PHẠM THUỲ NHÂN

CÂU CHUYỆN NHỎ CỦA TÔI

 

Lê Cung Bắc, Tôi Và Thày Vũ Khắc Khoan

Từ Sân Khấu Đến Giảng Đường (1)

Từ Sân Khấu Đến Giảng Đường (2)

Thiên Đường Đã Mất (1)

Thiên Đường Đã Mất (2)

Rằng Trăm Năm Cũng Từ Đây


 

NGÔI TRƯỜNG

Mùa Đông năm 1969, sau khi đậu Tú tài toàn phần tôi quyết định ghi danh học ngành Văn chương tại Trường Đại học Văn khoa – Viện Đại học Đà Lạt mặc dù lúc đó tôi đang được chuẩn bị để du học ngành Y khoa tại Pháp theo nguyện vọng của gia đình mà người có tiếng nói quan trọng nhất là bà nội tôi – một phụ nữ Huế tiêu biểu đã có ảnh hưởng nhiều vào sự hình thành nên thế giới tinh thần của tôi!

Hiệp định Genève năm 1954 đã tách người con trai trưởng của bà là ba tôi ra khỏi gia đình bà. Má tôi vốn là người địa phương (Chợ Lầu) khi về làm dâu ở Phan Rí Cửa thì chẳng có nghề nghiệp gì ngoài giọng hát cao vút và ngón đàn mandolin điệu nghệ. Tôi mê giọng hát và tiếng đàn của bà hồi nào không biết, chỉ biết mỗi khi nghe má tôi cất tiếng hát dưới ánh đèn sân khấu trong những chương trình văn nghệ địa phương mà má tôi là một giọng ca chủ lực hoặc tại nhà chỉ có 2 mẹ con là tôi thấy bà đẹp lắm! Nhưng bà nội tôi thì không hề muốn con dâu mình phát triển kiểu đó, mặc dù bà cũng thường dắt tôi đi coi xi-nê và cải lương mà tôi nghĩ chủ yếu là để cầm cái ống nhổ trầu bằng đồng cho bà! Vì vậy bà nội tôi cho má tôi theo học nghề nữ hộ sinh tại Nha Trang ngõ hầu lấy mảnh bằng “Cô mụ hương thôn” mà về Phan Rí Cửa kế nghiệp bà. Và bà đã thành công một cách xuất sắc!

Dẫu vậy, mỗi khi Tết đến tôi lại thích thú ngắm má tôi ôm cây đàn mandolin vừa rung (tremolo) phím đàn vừa hát bài Xuân và Tuổi trẻ (thơ: Thế Lữ, nhạc: La Hối).

 

Ngày thắm tươi bên đời xuân mới

Lòng đắm say bao nguồn vui sống

Xuân về với ngàn hoa tươi sáng

Ta muốn hái muôn ngàn đoá hồng

 


Mẹ Con



 

Dĩ nhiên má tôi chỉ hát cho tôi nghe khi không có bà nội tôi ở nhà!

Với một quan điểm giáo dục nghiêm khắc, khi tôi đang học những lớp cuối của bậc tiểu học (lớp 4, lớp 5) bà nội tôi đã hướng tôi theo con đường Y khoa của bà bằng cách cho tôi đọc sách về Y khoa kể cả việc trau dồi tiếng Pháp chuyên ngành Y học. Đụng gì đọc nấy kể cả tài liệu sản khoa! Trong thâm tâm bà mong muốn tôi phải trở thành một “quan đốc” mà bà hằng ngưỡng mộ cho dù thời cuộc đã đổi thay!

Nhưng khi “đơn thương độc mã” vào Viện Đại học Đà Lạt đặt bút ghi danh ngành Văn học - chớ không phải Y học như mong ước của bà nội - tôi biết là bà sẽ rất thất vọng thậm chí giận dữ vì tôi đã dám làm ngược lại bao nhiêu nỗ lực của bà đã đầu tư cho tôi! Kĩ sư, bác sĩ không học, học Văn khoa để làm gì? Để làm gì thì tôi - chàng trai 18 tuổi lúc ấy chỉ nhìn cuộc đời bằng những giấc mơ - cũng chẳng hề nghĩ tới, chỉ biết rằng cậu ta cũng thích Y học vì nó cứu mạng con người nhưng đồng thời cậu lại thích Văn học hơn vì nó giúp con người vượt lên cái thân xác nặng trĩu để bay đến những tầng trời xanh ngắt!


sinh viên năm thứ nhất đại học Đà Lạt

 

Thế là cậu trở thành sinh viên năm thứ nhất Ban Cử nhân giáo khoa Việt văn niên khóa 1970 – 1974. Song khi đọc qua học trình 4 năm được yết tại văn phòng giáo vụ anh bạn trẻ không khỏi thất vọng! Kề bên những môn học mà cậu thích thú như: Văn học sử, Thẩm mĩ học, Ngữ học, Văn thể học, Tiểu thuyết, Thi ca, Kịch nghệ, Triết học… thì Hán-Nôm lại là “cục xương” mà cậu cảm thấy “khó nuốt” nhứt! Hán văn cậu chỉ biết lỏm bỏm vài chữ nhứt, nhị, tam song đến chữ tứ là… hạ màn chào thua! Đã vậy môn này lại chiếm hệ số 2 trong khi các môn khác lại chỉ hệ số 1! Và cậu đã thấy rõ ràng trước mắt muốn lấy mảnh bằng Cử nhân để học lên Cao học rồi Tiến sĩ (là cái đích của cậu) thì trước mắt phải “nắm” chặt môn Hán – Nôm. Thông thạo Hán-Nôm thì mới có thể nghiên cứu chuyên sâu về Văn học Việt Nam được!

Tôi viết thư cho ông nội tôi để vừa kính cáo với người tộc trưởng nhánh họ Phạm – đã tách ra từ làng Cổ Lão, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên để vào lập nghiệp tại làng Long Lễ, huyện Hoà Đa, tỉnh Bình Thuận – về cái chí hướng mà đứa cháu đích tôn của ông đang theo đuổi trên vùng đất Hoàng triều cương thổ này. Ông rất hài lòng vì có thể nói lúc đó tôi là “nhà khoa bảng” tương lai hiếm hoi của dòng họ! Nhánh họ của ông chẳng có một ông Cử nhân, Tiến sĩ nào, bản thân ông lại chỉ là người nông dân chân lấm tay bùn! Song, ông lại hơn những người nông dân khác khi trong đầu ông cũng chứa đựng cả chữ Nho, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ lẫn chữ Pháp! Hồi tôi học Tiểu học, ông đã tập cho tôi lòng yêu thích đọc sách, báo nhất là sách Học làm người! Tôi sực nhớ là ông đọc cả truyện và thơ Tàu nguyên tác bằng chữ Hán mà sau này tôi mới được biết đó là những trước tác nổi tiếng như: Hồng lâu mộng, Thuỷ hử, Liêu trai chí dị, Đường thi tam bách thủ

Tôi hồi hộp chờ đợi thái độ cũng như ý kiến của ông về quyết định “tự tung tự tác” của thằng cháu nội… Và khoảng hơn một tháng sau, bác Kính - chủ nhà trọ - đột nhiên gõ cửa phòng tôi và đưa cho tôi một cái phong bì dày cộm đóng dấu bưu điện Hoà Đa. Những nét chữ cứng cáp ở góc trái phong thư khiến bà ngạc nhiên và tò mò hỏi:

-Ai viết thư cho cậu mà lời lẽ trang trọng thế? Bố cậu à?

