Rabindranatha Tagore
và ư nghĩa cuộc tử sinh
================================= |
bài của NGUYỄN QUANG HIỆN
Mọi sự sinh ra đời đều mang nét huyền bí của sự bất ngờ. Do phép lạ của ư chí tối thượng, vào một ngày nào đó đă định trước, một sinh vật được một v́ sao sáng chiếu mệnh có thể thức tỉnh dậy trong đời sống. Đó là năm 1861 đất Ấn-Độ sản xuất ra một sinh vật, một người mà sau đó sẽ là một trong những thi sĩ lớn nhất của Ấn-Độ và của thế giới: đó là Rabindranath Tagore.
Lúc ông ra đời, cha ông đặt tên ông là Rabindra tức là mặt trời v́ tin rằng sau này ông sẽ đi vào thế giới, và thế giới sẽ được v́ ông mà chiếu sáng.
Lời tiên đoán đó đă được thực hiện, v́ cho tới khi chết, Tagore luôn luôn là “Gurudev” người chỉ đường, và ngày nay bất cứ ai đi vào văn chương của ông cũng có thể t́m thấy sự sảng-khoái như khi Schopenhauer cảm thấy lúc t́m đến kinh Upanishad: “Trong toàn thể thế giới, không có lời giảng dạy nào đầy ân huệ và đầy cao cả đến thế… nó đă là sự an ủi cho đời tôi, nó cũng là sự an ủi cho cái chết của tôi sau này”.
Tagore nổi tiếng trên thế giới trước hết ở Anh (v́ ông tự dịch nhiều tác phẩm ra Anh ngữ) sau danh tiếng mới vang dậy khắp Âu-Châu, ông được trao tặng giải Nobel văn chương năm 1913. Toàn bộ tác phẩm của ông có tới một trăm hai chục cuốn, gồm đủ loại: thơ, tiểu thuyết, kịch bản, luận thuyết triết học, giáo dục, sử lư tôn giáo… riêng thơ của ông cũng gần tới ba chục cuốn, trong đó có những cuốn nổi tiếng nhất như Gitanjali (mà André Gide đă dịch ra Pháp-văn với tựa đề L’offrande lyrique, Le jardinier d’amour, Sandhyâ Sangit, Prabhat Sangit, le Cycle du Printemps, la Fugitive… Chính cuốn Gitangali (mà chúng tôi có trích dịch một số bài dưới đây) được kể là tuyệt tác và đă đem lại giải Nobel cho ông.
* *
*
Đi vào tác phẩm của R.Tagore, người ta khám phá ra rằng nhà thi hào thần bí và chói lóa này thấm nhuần một sự dịu dàng vô tận. Người ta t́m ra những đam mê, những cuộc tranh đấu của một con người trên con đường dài trần gian. Romain Rolland đă miêu tả Tagore bằng những nét thế này: “Khi gần Tagore lần đầu, người ta bỗng cảm thấy như ở trong nhà thờ và người ta chỉ dám nói th́ thầm. Khi có dịp sát gần hơn nét mặt sắc và kiêu hănh này, người ta nhận ra, dưới sự b́nh lặng là âm nhạc của những đường nét u buồn đă bị khuất phục, một cái nh́n không ảo giác, sự thông minh hùng dũng dám đương đầu với những cuộc tranh đấu ở đời sống khi trí tuệ không bao giờ chịu tỏ ra bối rối.
Tagore đă chịu ảnh hưởng từ nhỏ con người hoàn toàn do Bhagavad Gitâ phác họa.
Không có buồn phiền nào hạ được hắn
Không có ham muốn nào xúi dục nổi hắn
Hắn cư ngụ ở bên kia những rối loạn đam mê
giận giữ và sợ hăi
hắn tiếp nhận bất hạnh không tiếng kêu than
và ân huệ không lộ nỗi vui mừng.
Tagore sinh trưởng trong một gia đ́nh thượng lưu tài danh của xứ Bengale, nên được hấp thụ đầy đủ không khí học thuật văn nghệ. Ông nội Tagore là quốc-vương, cha là một nhà đại điền chủ ái quốc, và đều là những bậc hiền tài, có đầu óc xă hội. Chú là một nhà văn kiêm chính trị gia thủ lănh một đảng chính trị lớn, luôn tranh đấu cho lư tưởng của dân tộc Ấn. Các anh chị Tagore cũng đều lẫy lừng trong giới thượng lưu trí thức Ấn-Độ.
Anh cả Doijendranath là một hiền triết. Anh thứ hai thi sĩ nổi danh về những bài hát tế. Anh thứ ba, tác giả nhiều tập nghiên cứu khoa học.
