Chủ Đề:

CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979
 

 

Ngô Bắc dịch  

Lời Người Dịch: 

“Chiến dịch 1979, ít nhất đối với Quân Đội Giải Phóng của Nhân Dân Trung Quốc, là một sự thất bại. Trung Quốc đă phóng ra cuộc tấn công của nó trong một nỗ lực để buộc Việt Nam phải rút lui khỏi Căm Bốt. Trung Quốc đă rút lui khỏi Việt Nam hôm 16 Tháng Ba, 1979, nhưng Việt Nam đă không rời Căm Bốt măi cho đến năm 1989.” ….

“Cuộc chiến tranh theo học thuyết họ Mao chưa dứt, nhưng phía Trung Quốc đă học được một bài học quan trọng.”

Trên đây là phần kết luận chắc nịch của Edward C. ODow’d, một tác giả hàng đầu về Chiến Tranh Biên Giới Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979, chủ đề của loạt bài nghiên cứu dưới đây về biến cố quan trọng diễn ra 33 năm trước. Đối chiếu với bài học lịch sử lâu dài của đất nước, rơ ràng vấn đề sinh tử của dân tộc Việt Nam hiện nay là phải t́m mọi cách đê duy tŕ được sự độc lập và vẹn toàn lănh thố, đồng thời thoát ra khỏi sự lệ thuộc ngoại giao và quân sự đáng tủi hổ đối với Trung Quốc.

 

1.David R. Dreyer
VIỆC NÀY DẪN DẮT VIỆC KIA:
V̉NG XOÁY TRÔN ỐC SỰ VẤN ĐỀ VÀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM (1979)
One Issue Leads to Another: Issue Spirals and the Sino-Vietnamese War (1979)
.


2. Steven J. Hood,
BẮC KINH, HÀ NỘI, VÀ ĐÔNG DƯƠNG –
CÁC BƯỚC TIẾN TỚI SỰ ĐỤNG ĐỘ
(Beijing, Hanoi, and Indochina – Steps to the Clash,
trong quyển Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War, 1992.


3. Zhang Xiaoming,
ĐẶNG TIỂU B̀NH VÀ
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRUNG QUỐC
ĐI ĐÊN CHIẾN TRANH
VỚI VIỆT NAM
(Deng Xiaoping and China’s Decision to Go to War with Vietnam),
Journal of Cold War Studies, Summer 2010, vol. 12, No. 3, 3-29.


4, Nicolas Khoo,
HỒI KẾT CUỘC CỦA
MỘT T̀NH HỮU NGHỊ BẤT KHẢ HỦY DIỆT:
Sự Tái Xuất Hiện Của Sô Viết và
Sự Chấm Dứt Liên Minh Trung Quốc – Việt Nam, 1975-1979
trong quyển Collateral Damage: Sino – Soviet Rivalry and the Termination
of The Sino – Vietnamese Alliance, Columbia University Press, 2011, 103-136.

 

5. Herbert S. Yee,
CUỘC CHIẾN TRANH
BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC – VIỆT NAM:
CÁC ĐỘNG LỰC, CÁC TÍNH TOÁN VÀ
CÁC CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG
trong quyển The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives,
Calculations and Strategies, China Report (xuất bản
tại New Delhi, India), Bộ 16, số 1, 1980, các trang 15-32.

 

6. Edward C. ODow’d,
CHIẾN DỊCH NĂM 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.

 

7.  Edward C. ODow’d,
TRẬN ĐÁNH LẠNG SƠN, THÁNG HAI – THÁNG BA 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.

 

8. Harlan W. Jenks,
CUỘC CHIẾN TRANH “TRỪNG PHẠT”
CỦA TRUNG QUỐC ĐÁNH VÀO VIỆT NAM:
MỘT SỰ LƯỢNG ĐỊNH VỀ QUÂN SỰ
(“China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military
Assessment”, Asian Survey 14, no. 8 (1979): 801-815.

 

9. Chen C. King,
CUỘC CHIẾN CỦA TRUNG QUỐC
ĐÁNH VIỆT NAM:
MỘT PHÂN TÍCH QUÂN SỰ
(“China’s War Against Vietnam: A Military Analysis”),
Journal of East Asian Affairs, no. 1 (1983): 233-63.
 

 

10. John M. Peppers, ,
CHIẾN LƯỢC TRONG XUNG ĐỘT CẤP VÙNG:
MỘT TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU
ĐIỂN H̀NH VỀ TRUNG QUỐC
TRONG CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
LẦN THỨ BA NĂM 1979
(Strategy In Regional Conflict:
A Case Study of China In The Third Indochina Conflict of 1979),
U.S. Army War College, Carlisle Barracks, 2001.

 

11. Alexander Woodside
DÂN TỘC CHỦ NGHĨA VÀ
NẠN NGHÈO ĐÓI
TRONG SỰ TAN VỠ CÁC QUAN HỆ
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
Nationalism and poverty in the Breakdown
of Sino-Vie6namese Relations,
Pacific Affairs, Fall 1979,
các trang 381-409.

   

12. Dennis Duncanson

CHIẾN TRANH VIỆT NAM
CỦA TRUNG QUỐC:
CÁC Đ̉I HỎI CHIẾN LƯỢC CŨ VÀ MỚI
China’s Vietnam War:
new and old strategy imperatives,
The World Today, 35, số 6 (1979),
các trang 241-248.

 

13. James Mulvenon

CÁC GIỚI HẠN CỦA NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH:
CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Limits of Coercive Diplomacy:
The 1979 Sino-Vietnamese Border War,
Journal of Northeast Asian Studies; Fall 95,
Vol. 14 Issue 3, các trang 68-88.

 

14. Andrew Scobell

NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH NỬA VỜI:
CUỘC TẤN CÔNG NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC 
ĐÁNH VIỆT NAM
“Explaining China’s Use of Force”,
China’s Use of Military Force Beyond the Great Wall and the Long March
Cambridge, United Kingdom: Cambridge University Press, 2003
các trang 192-198.

 

15. Daniel Tretiak

CHIẾN TRANH VIỆT NAM CỦA TRUNG QUỐC
VÀ CÁC HẬU QUẢ CỦA NÓ
“China’s Vietnam War and Its Consequences,” The China Quarterly 80 (1979), các trang 740-67.

   

16. Bruce Burton

CÁC SỰ GIẢI THÍCH ĐỐI CHỌI
 VỀ CUỘC CHIẾN TRANH
 TRUNG QUỐC - VIỆT NAM NĂM 1979
“Contending explanations of the 1979 Sino – Vietnamese War”,
International Journal, Volume XXXIV, no. 4/Autumn 1979, các trang 699-722.

 

17. Ramesh Thakur

TỪ SỐNG CHUNG ĐẾN XUNG ĐỘT:
CÁC QUAN HỆ
HÀ NỘI – MẠC TƯ KHOA – BẮC KINH
VÀ CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG – VIỆT
Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War,
The Australian Outlook, Volume 34, số 1, 1980, các trang 64-74.

 

18. Todd West

TỪ SỐNG SỰ NGĂN CẤM  KHÔNG THÀNH  CÔNG
CUỘC XUNG ĐỘT TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Failed Deterrence, The 1979 Sino-Vietnamese Conflict,
Stanford University Journal of East Asian Affairs,  Vol. 6, No. 1, Winter 2006, các trang 73- 85.
 

 

19. Colonel G.D Bakshi

Cuộc Chiến Tranh Trung Quốc - Việt Nam năm 1979:
Trường Hợp Nghiên Cứu Điển H́nh
Trong Các Cuộc Chiến Tranh Hạn Chế
VSM, The Sino-Vietnam War – 1979: Case Studies in Limited Wars,
Indian Defence Review, Volume 14 (2) July – September 2000

 

20. Bruce Elleman

Các Quan Hệ Sô Viết – Trung Quốc Và Cuộc Xung Đột
Trung Quốc – Việt Nam Tháng Hai 1979
Đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium,
“After the Cold War: Reassessing Vietnam”,
được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996
tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas

 

21. Henry J. Kenny

CÁC NHẬN THỨC CỦA VIỆT NAM VỀ CUỘc CHIẾN TRANH,
1979 VỚI TRUNG QUỐC “Vietnamese Perceptions of the 1979 War with China,
Chinese Warfighting: The PLA Experience Since , đồng biên tập bởi
Mark A. Ryan, David Michael Frakelstein, Michael A. McDevitt, Chapter 10, các trang 217-241s

 

22. Xiaoming Zhang

CUỘC CHIẾN TRANH
NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC VỚI VIỆT NAM: MỘT SỰ
TÁI LƯỢNG ĐỊNH, “China’s War with Vietnam: A Reassessment”,
The China Quarterly, số 184, December 2005, các trang 851-874.

 

23. Edward C. O’Dowd & John F. Corbett, Jr.

CHIẾN DỊCH NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC
TẠI VIỆT NAM:
CÁC BÀI HỌC LĨNH HỘI ĐƯỢC
The Lessons of History: The Chinese People’s Liberation Army at 75, Carlisle, PA.:
Strategic Studies Institute, U.S. Army War College, July 2003, các trang 353-378.

 

24. Douglas E. Pike,

CỘNG SẢN ĐẤU CỌNG SẢN
TẠI ĐÔNG NAM A”
 (“Communism vs Communism in Southeast Asia), International Security, Vol. 4, No. 1 (Summer, 1979), từ trang 20.
 

 

25. Henry Kissinger,

“SỜ MÔNG CON HỔ”
CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM THỨ BA”
 Chương 13: “Touching the Tiger’s Buttocks”: The Third Vietnam War, các trang 340-375,
trong quyển On China, xuất bản bởi The Penguin Press, New York, 2011.

   

26. Jimmy Carter,

GHI NHỚ VỀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
NĂM 1979
cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, trích dịch từ các hồi kư Keeping Faith, Memoirs Of A President,
A Bantam Book: New York, November 1982, các trang 194-211, và White House Diary, New York: Farrar, Straus and Giroux, 2010,
các trang 281-296, và rải rác, cùng các phụ lục trích dịch phần ghi nhớ về Chiến Tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979 của:
Phụ Lục 1: Cyrus Vance, cố Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Hard Choices, Critical Years In America’s Foreign Policy, New York: Simon and Schuster, 1983, các trang 120-127.
Phụ Lục 2: Zbigniew Brzezinski, cựu Cố Vấn Tổng Thống Hoa Kỳ về An Ninh Quốc Gia, Power and Principle, Memoirs of the National Security Adviser, 1977-1981, New York: Farrar, Straus and Giroux, 1983, các trang 404-414.
Phụ Lục 3: Anatoly Dobrynin, cựu Đại Sứ Liên Sô tại Hoa Kỳ, In Confidence, Moscow’s Ambassador to America’s Six Cold War Presidents, New York: Times books, a division of Random House, Inc., 1995, các trang 418-19.

