă phải gánh chịu trong mười năm tổn thất nặng nhất của cuộc chiến tranh thứ nh́. 54.

       Sự tin tưởng tổng quát tuy nhiên đă được dựa trên một sự hiểu lầm chiến lược của Trung Quốc.  Bất kể các khiếm khuyết ra sao trong sự thi hành, chiến dịch Trung Quốc đă phản ảnh một sự phân tích chiến lược trường kỳ nghiêm chỉnh.  Trong các sự giải thích của giới lănh đạo Trung Quốc với các đối tác Mỹ của họ, họ đă mô tả sự củng cố quyền lực Việt Nam do Sô Viết hậu thuẫn tại Đông Dương như một bước trọng yếu trong sự “bố trí chiến lược” toàn cầu của Liên Bang Sô Viết.  Liên Bang Sô Viết đă sẵn tập trung binh sĩ tại Đông Âu và dọc biên giới phía bắc của Trung Quốc.  Giờ đây, các nhà lănh đạo Trung Hoa cảnh cáo, Mạc Tư Khoa “đang bắt đầu có được các căn cứ” tại Đông Dương, Phi Châu, và Trung Đông. 55 Nếu nó củng cố được vị thế của nó tại các khu vực này, nó sẽ kiểm soát được các nguồn năng lượng sinh tử và có khả năng ngăn chặn các hải lộ then chốt – nổi bật nhất Eo Biển Malacca nối liền Thái B́nh Dương với Ấn Độ Dương.  Điều này sẽ mang lại cho Mạc Tư Khoa sự chủ động chiến lược trong bất kỳ cuộc xung đột tương lai nào.  Trong một nghĩa rộng hơn, chiến tranh phát sinh từ sự phân tích của Bắc Kinh về khái niệm shi [thế?] của Tôn Tử -- chiều hướng và “năng lượng tiềm ẩn” của địa thế chiến lược.  Họ Đặng đă nhắm vào việc chặn đứng và, nêu có thể, đảo ngược điều mà ông ta nh́n như một sự chuyển động không thể chấp nhận được của chiến lược Sô Viết.

       Trung Quốc đă đạt được mục tiêu này một phần nhờ sự táo bạo quân sự của nó, một phần bởi việc lôi kéo được Hoa Kỳ vào sự hợp tác chặt chẽ chưa từng thấy.  Các nhà lănh đạo Trung Quốc đă lèo lái Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Thứ Ba bởi sự phân tích tỉ mỉ các sự lựa chọn chiến lược của họ, sự thi hành táo bạo, và hoạt động ngoại giao khéo léo.  Với tất cả các phẩm chất này, họ sẽ không có thể “sờ mông con hổ” để chỉ có sự hợp tác của Hoa Kỳ.

       Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Thứ Ba dẫn đến sự cộng tác chặt chẽ nhất giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh.  Hai chuyến du hành đến Trung Quốc bởi hai sứ giả Mỹ đă thiết lập một mức độ khác thường của hành động chung.  Phó Tổng Thống Walter “Fritz” Mondale đến thăm viếng Trung Quốc trong Tháng Tám 1979 để thiết kế một nền ngoại giao cho hậu quả của cuộc thăm viếng của họ Đặng, đặc biệt liên quan đến Đông Dương.  Nó là một vấn đề phức tạp trong đó các sự cứu xét chiến lược và đạo lư ở vào t́nh trạng xung đột nặng nề.  Hoa Kỳ và Trung Quốc đồng ư rằng đúng là nằm trong quyền lợi quốc gia của mỗi nước để ngăn cản sự xuất hiện một Liên Bang Đông Dương dưới sự kiểm soát của Hà Nội.  Nhưng phần duy nhất của Đông Dương vẫn c̣n tranh chấp là Căm Bốt, vốn bị cai trị bởi một Pol Pot bị nguyền rủa, kẻ đă sát hại hàng triệu đồng bào của ông ta.  Khmer Đỏ cấu thành phần tử được tổ chức tốt đẹp nhất trong cuộc kháng chiến chống Việt Nam của Căm Bốt.

       Carter và Mondale đă có một thành tích lâu dài và nhiệt t́nh về việc tận tụy cho các nhân quyền trong chính quyền; trong thực tế, họ đă, trong chiến dịch tranh cử tổng thống, tấn công [Tổng Thống] Ford trên căn bản thiếu sự chú ư đến vấn đề nhân quyền.    

