phỏng vấn
nhà văn
Đào Trung Đạo
lê thị huệ thực hiện
Kỳ 4 (tiếp theo)
Lê Thị Huệ: Anh nghĩ sao về cụm từ “Hậu Hiện Đại” (Postmodernism) được một số người viết tiếng Việt cả trong và ngoài nước hay dùng?
Đào Trung Đạo: Một cách khái quát: Anh có đọc đôi ba người ngoài nước viết về Hậu Hiện Đại. Nh́n chung, nhờ ở ngoài Việt Nam những người viết này có hoàn cảnh tham khảo những sách về Hậu Hiện Đại (hầu hết là sách tiếng Anh) nên có đưa ra được một số thông tin cần thiết. Thế nhưng những sách Mỹ này phần lớn lại do những người viết không chuyên về Triết nên có khuynh hướng chỉ xem xét Hậu Hiện Đại trong phạm vi văn chương nghệ thuật hoặc chính trị xă hội và đa số họ là những người thiên tả. Chẳng hạn sách của Jürgen Habermas, Frederic Jameson hay Terry Eagleton (anh này th́ quá thô thiển). Quyển The Condition of Postmodernity của David Harvey hay quyển Paraesthetics của David Carroll khá hơn. Nếu quả thực là người muốn t́m hiểu Hậu Hiện Đại một cách nghiêm túc và tường tận th́ không thể không đọc những sách của Michel Foucault, Giles Deleuze, Jacques Derrida, và Richard Rorty. Khốn nỗi sách của ba triết gia đầu khó đọc và cả ba vị trong sách vở của họ không hề nhắc tới “Postmodernisme”! Thi thoảng trong vài bài viết hay phỏng vấn họ chỉ nhắc đến việc chúng nhân gọi họ là những triết gia hậu-cấu-trúc. Mặc dù Jean-François Lyota tác giả quyển Condition Postmoderne được nhiều người biết đến (h́nh như ở Việt Nam có bản dịch tiếng Việt) nhưng quan điểm của Lyotard về Hậu Hiện Đại không được giới triết học Pháp hoan nghênh [Có thể xem bài Rorty phản bác Lyota Cosmopolitanism without emancipation: A Response to Jean-François Lyota trong Objectivity, Relativism, and Truth). Người viết về Hậu Hiện Đại trong nước? Hết sức “vớ vẩn”, “sở tri bất túc”! Cũng chẳng trách được v́ trong nước trước hết nếu hiểu và huỵch toẹt ra là Lyotard quan niệm chủ thuyết Hậu Hiện Đại hoàn toàn bác bỏ “siêu-tự-sự” Mác-xit và học thuyết phân tâm học của Freud th́ sẽ được Tuyên giáo “sờ gáy” ngay [cũng may các lănh đạo Tuyên giáo phần đông thuộc thành phần “bổ củi gánh nước” cho nên – nếu quả thực có bản dịch này – đă để cho bản tiếng Việt Condition postmoderne của Lyotard thoát ṿng kiểm duyệt); sau nữa những người viết trong nước không có khả năng ngoại ngữ và chuyên môn cũng như không có sách vở Âu-Mỹ viết về Hậu Hiện Đại để tham khảo.
Lê Thị Huệ: Và thơ Tân H́nh Thức lào xào với các bạn thơ Việt trong và ngoài nước nữa chứ!
Đào Trung Đạo: Thơ Tân H́nh Thức Việt cả ngoài lẫn trong nước tuy là một nỗ lực “làm mới” nhưng cho đến nay chưa có những thành tựu đủ thuyết phục cả về lư thuyết lẫn thực hành. Lê Thị Huệ dùng chữ “lào xào” để mô tả t́nh cảnh này khá thú vị v́ theo anh biết những người làm thơ theo kiểu Tân H́nh Thức dường như “chẳng ai chịu ai”. Khế Iêm người chủ trương Thơ Tân H́nh Thức ở Mỹ cho rằng đổi mới thơ phải đổi mới cả h́nh thức lẫn nội dung nhưng khi đưa ra cơ sở lư thuyết không những có tính chất “chiết trung” mà c̣n dựa trên những kết quả khám phá sinh học chưa được nh́n nhận: kết hợp nhịp điệu và cảm xúc của thơ truyền thống (từ bán cầu năo phải nơi phát sinh nhịp điệu, cảm xúc) với ngôn ngữ và kiến thức của thơ tự do (phát xuất từ bán cầu năo trái).