 

 

Harlan W. Jencks

Center for Chinese Studies, University of California, Berkeley

 

CUỘC CHIẾN TRANH “TRỪNG PHẠT”

CỦA TRUNG QUỐC ĐÁNH VÀO VIỆT NAM:

MỘT SỰ LƯỢNG ĐỊNH VỀ QUÂN SỰ

 

Ngô Bắc dịch

 

Lời Người Dịch:

       Bài viết được dịch dưới đây của tác giả Harlan W. Jencks, xuất hiện trong tạp chí Asian Survey của Đại Học U. C. Berkeley, số Tháng Tám 1979, có thể được xem là bài nghiên cứu đúng theo tiêu chuẩn học thuật đầu tiên của Tây Phương về cuộc chiến tranh biên giới Trung Việt xảy ra trước đó chưa đầy sáu tháng.  Bài viết ngắn gọn, xúc tích, tạo thành khuôn mẫu cho các cuộc nghiên cứu sau này, và tác giả là ngườ́ được trích dẫn trong hầu hết các công tŕnh biên khảo khác trên cùng đề tài này.

***

       Cuộc “hoàn kích tự vệ” của Trung Quốc đánh vào Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam [viết tắt: CHXHCNVN; tiếng Anh là Socialist Republic of Vietnam, viết tắt: SRV] ngày 17 Tháng Hai 1979 có thể chứng tỏ sẽ là một khúc ngoặt trong lịch sử của phong trào Mác-xít Lê-nin-nít.  Đó là cuộc xâm lăng đầu tiên vào một nước cộng sản bởi một nước cộng sản khác mà không có bất kỳ một vỏ ngụy trang của một sự biện minh về ư thức hệ, hay “lời mời’ của nhân dân nước đó.  Hơn nữa, nó đập thẳng vào mặt học thuyết của Marx về t́nh liên đới của Thế Giới Thứ Ba. 1 Các vấn đề cao xa như thế xứng đáng cho sự cứu xét cẩn thận, và sẽ được đề cập tới trong bài viết này.

       Tuy nhiên, biến cố vẫn c̣n quá mới, và quá nhiều sự kiện trọng yếu vẫn c̣n chưa được hay biết, đến nỗi các hàm ư chính trị trọn vẹn c̣n chưa có thể được nhận thấy.  Thay vào đó, bài viết này sẽ tập trung vào một vấn đề duy nhất: Những điều ǵ mà cuộc chiến tranh Trung – Việt hồi Tháng Hai – Tháng Ba năm 1979 cho thấy được về các năng lực quân sự của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc (viết tắt: CHNDTQ)? Vấn đề này cần phải được nhắm tới, nếu không phải v́ lư do nào khác, bởi v́ giới tác giả và các nhà cấu tạo quyết định ngày càng đông hơn dường như nh́n CHNDTQ như một chân vạc của “tam giác siêu cường: superpower triangle” toàn cầu. 2  Cuộc nghiên cứu này sẽ khảo sát ba đề mục chính: các mục tiêu chiến lược quân sự của Trung Quốc; sự thi hành cụ thể các cuộc hành quân; và sau cùng, đâu là các kết quả quân sự cho thấy các năng lực và viễn ảnh quân sự của Trung Quốc.

CÁC MỤC TIÊU

       Các nhà lănh đạo Trung Quốc đặc biệt nhất quán trong sự hiểu biết và sử dụng lực lượng quân sự của họ làm “một sự nối dài của chính trị bằng phương tiện khác”. Sự vận dụng các tin tức chiến tranh bởi Bắc Kinh đă biểu lộ một cách rơ ràng ư tưởng rằng “cuộc hoàn kich” thực sự là một sự kéo dài không có ǵ khác biệt với các sự đụng độ vũ trang leo thang đă từng phá vỡ biên giới Trung – Việt từ năm 1977.  Trong thực tế, mục tiêu được tuyên bố chính yếu của cuộc “hoàn kich’ là để b́nh định vùng biên giới, và để cho phép các cư dân Trung Hoa của nó tái lập đời sống b́nh thường.  Trong tuần lễ đầu tiên của sự giao tranh, khi các tin tức về cuộc chiến tranh thực sự gần như hoàn toàn thiếu vắng, truyền thông CHNDTQ đăng tải hàng tá câu chuyện về sự trở về của t́nh trạng b́nh thường an ḥa mà cuộc “hoàn kích” đă mang lại cho biên giới Văn Nam – Quảng Tây. 3

       Vượt quá mục tiêu được công bố duy nhất là các vấn đề và mục đích vươn ra khỏi vùng Đông Nam Á.  Số phận của dân tộc Trung Quốc ít người (“người Hoa”) tại Việt Nam, thí dụ, gây quan ngại cho các giới thẩm quyền Trung Quốc.  Điều này không chỉ là một vấn đề tự bản thân của nó, mà c̣n được ràng buộc với nỗ lực hiện thời của CHNDTQ nhằm khuyến dụ sự ủng hộ (và các khoản ngoại tệ gửi về nguyên xứ) của các cộng đồng Hoa Kiều Hại Ngoại trên thế giới.

       Hành động quân sự cũng có thể được nḥin như một sự kéo dài hợp lư của việc chọn phe trong thực tế tại vùng Đông Á.  Tiến tŕnh này lên đến đỉnh điểm với cuộc thăm viếng của Brzezinski tại Trung Quốc (Tháng Năm 1978), Hiệp Ước Hữu Nghị và Ḥa B́nh Trung – Nhật (Tháng Tám), Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Sô Viết – Việt Nam (Tháng Mười Một), sư thừa nhận ngoại giao giữa Hoa Kỳ - Trung Quốc (Tháng Mười Hai), cuộc chinh phục của CHXHCNVN tại Kampuchea (Tháng Mười Hai 1978 – Tháng Một 1979), và cuộc thăm viếng của Đặng Tiểu B́nh tại Hoa Kỳ (Tháng Một – Tháng Hai).  Cuộc tranh chấp biên giới Trung – Việt chính v́ thế đă kết bện với chính trị quyền lực toàn cầu.  Sự củng cố “các bán liên minh” (quasi-alliances) đă thuận tiện hơn bởi sự thù nghịch kéo dài của các chính phủ Sô Viết và Hoa Kỳ lần lượt đối với Trung Quốc và Việt Nam.

       “Chính sách b́nh định” của Trung Quốc vùng biên giới có chủ ư “trừng phạt” Việt Nam và “dạy cho họ một bài học”.  Thực sự nhũng ǵ điều này đưa ra chỉ dần dần đuợc giải thích sau tuần lễ đầu tiên của cuộc xâm lăng.  Sự vắng bóng ban đầu các mục tiêu của Trung Quốc được loan báo trợ lực vào việc khiến cho Việt Nam (và phần c̣n lại của thế giới) ngạc nhiên, bởi không một ai biết chính xác cuộc chiến mở rộng đến đâu, hay kéo dài bao lâu, hay trong cung cách nào cuộc tấn công sẽ tiến diễn.  Điều dần dần hiện ra rằng QDGPNDTQ có ra chỉ thị cụ thể triệt hạ các nơi đặt súng và các cơ sở của Việt Nam “đă đe dọa” Trung Quốc và làm rỉ máu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐNDVN) đủ để làm cùn nhụt ư chí của Việt Nam khỏi “các sự khiêu khích” hơn nữa.  Trong mục tiêu kể sau cùng, điều được ám chỉ rằng các sư đoàn chính quy của QĐNDVN (khác với các đơn vị dân quân và biên pḥng) sẽ bị lôi kéo vào trận đấu và “bị trừng phạt”. 4

       Có các mục tiên bổ túc khác.  Mặc dù Trung Quốc khá nhất quán trong việc phát biểu rằng vấn đề duy nhất chính là sự tranh chấp biên giới, điều hiển nhiên là họ đă hy vọng sẽ làm giảm bớt áp lực trên phe Khmer Đỏ bằng việc lôi kéo các lực lượng của QĐNDVN ra khỏi Kampuchea để pḥng vệ Việt Nam 5, hầu chứng tỏ rằng CHNDTQ là một đồng minh đáng tin cậy.  Điều này liên hệ chặt chẽ đến hai điểm tuyên truyền khác mà Bắc Kinh muốn nhấn mạnh.  Trước tiên, Trung Quốc nghiêm chỉnh về những ǵ nó nói ra, và các sư đe dọa lập lại nhiều lần muốn “trừng phạt” Việt Nam không phải là tṛ phỉnh gạt.  Thứ nh́, Sô Viết không phải là một đồng minh đáng tin cậy.  Việc nêu ra điểm này được căn cứ trên sự tính toàn của Bắc Kinh rằng, bất kể bản Hiệp Ước Tháng Mười Một 1978, Sô Viết sẽ không lâm chiến để trợ giúp CHXHCNVN.  Sự kiện này kế đó sẽ chứng minh cho Hoa Kỳ, Nhật Bản, và khối NATO rằng Liên Bang Sô Viết là một “con hổ giấy” sẽ lùi bước khi đối đầu với hành động quả quyết. 6

       Một mục đích rơ rệt nhưng không được phát biểu là để biểu thị quyền lực cấp vùng của Trung Quốc, và hàm ư muốn tái xác định đặc quyền Trung Hoa truyền thống nhằm “trừng trị dân man rợ” nằm trong các khu vực cổ truyền của bá quyền Trung Hoa.  Không cần nói, mục tiêu này bị phủ nhận một cách quyết liệt, đặc biệt khi nh́n tới chiến dịch đang tiếp diễn của Bắc Kinh nhằm phác họa LBSV (Liên Bang Sô Viết) và CHXHCNVN như “các đại và tiểu bá quyền”. 7 Điều cũng không được phát biểu là một ước muốn thử nghiệm QĐGPNDTQ, vốn đă không thực hiện các hoạt động chiến đấu quy mô từ 1962.  Cuộc chiến tranh đă cung cấp một cơ hội để lượng giá các chiến thuật, đồ trang bị, sự tiếp vận, và các hệ thống giao thông, cùng như mang lại kinh nghiệm chiến đấu cho một thế hệ mới trong các binh sĩ của Trung Quốc.