         Họ Đặng đă nêu trước tiên vấn đề trợ giúp cho cuộc kháng chiến du kích của Căm Bốt chống lại quân xâm lăng Việt Nam trong cuộc đàm thoại riêng với [Tổng Thống] Carter về cuộc xâm lăng vào Việt Nam.  Theo báo cáo chính thức: “Tổng Thống đă hỏi liệu người Thái có thể tiếp nhận và chuyển tiếp viện trợ đến phía Căm Bốt hay không.  Họ Đặng trả lời được và rằng ông nghĩ trong đầu của ông về vũ khí nhẹ.  Người Thái giờ đây đang phái một sĩ quan cao cấp đến biên giới Thái-Căm Bốt để giữ cho sự truyền thông được an toàn hơn”. 56 Sự hợp tác trong thực tế giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh về viện trợ cho Căm Bốt xuyên qua Thái Lan đă có một hiệu quả thực tiễn  của sự trợ giúp không trực tiếp các tàn quân của phe Khmer Đỏ.  Các viên chức Mỹ đă thận trọng để nhấn mạnh với Bắc Kinh rằng Hoa Kỳ “không thể ủng hộ Pol Pot” và đón nhận các sự bảo đảm của Trung Quốc rằng Pol Pot không c̣n hành sử sự kiểm soát hoàn toàn trên phe Khmer Đỏ.  Mẩu bánh dỗ dành lương tâm này đă không thay đổi thực tế rằng Hoa Thịnh Đốn đă cung cấp sự ủng hộ vật chất và ngoại giao cho “kháng chiến Căm Bôt’ trong một cách mà chính quyền phải hay biết sẽ giúp ích cho phe Khmer Đỏ.  Người kế nhiệm của Carter trong chính quyền Ronald Reagan đă đi theo cùng chiến lược.  Các nhà lănh đạo Mỹ chắc chắn đă ước định rằng nếu kháng chiến Căm Bốt chiến thắng, họ hay các người kế nhiệm họ sẽ chống đối phe Khmer Đỏ trong đó trong hồi kết cuộc – điều trong thực tế đă xảy ra sau khi có sự triệt thoái của Việt Nam một thập niên sau đó.

       Các lư tưởng của Mỹ đă đụng đầu với các mệnh lệnh của thực tế về địa chính trị.  Nó đă không phải là sự chỉ trích cay độc, càng không phải là đạo đức giả, đă tôi rèn ra thái độ này: chính quyền Carter đă phải lựa chọn giữa các nhu cầu chiến lược và niềm tin đạo lư.  Họ đă quyết định rằng để các tín điều đạo lư của họ sẽ được thi hành tối hậu họ cần trước tiên thắng thế trong cuộc đấu tranh địa chính trị.  Các nhà lănh đạo Mỹ đă đối diện với nghịch lư của thuật trị quốc.  Các nhà lănh đạo không thể lựa chọn các giải pháp mà lịch sử cung ứng cho họ, càng ít hơn rằng chúng th́ không mơ hồ.

       Cuộc thăm viếng của Bộ Trưởng Quốc Pḥng Harold Brown đánh dấu một bước xa hơn nữa trong sự hợp tác Trung Quốc – Mỹ không thể tưởng tượng được chỉ vài năm trước đó.  Họ Đặng đă dón chào ông: “Việc ông tới đây tự nó có ư nghĩa quan trọng”. ông ta ghi nhận với Brown, “bởi v́ ông là Bộ Trưởng Quốc Pḥng. 57 Ít chính khách kỳ cựu của chính quyền Ford hiểu được sự bóng gió này về lời mời Bộ Trưởng Schlesinger, bị hủy bỏ khi [Tổng Thống] Ford băi nhiệm ông ta.    

       Nghị tŕnh chính là để xác định mối quan hệ quân sự của Hoa Kỳ với Trung Quốc.  Chính quyền Carter đă đi đến kết luận rằng một sự gia tăng trong năng lực quân sự và kỹ thuật của Trung Quốc th́ quan trọng cho sự quân bằng toàn cầu và an ninh quốc gia Mỹ.  Hoa Thịnh Đốn đă “vạch ra sự phân biệt giữa Liên Bang Sô Viết và Trung Quốc”, Bộ Trưởng Brown giải thich, và đă sẵn ḷng để chuyển giao một số kỹ thuật quân sự cho Trung Quốc mà nó sẽ không cung cấp cho Sô Viết”. 58 Xa hơn, Hoa Kỳ sẵn ḷng để bán “trang thiết bị quân sự” cho Trung Quốc (chẳng hạn như trang bị theo dơi và các xe cộ), mặc dù không có “các vũ khí”.  Ngoài ra,  Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào quyết định bởi các đồng minh khối NATO để bán các vũ khí cho Trung Quốc.  Như Tổng Thống Carter đă giải thích trong các chỉ thị của ông cho Brzezinski:

“Hoa Kỳ không phản đối trước thái độ đi xa hơn mà các đồng minh của chúng ta đang chấp nhận liên quan đến việc mậu dịch với Trung Quốc trong các lănh vực nhạy cảm kỹ thuật.  Chúng ta có một quyền lợi nơi một nước Trung Quốc an ninh và mạnh mẽ -- và chúng ta thừa nhận và tôn trọng quyền lợi này. 59

