nhà văn Vũ Khắc Khoan (trái) và giáo sư Huỳnh Minh Đức, photo: không rõ nguồn



PHẠM THUỲ NHÂN

LÊ CUNG BẮC, TÔI VÀ THÀY VŨ KHẮC KHOAN !

 

(trích đoạn hồi ký)

 

Lời giới thiệu: Nhà biên kịch Phạm Thuỳ Nhân từng biên kịch trên 140 kịch bản, rất nổi tiếng trong nước. Phạm Thuỳ Nhân thuộc lớp đàn anh, trên lớp của chủ biên Gió O, Lê Thị Huệ . Cùng là những sinh viên ban Việt Văn của nhà văn kịch tác gia Vũ Khắc Khoan thuộc Đại Học Đà Lạt (1957 – 1975). Gió O cho đăng phân đoạn này của nhà biên kịch Phạm Thuỳ Nhân gửi đến, được trích từ một quyển sách anh sắp xuất bản trong nước, như là một thu gom tài liệu cho phần kịch nghệ vào trang của nhà văn kịch tác gia Vũ Khắc Khoan trên www.gio-o.com (lê thị huệ)  

 


nhà biên kịch Phạm Thùy Nhân, photo:giaoduc.edu.vn

 

Lê Cung Bắc và tôi cùng học một trường: Viện Đại học Đà Lạt. Nhưng anh học khác khoa: Bắc – Chính trị Kinh doanh, tôi – Văn khoa (Việt văn). Bắc thuộc lớp đàn anh còn tôi thuộc lớp đàn em (anh lớn hơn tôi 4 tuổi), cho nên năm 1970 khi tôi vào học năm thứ nhất ban Cử nhân giáo khoa Việt văn thì Bắc đã ra trường – anh về tiếp tục học Cao học CTKD (ngành Bang giao quốc tế) tại Sài Gòn và làm báo, nhưng lại nổi tiếng hơn trên lãnh vực kịch nghệ với vai trò kịch sĩ và đạo diễn mà cho đến nay nhiều khán giả còn nhớ vở kịch Những người không chịu chết (của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan) do Lê Cung Bắc đạo diễn và diễn xuất (cùng với nữ nghệ sĩ Thanh Lan) năm 1972!

 

Điều đó cũng phải thôi vì trước khi về Sài Gòn kịch sĩ Lê Cung Bắc đã nổi tiếng tại thành phố mộng mơ Đà Lạt và Viện Đại học Đà Lạt – nơi khởi nguồn ban kịch Trường Giang, tiền thân của Kịch đoàn Thụ Nhân sau này mà tôi là một thành viên!

 

Năm 1970 khi tôi học năm thứ nhất ban Việt văn, lúc hãy còn lạ nước lạ cái chưa quen biết ai, hãy còn chật vật đối phó với môn Hán văn (môn học chính hệ số 2, số giờ học lên tới 90 giờ trong khi những môn khác chỉ 30 giờ hoặc 60 giờ!), bên cạnh đó lại còn cố gắng thích nghi với cái lạnh cắt da của Đà Lạt vào tháng 11, tháng 12 (Viện Đại học Đà Lạt khai giảng vào thời gian này), gió thổi veo véo qua lá thông trên đầu, gió thốc cái lạnh buốt vào người làm nứt môi, tróc da. Nhưng mỗi khi đi ngang qua cổng Viện vào sân lúc nào tôi cũng bị chú ý tới một biển cáo thị được đặt ở địa điểm bắt mắt nhất – nơi có 4 nhánh đường đổ vào: nhánh bên phải dẫn xuống khu vực Trường Chính trị Kinh doanh (sau này thêm Chính trị Xã hội), Trung tâm sinh viên (văn phòng Sinh viên vụ, văn phòng Kịch đoàn Thụ Nhân), nữ học xá Bình Minh, hồ Nỉ Non; nhánh ở giữa dẫn đến toà nhà Đôn Hoá (văn phòng), toà nhà Hoà Lạc (toà Viện trưởng) và đại giảng đường Hồng y Spellman (cũng là nhà hát của Kịch đoàn Thụ Nhân); nhánh bên trái chia làm 2 đoạn: đoạn đầu gặp ngay Trường Sư phạm và đoạn kế tiếp là Trường Khoa học rồi nữ học xá Kiêm Ái; nhánh cuối cùng cũng bên trái dẫn đến khu vực của Trường Văn khoa với những giảng đường: Minh Thành, Hội Hữu rồi thư viện và nhất là khu vực Năng Tĩnh (nhà nguyện và nơi nghỉ của các giáo sư thỉnh giảng). Trên cáo thị đó tôi đọc thấy tên Ban kịch Thụ Nhân và tên của các vở diễn như: Kim tiền (của Vi Huyền Đắc), Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (Vũ Khắc Khoan), Lão hà tiện (Molière), Trưởng giả học làm sang (Molière)… Ban kịch Thụ Nhân được anh Lê Cung Bắc, anh Phạm Văn Lại và những thành viên khác trong ban kịch đổi tên từ Ban kịch Trường Giang do anh Lê Cung Bắc sáng lập trước đó cho phù hợp với quy mô phát triển mới gắn với Viện.