       Vào lúc khởi đầu cuộc “hoàn kích”các lănh đạo Trung Quốc lấy làm khổ sở để loan báo rằng “cuộc hoàn kích tự vệ” được “giới hạn trong thời và không gian: và Trung Quốc “đă không muốn chiếm dù một tấc đất của Việt Nam”. 8 Bất kể sự om ṣm của các lời tuyên bố bởi cả hai phía trong suốt cuộc giao tranh kế đó, hành động của họ cho thấy đúng là cả hai bên đều mong muốn mạnh mẽ để giữ chiến sự được khoanh lại vào cùng núi non của phía bắc An Nam [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch].

       Nhưng trong khi cuộc tấn công sẽ được “giới hạn”, phía Trung Quốc khởi thủy đă không xác định chính xác đâu là các giới hạn này.  Khoảng một tuần sau khi cuộc xâm lăng khởi sự, khi điều trở nên rơ ràng là QĐGPNDTQ sẽ không đoạt được một cuộc chiến thắng chớp nhoáng như đă dự liệu, Phó Thủ Tương Wang Chen có công bố rằng các lượng Trung Quốc sẽ không tiến vào châu thổ sông Hồng. 9 Trung Quốc do đó đă từ bỏ lợi thế giữ kẻ địch không biết chắc được các mục tiêu quân sự của họ.  Trận chiến sẽ được giới hạn vào vùng núi non.  Nhằm làm giảm bớt một cách đáng kể mối nguy hiểm của sự can thiệp của Sô Viết (rơ ràng là lư do cho lời tuyên bố của Wang Chen), nhưng nó cũng cho phép Hà Nội ngăn chặn một sự chiến thắng quyết định của Trung Quốc bằng việc đơn giản không gửi các sư đoàn chính quy đến vùng núi non.  Điều đó sẽ không cần thiết bởi trung tâm kinh tế và chính trị của miền bắc Việt Nam sẽ không bị nguy hiểm.  Từ 24 Tháng Hai trở đi, QĐNDVN đă chỉ giao tranh một cách đủ mạnh để làm một cuộc tŕnh diễn giữ sĩ diện.  QĐGPNDTQ sẽ không triết thoái trước khi mùa mưa xẩy đến.  Do đó, nơi duy nhất mà QĐNDVN đă thực hiện một sự cố thủ là tại Lạng Sơn và ở đó v́  các lư do chủ yếu về tâm lư.

Sự Thực Hiện Cuộc Động Binh

      Ấn Định Thời Biểu:

Một sự kết hợp của sự may mắn và việc ấn định thời biểu cân nhắc kỹ càng cho phép phía Trung Quốc tấn kích vào một thời điểm cực kỳ thuận lợi liên quan đến cả t́nh h́nh thế giới lẫn các sự cứu xét chiến thuật.  Hiệp ước Sô Viết – Việt Nam đă đe dọa một sự gia tăng đáng kể số viện trợ quân sự của Sô Viết cho CHXHCNVN, nhưng sự hiện diện quân sự của Sô Viết tại Việt Nam hăy c̣n khá nhỏ bé vào giữa Tháng Hai 1979.  Các nhà lănh đạo Trung Quốc có thể đă nh́n thấy thời gian không thuận tiện cho họ trong khía cạnh này, và v́ thế đă mong muốn tấn công sớm hơn chứ không phải muộn hơn. 10 Cùng lúc, Sô Viết được biết sẽ ở vào các giai đoạn cuối cùng tế nhị của các cuộc thường thảo hiệp ước SALT II với Hoa Kỳ, và được phán đoán có ít xác xuất muốn gây gián đoạn cho tiến tŕnh đó bằng việc phản ứng một cách bạo động chống lại Trung Quốc.

       Việt Nam đang trở nên tham dự một cách nặng nề vào một cuộc chiến tranh du kích chống lại một “bán đồng minh” của Trung Quốc tại Kampuchea.  Trong khi sự kiện này đă là một sự lăng mạ liên tục cho uy tín của Trung Quốc, nó cũng trao tặng cho họ một cơ hội bằng cách làm suy yếu sự pḥng thủ miền bắc Việt Nam.  Để trả đũa cho cuộc xâm lăng vào Kampuchea, phía Trung Quốc đă cắt đứt các sự xuất cảng dầu hỏa cho Việt Nam vào cuối năm 1978.  Bởi v́ số dầu hỏa này chiếm hơn phân nửa số dầu cung cấp cho Việt Nam, “cuộc tự vệ hoàn kích” của Trung Quốc được ấn định thời biểu một cách hoàn hảo để đánh Việt Nam vào lúc Việt Nam chỉ có số dầu dự trữ rất thấp, trước khi người Nga có thể bù đắp cho sự sai biệt. 11

       Bắc Kinh cũng đúng là “chơi lá bài Mỹ”, và họ Đặng vừa mới quay về từ một chuyến đi chiến thắng sang Hoa Kỳ, nơi ông ta đă lớn tiếng tuyên bố ư định của ông nhằm “dạy một bài học” cho Hà Nội.  Bằng việc phóng ra cuộc xâm lăng chỉ một tuần sau khi trở vè, ông ta làm ra vẻ rằng cuộc “hoàn kích tự vệ” có được sự ủng hộ của Hoa Kỳ, hay ít nhất, sự ưng thuận. 12 Chính quyền Carter lại tăng hiệu ứng một cách không giải thích cho ấn tượng này bằng việc cho phép Bộ Trưởng Ngân Khố Blumenthal tiến hành cuộc thăm viếng Trung Quốc của ông ta vào ngày 24 Tháng Hai.  Một lợi điểm bổ túc mỉa mai là, bởi Hiệp Ước An Ninh Hỗ Tương Trung Hoa Dân Quốc [Đài Loan] – Hoa Kỳ vẫn c̣n có hiệu lực cho đến ngày 1 Tháng Một, 1980, một sự hiện diện quân sự c̣n lại của Hoa Kỳ tại Đài Loan thực sự đă bảo đảm cho sự yên tĩnh tại Mặt Trận Phúc Kiến vào đầu năm 1979.  V́ thế, QĐGPNDTQ có thể tái bố trí một cách tự tin phần lớn các đơn vị ở Phúc Kiến của nó xuống biên giới phía nam.

       Sự ngạc nhiên chiến thuật cũng có thể đă đạt được bằng việc tấn công trong lúc có cuộc thăm viếng Bắc Kinh của Ngoại Trưởng Ấn Độ Vajpayee. 13 Đây là cuộc thăm viếng đầu tiên của một viên chức nội các Ấn Độ tới Trung Quốc kể từ 1962, và nắm giữ triển vọng phá vỡ băng giá giữa hai nước.  Các lănh đạo Việt Nam sẽ ước tính một cách hợp lư rằng cuộc xâm lăng trực chờ sẽ không khởi sự cho đến khi có chuyến quay về New Delhi như dự trù ngoại trưởng Vajpayee vào ngày 20 Tháng Hai. 14

       Mùa mưa bắt đầu tại miền bắc Việt Nam vào Tháng Tư.  V́ thế, QĐGPNDTQ đă phải di chuyển một cách mau lẹ nếu một chiến dịch sẽ được thực hiện trước khi các cơn mưa khởi sự.  Sự kiện này đ̣i hỏi một sự đánh đổi với một sự cứu xét khác về thời tiết xa măi tại phương bắc, nơi sự tan băng mùa xuân dọc theo các con sông Amur và Ussuri cũng bắt đầu vào Tháng Tư hay Tháng Năm.  Một cuộc tấn công trên đất liền của Sô Viết vào vùng đông bắc Trung Quốc, sẽ thuận tiện hơn bởi các con sông và mặt đất đóng băng, nhưng sẽ bị trở ngại một cách tệ hại bởi việc tan băng.  Chính v́ thế “cuộc hoàn kích” phải được ấn định thời biểu” để đem lại cho QĐGPNDTQ một mức tối đa của thời tiết thuận lợi tại phía nam, trong khi chỉ để lại mức tối thiểu của thời tiết thuận lợi cho Quân Đội Sô Viết tại phía bắc.  Khoảng giữa Tháng Hai xem ra sẽ là thời điểm tối hảo.  Với tất cả các lư do này, điều tuyệt đối thiết yếu là QĐGPNDTQ tiến vào Việt Nam, thi hành “sự trừng phạt”, và sau đó rút quân về một cách mau lẹ.

       Việc hoạch định diễn biến cho một cuộc xâm lăng vào Việt Nam có lẽ đă được xúc tiến trong nhiều năm.  Quyết định thực sự để tiến hành có lẽ đă được đưa ra vào cuối Tháng Mười Hai hay đầu Tháng Một, dưa trên một vài loại phê chuẩn tại Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Ba hồi giữa Tháng Mười Hai 1978.  Các sự bố trí binh sĩ đại quy mô được phát hiện đầu tiên vào Tháng Một, vào khoảng cùng lúc khi tổng hành dinh chỉ huy cho cuộc động binh được thiết lập.

Các Sự Sắp Xếp Chỉ Huy

Trong thời b́nh, cơ cấu quân sự Trung Quốc không có cấp chỉ huy bên dưới Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM, tiếng Anh: General Staff Department: GSD) có thể kiểm soát nhiều hơn một quân đoàn duy nhất (ye jun).  Trong trường hợp chiến tranh, đặc biệt bên ngoài biên giới Trung Quốc, một “mặt trận” đặc nhiệm (ad-hoc “front”) có thể được tổ chức theo các lằn ranh cơ cấu với kích thước và sự kết hợp các lực lượng, bao gồm cả các lực lượng bán quân sự và các thành phần yểm trợ của chúng, được phác họa tùy theo t́nh h́nh quân sự và khu vực địa dư và các quân khu (military regions: MR) liên hệ”. 15 T́nh báo Mỹ đă ước định từ lâu rằng một “Mắt Trận Phương Nam”, hướng vào Đông Dương, sẽ bao gồm Các Quân Khu Côn Minh và Quảng Châu. 16 Đó là điều đă xảy ra một cách chính xác trong Tháng Một 1979.