       Sau cùng, Trung Quốc đă không thể cứu vớt phe Khmer Đỏ hay buộc Hà Nội phải triệt thoái bộ đội của nó ra khỏi Căm Bốt cho đến một thập niên nữa; có lẽ nh́n nhận điều này, Bắc Kinh đă đóng khung các mục tiêu chiến tranh của nó bằng các từ ngữ giới hạn hơn nhiều.  Tuy nhiên, Bắc Kinh đă áp đặt các giá phải trả nặng nề trên Việt Nam.  Ngoại giao Trung Hoa tại Đông Nam Á trước, trong và sau khi hết chiến tranh đă hoạt động với quyết tâm và kỹ năng lớn lao để cô lập Hà Nội.  Trung Quốc đă duy tŕ một sự hiện diện quân sự nặng nề dọc biên giới, giữ lại vài vùng lănh thổ bị tranh chấp, và tiếp tục đưa ra sự đe dọa về một “bài học thứ nh́” cho Hà Nội.  Trong nhiều năm sau đó, Việt Nam bị buộc phải hỗ trợ các lực lượng đáng kể tại biên giới phía bắc của nó để pḥng thủ chống lại một trận tấn công khả hữu khác của Trung Quốc. 60 Như họ Đặng đă nói với Mondale hồi Tháng Tám 1979:

Với một nước có kích thước như thế để duy tŕ một lực lượng túc trực hơn một triệu quân, ông sẽ t́m ở nơi đâu cho đủ lực lượng làm việc?  Một lực lượng túc trực một triệu quân cần nhiều sự yểm trợ tiếp vận.  Giờ đây họ lệ thuộc vào Liên Bang Sô Viết.  Một số ước lượng họ đang nhận 2 triệu mỗi ngày từ Liền Bang Sô Viết, một số ước lượng nói đén 2 triệu rưỡi … Nó sẽ gia tăng các sự khó khăn, và gánh nặng này trên Liên Bang Sô Viết sẽ ngày càng trở nên nặng nề hơn nữa.  Các sự việc sẽ trở nên khó khăn hơn.  Đến lúc phía Việt Nam sẽ đi đến việc nhận chân được rằng không phải tất cả các yêu cầu của họ với Liên Bang Sô Viết có thể được thỏa măn.  Trong các t́nh huống đó, một t́nh h́nh mới sẽ xuất hiện”. 61

       T́nh trạng đó, trong thực tế, đă xảy ra một thập niên sau đó, khi sự sụp đổ của Liên Bang Sô Viết và của sự ủng hộ tài chính của Sô Viết đưa đến một sự cắt xén trong sự bố trí của Việt Nam tại Căm Bốt.  Sau hết, trên một khoảng thời gian khó khăn hơn để chống đỡ cho các xă hội dân chủ, Trung Quốc đă đạt được một phần đáng kể trong các mục tiêu chiến lược của nó tại Đông Nam Á.  Họ Đặng đă đạt được không gian vận dụng đủ để thỏa măn mục tiêu của ông ta nhằm phá hỏng sự khống chế của Sô Viết tại Đông Nam Á và Eo Biển Malacca.

       Chính quyền Carter đă thực hiện một màn xiếc đi trên dây căng đă duy tŕ một sự lựa chọn đối với Liên Bang Sô Viết qua các cuộc thương thảo về các sự hạn chế các vũ khí chiến lược, trong khi đặt định chính sách Á Châu của nó trên sự nh́n nhận rằng Mạc Tư Khoa vẫn c̣n là đối thủ chiến lược chính.

       Kẻ thua trận tối hậu trong cuộc xung đột đă là Liên Bang Sô Viết, kẻ có các tham vọng toàn cầu đă gây ra sự báo động khắp thế giới.  Một đồng minh Sô Viết đă bị tấn công bởi đối thủ dứt khoát nhất về mặt chiến luợc và lớn tiếng nhất của Sô Viết, nước đă công khai cổ động cho một liên minh ngăn chận chống Mạc Tư Khoa – tất cả các điều này diễn ra trong ṿng một tháng [sic] sau có sự kư kết liên minh Sô Viết – Việt Nam.  Khi nh́n lại, sự thụ động tương đối của Mạc Tư Khoa trong Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Thứ Ba có thể được nh́n như triệu chứng đầu tiên của sự suy tàn của Liên Bang Sô Viết.  Người ta thắc mắc là liệu quyết định của Liên Bang Sô Viết một năm sau đó can thiệp vào A Phú Hăn có phải đă được thúc đẩy một phần bởi một nỗ lực để đền bù cho sự vô hiệu năng của họ trong việc ủng hộ Việt Nam chống lại cuộc tấn công của Trung Quốc hay không.  Trong bất kỳ trường hợp nào, sự tính toán sai lầm của Sô Viết trong cả hai t́nh h́nh nằm ở chỗ không nhận thức được tầm mức theo đó tương liên của các lực lượng toàn cầu đă chuyển hướng chống lại họ.  Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Thứ Ba chính v́ thế có thể được kể như một thí dụ khác trong đó các chính khách Trung Quốc đă thành công trong việc đạt được các mục tiêu chiến lược đại cục, trường kỳ mà không có lợi thế của một cơ sở quân sự có thể so sánh với cơ sở của đối thủ của nó.  Mặc dù việc cung cấp không gian sinh tồn cho các tàn quân của phe Khmer Đỏ khó có thể được kể nhu một chiến thắng đạo lư, Trung Quốc đă đạt được các mục tiêu địa chính trị rộng lớn hơn khi đối diện với Liên Bang Sô Viết và Việt Nam -- cả hai có quân đội được huấn luyện và trang bị tốt hơn quân đội Trung Quốc.