-Dạ không! Ông nội tôi, thưa bà!

Bác Kính lập tức trố mắt buột miệng nói:

-Ông nội cậu sao lại xưng hô với cháu phép tắc thế? Tôi chưa thấy bao giờ!

Trên mặt phong bì, ông viết nắn nót những dòng chữ:

Kính gửi:

Ông Phạm Thuỳ Nhân

Sanh viên Đại học Văn khoa Đà Lạt.

Sau khi còn lại một mình trong căn phòng trọ, tôi bồi hồi mở phong bì ra xem: một lá thư dặn dò tôi chuyên cần học tập và giữ gìn sức khoẻ, ông sẽ hỗ trợ bằng cách chép những bài thơ Đường bằng chữ Hán gởi lên để cho tôi có thể nhập môn vào cái thế giới phức tạp và rắc rối này được dễ dàng và thú vị hơn! Song đó là bài học nhập môn duy nhất về Hán văn mà tôi nhận được từ “khoá học hàm thụ” của ông nội tôi, vì sau đó tôi đã tìm ra phương pháp học khác kết hợp ngữ học, lịch sử ngôn ngữ, Hán văn thực hành giúp cho tôi sau 6 tháng có thể đọc được cả Đường thi tam bách thủ cổ văn lẫn tiểu thuyết tân văn Thái Vân phi (Mùa thu lá bay) của nữ sĩ Quỳnh Dao!

Ông nội tôi cũng không hỏi tôi sao không tiếp tục theo đuổi “giáo trình” của ông nữa khi Tết đến tôi có dịp về quê trong khi tôi cũng không nói với ông về điều này. Tôi thường đem về tặng ông những quyển sách Hán văn xuất bản ở Đài Loan và Hồng Kông khiến ông rất hài lòng. Cầm trên tay những quyển sách ấy chắc chắn ông nghĩ rằng chàng “sanh viên Văn khoa” cháu ông nay không còn là cậu thanh niên khiếp sợ chữ Hán, chữ Nôm nữa mà là nhà “khoa bảng” mà ông thầm mong ước khi ngày nào ông rị mọ, nắn nót viết những bài thơ Đường gởi lên “côi nớ” cho hắn mầy mò từng nét, từng dòng!

Năm 1974, ông và tôi về làng (Cổ Lão, Hương Trà, Thừa Thiên) để tôi trích, chép phần gia phả nhánh họ Phạm của ông đem về Phan Rí Cửa – nơi chúng tôi đang sống - có lẽ vì ông cảm nhận cái ngày gần đất xa trời của mình cũng không còn xa nữa! Tôi tranh thủ ghé Kim Long thăm thày Hoàng (Giáo sư Đại học Sư phạm Huế), được thày cho mượn bản truyện Nôm Quan Âm Thị Kính do thày chép tay để chụp lại làm tài liệu tham khảo. Và, tôi đưa cho ông tôi đọc, chỗ nào không đọc được chữ Nôm thì ông lại hỏi tôi. Khi được tôi đọc và giải thích rõ ràng thì ông gật gù mỉm cười mãn nguyện. Lúc ấy tôi cũng thấy nao nao trong lòng vì sung sướng như hồi còn bé đem phần thưởng học tập ở trường về trình cho ông, sau đó được ông thưởng cho một chầu nước sâm, nước sữa nóng ăn với bánh dứa nhân đậu phộng rang xay trộn đường cát trắng. Bây giờ mỗi khi nhớ lại vẫn thấy vị ngon còn đọng lại trên đầu lưỡi!

Tôi chỉ nuối tiếc một điều là ông nội tôi chưa bước vào Viện Đại học Đà Lạt mặc dù chính ông là người đã dẫn tôi khi mới 5 tuổi lần đầu tiên lên Đà Lạt để lánh căn bệnh dịch hạch đang hoành hành tại Phan Rí Cửa lúc đó! Sáng sớm từ nhà bà o ở khu cư xá hoả xa cạnh ga Đà Lạt tôi ra rìa sân ga – nơi có nhiều con đường giao nhau: đường dẫn lên Nha địa dư, trường Yersin; đường dẫn xuống Chi Lăng, hồ Than Thở; đường chạy vòng bờ hồ Xuân Hương… Cậu bé 5 tuổi là tôi đã bị mê hoặc bởi khung cảnh rừng thông, đồi cỏ, hồ nước, những ngôi biệt thự xinh xắn… mờ ảo, lẩn khuất trong màn sương dày đặc. Không thể ngờ rằng cái “thành phố mờ ảo” đó đã len vào lẩn khuất trong tiềm thức và vô thức của tôi hồi nào không biết để rồi mười mấy năm sau từ miền kí ức hỗn độn đã hiện lên giục giã tôi tìm về…

 


Phạm Thuỳ Nhân và giáo sư Triết Nguyễn Khắc Dương,
nguyên khoa trưởng Văn Khoa Đại Học Đà Lạt 1957-1975

 

Mùa thu năm 2017, khi làm bộ phim tài liệu về thày Nguyễn Khắc Dương mang tên Thày Têphanô Nguyễn Khắc Dương (23 phút) sau khi quay ngoại cảnh tại Đà Lạt, để quay tiếp bối cảnh Sông Mao – Trại học tập cải tạo năm xưa – tôi đưa đoàn phim xuống Phan Rang theo QL1 vào Sông Mao. Tôi dừng lại Phan Rí Cửa với mục đích cho thày và mọi người nghỉ chân ở nhà tôi cho biết. Song điều quan trọng hơn để cho ông nội tôi được gặp thày cho dù ông tôi đã ra người thiên cổ! Tôi nói với thày điều đó và xin thày thắp cho ông nén nhang bởi ông chưa hề được đặt chân vào Viện Đại học Đà Lạt mà ông hằng ngưỡng mộ! Thày vui vẻ đồng ý. Và tôi thưa với di ảnh của ông trên bàn thờ:

- Ông nội ơi! Có ông Khoa trưởng Đại học Văn khoa Viện Đại học Đà Lạt ghé thắp hương cho ông nội!

Ôi! Tên gọi Viện Đại học Đà Lạt đã không còn! Chức danh Khoa trưởng Văn khoa cũng không còn! Song tấm lòng của con người đối với con người thì còn tồn tại mãi mãi với thời gian!