 

Đến năm thứ ba, thông qua Lê Kim Ngữ (đang học năm thứ ba ban Cử nhân Pháp văn có mối liên hệ với tôi qua việc nghiên cứu kịch nghệ) Ngữ mời tôi tham gia vào Ban kịch Thụ Nhân với vai trò đạo diễn kiêm diễn viên! Bấy giờ Ngữ đang dựng vở Thành Cát Tư Hãn (của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan) và đóng vai Thành Cát Tư Hãn để trình diễn chào mừng Ngày Đại học do Viện tổ chức. Anh Phạm Văn Lại là một trong những thành viên sáng lập Ban kịch Thụ Nhân trước đó cho biết vở kịch kinh điển này đã được trình diễn nhiều nơi, trước đây đã diễn tại sân khấu Spellman do Ban kịch sinh viên khóa 4 Chính trị Kinh doanh trình diễn với thành phần như sau: đạo diễn Nguyễn Hữu Anh Tuấn; Uông Bình Minh trong vai Thành Cát Tư Hãn; Lê Cung Bắc vai tráng sĩ Sơn Ca, và đặc biệt Khánh Liễu (Văn khoa) vai công chúa Giang Minh. Công tác điều hành, quản lí ban kịch K4 CTKD do các sinh viên Phan Bá Phi, Nguyễn Hữu Tuân… phụ trách.

 

Tôi chưa gặp Lê Cung Bắc lần nào đúng như câu nói của người xưa văn kì thanh bất kiến kì hình (nghe tiếng mà chưa gặp) nên cũng háo hức và hồi hộp lắm! Bởi mình là đạo diễn tay mơ trong khi Lê Cung Bắc đã có số má, tên tuổi vang trời rồi!

 

Ngày trình diễn vở Thành Cát Tư Hãn khán giả chủ yếu là sinh viên của Viện Đại học Đà Lạt và học sinh lớp 12 các trường trung học tại thành phố Đà Lạt: Bùi Thị Xuân, Văn Học, Việt Anh… kể cả phóng viên kịch trường từ Sài Gòn lên, trong đó tất nhiên là có Lê Cung Bắc!

 

Thật bất ngờ, vở diễn thành công ngoài sức mong đợi, hơn 500 khán giả đã ngồi, đứng chật cứng cả khán phòng liên tục vỗ tay theo những cảnh diễn hay khiến anh chàng đạo diễn tay mơ tôi kiêm diễn viên bất đắc dĩ vì không có ai đóng (vai Đại tướng Dương Bân – chiến hữu của Thành Cát Tư Hãn) như bay bổng lên ngọn thông chẳng còn để ý gì cả! Đến khi hạ màn, mọi người ra về rồi tôi mới hỏi Lê Kim Ngữ anh Lê Cung Bắc có đến không, Ngữ ngạc nhiên nói anh Bắc ngồi ở hàng ghế đầu cậu không thấy sao! Tôi thú thật là không thấy vì tôi chưa hề gặp Lê Cung Bắc lần nào sao biết ảnh ngồi ở hàng ghế đầu! Và từ đó cho tới khi ra trường (1974) tôi không có cơ hội gặp anh tại Đà Lạt! Bất giác tôi nhớ đến bài thơ Tặng Vệ bát xử sĩ của thi hào Đỗ Phủ đời Đường (Trung Hoa) có 2 câu khiến mình không khỏi chạnh lòng: Nhân sinh bất tương kiến, động như Sâm dữ Thương! (Đời người không gặp gỡ, như sao Hôm sao Mai)!

 

Một cơ hội bất ngờ xảy ra khi tôi vừa gặp chuyện không hay trong nội bộ Viện, khiến tôi không được chấp nhận ở lại Văn khoa làm phụ khảo Hán Nôm sau khi tốt nghiệp! Song ngay lúc ấy thày Vũ Khắc Khoan trưởng ban Việt văn đồng thời là giáo sư bảo trợ cho luận văn Cao học về kịch nghệ của tôi gặp tôi và ân cần nói: “Thôi bỏ đi! Cậu về Sài Gòn làm kịch với tôi nhé! Tôi sẽ giới thiệu cậu gặp gỡ một số anh em cũng là học trò tôi ở Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn: Trần Quang, Lê Tuấn, Hà Bay, Đỗ Anh, Vũ Hiệp… trong đó có Lê Cung Bắc. Cậu chắc biết Bắc chứ?”. Tôi thú thật với thày là tôi chưa có được cái hân hạnh đó, nhưng không sao anh em có cùng gốc gác Thụ Nhân thì “giai huynh đệ” mấy hồi!

