Một Vài Ư Nghĩa Về
Thơ Thanh Tâm Tuyền Và Thơ Tự - Do
============================================================= |
nhận định của NGUYỄN QUANG HIỆN
Thanh – Tâm – Tuyền tên thật là Dzư – văn – Tâm, sanh năm 1936 tại Vinh (Nghệ-an), Trung-Việt.
Học hết trung-học tại Hà Nội. Dạy học tại Sài-g̣n và Thủ-dầu-một.
Anh là một trong những cây bút ṇng cốt của tập san Sáng-tạo trước đây.
Truyện dài của anh hiện đang đăng trên Bách-khoa, Văn…
Tác phẩm đă xuất bản:
1. Tôi không c̣n cô độc, thơ,1956
2. Bếp lửa, tập truyện, 1957
3. Khuôn mặt, tập truyện 1964
4. Liên Đêm Mặt trời t́m thấy, thơ, 1964
Nếu phải kiểm điểm và nh́n lại sự phát triển của thơ trong chu kỳ mười năm gần đây, th́ nhà thơ mà người ta nhắc đến trong hàng đầu có lẽ phải là Thanh Tâm Tuyền. Nói như thế thật không có nghĩa ấn định thứ tự lớn bé giữa các nhà thơ hiện thời (v́ không ai muốn dành quyền nói thế) mà chỉ v́ ít nhất Thanh Tâm Tuyền là một trong những người vác biểu ngữ đi hàng đầu trong cuộc biểu t́nh cho thơ tự do. Người mang biểu ngữ đi đầu có thể là hay không là người làm nên cuộc biểu t́nh (cuộc biểu t́nh không thể chỉ có một người) nhưng giá trị thứ nhất và tối thiểu phải nằm trong giá trị biểu kiến của một kẻ đi đầu, bởi v́ người ấy là người thứ nhất chịu phản ứng của địch thủ, là người thứ nhất nắm lấy cơ hội đă chín để đi hàng đầu, cho nên khi tuyên dương công trạng th́ người đi hàng đầu phải là người được tuyên dương đầu tiên. Thơ tự do – thơ ca bây giờ mang tên ấy – phải ghi công Thanh tâm Tuyền, và chúng tôi, trong loạt bài nói về thơ hiện thời sẽ nói đến Thanh Tâm Tuyền như một chiến sĩ tiền phong trong chu tŕnh biến chuyển của thi ca Việt-nam, nói rộng hơn của nền văn học Việt-Nam mà biến chuyển đó cũng là một biến chuyển phụ thuộc của sự biến chuyển rộng răi hơn là của toàn thể xă hội Việt-nam.
Nh́n vào “đất đai” của Thanh Tâm Tuyền chúng tôi phải nhớ hàng chữ mà ông chi ghi lên hàng đầu tập Tôi không c̣n cô độc là tập thơ đầu tiên, là tiếng nói đầu tiên mà Thanh Tâm Tuyền nói với xă hội thi ca chúng ta bấy giờ.
Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi v́ người vào trong đất đai của tôi.
Người hoàn toàn tự do, để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhận lănh thổ.
Người hoàn toàn tự do và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ.
Đó là một lá chắn Thanh Tâm Tuyền dựng lên để pḥng vệ các phản ứng. Sự dự đoán ấy đúng là Phục sinh (bài thơ ngay ở những trang đầu) là đối tượng của sự phản ứng. Nhưng chúng tôi nhắc tới Phục sinh không phải là để nhắc tới các phản ứng đối với Thanh Tâm Tuyền hồi ấy, v́ trong sự biến chuyển toàn thể của ḍng thi ca điều đó không đáng kể, mà chỉ nhân dịp và nghĩ rằng có thể Phục Sinh đă một phần đại diện cho nếp cảm nghĩ, cách biểu hiện của Thanh Tâm Tuyền.