       Xu Shiyou (Hứa Thế Hữu ?), tư lệnh Quân Khu Quảng Châu, và là một phụ tá chính trị thân cận của Đặng Tiểu B́nh, được cử làm tư lệnh Mặt Trận.  Wang Bicheng, tư lệnh Quân Khu Côn Minh, kẻ không có kinh nghiệm cá nhân về chiến tranh núi non, được thay thế bởi Yang Dezhi (Dương Đắc Chí ?), kẻ được bổ nhiệm làm tư lệnh phó Mặt Trận.  Họ Dương, trước đây là Tư Lệnh Quân Khu Vũ Hán, và là một chiến sĩ núi non lăo luyện từ Cuộc Chiến Tranh Hàn Quốc, được tường thuật đă chỉ huy trực tiếp các cuộc hành quân bên trong Việt Nam. 17 Được bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Mặt Trận Phương Nam là Zhang Tingfa, một ủy viên Bộ Chính Trị  đang là tư lệnh không lực của QĐGPNDTQ. 18

       Sự bổ nhiệm họ Zhang hơi khó hiểu, bởi binh nghiệp của ông ta gần như hoàn toàn trong không lực.  Vào đầu thập niên 1970, ông ta được biết có được cử nhiệm vào Phân Ban Dân Vận [?] (Mobilization Subdepartment) của BTTM, với trách vụ giải quyết về các sự vụ quân sự. 19 Điều này có thể giúp giải thích sự bổ nhiệm ông ta vào Mặt Trận Phương Nam, bởi dân quân đă đóng một vai tṛ quan trọng trong hệ thống tiếp vận Trung Quốc trong khi không quân được điều động xuống phương nam, nhưng không hề tham gia vào việc chiến đấu.  Có thể sự giải thích đơn giản là họ Zhang là một nhà quản trị hữu hiệu, và một đồng minh chính trị thân cận của Đặng Tiểu B́nh.

“Mặt Trận Phương Bắc”

Tại miền bắc, một sự sắp xếp tương tự đă được lập chống lại trường hợp khả hữu của hoạt động quân sự Sô Viết.  Một “Mặt Trận Phương Bắc” được thiết lập sự quyền của Li Desheng, tư lệnh Quân Khu Thẩm Dương.  Mặt Trận được nói bao gồm các lực lượng diện địa, dân quân, địa phương quân và các lực lượng chủ yếu thuộc các Quân Khu Tân Cương, Lan Châu, Bắc Kinh, và Thẩm Dương.  Ba trăm ngh́n dân chúng được tường thuật đă di tản khỏi các khu vực biên giới, và toàn thể “Mặt Trận Phương Bắc” đă ở vào t́nh tráng báo động tối đa khi cuộc “hoàn kích” khởi sự. 20 Các phát ngôn viên Trung Quốc tuyên bố trong nhiều dịp rằng phản ứng của Sô Viết đă được “tính toán một cách cẩn thận và tỉnh táo”, 21 sẽ không “quá lớn”, 22 và có thể đối phó nếu cần thiết.  Đă có một ra vẻ can đảm nào đó trong các lời phát biểu này cho thấy một sự tin tưởng đáng kể của phía Trung Quốc rằng Sô Viết, trong thực tế, sẽ không can thiệp.

       Với biến cố, Bắc Kinh đă chính xác.  Mạc Tư Khoa đă chỉ phản ứng một cách công khai hôm 24 Tháng Hai một cách đại cương rằng LBSV sẽ “tôn trọng” các sự cam kết của nó.”. 23  Điều này cho thây liên can đến một sự gia tăng đáng kể trong các chuyến tàu tiếp liệu, sự trợ giúp bằng không vận, và thám thính trên không, tất cả các việc trên ủng hộ sự pḥng thủ của CHXHCNVN mà không tạo rủi ro của sự dính líu trực tiếp của Sô Viết.

Các Lực Lượng Tham Chiến

Báo chí Trung Quốc nhất mực đề cập đến tất cả các binh sĩ QĐGPNDTQ trong cuộc “hoàn kích” là “lính biên npḥng” hay các chiến sĩ canh gác biên cương”, giống y như đă phát biểu trong cuộc xung đột Trung - Ấn năm 1962.  Điều đó hoàn toàn không đúng.  Mười trong mười một Quân Khu của Trung Quốc đă được tường thuật có đóng góp lực lượng vào Mặt Trận Phương Nam, 24 mặc dù đa số được rút ra từ các Quân Khu Thành Đô, Côn Minh, Quảng Châu, Phúc Châu và Vũ Hán.

       Cơ quan thông tấn Tân Hoa Xă (Xinhua) cung cấp thừa thăi bằng cớ rằng các đơn vị thuộc các lực lượng chính đang thực hiện cuộc tấn công bằng việc phát hành đoạn phim tường thuật đồ trang bị chẳng hạn như các cơ trọng pháo 180 ly và 122 milimét, các đầu phóng nhiều hỏa tiễn 140 ly, các cầu nổi, và xe tăng loại nhẹ kiểu 62 – không có đơn vị được giao phó về các đơn vị biên giơi hay cấp vùng. 25 Các đơn vị công binh chiến đấu mở đường cho cuộc tiến quân đều thực sự là các đơn vị chủ lực quân, cũng như mọi trung đoàn thiết giáp. 26 Các đơn vị địa phương quân và dân quân đă đóng các vai tṛ quan trọng trong cuộc hành quân.  Họ không chỉ pḥng vệ lănh thổ Trung Quốc chống lại các cuộc đột kích của QĐNDVN, mà c̣n tháp tùng theo cuộc tiến quân, cung cấp an ninh khu vực hậu phương, yểm trợ tiếp vận, và các công tác lao động. 27

       Kích thước của lực lượng đặc nhiệm của Trung Quốc được ước lượng một cách khác nhau, nhưng sự đồng thuận chung rằng tám quân đoàn (khoảng 20 sư đoàn) ngoài các đơn vị yểm trợ đă được tập trung gần biên giới.  Tổng số các lực lượng QĐGPNDTQ khả ứng có lẽ vào khoảng 800,000 binh sĩ, 700-1000 máy bay, khoảng 1000 xe thiết giáp, và ít nhất 1500 khẩu trọng pháo.  Phần lớn các đơn vị điều động (chủ yếu là các xa tăng và bộ binh) và tất cả máy bay đều được giữ làm lực lượng trừ bị và không hề giao chiến. 28 Cuộc tấn công tiên khởi được thực hiện bởi sáu hay bẩy sư đoàn, về sau c̣n được tăng thêm bởi có lẽ bốn sư đoàn khác.  Tại cao điểm của cuộc giao tranh, vào đầu Tháng Ba, đă có khoảng 80,000 binh sĩ Trung Quốc trong nội địa Việt Nam, với đại đa số trong họ tham gia vào trận đánh Lạng Sơn.

       Để đối phó với cuộc công kích, phía Việt Nam ban đầu chỉ có khoảng 75-000 – 100,000 quân biên pḥng và dân quân.  Các binh sĩ này đă chứng tỏ được huấn luyện, trang bị và chỉ huy tốt hơn nhiều so với sự ước định của bất kỳ ai.  Họ đă dựng lên một sự pḥng vệ ngoan cường cho phép các sự tăng viện đến được từ Lào và miền nam – một số quân từ miền nam được chở đến bằng các sự vận chuyển của Sô Viết. 29

       Các lực lượng hải và không quân được dễ dàng nhận thấy bởi sự vắng bóng của họ trong trận chiến, có lẽ là biện pháp hiển nhiên nhất được thi hành bởi cả hai phía nhằm giới hạn phạm vi của cuộc chiến tranh.  Đă có nhiều báo cáo về các cuộc không kích chiến thuật của Trung Quốc trong ngày đầu tiên. 30 Tuy nhiên, vào ngày 24 Tháng Hai, cả hai bên đều phủ nhận các tin đồn rằng Hải Pḥng đă bị oanh tạc, và phát ngôn viên Trung Quốc nói thêm rằng, “Không lực Trung Quốc đă không dính líu đến cuộc chiến, và sự giao tranh chỉ xảy ra tại khu vực biên giới”. 31 Điều này được chứng thực bởi sự vắng bóng của các đơn vị không quân và phi hành đoàn trong cuộc liên hoan tập thể trao tặng huy chương và vô số câu chuyện về các “hành vi anh hùng” tràn ngập truyền thông CHNDTQ trong Tháng Ba và Tháng Tư.  Đơn vị không quân duy nhất được trưng dẫn cho hoạt động anh hùng là một trạm radar trên đất liền. 32 Tuy nhiên, phía Trung Quốc đă lựa chọn việc phô bày lực lượng không quân của họ cho các mục đích tuyên truyền, và trong khoảng Tháng Mười Hai – Tháng Ba đă phát hành các phim ảnh lần đầu  chưa hề có về oanh tạc cơ F-9, chiến đấu cơ F-8 (MIG-21), hỏa tiễn không-không ATOLL, và hỏa tiễn mang đầu đạn tầm trung CSS-1 của họ.

       Đă có các sự tường thuật không được xác nhyận nhưng khăng khăng rằng phía Việt Nam đă sử dụng hơi độc chống lại QĐGPNDTQ và thương dân Trung Quốc. 34 Các báo cáo tương tự được truyền ra từ Kampuchea và Lào kể từ mùa thu năm qua.  Cũng có một số tường thuật về một số loại vũ khi “tia tử thẩn” (death ray) độc ác mà QĐNDVN được giả định “thử nghiệm” cho Sô Viết. 35 Phía Trung Quốc chính thức im lặng về các vấn đề này, và bằng chứng th́ quá ṃ mẫm để chí đáng nói thoáng qua.

Chiến Lược và Chiến Thuật

Diễn tiến thực sự của chiến dịch đă được mô tả một cách tổng quát bởi báo chí Hồng Kông. 36 Một sự phân tích kỹ càng các bản tin báo chí của Trung Quốc và Việt Nam sẽ mang lại một bức tranh chi tiết cho một nhà quân sử sở đắc các ngôn ngữ, nguồn tin, bản đồ chiến thuật, và sự kiên nhẫn cần thiết, nhưng một cuộc nghiên cứu như thế vượt quá phạm vị của bài viết này.  Hai ấn tượng nổi bật hiện ra từ các bản báo cáo tin tức cho đến nay.