 

Bấy giờ thày Vũ Khắc Khoan đang là khoa trưởng Khoa điện ảnh và kịch nghệ tại Đại học Tri Hành. Trường này do tư nhân sáng lập, những năm trước chuyên đào tạo về thương mại, đến năm 1974 lại theo Đại học Minh Đức mở khoa điện ảnh và mời thày Vũ Khắc Khoan làm khoa trưởng, thày thêm vào ngành kịch nghệ vì đây là sở trường của thày. Vậy là tại Sài Gòn năm 1974 có thêm một địa chỉ đào tạo về hai ngành điện ảnh và kịch nghệ bên cạnh Đại học Minh Đức (điện ảnh) và Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn (kịch nghệ)! Ước mong của thày là bên cạnh khoa điện ảnh và kịch nghệ Đại học Tri Hành sẽ thành lập một ban kịch nói mang tên Chúng ta quy tụ phần lớn là các học trò của thày trong đó dĩ nhiên có Lê Cung Bắc và tôi! Nhưng trước hết phải “sắp xếp” một cuộc gặp gỡ giữa hai anh chàng Thụ Nhân cái đã! Thế là thày bảo tôi đến nhà thày tại cư xá giáo sư Đại học Sài Gòn số 7 Duy Tân quận 1. Và, đó là lần đầu tiên hai chàng kịch sĩ nổi tiếng của Kịch đoàn Thụ Nhân gặp nhau tay bắt mặt mừng. Lê Cung Bắc để lại trong tôi một ấn tượng khó quên về cái chất nghệ sĩ phóng khoáng, cởi mở của anh không phân biệt tuổi tác, vị trí xã hội (lúc ấy anh đã là một nghệ sĩ có số má trên các trang báo kịch trường).

 


đạo diễn Lê Cung Bắc, photo:thanhnien.vn

 

Hôm đó thày Vũ Khắc Khoan, anh Lê Cung Bắc và tôi ngồi nói chuyện với nhau rất tương đắc. Không biết thày đã nói gì với Bắc về tôi mà thấy anh đối với tôi rất trọng thị và chan hoà. Thày mong muốn chúng tôi sẽ giữ mãi mối thân tình của ngày hôm ấy! Không ngờ đó lại là cuộc gặp gỡ tay ba cuối cùng!

 

Thày ơi!

Duyên trăm năm đứt đoạn

Tình một thuở còn hương

                 (Đoàn Phú Tứ)

 

Thày thì tôi không gặp lại được! Nhưng Lê Cung Bắc thì vì “Duyên trăm năm không đứt đoạn” nên sau đó tôi được gặp lại anh.

 

Một hôm tôi đang đi xe máy trên đường thì một chiếc xe lam chở khách chạy về hướng Nhà Bè qua mặt, trên xe chật cứng người nhưng tôi kịp nhận ra anh Lê Cung Bắc đang ngồi chen chúc trong số những người khách ấy! Tôi mừng rỡ gọi, trên xe Lê Cung Bắc cũng nhận ra tôi nên vẫy tay chào vui vẻ và hẹn sẽ gặp nhau. Sau này khi cuộc sống đã tương đối ổn định, anh kể lại những năm tháng gian khổ mà anh đã trải qua như bao nhiêu người khác sau chiến tranh, lần gặp tôi anh từ Long Thành – Đồng Nai về nhà vợ bên Nhà Bè. Nhìn anh khuôn mặt đậm màu sương gió nhưng cái chất nghệ sĩ hào hoa một thời Thụ Nhân ngày nào vẫn không phai! Tôi hỏi anh về thày Vũ Khắc Khoan, Bắc cho biết thày hiện ở Hoa Kì vẫn mạnh khoẻ nhưng buồn!

 

Đây khách li hương mấy thu vàng ấm

Nơi quán cô đơn mơ qua trùng sóng

                                    (Đoàn Chuẩn)

 

Ôi! Có người khách li hương nào lại không buồn nhất là Thành Cát Tư Hãn – Vũ Khắc Khoan thày mình! Anh hỏi tôi bây giờ sinh sống, làm việc thế nào, tôi cho anh biết đang làm phó đạo diễn, biên tập và biên kịch điện ảnh tại Xí nghiệp phim tổng hợp Thành Phố (Hãng phim Giải Phóng sau này), ngoài ra còn là thành viên Ban biên tập Tạp chí Điện ảnh của Hội Điện ảnh Thành Phố. Bắc cho biết anh cũng đang tìm kiếm cơ hội  trở lại với nghiệp diễn xuất trong lãnh vực điện ảnh vì sân khấu lúc đó không còn thích hợp nữa.