Trong cuốn Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, ông Phạm Công Thiện khiến tôi say mê và sau đó hối hả tìm đọc cuốn tiểu thuyết Le pont sur La Drina (Nhịp cầu trên sông Drina), của nhà văn Nam Tư Ivo Andric, Giải Nobel Văn chương năm 1961. Ông Phạm Công Thiện phân tích về tư tưởng mà ông gọi là ý thức bất nhị khi trình bày về sự tồn tại bất tử của cây cầu nối liền hai bờ sông Drina nhưng cũng chính là Serbie và Bosnie, phương Đông và phương Tây trải qua những biến cố lịch sử từ khi cây cầu được bắt đầu xây dựng từ thời Đế chế Ottoman đến Đế chế Áo – Hung và bùng nổ ra Đệ nhất thế chiến (1914 – 1918). Thông qua cây cầu người ta có thể thấy được cái ý thức bất nhị chính là mối quan hệ Liên ngã vị (L’Intersubjectivité) giữa những con người! Chỉ có Tình yêu giữa những con người tức Liên ngã vị (từ của giáo sư triết học Nguyễn Khác Dương) là mãi mãi tồn tại với thời gian. Như Nhịp cầu trên sông Drina bị huỷ hoại rồi được xây dựng lại cho dù bom rơi đạn pháo suốt chiều dài lịch sử của những tộc người!

Và tôi đã “ngủ say” suốt năm thứ nhất trong căn phòng trọ thuê tại ngôi biệt thự số 62 Hoàng Diệu - mà không ngờ tôi lại ở lì nơi đây suốt 4 năm đại học!

Vâng, tôi đã để trôi qua một năm thứ nhất khô khốc, lạnh lẽo và duy lí như một nhà tu khổ hạnh đóng chặt cửa “cấm phòng” mà luyện “Hán - Nôm bí kíp” không bạn bè, không la cà quán xá! Song bù lại từ đó tôi có thể đến lớp học với một tâm thế khác: tự tin, chắc chắn và vững vàng hơn trên con đường học tập của mình. Nói cách khác tôi đã bước đầu thực hiện được kế hoạch đường đời mà mình đã đặt ra mà quên rằng mình hãy là một chàng trai 18 tuổi đã từng trải qua những tháng năm sôi nổi tại thành phố biển Phan Thiết cùng bạn bè dưới hai mái trường Chính Tâm (lớp đệ nhị) và Phan Bội Châu (lớp đệ nhứt).

Viện Đại học Đà Lạt chỉ thực sự mở ra một cách trọn vẹn dưới mắt tôi khi tôi lên học năm thứ hai. Giờ đây tôi không còn sợ chữ Hán và chữ Nôm nữa, để có thể chủ động khám phá những môn học khác và nhất là dấn mình tham gia vào những sinh hoạt với tư cách là một sinh viên thuần tuý (để phân biệt với những sinh viên có gốc là viên chức, giáo viên…). Và kể từ đây tôi có những người bạn có thể là cùng lớp, cùng ngành nhưng cũng có thể là khác lớp, khác ngành mà lâu dài và thân thiết cho đến nhiều năm sau, có người nay không còn nữa!

 

Sinh hoạt ngoại khoá của sinh viên cũng khá phong phú cả về thể thao lẫn văn nghệ mà nổi bật và thu hút các bạn sinh viên hơn cả về lãnh vực văn nghệ chính là hoạt động nhạc trẻ lúc ấy cũng đang nở rộ tại miền Nam. Viện Đại học Đà Lạt cũng có một ban nhạc trẻ do các sinh viên Khoa Chính trị Kinh doanh thành lập được xem là niềm hãnh diện về mặt đối ngoại và sức hấp dẫn với các bạn sinh viên trong trường. Song, tôi lại không thích nhạc trẻ và cần một sinh hoạt nghệ thuật khác tĩnh tại hơn. Bấy giờ tôi chú ý đến tấm biển quảng cáo trong sân đại học nơi hội tụ các con đường rẽ về các khoa, trên đó ghi Ban kịch Thụ Nhân và tên của những vở kịch mà ban kịch này đã từng trình diễn những năm trước khi tôi vào trường: Lão hà tiện (Molière), Trưởng giả học làm sang (Molière), Kim Tiền (Vi Huyền Đắc), Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (Vũ Khắc Khoan)… Ban kịch khá nổi tiếng trong sinh hoạt văn nghệ của sinh viên, song lúc ấy tôi cũng chưa chú ý nhiều vì bản tính của tôi vốn khép kín và hướng nội nhất là đang mang cái mặc cảm mình là kẻ “tân tòng”!

Một bước ngoặt đã đến với tôi khi tôi đang học năm thứ ba thì được một người bạn Văn khoa rủ đi xem kịch – vở Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (trình diễn vào chiều thứ bảy và chiều chủ nhật hàng tuần tại sân khấu giảng đường Spellman). Người bạn cho biết một thông tin quan trọng đã hấp dẫn tôi: tác giả của vở kịch là Giáo sư Vũ Khắc Khoan mà chúng tôi đang học về Văn học, Mĩ học! Sau khi xem xong ra về, người bạn hỏi tôi có nhận xét gì, tôi tuôn ngay một tràng góp ý! Người bạn ngạc nhiên khi thấy tôi có vẻ rành rọt về sân khấu như vậy, cứ y như một người từng tìm hiểu và tiếp xúc nhiều với cái thế giới bí mật và quyến rũ đàng sau tấm màn nhung! Tôi bảo thực ra tôi không phải là nhà nghiên cứu như bạn nghĩ mà đơn giản chỉ là vì tôi có một bà nội và bà mẹ vốn ít nhiều gắn bó với ánh đèn sân khấu! Khi tôi còn nhỏ, mỗi khi có các gánh cải lương đến hát tại quê tôi  là bà nội tôi hoặc má tôi dắt tôi đi xem cùng. Và ngày qua ngày những đặc trưng thẩm mĩ của sân khấu đã để lại trong kí ức tôi những ấn tượng, để có thể tự đánh giá đâu là chuẩn mực của cái hay, cái đẹp sân khấu mà không cần một bài học trường lớp nào! Song thú thực tôi không hề nghĩ một ngày nào đó mình lại cũng bước vào cái thế giới đầy ma mị này và ngất ngây ánh đèn màu như bài hát Eternally trong bộ phim Limeligt (Ánh đèn màu) của Charles Chaplin :

 

Đời ca hát ngày tháng cho người mua vui /

Đời son phấn làm mất bao ngày thơ ngây /

Cùng bên ánh màu sắc lạc lõng trong tiếng

đàn hát đêm khuya  / Rồi bao nếp nhăn về

với tháng năm đời lãng quên rồi /

 

Cười trong ánh đèn sáng cho người mua vui /

Buồn trong tiếng nhạc lắng cho đời mê say /

Rồi khi ánh đèn tắt lặng lẽ cô đơn /

Chìm trong bóng đêm người ta lãng quên bẽ bàng /

(…)

 

          (Eternally, Charles Chaplin, lời Việt: NS Nguyễn Xuân Mỹ)

 

Đó là lần duy nhất tôi xem Kịch Thụ Nhân (gọi tắt Ban Kịch Thụ Nhân) và việc xem kịch chỉ là “cỡi ngựa xem hoa” không hơn không kém!