       Trước tiên, sự tiến hành của cả hai bên bị uốn nắn bởi quyết tâm của họ nhằm giới hạn chiến sự cả về thời và không gian.  V́ lư do này, cả hai phía đều thụ hưởng các khu vực hậu phương an toàn, và chiến tranh chỉ là một trận đánh trên đất liền hai chiều. Bởi v́ các chiến sự bị hạn chế vào địa h́nh rải rác và cây cối mọc rậm rạp, không có bên nào có nhiều động lực để thử nghiệm sự pḥng không của bên kia.  Sự yểm trợ không quân chiến thuật hữu hiệu sẽ khó khăn tại địa h́nh như thế ngay cả cho các lực lượng được huấn luyện và trang bị hoàn hảo để làm việc đó (cả QĐGPNDTQ lẫn QĐNDVN đều không phải là lực lượng như vậy).  Một t́nh trạng bất động pḥng không đă hiện diện tại vùng núi đồi nơi QĐNDVN được bảo vệ bởi các hệ thống pḥng không lưu động do Sô Viết chế tạo tuyệt hảo. 37 QĐGPNDTQ chỉ có một loại hỏa tiễn địa không (surface-air-missile: SAM) hoạt động duy nhất – hỏa tiễn Hồng Kỳ số 4 CSA-1 – vốn là một sự biến cải của hỏa tiễn Soviet SA-2 (GUIDELINE).  Nó có thể xách tay nhưng không phải vũ khí lưu động chiến thuật.  Phía Trung Quốc có bố trí một bức màn chắn các hỏa tiễn này dọc biên giới CHXHCNVN vào lúc sắp khởi sự cuộc “hoàn kích”. 38 Có lẽ không có sự trùng hợp rằng tầm phóng của hỏa tiễn CSA-1 vào khoảng 50 cây số, và rằng các lực lượng Trung Quốc được cho hay phải tuân theo các mệnh lệnh không đuợc tiến sâu quá 50 cây số vào bên trong Việt Nam. 39

       Ấn tượng thứ nh́ người ta có được là sự giao tranh cực kỳ biến chuyển.  QĐGPNTQ đă không. và không thể chiếm đóng và b́nh định một khu vực kiểm soát vững chắc đàng sau các phần tử dẫn đường của nó.  Mặc dù việc băng ngang tiên khởi biên giới ở 26 địa điểm, cuộc tấn công của Trung Quốc được nhắm tới khoảng năm mục tiêu chính yếu (xem Bản Đồ A) – các tỉnh lỵ của Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, và Lạng Sơn.  QĐGPNDTQ tiến xuống theo các con đường chính, chiểm giữ các trung tâm dân cư và giao thông khi nó đi qua.  Phần lớn sự giao tranh nhằm chiếm cứ cao điểm bên hông kiểm soát các “tuyến và điểm trên bản đồ” này.  Sư kiện rằng phía Trung Quốc đă không thiết lập sự kiểm soát trên toàn thể vùng đất trống không nằm giữa các tuyến tiền quân chính của họ được minh chứng bằng các báo cáo của Trung Quốc về các bộ đội Việt Nam tấn công ở bên trong nội địa Trung Quốc trong suốt cuộc “hoàn kích”.  Trong một trường hợp, “một số” binh sĩ QĐNDVN đă xâm nhập vào huyện Napo, tỉnh Quảng Tây hôm 27 Tháng Hai – ngày mà trận đánh Lạng Sơn khởi diễn xa cách ở hướng nam. 40

       Cả hai đối thủ đều sử dụng các chiến thuật khinh binh của việc lẩn tránh và tạo bất ngờ là điều mà họ được được biết đến tiếng tăm.  Khi cuộc tấn công của Trung Quốc khởi sự vào lúc 5 giờ sáng ngày 17 Tháng Hai, hàng ngh́n bộ binh và công binh Trung Quốc đă sẵn xâm nhập vào bên trong Việt Nam để cắt đứt các đường nối truyền tin, phá hủy các cơ sở được lựa chọn, và bảo đảm an ninh các địa điểm vượt biên giới. 41 Phần lớn các hoạt động chiến đấu mô tả trong báo chí Trung Quốc là các cuộc giao chiến bộ binh quy mô nhỏ tại các núi đồi.

 

Bản Đồ A: Cuộc “Hoàn Kích” của Trung Quốc hôm 17 Tháng Hai, 1979

      

QĐGPNDTQ đă bổ túc một ṿng xoắn mới vào một chiến thuật cổ xưa bằng việc “cho xâm nhập” các xe tăng hạng nhẹ Loại T-62 của họ băng qua biên giới xuyên qua địa thế xem ra “không thể vượt qua” hôm 17 Tháng Hai. 42 QĐGPNDTQ cũng duy tŕ truyền thống của nó với việc nỗ lực thương thảo với các cư dân biên giới, đặc biệt các nhóm dân tộc ít người, trong một cung cách quảng đại và thân thiện.  Họ phóng ra một trận lũ tuyên truyền về đề tài, và đă có các báo cáo rằng phía Trung Quốc đă thực sự trang bị cho một số các bộ tộc dân miền núi đồi. 43 Trong bất kỳ trường hợp nào, QĐGPNDTQ đă tích cực khuấy động cảm tính chống Việt Nam trong các dân tộc ít người.  Loại chiến tranh chính trị này thực sự là tiêu chuẩn đối với QĐGPNDTQ.  Trong thực tế, tất cả các chiến thuật này (ngoại trừ các xe tăng hạng nhẹ) đều đă được sử dụng chống lại Ấn Độ trong năm 1962.

       Cũng có nhiều trận đánh theo kế hoạch cứng ngắc (set-piece), và trong các trận đánh này, QĐGPNDTQ cũng chẳng gặt hái tốt đẹp ǵ.  Quân pḥng vệ Việt Nam tại Lào Cai, Đồng Đăng, và Cao Bằng cầm cự mũi công kích sơ khởi của Trung Quốc bất kể lợi thế pháo binh ồ ạt của phe tấn công.  Trận đánh cao điểm là cuộc bao vây Lạng Sơn, mà ngay từ đầu đă mang một ư nghĩa đáng kể không chỉ bởi tầm quan trọng quân sự của nó.   Tọa lạc khoảng hai mươi cây số từ “Hữu Nghị Quan” và 130 cây số từ Hà Nội, Lạng Sơn kiểm soát lối xâm nhập vào châu thổ sông Hông dọc theo con đường xâm lăng lịch sử từ phương bắc.  Phía Việt Nam, từ từ lui quân về các tuyến tiếp liệu của chính họ, có thể tăng viện một cách dễ dàng cho thị trấn, vốn được củng cố từ lâu cho đúng trường hợp này.  Trong thực tế, các nhà hoạch định kế sách của CHXHCNVN được cho là chủ ư muốn biến Lạng Sơn thành một “Verdun thứ nh́”. 44

       Sự đâu tư của Trung Hoa vào Lạng Sơn khởi sự hôm 27 Tháng Hai với cuộc tấn công bằng xe tăng-bộ binh, được khơi mào bởi một trận pháo kích ào ạt, vào cao điểm then chốt ở Khấu Mă Sơn, phía bắc thành phố.  Trong những ngày kế tiếp, các đơn vị của QĐGPNDTQ lên tới cấp trung đoàn đă tiến quân quanh các cạnh sườn của Lạng Sơn, thường giao tranh vào buổi tối và ở tầm sát cận.  Cuộc tấn công chính danh vào Lạng Sơn khởi sự hôm 2 Tháng Ba, trong khi trận đánh cho một số cao điểm bao quanh vẫn c̣n đang tiếp diễn.  Ba ngày kế đó đă chứng kiến loại chiến đấu tàn bạo nhất, khi quân pḥng thủ di chuyển từ nhà này sang nhà khác, từng căn hầm này sang căn hầm khác, và từng đường hầm một.  Sự “thất thủ của Lạng Sơn” đă được tường thuật ngay từ hôm 27 Tháng Hai, và gần như hàng ngày sau đó.  Tân Hoa Xă công bố một bức ảnh chụp “xác nhận” sự chiếm đoạt vào ngày 3 Tháng Ba, nhưng giao tranh vẫn c̣n tiếp tục trong hai ngày nữa.

       Với sự chiếm đoạt ngọn đồi 413, tây nam thành phố, vào lúc 2:40 chiều hôm 5 Tháng Ba, QDGPNDTQ sau cùng đă thiết lập được sự kiểm soát Lạng Sơn, và mở con đường tiến vào vùng châu thổ. 45 Chưa đầy bốn tiếng đồng hồ sau đó, chính phủ Trung Quốc loan báo, “Binh sĩ biên pḥng Trung Quốc đă đạt được các mục tiêu đề ra cho họ …[và] bắt đầu từ hôm 5 Tháng Ba, 1979, tất cả binh sĩ vùng biên cương Trung Quốc đang triệt thoái về lănh thổ Trung Quốc”. 46 Nó cần đến mười ngày để hoàn tất cuộc rút quân. 47 QĐNDVN đuổi theo gần sát, và phóng ra pháo binh vừa tầm vào đội đoạn hậu của Trung Quốc, tạo ra một màn đủ ngoạn mục về sự rút quân. 48 Họ rơ ràng không lo lắng về việc làm chậm lại cuộc rút quân hay khiêu khích một trận hoàn kích cho bằng nỗi lo ngại của quân Trung Quốc bị kẹt lại bên trong Việt Nam bởi các trận mưa.

CÁC KẾT QUẢ QUÂN SỰ

Các Tổn Thất

Tính đến hôm 5 Tháng Ba, cả hai phía đều bị “trừng phạt” một cách đáng kể.  Các số thống kê khủng khiếp biến đổi vô cùng rộng lớn, tùy thuộc phần lớn, dĩ nhiên, vào nguồn tin. 49 Đài Phát Thanh Hà Nội tuyên bố 45,000 lính Trung Quốc bị chết và bị thương, 50 nhưng không đưa ra các con số về các sự tổn thất của Việt Nam.  Ngược với Hà Nội, vốn tuyên bố các sự tổn thất khổng lồ của Trung Quốc ngay từ ngày đầu tien, Bắc Kinh cực kỳ kín đáo về việc tường thuật các số tổn thất của cả hai phía.  Các con số Trung Quốc “chính thức” duy nhất được công bố hôm 2 Tháng Ba trong một cuộc phỏng vấn bởi Tổng Tham Mưu Phó QĐGPNDTQ, Wu Xiuquan với một phái đoan quân sự Pháp. 51 Họ Wu đưa ra số tổn thất về phía Việt Nam là 50,000 người trong đó số bị chết “cao hơn nhiều” số bị thương.  Ông ta nói QĐGPNDTQ gánh chịu số tổn thất là 20,000 người trong đó số bị chết chưa đến phân nủa.  Một “nguồn tin Trung Quốc đáng tin cậy” nói với phóng viên hăng thông tân AFP, George Biannic, rằng tại một phiên họp Đảng hôm 16 Tháng Ba, Đặng Tiểu B́nh đă loan báo các số tổn thất của Việt Nam được ước lượng là 37,000 người chết, 7,000 bị thương, và 5,000 tù binh.  Ngược lại, các nguồn tin Trung Quốc khác đă ước lượng một sự tổn thất ngang bằng khoảng 10,000 bị chết ở mỗi bên. 52 Các con số được gán cho của họ Đặng th́ cao hơn một cách đáng kể ngay khi so với các con số được tuyên bố trong báo chí Hồng Kông.  Gần như mọi nguồn tin khác đều ước lượng số tù binh Việt Nam chỉ vào khoảng một hay hai ngh́n người.  Một “ấn phẩm tham khảo nội bộ” được nói lưu hành hôm 3 Tháng Ba giữa các viên chức Trung Quốc cao cấp, được tường thuật có nói rằng các số tổn thất của Trung Quốc và Việt Nam “vào khoảng ngang nhau”, và rằng QĐGPNDTQ đă không “có năng lực để thực hiện một cuộc chiến tranh hiện đại”. 53

       Các số thống kê th́ hoàn toàn quá mâu thuẫn để cho phép có được bây kỳ điều ǵ ngoài các số ước lượng có tính cách ṃ mẫm.  Tổng cộng, ít nhất 30,000 binh sĩ QĐNDVN và QĐGPNDTQ đă bị chết trong thời khoảng từ 17 Tháng Hai đến 15 Tháng Ba.  Tổng số người chết và bị thương của cả hai bên, gồm cả thường dân, chắc chắn vượt quá 75,000 người.  Phía Việt Nam tuyên bố đă hủy diệt gần 100 xe tăng của QĐGPNDTQ, chính yếu ở biên giới trong những ngày đầu tiên của cuộc chiến, xem ra hữu lư.