 

Tôi nói với Lê Cung Bắc nếu ở bên Mĩ thày Vũ Khắc Khoan mà biết được Bắc và tôi – hai đứa học trò ruột của thày – đang nói chuyện đời với nhau và nhắc nhiều về thày chắc thày không khỏi ngậm ngùi mà nhếch môi cười: Hoá ra Lê Cung Bắc và Phạm Thuỳ Nhân vẫn bị quyến rũ bởi ánh đèn sân khấu (và nay sân quay)!

 

Năm 1985 khi làm phó đạo diễn cho đạo diễn Việt kiều Hồ Quang Minh phim Con thú tật nguyền (KB: Nguỵ Ngữ - Hồ Quang Minh), tôi giới thiệu Trần Quang vào vai Bình – nam chính, và Lê Cung Bắc vào vai Trí – một vai quan trọng của phim này. Trước đó anh đã đóng trong khá nhiều phim của các đạo diễn khác.

 

Thày Vũ Khắc Khoan mất sau đó một năm (ngày 12.9.1986) nhưng tôi tin hương hồn thày vẫn dõi theo những bước đi của hai cậu học trò mình. Giờ tôi vẫn thường gặp thày về với tôi cả trong giấc ngủ lẫn khi tỉnh thức.

 

Năm 1995 tôi giới thiệu Lê Cung Bắc với anh Trần Thanh Hùng – giám đốc Hãng phim Giải Phóng – để Bắc đạo diễn bộ phim điện ảnh Nhịp đập trái tim kịch bản của tôi. Và Lê Cung Bắc được Hội Điện ảnh Việt Nam trao giải Tác phẩm đầu tay từ bộ phim điện ảnh này!

 

Nhưng xem ra Lê Cung Bắc lại bén duyên với truyền hình hơn! Năm 1996 anh được Hãng phim Truyền hình T.F.S Đài Truyền hình Thành Phố (HTV) tin tưởng giao đạo diễn bộ phim truyện truyền hình nhiều tập đầu tiên của T.F.S: Người đẹp Tây Đô (KB: Trầm Hương) kể về cuộc đời và hoạt động chống thực dân Pháp của nữ tình báo viên nổi tiếng – bà Lâm Thị Phấn! Sau thành công của Người đẹp Tây Đô, năm 1999 Lê Cung Bắc lại được T.F.S. giao trọng trách thực hiện một bộ phim hoành tráng khác mang tên Dòng đời do tôi viết kịch bản dõi theo số phận thăng trầm của một người phụ nữ từ khi còn bé cho đến lúc trung niên suốt một phần tư thế kỉ! Có thể nói với chiều dài 52 tập (30 phút/ tập) Dòng đời được xem là bộ phim dài nhất của T.F.S. cho đến lúc ấy (2001) và đã tạo nên một cơn sốt phim truyện truyền hình lúc bấy giờ! Lê Cung Bắc đã xứng đáng được phong tặng danh hiệu “Nghệ sĩ ưu tú” cùng năm ấy! Sau Dòng đời Lê Cung Bắc và tôi lại có dịp làm việc chung với nhau trong bộ phim Vó ngựa trời Nam (37 tập) do tôi viết kịch bản, T.F.S sản xuất năm 2010 kể về cuộc đời và sự nghiệp của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ từ khi còn bé cho đến Hiệp định Genève  (1954). Và cũng như Dòng đời, Vó ngựa trời Nam  tiếp tục tạo được cơn sốt phim truyện truyền hình VN trong lòng khán giả khiến họ thực sự yêu thích phim lịch sử VN trước sự cạnh tranh gay gắt, ồ ạt của phim lịch sử nước ngoài (Trung Quốc, Hàn Quốc… ) trên màn ảnh nhỏ. Bộ phim Vó ngựa trời Nam đã được trao Huy chương vàng trong Liên hoan phim truyền hình toàn quốc 2010 và Giải Đạo diễn xuất sắc trong Giải Cánh diều vàng năm 2010 của Hội Điện ảnh Việt Nam!

 

Và tôi nghĩ. trong những thành công của Lê Cung Bắc hôm nay có dư âm của Ban kịch Trường Giang, Kịch đoàn Thụ Nhân Viện Đại học Đà Lạt ngày nào, có tình cảm cao quý của anh em bè bạn đồng môn và nhất là được nuôi dưỡng bởi trái tim vô lượng của một người thày – Giáo sư, Kịch tác gia Vũ Khắc Khoan!

 

Mai sau dù có bao giờ, 

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

                             (Nguyễn Du)

Thày ơi !

 

Tháng 12 – 2018

Phạm Thuỳ Nhân

(Nhà biên kịch điện ảnh)

 





 

Đọc thêm về phần kịch nghệ trong trang của nhà văn kịch tác gia Vũ Khắc Khoan