Chúng tôi nghĩ khối suy tư và t́nh cảm trong con người đến một mức độ nào đó th́ không lên cao nữa và tỏa ngang. Ví dụ như Nguyễn Công Trứ:
Ngồi buồn mà trách ông xanh
khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười
kiếp sau xin chớ làm người
làm cây thông đứng giữa trời mà reo
giữa trời vách đá cheo leo
ai mà chịu rét th́ trèo với thông…
hay Tản-Đà:
cái hạc bay lên vút tận trời
trời đất từ nay xa cách măi
ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi
Là một thứ t́nh cảm vượt lên trên t́nh cảm vui hay buồn, sung sướng hay khổ sở, những t́nh cảm giận hờn thương xót của cái ṿng lẩn quẩn hàng ngày trong các giác quan. Một kẻ có lẽ cảm thấy một điều vui, trong việc “có lẽ vui” và “h́nh như vui” nó phát sinh ra một thứ t́nh cảm ngược lại, hay cũng có thể sự vui vẻ quá độ đẩy con người ta tới một t́nh cảm ngược lại: khóc, bởi v́ qua đơn vui say tỉnh lại là nỗi buồn, nỗi buồn ấy thật trong nước mắt.
Đối với Thanh Tâm Tuyền:
Tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
Thanh Tâm Tuyền
T́nh cảm ấy cũng thế, sinh hoạt cuộc đời và con người nó đă xẩy ra như thế, và như thế chán lắm, buồn nôn lắm, tôi cảm thấy như thế ghê tởm, điều ấy cũng giống như tôi cảm thấy cùng một lúc sự thương xót nào đó ẩn náu trong góc linh hồn, góc phố, góc cột đèn, góc giáo đường, sự thương sót giống như của một đứa nhỏ vừa đi lủi thủi vừa khóc tấm tức, v́ giận hờn, v́ sót sa, v́ tủi thân:
Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
Thanh Tâm Tuyền.
Thanh Tâm Tuyền lúc ấy đối với Thanh Tâm Tuyền làm thi sĩ đi trên hè phố chỉ là một đứa nhỏ tội nghiệp, đứa nhỏ ấy có thể là cái côté faible của con người – con người nào mà không có côté faibale - , một mặc cảm, một sự thất vọng, một sự tổn thương, một sự chán chường… đứa nhỏ ấy đi theo một Thanh Tâm Tuyền, một thanh niên nào đó trên hè phố với “buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường”. Đứa nhỏ ấy thật khổ sở và một Thanh Tâm Tuyền đi-trên-phố muốn xin cho nó một chỗ quỳ để tuôn ra ngoài nỗi sót thương, một chỗ thật thầm kín và lặng lẽ, v́ đứa nhỏ ấy muốn yên nghỉ muốn xa lánh và trốn tránh sự giáp mặt với những buồn nôn của cuộc đời.
Buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
Tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
Cho đứa nhỏ linh hồn
Cho chó dữ
Con chó đói không mầu.
Sự t́m chỗ an nghỉ cho đứa nhỏ linh hồn ở trong một góc khiêm nhường của giáo đường cũng giống như sự đi t́m một chỗ yên nghỉ trong giấc ngủ vùi, hay trong chỗ ẩn náu sau cùng lư tưởng và tốt đẹp nhất của con người là cái chết. Ôi, ai đă nghĩ đến cái chết như một chỗ ẩn thân một sự trở về quê hương hay một ân sủng duy nhất của con người. Sự bí ẩn của cái chết kết thúc tất cả, kết thúc sự buồn tênh lại cười hay khi vui muốn khóc. Cái chết phải có để cho nước mắt và tiếng cười được một chỗ quỳ thầm kín trên thời gian vô tận. Tôi thèm chết như thèm một giấc ngủ, tuy đang đi trên bờ sông của thành phố đang sống, lúc ấy tôi muốn gọi tên tôi thật to, muốn hét lên, muốn nổi giận, v́ đứa nhỏ. Thanh Tâm Tuyền lúc này đă ở trong một chỗ quỳ và c̣n lại một Thanh Tâm Tuyền khác của đời sống buồn khóc và buồn nôn. V́ buồn khóc buồn nôn buồn chết và buồn ngủ nên có cái ǵ chưa xong, một cái ǵ chưa thành h́nh như giống hệt một cái khó chịu phiền muộn muốn gắt gỏng và nguyền rủa cho nguôi cơn giận giữ.