       Phía Trung Quốc, vốn kín đáo về các số tổn thất, thực sự giữ im lặng về đồ trang bị hủy diệt hay bắt giữ được.  Vượt quá các sự đề cập mơ hồ về các chiếc xe bọc sắt và các vũ khí hạng nặng chiếm đoạt được tại Lạng Sơn, 54 họ chỉ ấn hành hai bức ảnh chụp các chiếc xe tăng của QDNDVN bị triệt hạ -- cả hai là xe tăng T-34 cũ kỹ.  Phía Trung Quốc không nói ǵ về các tin đồn rằng họ đă thu đạt được một cú đánh t́nh báo kỹ thuật bằng việc chiếm đoạt được ba địa điểm SAM SA-6 (GAINFULL), với mọi trang bị c̣n nguyên vẹn. 55

Các Cuộc Hành Quân Của QĐGPNDTQ

“Thông tư tham khảo nội bộ” trưng dẫn bên trên cho thấy rằng giới lănh đạo Trung Quốc phần nào đó bị thất vọng về các khía cạnh quân sự của cuộc động binh.  Một cách chắc chắn, địa thế sẽ buộc bất kỳ quân đội nào phải dựa vào bộ binh gọn nhẹ, nhưng các kiềm chế về chính trị và các khuyết điểm kỹ thuật là các nguyên do chính khiến cho QĐGPNDTQ đă “không có khả năng giao chiến một cuộc chiến tranh hiện đại”.

       Chúng ta thực sự không hay biết ǵ về không quân và hải quân của Trung Quốc và Việt Nam, hay về các khả năng của họ để phối hợp với các lực lựng trên bộ liện hệ.  Như chúng ta đă nh́n thấy, các yếu tố chính trị và sự bất động của không lực cầm chân cả hai không lực đứng bên ngoài khu vực chiến đấu.  Cả hai hải quân được điều động, nhưng được giữ lại phía sau.  Chúng ta có thể xác nhận rằng khinh binh và các công binh chiến đấu của QĐGPNDTQ tiếp tục có tính cách ưu việt.  Chúng ta có nh́n thấy một số sự cải thiện trong các hoạt động hỗn hợp các binh chủng, đặc biệt trong sự phối hợp yểm trợ pháo binh trên quy mô lớn.  Tuy nhiên, khi cứu xét mọi khía cạnh, phía Trung Quốc tự căn bản chỉ liên kết các xe thiết giáp hạng nhẹ và pháo binh hạng nặng vào cùng các chiến thuật đă được sử dụng tại Ấn Độ trong năm 1962, trong các tháng ban đầu tại Hàn Quốc năm 1951, và trong các giai đoạn sau này của cuộc nội chiến.  Trong thực tế, các xe tăng và pháo binh, và “cái đuối tiếp vận” mà chúng cần thiết, có thể thực sự làm chậm bước tiến quân của QĐGPNDTQ bởi việc kết buộc nó quá chặt chẽ với các đường lộ chính yếu.

       Cuộc bao vây Lạng Sơn đă là một loại giao tranh tương đối xa lạ với QĐGPNDTQ khi nó tiến hành trong cung cách “nhất điểm hai bên hông” và “chia và diệt” truyền thống của nó. 56 Các xe tăng và pháo binh Trung Quốc có tính chất cốt tử tại Lạng Sơn, nơi có vẻ chúng đă được xử dụng hữu hiệu một cách hợp lư – mặc dù chỉ có sự quan sát đúng theo tiêu chuẩn chuyên nghiệp mới có thể xác nhận điều này.

       Sự yểm trợ tiếp vận của Trung Quốc có vẻ là đầy đủ, nhưng khó có tính chất hiện đại.  Sự chuyên chở bằng xe vận tải được tăng cường bởi các đơn vị dân quân của Vân Nam và Quảng Tây, vốn được giao phó cho các vai tṛ tiếp vận truyền thống của chúng, cũng như  “các nhóm yểm trợ mặt trận”  được thành lập từ các thường dân khác bởi các ủy ban Đảng bộ địa phương. Hệ thống này đă phục vụ QĐGPNDTQ đắc lực trong nhiều thập niên nhưng thật khó để thích hợp với loại chiến tranh bên ngoài biên giới.  Nó làm chậm bước tiến của đạo quân ngang với tốc độ của các con người khuân vác, và hạn chế nghiêm trọng năng lực của chính bản thân tuyến tiếp liệu.  Hơn nữa, hệ thống phơi bày ra các vấn đề chính trị, bởi v́ các thường dân khuân vác không gần giống như các binh sĩ có kỷ luật rất hoàn hảo và thấm nhuần “Ba Nguyên Tắc Của Kỷ Luật và Tám Điểm Lưu Ư”.  Đài Phát Thanh Hà Nội đă mau chóng thu thập và khai thác các câu chuyện của các thường dân Trung Quốc bị cáo giác là đă cướp bóc các làng xă theo chân bước tiến quân của QĐGPNDTQ.  Họ có thể là các phu khuân vác đồ tiếp liệu – nhưng thật dễ dàng để h́nh dung họ như các người Hán thực dân, hay tệ hại hơn nữa. 58

       Vào ngày 11 Tháng Ba, họ Đặng được tường thuật có nói với Đại Sứ Thái Lan rằng QĐGPNDTQ “có thể đi hết con đường đến Hà Nội nếu họ muôn … Chúng tôi t́m cách đối phó với các sư đoàn đột xuất của họ [QDGPNDTQ] và các sư đoàn đột xuất của họ không mấy khác biệt với dân quân sinh sống tại vùng biên giới”. 59 Trong thực tế, cuộc chiếm đoạt Lạng Sơn đă mở con đường tiến vào thung lũng Sông Hồng, và đă là một chiến thắng tâm lư quan trọng.  Tuy nhiên, QĐGPNDTQ có lẽ đă không thể tiến quân đến Hà Nội v́ một số lư do.  Dĩ nhiên, trước tiên là nỗi lo sợ về sự can thiệp của Sô Viết.  Yếu tố đó không thôi sẽ ḱm chân tiến bước của Trung Quốc.  Riêng về các lư do quân sự, tuy thế, không có nhiều khả tính rằng QĐGPNDTQ có thể vươn tới Hà Nội trừ khi nó sẵn ḷng tung ra toàn thể sức mạnh của nó và chấp nhận các tổn thất rất lớn.  Chúng ta đă sẵn ghi nhận rằng “cây dù” pḥng không cung cấp bởi các hỏa tiễn SAM của Trung Quốc chỉ có thể phóng tới khoảng 50 cây số tính từ biên giới.  Xa hơn cây dù đó, QĐGPNDTQ sẽ phải lệ thuộc vào pháo binh pḥng không cổ lỗ và các chiến đấu cơ tầm ngắn đặt căn cứ tại Quảng Tây.  Mỗi thước tiến quân sẽ đặt quân xâm nhập sâu hơn vào hệ thống pḥng không Hà Nội – Hải Pḥng hiện đại và đáng sợ.

       Từ châu thổ trống trải, các oanh tạc chiến đấu cơ của Việt Nam, các khẩu súng xe tăng tầm xa hơn, và các hỏa tiễn được hướng dẫn chống chiến xa SAGGER có thể được xử dụng với lợi thế trọn vẹn chống lại QĐGPNDTQ và các tuyến đường giao thông kéo dài của nó.  Hơn nũa, bất kể lời tuyên bố của họ Đặng, các sư đoàn thiện chiện nhất của QĐNDVN chưa tham chiến.  Ít nhất năm sư đoàn trong chúng vẫn c̣n được dự bị cho sự pḥng thủ Hà Nội. 60 Tóm lại, QĐGPNDTQ đă có một cơ hội để “thực hiện một cuộc chiến tranh hiện đại” sau sự thất thủ của Lạng Sơn, nhưng đă khước từ nó một cách khôn ngoan.  Không có lư do để tin tưởng rằng CHNDTQ lại có thể phóng chiếu sức mạnh quân sự quy ước ra ngoài biên giới xa hơn tầm mà nó đă có thể làm trong năm 1950.

KẾT LUẬN

       Cuộc “tự vệ hoàn kich’ của Trung Quốc đă đạt được các thành quả tích cực kể sau.  Trước tiên, các cơ sở của Việt Nam tại khu vực biên giới đă bị triệt hủy.  Nhiều cơ sở hơn và tốt hơn giờ đây đang được tái xây dựng.  Thứ nh́, QĐNDVN, kể cả một ố đơn vị chính quy, đă bị “trừng phạt” với các số tổn thất đáng kể.  Thứ ba, các lực lượng trên đất liền của QĐGPNDTQ đă thu nhận được kinh nghiệm chiến đấu quư báu. 61 Và sau cùng, Bắc Kinh đă chứng tỏ họ nghiêm chỉnh trong những ǵ họ nói ra.  Các sự đe dọa trong tương lai nhiều phần không nên bị bác bỏ như tṛ lừa phỉnh.