       Tính trầm tĩnh đối diện với các lực lượng ưu việt hơn về mặt vật chất đă được ghi khắc sâu xa trong tư tưởng chiến lược Trung Quốc – như được thể hiện từ các sự tương đồng với quyết định của Trung Quốc để can thiệp vào Chiến Tranh Triều Tiên.  Cả hai quyết định của Trung Quốc được nhắm chống lại điều mà Bắc Kinh nhận thức sẽ là một mối nguy hiểm tụ hội—sự củng cố các căn cứ của một quyền lực thù nghịch ở nhiều điểm dọc vùng ngoại vi của Trung Quốc.  Trong cả hai trường hợp, Bắc Kinh đă tin tưởng rằng nếu quyền lực thù nghịch được phép để hoàn thành ư đồ của nó, Trung Quốc sẽ bị bao vây và chính v́ thế ở trong một t́nh trạng khả dĩ bị xâm kích thường trực.  Đối thủ sẽ ở vào một vị thế để phóng ra một cuộc chiến tranh vào một thời điểm theo sự lụa chọn của nó, và sự hiểu biết lợi thế này sẽ cho phép nó để hành động, như Hoa Quốc Phong đă nói với Tổng Thống Carter khi họ gặp nhau tại Tokyo, “mà không có các sự đắn đo ngần ngại”. 62 V́ thế, một vấn đề có vẻ ở cấp vùng – trong trường hợp thứ nhất người Mỹ đẩy lui Bắc Hàn, trong trường hợp thứ nh́, sự chiếm đóng của Việt Nam tại Căm Bốt -- đă được xem như “tiêu điểm của các cuộc đấu tranh trên thế giới” (như Chu [Ân Lai] đă mô tả về Hàn Quốc. 63

       Cả hai sự can thiệp đặt Trung Quốc chống lại một quyền lực mạnh hơn đă đe dọa sự nhận thức của nó về an ninh của nó; tuy nhiên, mỗi sự can thiệp như thế trên địa h́nh và vào một thời điểm theo sự lựa chọn của Bắc Kinh.  Như Phó Thủ Tướng Geng Biao sau này có nói với Brzezinski: “Sự ủng hộ của Liên Bang Sô Viết cho Việt Nam là một thành tố trong chiến lược toàn cầu của nó.  Nó được nhắm không chỉ vào Thái Lan mà vào cả Mă Lai, Singapore, Indonesia, và Eo Biển Malacca.  Nếu họ thành công, đó sẽ là một cú đánh chí tử vào khối ASEAN và cũng sẽ cấm chỉ các tuyến giiao thông đối với Nhật Bản và Hoa Kỳ.  Chúng tôi cam kết làm điều ǵ đó về việc này.  Chúng tôi có thể không có năng lực để đối phó với Liên Bang Sô Viết, nhưng chúng tôi có năng lực đối phó với Việt Nam”. 64

       Đây không phải là những công việc tao nhă: Trung Quốc đă ném các binh sĩ vào các trận đánh đắt giá vô cùng và gánh chịu các sự tổn thất trên một quy mô sẽ không thể chấp nhận được trong thế giới Tây Phương.  Trong Cuộc Chiến Tranh Trung – Việt, QĐGPNDTQ xem ra đă theo đuổi các nhiệm vụ của nó với nhiều khuyết điểm, làm gia tăng đáng kể tầm mức của các sự tổn thất của Trung Quốc.  Nhưng cả hai cuộc can thiệp đă đạt được các mục đích chiến lược đáng giá.  Ở hai thời khắc then chốt của Cuộc Chiến Tranh Lạnh, Bắc Kinh đă áp dụng học thuyết của nó về sụ gián chỉ (hay ngăn cấm) ở thế công (offensive deterrence) một cách thành công.  Tại Việt Nam, Trung Quốc đă thành công trong việc phơi bày các giới hạn của sự cam kết pḥng thủ của Sô Viết đối với Hà Nội và, quan trọng hơn, về tầm với chiến lược tổng quát của nó.  Trung Quốc đă sẵn ḷng chấp nhận rủi ro chiến tranh với Liên Bang Sô Viết để chứng tỏ rằng nó đă khướ từ không chịu bị dọa nạt bởi sự hiện diện của Sô Viết tại sườn phía nam của nó.