Lê Thị Huệ: Anh tâm đắc quyển thơ “Ta Thấy H́nh Ta Những Miếu Đền” của Mai Thảo, anh có thể nói về điều này?
Đào Trung Đạo: Tâm đắc? Có và không. Anh chú ư tới bài viết “bờ cơi khởi đầu” Mai Thảo viết về Thơ đặt ở đầu tập “Ta Thấy H́nh Ta Những Miếu Đền” như một Khai từ, hay đúng ra là “trực quan về Thơ” của tác giả. Nói rằng đó là “trực quan” v́ Mai Thảo là con người cảm tính, trực giác chứ không phải con người của lư trí văn chương, lư thuyết văn chương. Những thi sĩ tầm vóc thế giới thường có bài viết về quan niệm thi ca của ḿnh, và Mai Thảo đă viết về “Thơ”, một điều hiếm có đối với người làm thơ Việt tuy chưa hẳn đă bước vào ngưỡng của một quan niệm về Thi Ca. Trong “bờ cơi khởi đầu” Mai Thảo nói về những cái “cơi không” phía sau “tứ tượng” của vũ trụ thơ: dọc-ngang-trên-dưới đều dẫn tới “cơi không. Không c̣n ǵ nữa hết.” Và Mai Thảo nói rơ “Cơi không là thơ. Nơi không c̣ ǵ nữa hết là khởi đầu thơ. Một xóa bỏ tận cùng. Từ xóa bỏ chính nó. Tôi xóa bỏ xong tôi. Không c̣n ǵ nữa hết. Tôi thơ.” Đó là cơi thơ Mai Thảo. Ảnh hưởng tư tưởng Trang Tử Nam Hoa Kinh rất rơ. Nhưng điều đáng yêu là Mai Thảo cuối cùng đi tới sự xóa bỏ chính bản ngă ḿnh để chỉ giữ lại “tôi thơ.” .
Trên 90 bài thơ trong “Ta Thấy H́nh Ta Những Miếu Đền” phần lớn là thơ cảm tác viết suốt dọc lộ tŕnh thi ca trên 30 năm với những giai đoạn Mai Thảo “trốn” thơ thời trẻ và đến cuối đời “không thể trốn” thơ. Bài “Cúi Đầu” ban đầu Mai Thảo kư bút hiệu là Nhị được Thanh Tâm Tuyền đăng trên trang Văn Nghệ của nhật báo Dân Chủ (chủ nhiệm Vũ Ngọc Các, ṭa soạn ở đường Phạm Ngũ Lăo, Saigon) năm 1957 (?). Chính bài thơ này là khởi đầu một t́nh bạn lâu bền giữa Thanh Tâm Tuyền và Mai Thảo. C̣n đa số những bài khác Mai Thảo viết từ khi tỵ nạn ở Mỹ cho đến năm 1986. Mai Thảo thích sử dụng lối thơ bảy chữ, có nhiều bài bảy chữ bốn câu. Và lục bát Mai Thảo cũng khá độc đáo. Nhiều bài viết về “thời kỳ trại đảo” khi Mai Thảo sống ở trại tỵ nạn dành cho thuyền nhân. Một số bài viết về thân hữu với giọng điệu riêng tư thân thương. Anh cho rằng những bài thơ Mai Thảo nói lên được chủ đề thi ca có tính chất phổ quát là những bài thơ hay: v́ thơ hay phải vươn từ cái riêng tư để tới cái phổ quát. Chẳng hạn những bài “Không tiếng”, “Em đă hoang đường từ cổ đại”, “Trừ tịch”, “Nghe đất”, “Một ḿnh”, “Dỗ bệnh”, “Mỗi ngày một”, “Không hiểu”, “Nửa đường”, “Mộ thuyền”, “Thơ xa”. Anh đặc biệt thích bài “Chỗ đặt” : “Đặt tay vào chỗ không thể đặt/Vậy mà đặt được chẳng làm sao/Mười năm gặp lại trên hè phố/Cười tủm c̣n thương chỗ đặt nào.” Thật thú vị khi đọc một Mai Thảo Công Tử Hà Thành Độc Thân Suốt Đời bóng gió bông đùa! Trong kinh nghiệm đọc những tuyển tập thơ cả Việt lẫn ngoại quốc anh thấy một tập thơ có được một phần ba những bài hay đă là quí rồi. Trong số những bài hay này lọc lại cũng chỉ c̣n năm ba bài là “thật hay” được người đời yêu thích và những nhà phê b́nh ngưỡng mộ.
đọc trang Đào Trung Đạo tại đây
© gio-o.com 2018