       Có khá nhiều kết quả hơn nữa bên tá phương (debit) của quyển sổ cái kế toán.  Bất kể các lời tuyên bố của Trung Quốc, 62 cuộc “hoàn kich’ đă không phá vỡ huyền thoại” về sức mạnh quân sự của Việt Nam.  Ngược lại, thành tích của Việt Nam, đặc biệt bởi các đơn vị dân quân và biên pḥng, th́ đáng nể.  Trái lại, sức mạnh quân sự của Trung Quốc đă không được phô bày một cách thuyết phục.  Trong Tháng Tư, Ủy Ban Trng Ương bắt đầu phái “Các Toán Tư Vấn Trung Ương” (Zhongyang Weiwen Tuan) để “điều tra sự an sinh” của các bộ đội đă tham gia vào cuộc “hoàn kich’, và để “phổ biến kinh nghiệm tốt của họ” cho các binh sĩ không tham chiến.  Nhiều phần các toán này đă liên hệ đến một sự tái lượng định thấu đáo cuộc đông binh, với một sự quan tâm về hành vi sửa chữa mau chóng.  Sẽ không mấy ngạc nhiên nếu chúng ta sớm nh́n thấy bằng chứng về sự tái tổ chức quân đội và/hay các sự thay đổi nhân sự trong QĐGPNDTQ, đặc biệt tại các Quân Khu miền nam.

       Về mặt ngoại giao và chính trị, CHNDTQ ít nhất đánh mất nhiều thứ không kém ǵ những điều đạt được.  Đặc biệt điều vẫn c̣n được theo dơi là liệu có đúng là Trung Quốc đă tát vào mặt Sô Viết và “bỏ đi mà không sao”, như một số quan sát viên nêu ư kiến.  Liên Bang Sô Viết hưởng lợi một cách đáng kể: bằng việc phóng chiếu một h́nh ảnh kiềm chế có trách nhiệm trong suốt cuộc khủng hoảng, trong khi cung cấp sự trợ giúp quư báu cho Hà Nội.  Liên minh Sô Viết - Việt Nam được củng cố một cách đáng kể.  Các cơ sở hải và không quân Sô Viết giờ đây đang được xây dựng tại Đà Nẵng và Vịnh Cam Ranh, và đă có một sự gia tăng quan trọng trong sức mạnh quân sự của Sô Viết tại Đông Á.  Nhật Bản, khối ASEAN, và Hoa Kỳ đều bị quấy rầy bởi các sự căng thẳng dâng cao trong khu vực, và không thể rất biết ơn Trung Quốc.  Trong thực tế, đề nghị được đưa ra một cách ngạc nhiên về các cuộc đàm phán của Trung Quốc với Sô Viết hôm 5 Tháng Năm biểu lộ một sự thông hiểu nào đó của Trung Quốc rằng các sự căng thẳng Sô Viết – Trung Quốc đang leo thang một cách nguy hiểm. 63 Sau khi cứu xét mọi khía cạnh, Liên Bang Sô Viết có thể xuất hiện với uy tín được nâng cao.

       Các quan hệ của Bắc Kinh với các quốc gia khác cũng có thể bị ảnh hưởng một cách bất lợi.  Các quan hệ Trung Quốc – Mỹ được cảnh giác từ bước đầu bởi sự vận dụng chua cay của họ Đặng về chuyến đi thăm của ông ta tại Hoa Thịnh Đốn.  Các nỗ lực để cải thiện các quan hệ với Ấn Độ bị giựt lùi, ít nhất trong tạm thời, bởi v́ sự bối rối của Tân Đề Li về sự có mặt của Bộ Trưởng Ngoại Giao Ấn Độ tại Trung Quốc khi cuộc xâm lăng khởi diễn.

       Cuộc ”hoàn kích” đă thất bại thấy rơ trong việc làm nhẹ bớt áp lực trên phe Khmer Đỏ, bởi sự giao tranh tại Kampuchea c̣n dữ dội trong Tháng Tư hơn nó đă xảy ra trong Tháng Hai.  Sự mua sắm đề nghị máy báy Harrier của Anh Quốc không được bao gồm trong một thỏa ước mậu dịch được kư kết trong Tháng Ba.  Cánh tả Đảng Lao Động được tường thuật đă có thể ngăn cản vụ mua bán máy bay Harrier như một kết quả trực tiếp của cuộc xâm lăng của Trung Quốc. 64  Các vụ mua sắm vũ khí của CHNDTQ ở những nơi khác tại Âu Châu nhiều phần gặp phải sự kháng cự trong tương lai như một hậu quả xa hơn của các câu hỏi về “chủ nghĩa phiêu lưu” của Trung Quốc.

       Biên giới Trung – Việt chưa được b́nh định như các tin tức hiện thời cho thấy.  Trong thực tế, như một hậu quả trực tiếp của hành động của Trung Quốc, cuộc tranh chấp biên giới được nới rộng đến biên giới với Lào, và các đơn vị xây dựng đường xá của Trung Quốc đă bị trục xuất.  Cả hai phía xem ra đă kết thúc trận đánh c̣n thèm khát nhiều máu đổ hơn nữa, và hiện có sự đồn đại công khai tại Bắc Kinh và Hồng Kông về việc ấn định thời điểm cho cuộc tấn công kế tiếp. 65 Cả hai phía được nói đang củng cố các lực lượng của họ, và mức độ các biến cố trên đất liền, tại biển, và trên không trung, đă trở lại ít nhất mức thời tiền  xâm lăng. 66 Có lẽ chỉ có các cơn mưa gió mùa là đang tŕ hoăn hành vi bi thảm sắp tới.  Vào lúc soạn thảo bài viết này, các cuộc thương thảo rơ ràng đă bị đ́nh chỉ hoàn toàn. 67 Bất kể mọi tính toán bá đạo tinh vi kiểu Machiavelli trong việc ấn định thời biểu của cuộc “tự vệ hoàn kích”, và bất kể mọi sự hy sinh của các binh sĩ và dân chúng của họ, các giới chức thẩm quyền Trung Quốc có lẽ đă thiệt hại nhiều hơn những ǵ họ thu đoạt được./-      

 _____

CHÚ THÍCH

1. David Bonavia, “Changing the Course of History”, Far Eastern Economic Review (từ giờ trở đi viết tắt là FEER), 2 Tháng Ba, 1979, trang 9.

2. Muốn có một sự phân tích tuyệt hảo về khái niệm này, xem Banning Garrett, “China Policy and the Strategic Triangle”, trong quyển Eagle Entangled: American Foreign Policy in a Complex World (Longman, 1979), các trang 228-261.  Cũng xem Jonathan SD. Pollack, “The Logic of Chinese Military Strategy”, Bulletin of the Atomic Scientists, January 1979, các trang 22-33.

3. Jiefang Junbao [Giải Phóng Quân Báo, từ giờ trở đi viết tắt là JFJB], Bắc Kinh, được trích dẫn bởi Beijing Domestic Service (Sở Phát Thanh Trong Nước Bắc Kinh), 20 Tháng Hai, 1979, được phiên dịch trong Foreign Broadcast Information Service, Daily Report, China (từ giờ về sau viết tắt là FBIS), Số 37, các trang E1-E2, và Renmin Ribao [Nhân Dân Nhật Báo], 22 Tháng Hai, 1979, trang 2.

4. KYODO, 23 Tháng Hai, 1979, được phiên dịch trong FBIS, No. 38, các trang A13 trở đi, trưng dần một nguồn tin CHNDTQ kho6ng nêu tên rằng “Điều quan trọng … là tạo ấn tượng trên phía Việt Nam rằng họ bị ‘tổn thương’ ”.   

5. Christian Science Monitor (từ giờ trở đi viết tắt là CSM), 6 Tháng Hai, 1979, trang 4.

6. Xin Wan Bao [New Evening News, từ giờ trở đi viết tắt là XWB], Hồng Kông, 7 Tháng Ba, 1979.  Trong một cuộc phỏng vấn với Chủ Tịch hăng thông tấn Kyodo, hôm 26 Tháng Hai, họ Đặng nói cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm biểu lộ rằng Trung Quốc không sợ Liên Bang Sô Viết.  FBIS, Số 39, các trang A5-A6.

7. Xinhua [Tân Hoa Xă, từ giờ trở đi viết tắt là XH], 13 Tháng Tư, 1979, trong FBIS, Số 73,trang E2.

8. XH, 17 Tháng Hai, 1979.

9. Nayan Chanda, FEER, 9 Tháng Ba, 1979, trang 14.

10. Các cam kết viện trợ vũ khí của Sô Viết theo hiệp ước được thảo luận trong Xiandai Junshi [Hiện Đại Quân Sự, từ giờ trở đi viết tắt là XDJS], Hồng Kông, No. 28, Tháng Hai 1979, trang 38.

11. D. Rancic, Politika (Belgrade), 8 Tháng Ba, 1979, trang 1, trong FBIS, Số 51, các trang A17-A18.

12. Garrett, “China Policy”, các trang 229-230.

13. Agence France Press (Pháp Tấn Xă, từ giờ trở đi viết tắt là AFP) XH, 15 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, Số 34, các trang A10-A11.

14. Russell Spurr, FEER, 2 Tháng Ba, 1979, trang 10.

15. Handbook on the Chinese Armed Forces (Washington, D. C.), Tháng Bảy 1976), trang 2-1.

16. Cùng nơi dẫn trên.

17. Guang Jiao Jing [Wide Angle: Góc Rộng Răi, từ giờ trở đi viết tắt là GJJ], Hồng Kông, No. 78, 16 Tháng Ba, 1979, trang 9.  Vào lúc đang viết bài này, không rơ là liệu Wang Bicheng chỉ đơn giản hoán đổi công việc với họ Yang (tức, trở nên tư lệnh Quân Khu Vũ Hán) hay không.  Trong bất kỳ trường hợp nào, biến cố nói lên một cách lớn tiếng về ưu tiên của các sự cứu xét chính trị trên quân sự trong sự bổ nhiệm tư lệnh các Quân Khu.

18. Cùng nơi dẫn trên, các trang 11-12; KYODO, 20 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, Số 37, trang A6; và Kunming Provincial Service [Đài Phát Thanh Tỉnh tại Côn Minh, 13 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, Số 34, trang J2.

19. “One October 1974 National Day Festivities” (Các Lễ Hội Ngày Quốc Khánh 1 Tháng Mười) (Hồng Kông: Ṭa Tổng Lănh Sự Hoa Kỳ, Văn Pḥng Liên Lạc Quân Sự, Tháng Mười 1974), trang 4.