Tôi hét tên tôi cho nguôi giận
Thanh Tâm Tuyền
Đêm ngă xuống khoảng th́ thầm tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang.
Đứa nhỏ linh hồn sợ chó dữ, và em bé quàng khăn đỏ sợ con chó sói xảo quyệt. Con chó đói không màu hay con chó sói lang thang ấy là mối quan tâm hay sự ưu phiền của con người trước đời sống tổng quát. Nói rộng là mối ám ảnh về số phận làm người mà mỗi người đều mang, cái guồng máy vô h́nh của thời gian cuốn hút và xô đẩy con người vào hủy diệt không cưỡng lại nổi. Cũng có thể đó là thứ gai sạn trong đời sống hàng ngày, sự quỷ quyệt, lươn lẹo, sự lừa gạt, lợi dụng, hay sự cực nhọc của cuộc sinh tồn vân vân… Những thứ đó là một thứ chó dữ không mầu luôn luôn rập ŕnh nhe nanh vuốt và bất cứ lúc nào nhẩy xổ tới tấn công cô bé quàng khăn đỏ và đứa nhỏ linh hồn. Có phải thế không, hiện diện giữa đời sống con người ta lúc nào đấy, lúc mà t́nh cảm lên cao và kết đúc lại trong một trạng thái sinh hoạt se sắt, chỉ là một đứa nhỏ sợ sệt muốn t́m một chỗ ẩn náu yên thân trước những sự đ̣i hỏi và bao vây của số kiếp làm người? Chỗ trú chân ấy ở đâu và là ǵ, có thể trong một giáo đường, nhưng sự thực có thể là một miền hoa cỏ suối ngọt của t́nh yêu.
Tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hăy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật.
Có phải thế không, hỡi những người yêu, những kẻ t́nh nhân của cuộc đời, có một lần nào với nỗi buồn và sự cô đơn đi trong hè phố, có một lần nào với sự mệt nhọc và sự chán chường trên các cột đèn và xe cộ buổi chiều, có một lần nào có thể với căng thẳng của cảm xúc và thần kinh, bạn đă ngửng lên nh́n trời và gọi tên người t́nh? V́ lúc ấy có một nơi nào đó dưới bầu trời này có một người, một tâm hồn, với đôi tay t́nh nhân mang nguồn nước ngọt thương yêu của t́nh cảm dịu dàng trong suốt. Một lần người viết bài này đă có dịp viết:
bây giờ thành phố dần dần hồi sinh
những tiếng than đóng kín vào ngơ cụt
và mặt trong gọi tên người t́nh
Thực tại t́nh yêu luôn luôn là đề tài của thơ, v́ t́nh yêu là đề tài tốt đẹp nhất của đời sống, người ta có thể coi thường t́nh cảm vụn vặt, nhưng về phương diện tổng quát t́nh yêu mang một ư nghĩa hết sức cao đẹp, v́ t́nh yêu hội tụ tất cả các khía cạnh thăng hoa của t́nh cảm nhân loại. Thái độ ca ngợi và t́m đến t́nh yêu của Tuyền là thái độ của một người đă ra đi đă đi t́m, đă suy nghĩ chín mùi và sau cùng thấy rằng cần phải ca ngợi t́nh yêu chính v́ t́nh yêu đáng ca ngợi nhất. T́nh yêu không phải ở trong điều kiện lư tưởng nhưng là t́nh yêu trong hoàn cảnh và điều kiện mỗi người, v́ sự ca ngợi ở đây thuộc giai đoạn chót của lư luận, cũng v́ thế nên nó gần với sự xấu nhân bản, sự xấu nhân bản, thật và trở lên lư tưởng.