Trong thời gian này (1973 – 1974) bên cạnh Hán – Nôm và thơ văn Quốc âm là các môn chủ lực, chúng tôi ở năm thứ 3, thứ 4 còn được học nhiều môn thú vị như: Kịch nghệ, Tiểu thuyết, Thi ca, Phê bình văn học, Phân tâm học, Thẩm mĩ học… Và từ đây tôi có nhiều cơ hội được tiếp xúc với Giáo sư Vũ Khắc Khoan trong bộ môn Kịch nghệ - đã mở ra cho tôi một mối quan hệ thày – trò hiếm có mà tôi cho tới ngày cuối đời vẫn tin rằng đó là cuộc gặp gỡ định mệnh đã xoay chuyển cuộc đời tôi, mở ra cho tôi những nhận thức sâu sắc về con người, về nghệ thuật nhất là khám phá ra bản chất của Kịch nghệ và thái độ của con người trước biên giới giữa Mộng và Thực tức Kịch nghệ và Triết học!

Trước khi lên Đà Lạt vào mùa Đông năm 1969, chàng học trò quê mùa tỉnh lẻ như tôi cũng được đọc lỏm bỏm, đầu Ngô mình Sở nhiều trước tác về Văn học và Triết học cổ điển. Nhưng đến khi đọc cuốn Ý thức mới trong văn nghệ và triết học của Phạm Công Thiện thì bị quyến rũ không rời! Kiến thức và sự trải nghiệm đời sống đến tận cùng sâu thẳm đã khiến cho văn chương của Phạm Công Thiện bùng vỡ đến cao trào cuốn phăng, xô ngã người đọc – trong đó có tôi – đến những cảm xúc vời vợi của nỗi ngất ngây về sự khám phá ý nghĩa của tồn tại. To be or not to be! (Tồn tại hay không tồn tại!)

Rồi bây giờ đây trên giảng đường Minh Thành 3 của Viện Đại học Đà Lạt tôi say sưa lắng nghe thày tôi – Giáo sư Vũ Khắc Khoan – giảng về vở kịch Hamlet (của William Shakespeare, Anh) qua đó tôi biết “To be or not to be!”  là câu nói nổi tiếng của chàng hoàng tử Đan Mạch trong vở kịch cùng tên. Và không chỉ Hamlet, tôi còn khám phá ra Oedipe (của Sophocle, Hi Lạp), Le Cid (của Corneille, Pháp)… Những vở kịch kinh điển của nền kịch nghệ thế giới!

Song, những giờ Kịch nghệ hấp dẫn của thày Vũ Khắc Khoan với tôi lại quá ít! Bởi đây đâu phải là Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn, đây là Ban Việt văn thuộc Phân khoa Văn khoa Viện Đại học Đà Lạt nên chẳng thể xếp chương trình học môn Kịch nghệ nhiều giờ hơn (60 giờ). Vì vậy tôi phải tự mày mò tìm kiếm tài liệu ở thư viện và sách báo bên ngoài nhưng cũng rất hiếm hoi. Và bất chợt tôi nghĩ tới Ban Kịch Thụ Nhân!

 

 


vài thành viên ban kịch Thụ Nhân, giáo sư Ngô Đình Long (mặc áo vét đứng giữa)
một số thân hữu trên sân khấu Spellman đại học Đà Lạt 1972 

 

BAN KỊCH & NHỮNG NGƯỜI BẠN…

May mắn là tôi ăn cơm tháng cùng chỗ với anh Phạm Văn Lại tại đường Yagut nên có cơ hội nói chuyện, trao đổi với anh về vấn đề này. Bấy giờ anh Phạm Văn Lại cũng là sinh viên CTKD đang phụ trách Ban Kịch Trường Giang do anh Lê Cung Bắc sáng lập. Sau khi Lê Cung Bắc về Sài Gòn học tiếp Cao học Chính trị Kinh doanh thì Phạm Văn Lại kế tục phát triển ban kịch với sự tham gia của Lê Kim Ngữ (Ban Pháp văn cùng khoá 1970 – 1974 với tôi). Tôi đã nghe nói nhiều về ban kịch lúc này không còn mang tên Trường Giang mà được Phạm Văn Lại cùng một số anh em trong ban kịch đổi lại là Thụ Nhân vốn là “danh hiệu” của Viện Đại học Đà Lạt, với lí giải rằng ban kịch của Viện thì phải mang “danh hiệu” của Viện! Thế là tên Ban Kịch Thụ Nhân có từ đó (1972)!

Do cùng là Văn khoa với nhau nên tôi và Lê Kim Ngữ có nhiều dịp gặp gỡ nói chuyện về Kịch nghệ từ đó trở nên tâm đắc. Thế là Lê Kim Ngữ mời tôi tham gia vào ban kịch ban đầu với vai trò hỗ trợ về nội dung, văn học. Ngữ cho biết đang dựng vở Thành Cát Tư Hãn của thày Vũ Khắc Khoan đồng thời đóng luôn vai Đại Hãn Mông Cổ!

Vở kịch kinh điển này của thày Vũ Khắc Khoan đã từng diễn tại Viện trước đó vài năm do nhóm sinh viên CTKD khóa 4 trình diễn, đạo diễn là Nguyễn Hữu Anh Tuấn; vai Thành Cát Tư Hãn do Uông Bình Minh diễn xuất; Lê Cung Bắc thủ vai Sơn Ca… Dĩ nhiên tôi chưa được xem vì chưa vào trường! Cho nên khi Ngữ mời tôi đến sân khấu giảng đường Spellman – nơi “đóng quân” của Ban Kịch Thụ Nhân, để xem các bạn tập kịch là tôi hưởng ứng ngay vì đây là cơ hội để tôi được thực chứng những kiến thức có tính lí thuyết về dàn dựng một vở kịch từ những con chữ trong kịch bản thành vở diễn cụ thể trên sân khấu!

 


Phạm Thùy Nhân (trái) trong vai Dương Bân và Lê Kim Ngữ (phải) trong vai Thành Cát Tư Hãn 

 

Lê Kim Ngữ vốn học trung học tại trường Adran do dòng La San (La Salle) chủ quản; các sư huynh La San giảng dạy theo chương trình giáo dục của Pháp lúc bấy giờ. Vì vậy Ngữ thừa hưởng được kiến thức phong phú và sự thực hành bài bản về bộ môn Kịch nghệ từ Bi kịch của Racine, Corneille đến Hài kịch của Molière – những kịch tác gia kinh điển của Trường phái Kịch nghệ Pháp thế kỉ 17 mà sau này Ngữ đã đem những vở Hài kịch nổi tiếng của Molière như Kẻ hà tiện, Trưởng giả học làm sang… lên sân khấu Ban Kịch Thụ Nhân.

Tôi ngồi ở hàng ghế đầu nhìn lên sân khấu chú ý xem Ngữ (vai Thành Cát Tư Hãn) và Hương (vai người thiếu phụ Tây Hạ) đang chạy đường dây. Sau đó Ngữ hỏi ý kiến của tôi về những gì đã nghe, thấy. Tôi góp ý thẳng thắn hầu như phải xoá đi làm lại từ phục trang cho đến bài trí sân khấu… Lập tức Ngữ đề nghị tôi tham gia vào ban kịch với tư cách là người làm kịch chớ không phải là người nghiên cứu về kịch như mục đích ban đầu! Cụ thể Ngữ muốn tôi ngay lập tức là đạo diễn để anh dành nhiều thì giờ hơn vào vai diễn Thành Cát Tư Hãn! Lúc ấy không hiểu sao tôi đã nhận lời trong khi chưa có một thực tế nào về công việc dàn dựng sân khấu không hề đơn giản chút nào! Ngữ động viên tôi và hứa anh em sẽ hỗ trợ tôi khi tôi làm việc. Nhiệt tình của tuổi trẻ và lòng say mê ánh đèn sân khấu đã quyến rũ tôi rồi!