       Thủ Tướng Singapore Lư Quang Diệu đă tóm tắt kết quả tối hậu của cuộc chiến tranh: “Báo chí Tây Phương đă viết một tràng rằng hành động trừng phạt của Trung Quốc như một sự thất bại.  Tôi tin rằng nó đă thay đổi lịch sử của Đông Á” 65./-  

_____

CHÚ THÍCH

1. “Sờ Mông Con Hổ” là một thành ngữ trong tiếng Hán được ưa thích bởi Mao Trạch Đông, có nghĩa làm một điều ǵ đó táo bạo hay nguy hiểm.  Dịp đưa ra nhận xét này là cuộc gặp gỡ của tôi [tác giả, Henry Kissinger] với Hoa Quốc Phong tại Bắc Kinh trong Tháng Tư, 1979.

2. Trong Cuộc Cách Mạng Văn Hóa, Bộ Trưởng Quốc Pḥng khi đó, Lâm Bưu, đă xóa bỏ mọi cấp bậc và huy hiệu và đă ra lệnh việc huấn luyện ư thức hệ sâu rộng cho các binh sĩ Trung Quốc, sử dụng quyển Sách Đỏ Nhỏ ghi các ngạn ngữ của họ Mao.  QĐGPNDTQ đă được kêu gọi để đóng các vai tṛ ư thức hệ và xă hội vượt xa các nhiệm vụ của một quân đội b́nh thường.  Một sự tường tŕnh sâu sắc về tác hại mà các sự phát triển này đă tạo ra trên QĐGPNDTQ trong cuộc xung đột với Việt Nam có thể được t́m thấy trong quyển sách của Edward O’Dowd nhan đề Chinese Military Strategy in the Third Indochina War (New York: Routledge, 2007).

3. “Chu Ân Lai, Khang Sinh, và Phạm Văn Đồng: Bắc Kinh, 29 Tháng Tư 1968”, trong sách đồng biên tập bởi Odd Arne Westad, Chen Jian, Stein Tonnesson, Nguyễn Vũ Tùng [?], và James G. Hershberg, “77 Conversations Between Chinese and Foreign Leaders on the Wars in Indochina, 1964-1977”, Cold War International History Project Working Paper Series no. 22 (Washington, DC: Woodrow Wilson International History Project, May 1998), 127-28. (Các dấu ngoặc là trong nguyên bản).

4. Xem Chương 8, “The Road to Reconciliation”, trang 205.

5. Tôi luôn luôn tin tưởng rằng việc sẵn ḷng ép buộc – theo họ Mao – phe Khmer Đỏ đứng đắn về mặt ư thức hệ phải đi đến một thỏa hiệp, một cách không cần thiết như sự việc đă diễn ra, đă góp phần vào sự đốn ngă họ Chu.  Cũng xem, Kissinger, Years of Uphealval (Boston: Little, Brown, 1982), 368.

6. Robert S. Ross, The Indochina Tangle: China’s Vietnam Policy, 1975-1979 (New York: Columbia University Press, 1988), 74, trích dẫn bản tường thuật của Tân Hoa Xă (15 Tháng Tám, 1975), như được phiên dịch trong tập Foreign Broadcast Information Service (FBIS) Daily Report, People’s Republic of China (18 Tháng Tám 1975), A7.

7. Cùng nơi dẫn trên.   

8. Cùng nơi dẫn trên, 98, trịch dẫn bản tường thuật của Tân Hoa Xă (15 Tháng Ba, 1976), như được phiên dịch trong FBIS Daily Report, People’s Republic of China (16 Tháng Ba, 1976), A13.

9. Trong Tháng Tư 1978, Tổng Thống A Phú Hăn bị ám sát và chính phủ của ông bị thay thế; vào ngày 5 Tháng Mười Hai, 1978, Liên Bang Sô Viết và chính phủ mới của A Phú Hăn đă kư kết một Hiệp Ước Thân Hữu, Láng Giềng Tốt và Hợp Tác; và vào ngày 19 Tháng Hai, 1979, đại sứ Hoa Kỳ tại A Phú Hăn bị ám sát.