Chúng tôi không có ư định giải thích một bài thơ của Tuyền cũng không có ư định đề cao thơ Tuyền như một người đă vươn tới được cốt cách của thơ tự do. Đó chỉ là những ư nghĩ nhân nghĩ về một bài thơ và thử t́m một trạng thái tâm hồn của tác giả trong một bài thơ tự do. Trong các tập thơ của Tuyền, Tôi không c̣n cô độc và Mặt trời t́m thấy, đều có chứa những cảm giác sống của sau những ngày u ám, tới một trận mưa rào sối sả, sau đó là mưa phùn.
ngó đầu ra ngoài thở hơi mưa
cảm giác ngủ một vùng yên tĩnh
bao giờ ánh sáng cũng chói thẳng con người
tâm hồn rực rỡ bàn tay vẫy
tôi trở lại cùng người thân yêu
không gian tâm hồn trong nhà ngục tâm hồn
thế giới nói thêm lời hoa cỏ thiên nhiên
câu chuyện mặt trời hoang đường như đôi mắt t́nh nhân
tối hơn
bỗng tin làn mi khép lại.
Đó là những cảm giác đi ra từ trong một giấc ngủ của một người vừa thức dậy, hay từ một sự biến động của tâm hồn vừa chấm dứt trong những h́nh thù của cảm giác váng vất những h́nh ảnh c̣n rời rạc từng miếng từng mảnh giấy từng chiếc lá rơi rải rắc. V́ thật dễ hiểu thế giới tâm hồn và sinh hoạt cá nhân của con người trong một hoàn cảnh nó cũng tự nhiên hỗn loạn, rời rạc vô tổ chức như thế. Và một trạng thái tâm hồn của một thanh niên nào đấy mang dấu tích của toàn thể xă hội nên la khấp khểnh, sô sát đâm chém cộng vào đó là một khả năng phán đoán sâu sắc bén nhạy nhưng lại cảm thấy bất lực nó phải là điều kiện cho những ngôn ngữ xâu xích móc nối hỗn tập ở một kiến trúc dị dạng, đa h́nh dung:
mỗi bài thơ khi viết tôi đều nghĩ đến một người
tôi sống thường trực bằng h́nh ảnh
cửa sổ mở ánh trăng b́nh minh
ngoại ô nhà ngói đường xe điện
sân ga đường dan díu chân trời
bến tàu phu khuân vác ống khói
hải cảng tàu biển chân vịt quay
ban mai buổi chiều vội vă đêm
tôi sống thường trực bằng h́nh ảnh
cuộc đời thèm khát không thôi.
Theo chúng tôi thi ca của một xă hội nhất định đều đă ngầm chứa một dự pḥng cho sự sinh hoạt đời sống xă hội đó. V́ người làm thơ là tập trung, là kết tinh của dữ kiện đời sống hiện tại, là sự tiếp nhận các phần tinh lọc nhất của đời sống, cho nên người ta có thể v́ phần thi ca thật của văn chương như những lời tiên tri, chúng tôi nói phần thi ca thật, bởi v́ thi ca giả là những mảnh vụn của một đời sống đă tạo sẵn, tự nó chỉ có giá trị xă hội nhỏ hẹp. Nhưng thi ca thật, bắt rễ từ những sự di chuyển nội tâm, chu tŕnh dài của ư thức và lư luận, tự nó phải là phần tinh tuyển của đời sống nhân loại, nó không hoàn toàn phải biểu lộ trong một h́nh thức hay một thái độ nhất định; nhưng sự biểu hiện của nó trong những điều kiện nhất định, dù người ta hiểu sai, vẫn có một hiệu lực phát triển, một khả năng tác động, một giá trị thiết lập cho đời sống. Nên sự thay đổi ngôn từ trong thơ, trên một phương diện, ngôn ngữ là một phương tiện diễn tả, nó có giá trị hoàn toàn h́nh thức, khi ngôn từ ấy không kết hợp được tác dụng cao nhất của sự kiện, ở phương diện này khi phát biểu một sự kiện mà ngôn ngữ đă làm hết nhiệm vụ của nó, nhưng sự kiện đă thất bại th́ người ta thấy sự thất bại ấy có ngay trong hành vi làm thơ, trong việc quan niệm về thơ, hay nói khác quan niệm về thơ của tác giả đă thất bại. Về một phương diện khác, chính ngôn ngữ có thể là phần nội dung của thơ, người ta không phân biệt được việc diễn tả và cách diễn tả, người ta nh́n nhận ngôn ngữ trở lên chính là thơ, cái khung xe hơi chính là cái xe hơi. Lúc đó nếu thất bại nó thất bại ngay từ đầu, ngay từ khi tạo nên chiếc xe, nhưng nếu nó đạt được một mực độ nhất định, nó có giá trị tại ngă, một giá trị mà người ta chỉ có thể không đồng ư chứ không thể phủ nhận được v́ nó có mặt, hoặc nếu không, phải phủ nhận ngay từ đầu.