 

Về theo nét tàn úa đâu còn duyên xưa

Người năm trước nào nhớ bóng người đêm xưa

Đời cam sống một bóng lặng lẽ cô đơn

Đời xa tiếng ca nào ai tiếc thương bẽ bàng

                                      (Ánh đèn màu, Charles Chaplin)

 

Nếu Lê Kim Ngữ là “nhà thông thái” dịch thuật nhiều vở kịch nước ngoài thì Nguyễn Văn Xuyên lại là “nhà nghệ sĩ tài hoa”. Cũng như Phạm Văn Lại, Xuyên học Chính trị Kinh doanh và đã được nhà thờ đào tạo bài bản, chuẩn mực về việc thực hành kịch nghệ và âm nhạc, vũ đạo trước đó… Cho nên anh đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo cho anh em về hoá trang, về động tác và di chuyển sân khấu trên nền tảng thẩm mĩ cổ điển. Tôi học được ở Xuyên nghệ thuật hoá trang cơ bản để càng ngày khi càng phiêu du trong ánh đèn sân khấu tôi chợt khám phá ra bản chất của Kịch nghệ - đó là sự bí ẩn kì diệu giữa MộngThực, giữa GiảChân mà không có đặc trưng tâm lí này con người đã không có Kịch nghệ như là một bộ môn nghệ thuật độc đáo!

 


Nguyễn Văn Xuyên trong vai chàng mù Sơn Ca của vở Thành Cát Tư Hãn 

 

Đối với vở Thành Cát Tư Hãn, do là người mới đến, là kẻ “ngoại đạo” tôi hiểu rằng mình phải nỗ lực rất nhiều để có thể thuyết phục được các bạn trong ban kịch cũng như những đàn anh đi trước đã từng dàn dựng vở kịch nổi tiếng này được thày Vũ Khắc Khoan đánh giá cao và khán giả khen ngợi. Trong quá trình làm việc, Lê Kim Ngữ luôn luôn động viên tôi và chia sẻ những phân tích của tôi về mặt tư tưởng cũng như nội dung vở kịch và hình tượng các nhân vật: Thành Cát Tư Hãn (Lê Kim Ngữ), Sơn Ca (Nguyễn Văn Xuyên), Công chúa Giang Minh (Ngọc Quỳnh), ông già Tây Hạ (Nguyễn Thanh Long tức Long râu), thiếu phụ Tây Hạ (Hương), Thúc Bột Đào (Ngọc Ánh)… Ngữ hỏi tôi có cần gặp thày Vũ Khắc Khoan không để hỏi đôi điều về vở kịch. Tôi nói không bởi muốn gặp thì tôi đã gặp thày rồi, do suốt thời gian tập vở thày có giờ dạy môn Thẩm mĩ học ở lớp tôi và lên xuống Sài Gòn – Đà Lạt nhiều lần. Tôi không muốn thày biết tôi đang dàn dựng tác phẩm của thày cho Ban Kịch Thụ Nhân, tôi muốn giữ sự gián cách đó để về mặt tâm lí khiến cho mình không bị ảnh hưởng, chi phối bởi một nghệ sĩ quá danh tiếng là Giáo sư – Kịch tác gia Vũ Khắc Khoan mà sinh viên chúng tôi rất ngưỡng mộ!

Bấy giờ tôi chưa tạo được cho thày mối quan tâm nào ở lớp học Ban Việt văn cũng như ở Ban Kịch Thụ Nhân như anh Lê Cung Bắc, Phạm Văn Lại, Lê Kim Ngữ… tôi chỉ là kẻ “tân tòng” mới khám phá ra một góc khuất mù mờ trong tiềm thức của mình vừa được ánh đèn sân khấu soi rọi và đang dần dần tự chui ra khỏi cái kén tằm mà hoá bướm! Sau này chợt nghĩ lại tôi thấy sao mình liều thế dám nhận đạo diễn vở kịch kinh điển này! Dựng Thằng Cuội ngồi gốc cây đa thì còn có thể nghe được! Nói tới thì cũng phải nói lui, sở dĩ có sự liều lĩnh này nguyên do là từ Lê Kim Ngữ!

Từ khi “đàm đạo” với nhau tại nhà cô Huyên nấu cơm tháng ở đường Trương Vĩnh Ký cho các thày Đoàn Đại Oanh, Nguyễn Diệp, Lê Hữu Khanh và 2 anh chàng sinh viên Lê Kim Ngữ và Phạm Thuỳ Nhân, giữa Ngữ và tôi đã hình thành một tình bạn đặc biệt gắn bó trên nền tảng trí thức. Chúng tôi có thể thức trắng đêm để trao đổi về Kịch nghệ từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim: từ Oedipe (Sophocle), Hamlet (William Shakespeare), Andromaque (Racine), Cái chết của người chào hàng (Arthur Miller), Trong khi chờ Godot (Samuel Beckett) đến tuồng Nô Nhật Bản và Kinh kịch Trung Hoa… Cho nên sau khi nghe tôi góp ý về một cảnh diễn tập Thành Cát Tư Hãn, Ngữ bèn giao cho tôi gánh vác việc dàn dựng để rộng đường đóng vai Đại Hãn Mông Cổ! Tôi biết Ngữ không phải “lánh nặng tìm nhẹ” mà “bán cái” qua tôi! Thực tâm Ngữ muốn tôi trở thành đạo diễn, thấy tôi cứ thoái thác anh càng thúc giục: “Mình tin là bồ làm được! Bồ có kiến thức, lòng say mê và thể lực để có thể làm tốt công việc này!”.

Cuối cùng trước sự khẩn khoản của Ngữ tôi không thể  chối từ và chấp thuận làm đạo diễn Thành Cát Tư Hãn đồng thời đóng một vai diễn cặp với Ngữ: Đại tướng Dương Bân! Ngữ hứa sẽ theo sát tôi để hỗ trợ về mặt nghiệp vụ. Nhưng anh hoàn toàn không có thì giờ vì phải tập trung giáo trình dày đặc của năm thứ 4 Ban Cử nhân Pháp văn! Thế là tôi phải làm việc một mình cùng với các bạn diễn viên và nhân viên hậu đài! Do năm thứ 4 Việt văn những môn quan trọng như Hán – Nôm tôi đều thông thạo nên tôi cũng ít đến lớp mà tập trung thì giờ cho việc tập kịch! Và rồi tôi cũng lấy làm lạ khi Kịch nghệ đã cuốn hút tôi lúc nào không biết! Thỉnh thoảng Ngữ gặp tôi tại sân khấu giảng đường Spellman lúc đang chạy vở, anh yên lặng ngồi thu hình lại ở một góc khán phòng nhìn tôi và để yên cho tôi làm việc.