10. Cyrus Vance, Hard Choice: Critical Years in America’s Foreign Policy (New York: Simon & Schuster, 1983), 79.

11. “Các Chỉ Thị Của Tổng Thống Carter cho Zbigniew Brzezinski về Sứ Mạng Của Ông Tại Trung Quốc, 17 Tháng Năm, 1978, trong sách của Zbigniew Brzezinski, Power and Principle: Memoirs of the National Security Adviser, 1977-1981 (New York: Farrar, Strauss & Giroux, 1985), Annex 1, 2.

12. Năm nguyên tắc là: sự khẳng định chính sách một nước Trung Hoa; một sự cam kết không đưa ra sự ủng hộ của Mỹ cho các phong trào độc lập của Đài Loan; một sự không khuyến khích của Mỹ về một sự điều binh dàn trận có tính cách giả thuyết của Nhật Bản vào Đài Loan; ủng hộ cho bất kỳ sự giải quyết ḥa b́nh nào giữa Bắc Kinh và Đài Loan; và một sự cam kết cho sự b́nh thường hóa liên tục.  Xem Chương 9, “Resumption of Relations: First Encounters with Mao and Zhou”, trang 271.

13. Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Tóm Lược Buổi Gặp Gỡ Của Tổng Thống với Phó Thủ Tướng Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc Đặng Tiểu B́nh: Washington, 29 Tháng Một 1979, 3:35 – 4:59 chiều”, Jimmy Carter Presidential Library (JCPL), Vertical File – China, tài liệu số 270, 10-11.

14. “Tóm Lược Phiên Họp của Tiến Sĩ Brzezinski với Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoàng Hoa, Bắc Kinh, 21 Tháng Năm 1978”, JCPL, Vertical File – Chian, item no. 232, 3.

15. Cùng nơi dẫn trên, 6-7.

16. Cùng nơi dẫn trên.  Sadat làm Tổng Thống Ai Cập từ 1970 cho đến khi có sự ám sát ông vào năm 1981.  “Hành động quả cảm” được đề cập tới bao gồm sự trục xuất của Sadat hơn hai mười ngh́n cố vấn quân sự Sô Viết ra khỏi Ai Cập trong năm 1972, việc phóng ra Cuộc Chiến Tranh Tháng Mười, 1973, và sự gia nhập sau đó vào một tiến tŕnh ḥa b́nh với Do Thái.

17. Cùng nơi dẫn trên, 4.

18. Cùng nơi dẫn trên, 10-11.

19. Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại , Phiên Họp với Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu B́nh: Bắc Kinh, 21 Tháng Năm 1978”, JCPL, Vertical File – China, item no. 232-e, 16.

20. Cùng nơi dẫn trên, 5-6.

21. “Tóm Lược Phiên Họp Của Tiến Sĩ Brzezinski với Chủ Tịch Hoa Quốc Phong: Beijing, 22 Tháng Năm, 1978,” JCPL, Vertical File – China, item 232c, 4-5.

22. Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Tóm Lược Buổi Gặp Gỡ Của Tổng Thống với Đại Sứ Ch’ai Tse-min: Washington, 19 Tháng Chín, 1978, JCPL, Vertical File – China, tài liệu số 250b, 3.

23. Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Phiên Họp với Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu B́nh: Bắc Kinh, 21 Tháng Năm 1978”, CPL, Vertical File – China, item no. 232-e, 6.

24. Trong những năm gần đây, các nhà lănh đạo Trung Quốc và các phân tích gia chính sách đă đưa ra nhóm từ “sự trổi dậy ḥa b́nh: peaceful rise” để mô tả khát vọng chính sách ngoại giao Trung Quốc mong đạt được vị thế quyền lực quan trọng trong khuôn khổ của hệ thống quốc tế hiện hữu.  Trong một bài viết sâu sắc tổng hợp cả hai học thuật Trung Quốc lẫn Tây Phương về ư niệm này, học giả Barry Buzan nêu lên viễn ảnh rằng sự “trổi dậy ḥa b́nh” của Trung Quốc khởi sự từ cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, khi Đặng Tiểu B́nh ngày càng sắp xếp sự phát triển nội bộ và chính sách ngoại giao của Trung Quốc đứng vào hàng ngũ của thế giới phi cách mạng và đă không t́m kiếm các quyền lợi chung với khối Tây.  Các chuyến du hành của họ Đặng ra hải ngoại đă cung cấp bằng chứng mạnh mẽ của sự sắp xếp lại hàng ngũ.  Xem Barry Buzan, “China in International Society: Is ‘Peaceful Rise’ Possible?”, The Chinese Journal of International Politics 3 (2010): 12-13.

25. “Một Cuộc Phỏng Vấn Với Đặng Tiểu B́nh,” Time (5 Tháng Hai, 1979),  xin xem ở website có địa chỉ là : http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,946204,00.html.

26. “China and Japan Hug and Make Up,” Time (6 Tháng Mười Một, 1978), xem ở website có địa chỉ là: http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,948275-1,00.html.