20. G. Biannic, AFP, 21 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, Số  37, trang E2; KYODO, 20 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, Số 37, trang A6; và Tiantian Ri Bao [Nhật Báo Mỗi Ngày, từ giờ trở đi viết tắt là TTRB], Hồng Kông, 20 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, Số 37, trang E4.

21. Đặng Tiểu B́nh được thuật lại có nói điều này với Chủ Tịch EEC (Cộng Đồng Kinh Tế Âu Châu), ông Ray Jenkins, hôm 23 Tháng Hai, AFP, 23 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, Số 39, trang A1.

22. AFP, 27 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, Số 40.  Cũng xem sự phân tích được viện dẫn của họ Đặng trong Ming Bao [Minh Báo, từ giờ trở đi viết tắt là MB], Hồng Ko6ng, 4 Tháng Ba, 1979, trang 1; và AFP, 21 Tháng Hai, 1979, tường thuật một tài liệu của Ủy Ban Trung Ương căn bản về điều này trong FBIS, Số 37, các trang E2-E3.

23. Được trích dẫn bởi Miles Hanley, FEER, 2 Tháng Ba, 1979, trang 12.

24. AFP, 25 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, số 39.  Cùng bản báo cáo trưng dẫn một tài liệu nội bộ Đảng liên quan đên một trung đoàn từ Quân Khu Phúc Châu (Fuzhou hay Foochow) gặp phải một hậu quả tệ hại tại một băi ḿn Việt Nam.

25. Xem các ảnh chụp trong tờ Beijing Review (từ giờ trở đi viết tắt là BR), No. 10, 9 Tháng Ba, 1979, trang 15; Da Gong Bao (Hồng Kông), 3, 4, và 7 Tháng Ba, 1979; và MB, 9 Tháng Ba, 1979, trang 1.

26. XH, 27 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, Số 62, các trang E4-E5.  XH, 1 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, Số 43, trang A13; XH, 1 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, Số 44, trang A11; và XH, 3 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 44, trang A15.

27. XH, 2 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 44, các trang A11-A12; XH, 27 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 62, trang E.5; XH, 28 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 65, trang Q3; và JFJB, 8 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 47, trang A8.

28. AFP, 27 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, số 40.  Họ Đặng xác nhận với các phóng viên Mỹ rằng các sự ước lượng của t́nh báo Hoa Kỳ về kích thước của lực lượng Trung Quốc th́ chính xác.  Muốn có các số thông kê, xem AFP, 6 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 46, trang A4; XDJS, số 28, Tháng Hai 1979, các trang 38-39; XH, 26 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, số 45, trang A8; New York Times (từ giờ trở đi viết tắt là NYT), 24 Tháng Hai, 1979, các trang 1 và 4; MB, 8 Tháng Ba, 1979, trang 1; KYODO, 20 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, số 37, trang A6 (bài tường thuật này phiên dịch sai từ Jun (một quân đoàn, thường có ba sư đoàn) thành “sư đoàn”; và GJJ, số 78 (16 Tháng Ba, 1979), các trang 5-6.

29. Spurr, FEER, 9 Tháng Ba, 1979, các trang 14-15; và J. Henri, AFP, 6 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 46, trang A4.

30. Spurr, FEER, 2 Tháng Ba, 1979, trang 10; XDJS, số 28, Tháng Hai, 1979, trang 38; NYT, 24 Tháng Hai, 1979, trang 1.

31. Trích dẫn bởi KYODO, 24 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, số 39, trang A9.

32. XH, 29 Tháng Tư, 1979, trong FBIS, số 80, các trang P1-P2.  Một đơn vị phi hành Trung Quốc được khen ngợi về sự tuần pḥng cẩn mật không phận Trung Quốc, nhưng nó không hề khai hỏa một phát súng nào.  Đài Phát Thanh Quốc Nội ở Bắc Kinh, 7 Tháng Năm 1979, trong FBIS, số 92, các trang L12-L13; và XH, 31 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 65, trang L22.

33. XDJS, số 27, Tháng Một 1979, các trang 35, 64-65; China Pictorial, số 1, 1979, các trang 40-41; và Hong Kông Television (Truyền H́nh Hồng Kông) (tin tức có được là nhờ Văn Pḥng Liên Lạc Quân Sự, Ṭa Tổng Lănh Sự Hoa Kỳ), Tháng Ba 1979.

34. KYODO, 20 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, số 37, trang A6.

35. Newsweek, 21 Tháng Năm, 1979, trang 23; và TTRB, 20 Tháng Hai, 1979, trong FBIS, số 37, trang E4.

36. GJJ, số 78, 16 Tháng Ba, 1979, các trang 4-10.  Đây có lẽ là nguồn tin độc nhất tốt nhất, bất kể tính chất yêu nước cực đoan của Hán tộc, về lớp lang chuỗi biến cố.  Cũng có một sự tŕnh bày tuyệt hảo trong Zheng Ming (Hồng Kông), số 4, Tháng Tư, 1979, từ trang 5 và tiếp theo sau đó.

37. Các hệ thống pḥng không trên chiến trường của CHXHCNVN bao gồm các hỏa tiễn địa-không (surface-air-missiles) SA-3 (GOA), SA-6 (GAINFUL), và SA-7 (GRAIL), và súng ZU-23, ZSU-23-4, và ZSU-57-2, cũng như các loại xưa cũ hơn.  The Military Balance 1978/79 (London: HSS, 1978).

38. MB, 8 Tháng Ba, 1979, trang 1.

39. GJJ, số 78, 16 Tháng Ba, 1979, trang 8.

40. XH, 2 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 44, trang A12.

41. Thí dụ, xem Đài Phát Thanh Quốc Nội Bắc Kinh, 1 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 44, trang A11; XH, 2 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 44, các trang A11-A12; Đài Phát Thanh Quốc Nội Bắc Kinh, 11 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 50, trang A11; và AFP, 3 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 44, trang A6.

42. XH, 27 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 62, các trang E4-E5.

43. Spurr, FEER, 9 Tháng Ba, 1979, trang 14; và Henri, AFP, 6 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 46, trang A4.

44. GJJ, số 78, 16 Tháng Ba, 1979, trang 7.  Sự tŕnh bày theo sau về trận đánh Lạng Sơn được rút ra từ sự tường thuật này, được bổ túc bởi XWB, 4 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 48, các trang N3-N4; BR, số 10, 9 Tháng Ba, 1979, trang 15; AFP, 4 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 44, trang A16; XH, 6 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 45, các trang A10-A11; và Tong Xiang (Hồng Kông), số 6, 16 Tháng Ba, 1979, các trang 4-7, trong FBIS, số 56, các trang L11-L12.

45. XH, 17 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 56, trang E5.

46. BR, số 10, 9 Tháng Ba, 1979, trang 12.

47. Thủ Tướng Hoa Quốc Phong nói với viên thống đốc Tokyo đang sang thăm rằng sự rút quân đựoc hoàn tất vào ngày 15 Tháng Ba.  KYODO, 16 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 53, trang A6.

48. XH, 14 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 52, trang A7.

49. Các số thống kê có thể được t́m thấy trong KYODO, 7 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 47, trang A5; AFP, 5 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 44, trang A6; AFP, 5 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, số 45, trang A8; và GJJ, số 78, 16 Tháng Ba, 1979, trang 8.

50. Tường thuật bởi KYODO, 7 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, Số 47, trang A5.

51. AFP, 2 Tháng Năm, 1979, trong FBIS, Số 80, các trang E1-E2.

52. AFP, 21 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, Số 56, trang L1.

53. John Fraser, CSM, 7 Tháng Ba, 1979, trang 12.

54. XH, 6 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, Số 45, trangt A11.

55. KYODO, 5 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, Số 45, các trang A8-A9.  Sự ức đoán của phóng viên hăng thông tấn KYODO rằng gỏa tiễn SAM Hồng Kỳ Số 4 của Trung Quốc là một bản sao của hỏa tiễn SA-4 (GANEF) của Sô Viết th́ không đúng, và bị cắt bỏ đi bởi Ming Bao khi nó in lại câu chuyện về hỏa tiễn SA-6 hôm 8 Tháng Ba, trang 1.

56. Muốn có một sự giới thiệu về các chiến thuật của QĐGPNDTQ, xem Handbook, đặc biệt chương 4.

57. Thí dụ, XH, 12 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, Số 51, trang A5.

58. FEER, 2 March, 1979, trang 11.

59. AFP, 11 Tháng ba, 1979, trong FBIS, Số 49, trang A4.

60. Spurr, FEER, 2 Tháng Ba, 1979, trang 10.  Vài sư đoàn chính quy của QĐNDVN bị đánh tơi bời, kể cả Sư Đoàn 3 tại Đồng Đăng, Sư Đoàn 345 và Sư Đoàn 316A tại Lào Cai, và có thể cả Sư Đoàn 346 tại Lạng Sơn.  KYODO, 29 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, Số 55, trang E13.

61. JFJB, được trích dẫn bởi Đài Phát Thanh Quốc Nội bBc Kinh, 17 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, Số 55, trang E13.

62. Thí dụ, XH, 16 Tháng Ba, 1979, trong FBIS, Số 54, trang E1.

63. David K. Wills, CSM, 16 Tháng Năm, 1979, các trang 1 và 16.

64. FEER, 2 Tháng Ba, 1979, trang 10.

65. “Họ Đặng … Đe dọa CHXHCNVN Với ’Bài Học’ Thứ Nh́”, AFP, Tháng Năm 1979, trong FBIS, Số 80, trang E1.

66. KYODO, 12 Tháng Tư, 1979, trong FBIS, Số 73, các trang E1-E2; XH, 13 Tháng Tư, 1979, trong FBIS, Số 73, trang E1; AFP, 17 Tháng Tư, 1979, trong FBIS, Số 75, trang E1; CSM, 10 Tháng Năm, 1979; trang 3 ; và CSM, 8 Tháng Năm 1979, trang 3 .

67. V. G. Kulkarni, CSM, 18 Tháng Năm 1979, trang 4.

---

Harlan W. Jencks hiện là [năm 1979] Nhà Nghiên Cứu Hậu Tiến Sĩ tại Trung Tâm Trung Hoa Học tại Đại Học U. C., Berkeley.

_____

Nguồn: Harlan W. Jencks, China’s “Punitive” War on Vietnam,: A Military Assessment, Asian Survey [U. C. Berkeley], Vol. XIX, No. 8, August 1979, các trang 801-815.  

 

Ngô Bắc dịch và phụ chú

07.05.2012    

 

 http://www.gio-o.com/NgoBac.html

 

© gio-o.com 2012