Một hôm, khi chạy xong một cảnh thì bất chợt có tiếng vỗ tay nổi lên. Tôi nhìn lại thì thấy Ngữ vừa tiến đến vỗ tay vừa nói: “Bravo! Bravo! C’est très bien!” (Hoan hô! Hoan hô! Tốt lắm!). Tôi bắt tay Ngữ, hai chúng tôi ôm chặt lấy nhau không nói chỉ vỗ nhẹ lên vai nhau thông hiểu. Có thể nói Kịch nghệ đã mang lại cho tôi một người bạn hiếm có; một sự hài hòa, cảm thông và chia sẻ trí thức trên nền tảng sân khấu ở đó phát sinh ra những vấn đề về triết học, thẩm mĩ, xã hội và lịch sử. Sau này tôi có dịp làm việc chung với Lê Kim Ngữ trong những môi trường khác nữa. Nhưng tôi nhận ra một điều: Ngữ chỉ sống động khi anh được hoá thân vào những nhân vật dưới ánh đèn sân khấu!

Đó mới là thế giới thực sự của Lê Kim Ngữ - nơi Ngữ thăng hoa, bay bổng, bứt tung mọi ràng buộc của cuộc đời! Ngữ ơi! Nén hương lòng mình xin được thắp để mãi mãi nhớ về bạn – người kịch sĩ tài hoa!

Cuối cùng vở Thành Cát Tư Hãn do tôi đạo diễn cũng ra mắt khán giả vào dịp diễn ra Ngày Đại học để phục vụ sinh viên của Viện Đại học và học sinh của các trường trung học tại Đà Lạt – những sinh viên tương lai. Việc trình diễn của Ban Kịch Thụ Nhân cũng là một trong những hoạt động quan trọng của Viện nhằm giới thiệu cho các bạn trẻ một nét đẹp đặc sắc mà không phải Viện Đại học nào ở VN cũng có!

Do tham gia vai Đại tướng Dương Bân nên tôi có điều kiện được tham dự vào vở kịch Thành Cát Tư Hãn trong lần diễn năm 1973 này trên sân khấu giảng đường Spellman một cách trọn vẹn cả trong vai trò đạo diễn và diễn viên! Cảm giác của tôi rất hồi hộp và thích thú khi lần đầu tiên thực hiện một công việc “không tưởng” như vậy!

Sau buổi diễn Lê Kim Ngữ do quen biết nhiều với các Cha lãnh đạo Viện, các giáo sư, các nhà báo, nghệ sĩ cũng như các anh từng là những tên tuổi nổi bật của Ban Kịch Thụ Nhân trước đó (như Lê Cung Bắc, Phạm Văn Lại…) nên thu thập được nhiều tin tức khả quan về nhiều mặt: được khen ngợi đầu tiên là diễn xuất của các diễn viên rất chuyên nghiệp, sâu sắc; thiết kế sân khấu bắt mắt, mới mẻ không sử dụng cánh gà làm lối ra – vào truyền thống; phục trang phù hợp với người Mông Cổ du mục không bị lẫn với những dân tộc khác, Giao hưởng khúc Định mệnh (Symphony số 5) của nhạc sĩ thiên tài người Đức Ludvig Van Beethoven đã được sử dụng phù hợp tạo nên ấn tượng mạnh mẽ làm nổi lên bi kịch của nhân vật Thành Cát Tư Hãn khi đối diện với định mệnh của mình! Và điều tôi chờ đợi đã đến. Lê Kim Ngữ đưa thày Vũ Khắc Khoan đến gặp tôi tại hậu trường trong khi tôi còn để nguyên trang phục, hoá trang (vai Đại tướng Mông Cổ Dương Bân) chưa kịp tẩy trang! Thú thật lúc đó tôi hãy còn đang lơ lửng giữa 2 thế giới ẢoThực! Cho tới khi thày xuất hiện, tôi đứng dậy bối rối chào thày. Thày bắt tay tôi và tươi cười – nụ cười rất hiếm hoi trong lớp học! Thày gật gù nói:

-Thì ra là cậu! Ngữ vừa giới thiệu với tôi!

-Thày thấy tụi em diễn sao ạ? – Tôi hồi hộp hỏi.

Thày trầm ngâm rồi nghiêm giọng nói:

-Điều quan trọng nhất ở vở diễn này là sự khác biệt! Khác biệt về tư tưởng, về hình tượng của Thành Cát Tư Hãn mà các cậu đã mang lại cho khán giả! Người ta đã quá quen với một Thành Cát Tư Hãn hung tàn, khát máu, giày xéo cả thế giới dưới gót giày của mình. Còn ở đây các cậu lại tập trung vào những khắc khoải, xao xuyến của một con người cho dù người đó là Thành Cát Tư Hãn, khi đối diện với định mệnh của chính mình! Tôi thích cách nhìn này về tác phẩm của tôi!

Từ đó trong lớp học Việt văn thày thường nói chuyện riêng với tôi về những dự án kịch nghệ mà chúng tôi sẽ thực hiện cho Ban Kịch Thụ Nhân.

Thừa thắng xông lên Lê Kim Ngữ đưa tôi đọc kịch bản Những người trung thực (Les Justes) của nhà văn Pháp nổi tiếng Albert Camus (Nobel văn chương 1957). Khác với chủ nghĩa phi lí (l’absurdisme) của tiểu thuyết Kẻ xa lạ (L’étranger), Những người trung thực là bức tranh hiện thực của cuộc Cách mạng vô sản Nga đối đầu với sự chuyên chế đẫm máu của chế độ quân chủ Sa hoàng. Trong tình hình chính trị - xã hội tại miền Nam vào đầu những năm 1970, việc công diễn vở kịch Những người trung thực trên sân khấu Ban kịch Thụ Nhân là một thử thách vì tuyên ngôn chính trị của nó. Song với cái mác Albert Camus hoặc Jean Paul Sartre – những tên tuổi lớn của chủ nghĩa hiện sinh (l’existencialisme) phương Tây, thì Những người trung thực hoặc Guồng máy (L’Engrenage, J.P. Sartre) đã bị che khuất bởi Kẻ xa lạ (L’Étranger) hoặc Buồn Nôn (La Nausée, J.P.Sartre). Cho nên việc dựng vở không gặp một trở ngại nào! Đây là vở kịch thứ 2 mà tôi trực tiếp đạo diễn sau Thành Cát Tư Hãn. Hưng phấn vì thành công của việc “làm mới” tác phẩm kinh điển của thày và được thày khích lệ, tôi hăng hái lao vào Những người trung thực. Giờ đây dưới mắt mọi người tôi không còn là “tay ngang” mới chập chững học việc nữa mà là một người có thực lực về văn học, triết học và sân khấu thực hành. Tôi đã nắm vững những yêu cầu thẩm mĩ của sân khấu: thiết kế, hoá trang, phục trang, đạo cụ nhất là công tác bố quang (lighting).