27. Henry Kamm, “Teng Begins Southeast Asian Tour to Counter Rising Soviet Influence”, New York Times (6 Tháng Mười Một, 1978), A1.

28. Henry Kamm, “Teng Tells the Thais Moscow-Hanoi Treaty Perils World’s Peace,” New York Times (9 Tháng Mười Một, 1978), A9.

29. “Các trích đoạn từ Các Buổi Nói Chuyện Tại Wuchang, Shenzhen, Zhuhai và Shanghai: 18 Tháng Một – 21 Tháng Hai, 1992”, trong Tuyển Tập Của Đặng Tiểu B́nh (Selected Works of Deng Xiaoping, tập 3, phiên dịch bởi The Bureau for the Compilation and Translation of Works of Marx, Engels, Lenin, and Stalin Under the Central Committee of the Communist Party of China (Beijing: Foreign Language Press, 1994), 366.

30. Lee Kuan Yew, From Third World to First: The Singapore Story – 1965-2000 (New York: HarperCollins, 2000), 597.

31.Cùng nơi dẫn trên, 598-99.

32. Fox Butterfield, “Differences Fade as Rivals Mingle to Honor Teng,” New York Times (30 Tháng Một, 1979), A1.

33. Joseph Lelyveld, “ ‘Astronaut’ Teng Gets New View of World in Houston,” New York Times (3 Tháng Hai, 1979),  A1. 

34. Fox Butterfield, “Teng Again Says Chinese May Move Against Vietnam,” New York Times (1 Tháng Hai, 1979), A16.

35. Joseph Lelyveld, “ ‘Astronaut’ Teng Gets New View of World in Houston,” A1.  Để có sự phù hợp với phần chính của quyển sách này, cách đánh vần nguyên thủy của đoạn văn được trích dẫn là “Teng Hsiao-p’ing” đă được đổi thành “Deng Xiaopịng”

36. Hai mươi hai năm tượng trưng cho khoảng cách giữa hai cuộc thế chiến.  Bởi v́ hơn hai mươi hai năm đă trôi qua kể từ khi chấm dứt Thế Chiến Thứ Nh́, các nhà lănh đạo Trung Quốc đă lo âu rằng một nhịp điệu lịch sử nào đó đang vận chuyển các biến cố.  Họ Mao đă đưa ra cùng luận điểm với lănh đạo cộng sản Úc Đại Lợi E. F. Hill một thập niên trước đó.  Cũng xem Chương Tám, “The Road to Reconciliation,” trang 207, và Chen Jian và David L. Wilson, đồng biên tập, “All Under the Heaven Is Great Chaos: Beijng, the Sino-Soviet Border Clashes, and the Turn Toward Sino-American Rapprochement, 1968-69,” Cold War International History Project Bulletin 11 (Washington, DC: Woodrow Wilson International Center for Scholars, Winter, 1998), 161.

37. “Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Tóm Lược Buổi Gặp Gỡ Đầu Tiên Của Tổng Thống với Phó Thủ Tướng Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc Đặng Tiểu B́nh: Washington, 29 Tháng Một 1979,” JCPL, Vertical File – China, tài liệu số 268, 8-9.

38. “Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Buổi Gặp Gỡ Của Tổng Thống với Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu B́nh: Beijing, 21 Tháng Năm, 1978,” JCPL, Vertical File – China, tài liệu số 232-e, 14.

39. “Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Tóm Lược Buổi Gặp Gỡ Của Tổng Thống với Phó Thủ Tướng Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc Đặng Tiểu B́nh: Washington, 29 Tháng Một 1979, 3:35 – 4:59 chiều”, Jimmy Carter Presidential Library (JCPL), Vertical File – China, tài liệu số 270, 10-11.

40. “Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Carter-Deng, Đề Tài: Việt Nam, Washington, 29 Tháng Một 1979, 5:00 – 5:40 chiều”, JCPL, Brzezinski Collection, China [PRC] 12/19/78-10/3/79,  tài liệu số 007, 2.

41. Ross, The Indochina Tangle, 229.

42. “Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Carter-Deng, Washington, 29 Tháng Một 1979, 5:00 – 5:40 chiều”, JCPL, Brzezinski Collection, China [PRC] 12/19/78-10/3/79,  tài liệu số 007, 2.

43. Cùng nơi dẫn trên, 5.

44. Brzezinski, Power and Principle, 410.

45. ”Tổng Thống Tường Thuật về Các Cuộc Đàm Thoại Của Ông với họ Đặng: 30 Tháng Một, 1979”, JCPL, Brzezinski Collection, China [PRC] 12/19/78-10/3/79,  tài liệu số 009, 1.

46. Henry Scott-Stokes, “Teng Criticizes the U.S. for a Lack of Firmness in Iran,” New York Times (8 Tháng Hai, 1979), A12.