Nh́n vào thi ca hiện thời người ta nhận thấy rằng thơ tự do thường ở phương diện thứ hai. Chấp nhận thơ tự do là một giai đoạn nhất định của sự tiến triển, đồng thời, trong giai đoạn hiện tại là một việc diễn tả thích hợp và tốt đẹp nhất, v́ nó làm trùng hợp cách diễn tả và việc diễn tả, nó làm trùng hợp và lẫn lộn bề ngoài và bề trong của thơ, người đọc sẽ đi vào tâm hồn tác giả với sự bừa bộn tự tổ chức của nó. Nó bừa bộn v́ nó không theo cách tổ chức, theo cách xếp đặt trước ít nhất là bề ngoài, nhưng nó tự tổ chức v́ nó có thể được đặt ra trong phần rất sâu xa của ư thức, ư thức văn nghệ và ư thức lư luận. Sự xâm nhập của ư thức có thể là một trường hợp biệt lệ, cũng có thể hết sức tổng quát, tổng quát v́ ư thức sai khiến nó phải đạt được h́nh thức nung nấu nhất trong sự kiện thơ của tác giả cho nên theo ư chúng tôi, một nhà thơ tự do thất bại khi không tạo được một thế giới riêng cho sự kiện thơ của ḿnh. Thế giới ấy rất phụ thuộc vào điều kiện cá nhân của tác giả, bởi v́ chính tác giả trách nhiệm hết về cái ḿnh ném ra. Giá trị của thơ tự do thường thường được xây dựng ngay từ giá trị tối thiểu để đạt tối đa, v́ thế nó phải có một giá trị tối thiểu, nếu thành công chính giá trị đó trở nên vô hạn c̣n không nó đứng nguyên ở vị trí tối thiểu trong quan niệm của người diễn tả.
Đối với Thanh Tâm Tuyền:
Những đêm nào chiến tranh đă quên
con mắt đen niềm im lặng
Anh vẫn đi hoài trong thành phố
cô đơn chưa nắng cháy
vào sâu trong ghẻ lạnh.
H́nh thức ấy và sự kiện ấy quấn lấy nhau trong một nhịp lạ một nhịp bước đi của chàng thi sĩ trong thành phố người yêu, thành phố ấy dù người cô đơn vẫn có thể t́nh tự với ḿnh.
Quan niệm về thơ cũng có thể là một lúc là quan niệm về cuộc đời, ít nhất nó cũng có một điểm chung là bắt nguồn từ một cái nh́n. V́ vậy cách quan niệm về sự tối thiểu để xây dựng tối đa là quan niệm cấp tiến, một quan niệm chung để xây dựng con người mới; và chúng tôi đồng ư hoàn toàn tới Thanh Tâm Tuyền với ư tưởng về cái nhan sắc có lúc không có ǵ nữa của một cô gái:
“Ánh nắng lộ liễu của nửa sáng chiều vào pḥng đă phô ra trước mắt tôi một con người khác đêm trước; tôi ngạc nhiên những không thất vọng. Cái mặt rỗ của Hội làm hắn xấu hổ đi nhưng tôi tra cái xấu đó, cái xấu làm cho người ta trở lên tầm thường và dễ yêu hơn”.