Sau khi nghiên cứu kĩ kịch bản, tôi và Lê Kim Ngữ bàn bạc với nhau về bảng phân vai mà tôi cho rằng đây là yếu tố quyết định sự thành bại của vở kịch. Cuối cùng, bản phân vai đã được thống nhất: Nguyễn Văn Xuyên (vai Kaliayev), Thu Thuỷ (Dora), Lê Kim Ngữ (Stépan), Nguyễn Thanh Long (đội trưởng đội cảm tử), Phạm Thuỳ Nhân (Polka tù khổ sai)… Và, sau buổi đọc kịch bản đầu tiên, tôi thông báo cho các bạn rõ trong vở này tôi sẽ áp dụng một lề lối làm việc khác hẳn: chuyên nghiệp và kỉ luật! “Sân khấu là thánh đường” như quan niệm của nhà hoạt động sân khấu nổi tiếng người Nga – Constantin Stanilavski!

Khi tôi nói đến đó tôi thấy hầu hết các bạn đều biến đổi sắc mặt: có người thích thú, hào hứng chờ đón sự cải cách, mới lạ cho Ban kịch Thụ Nhân nhưng cũng có người hoài nghi và tỏ ra uể oải, miễn cưỡng! Một vài ý kiến trái chiều cũng được nêu lên: làm Ban kịch chỉ là hoạt động phụ trợ vào việc học tập của sinh viên chớ không phải là chính khoá được! Viện Đại học Đà Lạt không phải là Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn! Tôi bảo vệ quan điểm của mình: “Cho dù có là “chơi kịch” đi chăng nữa thì chúng ta cũng phải chơi cho xứng đáng! Bởi đó là một nghệ thuật cao cấp, phức tạp và tinh tế, đỉnh cao của hoạt động tinh thần và trí tuệ của loài người! Nếu không quan niệm như thế thì thà đừng làm kịch nữa còn hơn!” Lê Kim Ngữ luôn luôn ủng hộ tôi trong những cuộc tranh luận nội bộ như thế này; Nguyễn Văn Xuyên thì nhẹ nhàng hơn đưa ra giải pháp trung dung, điều hoà giữa học tập và làm kịch vì bên Chính trị Kinh doanh anh em sinh viên phải học khá nhiều, giáo trình cũng nặng hơn Văn khoa hoặc Khoa học! Tôi hiểu dù sao, ngay cả tôi, học tập bộ môn của mình vẫn là chính chớ không phải làm kịch! Cũng may trong giáo trình năm thứ tư Ban Việt văn của tôi có bộ môn Kịch nghệ do thày Vũ Khắc Khoan giảng dạy còn Lê Kim Ngữ Ban Pháp văn cũng có môn Kịch nghệ (le théâtre)! Nếu tôi và Ngữ học bên Khoa học như Nguyễn Thanh Long (Long râu) hoặc Chính trị Kinh doanh như Nguyễn Văn Xuyên thì chắc chắn vất vả hơn nhiều để có thể nuôi dưỡng đam mê!

Vở Những người trung thực đã đạt được thành công như mong đợi khiến cho tôi rất sung sướng. Đây là tác phẩm đạo diễn kịch nói thứ hai mà tôi sáng tạo sau Thành Cát Tư Hãn mà cả hai đều là những kịch phẩm tuyệt vời! Các diễn viên đã thể hiện xuất thần các vai diễn trong số đó Lê Kim Ngữ (vai Stépan), Nguyễn Văn Xuyên (Kaliayev) và Thu Thuỷ (Dora) là những nghệ sĩ nổi bật nhất, họ đã khiến cho khán giả phải rơi lệ khi Kaliayev bị bắt và bị tuyên án tử hình khi ôm bom ám sát tên hoàng thân! Núp sau cánh gà theo dõi tôi có thể nghe được những tiếng sụt sùi văng vẳng khắp khán phòng đang im phăng phắc chứa trên 500 khán giả! Nhất là khi tình huống thương tâm đó lại được đi kèm với tiếng violon ai oán bài Sérénade của nhạc sĩ người Đức Schubert len lỏi làm nền. Nhưng cũng chính cái chi tiết âm nhạc “lấy nước mắt” này lại khiến tôi bị nhà viết kịch Lữ Kiều (tức Bác sĩ Thân Trọng Minh) nhẹ nhàng phê bình: “Sao cậu lại lấy nhạc Đức đệm cho truyện kịch Nga! Để Tchaikovski vẫn hợp hơn Schubert chứ!”

Từ đó tôi thường nhờ anh tư vấn cho việc chọn nhạc đệm bởi anh có cả một sưu tập nhạc cổ điển của các nhạc sĩ nổi tiếng thế giới. Đổi lại anh nhờ tôi đọc những vở kịch ngắn của anh như vở Con sâu trong mắt và một vài vở kịch khác! Mối quan hệ rất tâm đắc!

Bấy giờ, sau vở Những người trung thực (Les Justes) của Albert Camus, tôi đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm về sân khấu thực hành với những quy phạm thẩm mĩ về đài từ, di chuyển, đứng ngồi, hoá trang, đạo cụ, cảnh trí… Tôi học được từ bạn bè (nhất là Nguyễn Văn Xuyên, Lê Kim Ngữ), từ sách vở chuyên ngành, từ sự sáng tạo cá nhân để tạo cho mình một nét riêng trong dàn dựng mà không bị lẫn vào người khác. Khi làm việc với các diễn viên trên sàn tập cũng như các kĩ thuật viên (ánh sáng, âm thanh, đạo cụ…), các chuyên viên tạo hình sân khấu mà tất cả đều là sinh viên như tôi, tôi luôn luôn tạo cho họ một ấn tượng là họ đang làm việc trong một kịch đoàn chuyên nghiệp với những ràng buộc chặt chẽ về kĩ luật và hoàn toàn không để bị chi phối bởi tình cảm riêng tư làm ảnh hưởng đến cả một guồng máy đang hoạt động! Tôi đã truyền cho họ cảm hứng làm việc và niềm tin những nỗ lực lao động của mỗi người rồi sẽ mang lại một kết quả mĩ mãn!

 

KỊCH NGHỆ - MỘT CÁI NHÌN TRIẾT HỌC

Những năm tháng đắm chìm trong ánh đèn sân khấu và bị sự ma mị huyền bí của nó quyến rũ tôi tin là mình có thể đã cảm nhận được một điều gì đó về bản chất của Kịch nghệ. Vậy Kịch nghệ là gì?

Henry Gouhier – triết gia, nhà phê bình văn học người Pháp – cho rằng Bản chất của Kịch nghệ là sự trình diễn (la représentation). Không có sự trình diễn thì không có Kịch nghệ! Tức đặt ra vai trò quan trọng của nhân vật và diễn viên!

Yếu tố trình diễn yêu cầu phải có người trình diễn tức diễn viên; nội dung trình diễn tức kịch bản và người tiếp nhận sự trình diễn tức khán giả. Không có 3 yếu tố đó sẽ không làm nên một sự trình diễn đúng nghĩa. Cũng có những trường hợp ở đó chỉ có diễn viên  mà không có khán giả. Song, trong trường hợp đặc biệt này “khán giả” không hiện diện như một thành phần đối ứng có tác dụng hỗ tương với diễn viên một cách trực tiếp mà gián tiếp (như trong điện ảnh) hoặc khi nhân vật phải giao lưu với nhân vật tưởng tượng hay giấu mặt thậm chí với chính mình!