47. Con số thấp hơn xuất hiện trong sách của Bruce Elleman, Modern Chinese Warfare, 1795-1989 (New York: Routledge, 2001), 285.  Con số cao hơn là số ước lượng của Edward O’Dowd trong quyển Chinese Military Strategy in the Third Indochina War, 3, 45-55.

48. O’Dowd trong quyển Chinese Military Strategy in the Third Indochina War, 45.

49. Đặng Tiểu B́nh với Jimmy Carter hôm 30 Tháng Một, 1979, như được trích dẫn trong sách của Brzezinski, Power and Principle, 409-10.

50. “Bản Văn Lời Tuyên Bố bởi Mạc Tư Khoa”, New York Times (19 Tháng Hai, 1979); Craig R. Whitney, “Security Pact Cited: Moscow Says It Will Honor Terms of Treaty – No Direct Threat Made,” New York Times (19 Tháng Hai, 1979), A1.

51. Edward Cowan, “Blumenthal Delivers Warning,” New York Times (28 Tháng Hai, 1979), A1.

52. Cùng nơi dẫn trên.

53. Một trong số ít học giả thách thức sự hiểu biết theo quy ước này – và nhấn mạnh đến chiều kích chống Sô Viết của cuộc xung đột – là Bruce Elleman, trong tác phẩm của ông ta, Modern Chinese Warfare, 284-97.

54. Một có một sự duyệt xét các số ước lượng khác nhau về các sự tổn thất của QĐGPNDTQ, xem O’Dowd, Chinese Military Strategy in the Third Indochina War, 45.

55. “Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Tóm Lược Buổi Gặp Gỡ Đầu Tiên Của Tổng Thống với Phó Thủ Tướng Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc Đặng Tiểu B́nh: Washington, 29 Tháng Một 1979,” JCPL, Vertical File – China, tài liệu số 268, 8.

56. ”Tổng Thống Tường Thuật về Các Cuộc Đàm Thoại Của Ông với họ Đặng: 30 Tháng Một, 1979”, JCPL, Brzezinski Collection, China [PRC] 12/19/78-10/3/79,  tài liệu số 009, 2.

57. “Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại với Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu B́nh: Beijing, 8 Tháng Một, 1980”, JCPL, NSA Brzez.Matl.Far East, Box No. 69, Brown (Harold), Trip Memcons, 1/80, File, 16.

58. “Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại với Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu B́nh: Beijing, 8 Tháng Một, 1980”, JCPL, NSA Brzez.Matl.Far East, Box No. 69, Brown (Harold), Trip Memcons, 1/80, File, 15.

59. “Các Chỉ Thị Của Tổng Thống Carter cho Zbigniew Brzezinski về Sứ mạng Của Ông Tại Trung Quốc, 17 Tháng Năm, 1978, trong sách của Zbigniew Brzezinski, Power and Principle, Annex 1, 4.

60. Theo một sự ước lượng, vào năm 1986, Việt Nam đă cho đóng “700,000 binh sĩ chiến đấu tại phần miền bắc của xứ sở,” Karl D. Jackson, “Indochina, 1982-1985: Peace Yields to War,” trong sách đông biên tập bởi Solomon và Kosaka, The Soviet Far East Military Buildup, như được trưng dẫn bởi Elleman, trong quyển Modern Chinese Warfare.

61. “Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Tóm Lược Buổi Gặp Gỡ Của Phó Tổng Thống với Phó Thủ Tướng Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc Đặng Tiểu B́nh: Beijing, 28 Tháng Tám 1979, 9:30 sáng – 12 giờ trưa,” JCPL, Vertical File – China, tài liệu số 279, 9.

62. “Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại Giữa Tổng Thống Carter với Thủ Tướng Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc Hoa Quốc Phong: Tokyo, 10 Tháng Bẩy 1980,” JCPL, NSA BRzez. Matl. Subj. File, Box Nọ 38, “Memcons: President, 7/80.

63. Như được trích dẫn trong sách của Chen Jian, China’s Road to the Korean War (New York: Columbia University Press, 1994), 149.

64. “Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại, Tóm Lược Cuộc Đàm Thoại của Tiến Sĩ Brzezinski với Phó Thủ Tiướng Geng Biao của Công Ḥa Nhân Dân Trung Quốc” Washington, 29 Tháng Năm, 1980,”  JCPL, NSA Brzez.Matl.Far East, Box No. 70, ‘Geng Biao Visit, 5/23-31/80,” Folder, 5.

65. Lee, From Third World to First, 603.

_____

Nguồn: Henry Kissinger, Chương 13: “Touching the Tiger’s Buttocks”: The Third Vietnam War, các trang 340-375, trong quyển On China, xuất bản bởi The Penguin Press, New York, 2011. 

 

Ngô Bắc dịch và phụ chú

04.03.2013    

 

 http://www.gio-o.com/NgoBac.html

 

© gio-o.com 2013