Đêm trước cô con gái phấn sáp trong ánh sáng mờ nhạt của ánh đèn, cô gái để ra một nhan sắc tạm được và làm gă con trai thỏa măn. Nhưng không phải hắn liên lạc với cô con gái chỉ bằng vẻ đẹp ấy, thái độ của hắn trở nên thật và nghiêm chỉnh khi nhận ra rằng dưới ánh sáng ban ngày và mặt không son phấn hắn vẫn làm hắn ưa được cô gái, hắn ưa cái xấu đó, v́ nó làm cho người yêu hèn mọn tầm thường dẽ yêu và cũng gần gũi hơn. Ư kiến ấy cũng là ư kiến của Ernest Renan trong ư kiến về mối liên lạc giữa những người thân nhau. Trong t́nh cảm thật của một người nghiêm chỉnh cái xấu, cái lầm lạc, cái khổ sở là điều kiện xây dựng của sự liên lạc nhau, bởi v́ xây dựng ḿnh trên quan niệm chính đáng ấy chính là từ tối thiểu qua khỏi được mức quan niệm trung b́nh.
Thanh Tâm Tuyền nói riêng và người làm thơ xử dụng ngôn ngữ như một phương tiện hành động. Thi ca nó không là sự thất vọng, sự bất lực cũng không phải việc làm những bài thơ là đạt được hành động lư tưởng. Thi ca chính nó là một hành vi thật tuyệt đối trong ư nghĩa của đời sống của con người, nó tuyệt đối v́ nó hoàn toàn nguyên vẹn, một sự hoàn hảo mà con người đọc thơ và người làm thơ hướng tới như theo hướng các ngôi sao nhưng không bao giờ tới được. Chính v́ chúng ta không thể đạt được mà con người vẫn tiếp tục làm thơ, trước kia đă làm và sau này sẽ làm trong những điều kiện nhất định của cá nhân và xă hội.
Thanh Tâm Tuyền đă làm thơ và thơ Thanh Tâm Tuyền đă nói lên trong một trạng thái cá nhân và xă hội nhất định của một sự biến chuyển nhất định. V́ thế chúng ta đă đọc thơ Thanh Tâm Tuyền và những người khác cũng như sau này sẽ đọc thơ của một số những người khác những thi sĩ khác, chúng ta chưa biết họ, họ chưa có, nhưng chắc chắn sẽ có mặt và sẽ viết thơ cho ḿnh và người khác đọc.
(tập san Văn – Sài G̣n - 1964)
Nguyễn Quang Hiện
Nguyễn Quang Hiện sinh năm 1938 tại Hải Dương. Di cư vào Sài G̣n năm 1955 học Trung học Chu văn An. Học đại học Luật Khoa. Phụ tá Tổng Giám Đốc Nha Ngân Sách Ngoại Viện. Du học về kinh tế tại The Hague Hoà lan.
Năm 1975 bị tù cải tạo 3 năm tại Trảng lớn, Tây ninh. Vượt biên tới Songkha Thái Lan. Sang Mỹ năm 1979. Định cư taị Maryland học vi tính và làm việc trong ngành đó cho tới khi về hưu năm 2007.
Trước năm 1975 đă có sáng tác văn thơ đăng trên các tạp chí VĂN, VẤN ĐỀ …
Gió O nhận được một tuyển tập sáng tác của nhà văn Nguyễn Quang Hiện do tác giả và nhà thơ Nguyễn Thanh Châu gửi đến. Được biết hiện có thân hữu đang thu xếp cho in tuyển tập này tại hải ngoại. gio-o.com sẽ giới thiệu một số sáng tác xuất sắc gồm: văn, thơ, tản mạn, của nhà văn Nguyễn Quang Hiện đă xuất hiện trước 1975 trên các tạp chí văn chương uy tín ấy, trong nhiều kỳ. (11.2014)
http://www.gio-o.com/Chung/NguyenQuangHien1Tho.htm
http://www.gio-o.com/Chung/NguyenQuangHien2Tho.htm
http://www.gio-o.com/Chung/NguyenQuangHien3Tho.htm
http://www.gio-o.com/Chung/NguyenQuangHien4Tho.htm
http://www.gio-o.com/Chung/NguyenQuangHienTagore.htm
© gio-o.com 2014