Do vậy, không thể nói đến Kịch khi không có yếu tố nhìn. Bởi trong tiếng Pháp từ le théâtre (kịch) trong từ nguyên có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp Theasthai có nghĩa là thấy, xem, nhìn, nhưng để cho việc nhìn đó tạo được sự hấp dẫn, lôi cuốn người xem thì cái được nhìn (tức kịch bản) phải khác biệt, lạ thường, phải tạo nên kịch tính (action) tức nói đến sự xung đột, đối kháng, mâu thuẫn giữa các tác nhân khác nhau, va đập vào nhau, cọ xát nhau làm phát sinh ra những năng lượng mạnh mẽ, những hành động phi thường, những tính cách cực đoan… khiến cho người xem phải kinh ngạc, bàng hoàng về những gì mà họ đang xem, đang nhìn thấy! Người ta gọi đó là kịch (action)! Do vậy một vở kịch mà không có mâu thuẫn, đối kháng, xung đột cho dù bên ngoài hay trong nội tâm của các nhân vật thì không thể gọi là kịch được. Vì vậy đây cũng là tiêu chuẩn thẩm mĩ để các tác giả căn cứ vào đó mà đánh giá bản chất của Kịch nghệ!

Các kịch phẩm nổi tiếng trên thế giới của những nền văn hoá khác nhau đều được xây dựng dựa trên cơ sở kịch tính này: Oedipus the King (Sophocles, Hi Lạp), Death of a salesman (Arthur Miller, Mĩ), Hamlet (William Shakespeare, Anh), Le Cid (Pierre Corneille, Pháp), Thành Cát Tư Hãn (Vũ Khắc Khoan, Việt Nam)…

 


2018

 

NGHỆ THUẬT CỦA SỰ CHUYỂN HÓA

Từ khi bắt đầu cảm thụ về Kịch nghệ tôi lần hồi nhận ra ở nghệ thuật này một đặc trưng độc đáo và siêu nhiên được hình thành từ năng lực chuyển hoá hiện thực của con người.

Đó là một năng lực tâm linh đặc biệt khiến con người đạt được khả năng biến chuyển một “khái niệm này” vào hoặc thành “một khái niệm khác” với đầy đủ cảm xúc sinh lí và nhận thức tâm lí duy nhất và trọn vẹn. Điều này thể hiện rõ nét trong trường hợp thường gặp: giấc mơ hay cơn ác mộng! Những gì chúng ta vừa trải qua trong cõi mộng sẽ theo chúng ta vào đời thực tạo nên một trải nghiệm thú vị khi chúng ta phát hiện ra thân phận nhị trùng của mình!

Cho nên không có gì là lạ khi người Hi Lạp cổ đại đã dùng Kịch nghệ để diễn lại hình tượng hoá thân của thần rượu nho Dyonisos (con dê) mỗi khi tế thần! Hoặc diễn lại cảnh săn bắn giữa thợ săn và con thú (do người đóng) để tế nữ thần Artémis…

Khi lần đầu tiên đóng vai Đại tướng Dương Bân trong vở kịch Thành Cát Tư Hãn của Kịch tác gia Vũ Khắc Khoan, ngồi trước tấm gương tôi dùng bút chì, màu, phấn và những chất liệu hoá trang khác để tạo hình khuôn mặt của nhân vật Đại tướng Dương Bân trên khuôn mặt tôi. Từng chi tiết một của nhân vật dần dần hiện lên trong gương và rồi thật bất ngờ tôi thấy khuôn mặt tôi “biến mất”, trong gương là khuôn mặt “người khác”! Rồi sau đó là giọng nói, động tác, tính cách… cũng từ từ chuyển hoá. Và khi tôi bước ra sân khấu thì tôi đã mặc nhiên là một “người khác” rồi!

Sự chuyển hoá là “đặc trưng cơ bản” của Kịch nghệ bởi không có chuyển hoá thì không có sự trình diễn (của Henry Gouhier). Sự trình diễn chỉ là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển hoá. Chính sự chuyển hoá mới là nền tảng để Kịch nghệ hiện hữu và phát triển, không có khả năng kì diệu này ở con người thì sự tồn tại của Kịch nghệ không thể được quan niệm!

Và chính nhờ sự chuyển hoá này mà trong quá trình diễn kịch tôi cảm thụ được bản chất triết học của Kịch nghệ: Giả Thật!

Thói thường trong cuộc sống người ta phân biệt ThậtGiả là 2 khái niệm tách biệt nhau, đối lập nhau như ThiệnÁc; TrắngĐen; GiàuNghèo; Chính; ĐẹpXấu… Đó là phương pháp tư tưởng Nhị nguyên luận đã từng chi phối đời sống tinh thần, hướng dẫn não trạng của con người một cách duy lí hoặc duy cảm thuần tuý từ đó dẫn đến những suy tưởng và hành động cực đoan, phiến diện!

Trải nghiệm sân khấu cho tôi cảm nhận sống động, tinh khôi và đầy cảm xúc khi chuyển hoá từ cái Tôi – chủ thể sang Tôi – khách thể (tức từ bản thân tôi sang nhân vật). Và, trong một khoảng thời gian nào đó tôi đã sống cuộc sống của người khác, không còn là tôi nữa cho đến khi sự chuyển hoá kia chấm dứt, nhiệm vụ sân khấu đã hoàn thành, vai diễn đã xong! Từ đó, bằng chứng nghiệm bản thân, tôi muốn chia sẻ một sự thực: cái gọi là Giả đã trở nên Thật - một sự thật sống động, hữu cơ đang tồn tại trong tôi! Tôi Tha nhân không còn là địa ngục (J.P.Sartre) mà là tình yêu, là Liên ngã vị (theo giáo sư Nguyễn Khắc Dương). Giả là Thật; Mộng là Thật; Ảo là Thật; Ảo Thật không phải là 2 khái niệm nhị nguyên biệt lập mà là 2 khái niệm đồng nguyên (không phải nhất nguyên!) bao hàm lẫn nhau mà không tách rời nhau!

Viết tới đây tôi bất chợt nhớ đến Trang Chu tức Trang Tử (369 TCN – 286 TCN) thời Chiến Quốc Trung Hoa (475 TCN – 256 TCN) với bài văn nổi tiếng Mộng hồ điệp mà học giả Nguyễn Hiến Lê đã dịch sang tiếng Việt như sau:

Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hoá bướm vui vẻ bay lượn mà không biết mình là Chu nữa, rồi bật tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu, không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hoá bướm hay là bướm nằm mộng thấy hoá Chu. Trong Chu với bướm tất có chỗ khác nhau. Cái đó gọi là “vật hoá”.

Trang Chu đã nhìn thấy bản chất của kịch nghệ từ cách đây khoảng 2.100 năm rồi!

 

PHẠM THUỲ NHÂN

(Nhà biên kịch phim truyện điện ảnh & truyền hình) 

 2019