Chị thứ tư, vợ một nhà văn danh tiếng xứ Bengale, tác giả nhiều tác phẩm lớn.
Anh thứ năm, Jyotyrindra, một nhà soạn nhạc cũng rất nổi danh, và c̣n là dịch giả nhiều cuốn Anh, Pháp, Ấn. Nhưng tất cả các thiên tài của gia đ́nh tài hoa ấy đều phải nhường bước trước thiên tài Tagore, là đứa con thứ bẩy đă tập trung được hết tất cả tinh hoa của gia đ́nh danh tài.
Tagore ra đời ngày 6 tháng 8 năm 1861. Ngay từ nhỏ Tagore đă là một đứa trẻ nhậy cảm, sớm đam mê đi khám phá sự bí mật của sự vật nên rất thù nghịch với những ư tưởng làm sẵn hàng ngày của đời sống. V́ thế nên ông luôn cảm thấy thương tổn đối với những g̣ bó ép uổng người ta buộc vào ông suốt thời niên thiếu.
Chú bé Tagore bắt đầu đi học năm lên sáu qua nhiều trường, nhưng ở trường nào chú cũng tỏ ra là một học sinh rất dốt. Khi học ở Học-viện Bengale, Tagore càng cảm thấy chán nản và thốt lên rằng: “Tôi cảm thấy khổ sở như một con thỏ nhốt trong chuồng ở sở thú”. Chính trong lúc đó mà v́ muốn cưỡng lại tất cả những ép buộc, Tagore đă t́m cách phân tích t́nh cảm của ḿnh, cố diễn tả cái nhân tính hăy c̣n rối ren đó: Tagore viết những bài thơ đầu. Gia đ́nh Tagore có vẻ thất vọng về con đường học vấn của chú bé, nên đành để chú ở nhà cho tự do học hỏi, và thấy rằng thật không có chút kỳ vọng nào ở chú cả.
Nhưng tất cả lầm, v́ ở trường ông chán nản bao nhiêu th́ ở nhà, không khí thân mật càng làm ông phấn khởi bấy nhiêu. Ông ra công nghiên cứu kinh sách, khoa học, sinh ngữ. Ông rất ham mê học hỏi, đọc bất cứ tác phẩm nào tới tay ông, v́ thế ông rất thạo Anh-ngữ, sau này ông đă tự tay dịch các tác phẩm của ḿnh. Nhờ thế, thế giới mới được dịp biết tài ông.
Năm 8 tuổi ông đă bắt đầu làm thơ, những vần thơ đầu là để than thở sự bó buộc và ca tụng tự do, thiên nhiên bên ngoài. V́ nhà đông anh em, cha lo việc xă hội nên luôn luôn vắng mặt, công việc ở nhà do quản gia trông coi. Những người này v́ muốn buộc chú bé phải ngồi yên một chỗ cho khỏi chạy lêu lổng, liền vẽ một ṿng tṛn bằng phấn xung quanh chú bé, và dọa nếu ra khỏi sẽ bị đ̣n nặng. Chú bé cứ phải ngồi yên lặng hàng mấy giờ liền và ngắm cảnh vật bên ngoài qua một khung cửa sổ: một cái ao, một cây đa, một cây dừa…đều khích động tới tưởng tượng của chú.
Hỡi cây đa bách tuế, với những dễ quấn quưt vào cành đứng ngày đêm bất động như một nhà tu khổ hạnh đang đọc kinh xám hối.
Mi có nhớ tới đứa trẻ mà trí tưởng tượng của nó đă nô đùa với bóng mát của mi không?
Thế giới là đó, rất gần gũi nhưng bị cấm. Cái ṿng tṛn khó vượt qua đè nặng. Vũ trụ thu nhỏ trong h́nh ảnh, những h́nh ảnh của giấc mộng bên trong. Tại sao lại bị cấm đoán, tại sao đứa trẻ không được tự do chạy nhảy uống ánh nắng nô đùa với hoa cỏ chim chóc?
Kỷ luật rất ngặt, tự do trong tinh thần nẩy sinh, Rabin-dranatha nhớ rất lâu tới sự ngạt thở này:
Con chim bị bắt nốt trong lồng
Con chim tự do trong rừng
Khi thời gian đă đến
Một ngày số kiếp đă định
Chúng gặp nhau
Con chim tự do nói: “Tới đây, ḿnh ơi! Hăy cùng bay với nhau vào rừng”
Con chim bị giam năn nỉ: “Lại gần tôi, và hăy ở cùng tôi trong lồng này”
Con chim tự do nói: “giữa những cánh song thế kia làm sao tôi mở cánh tôi được?”
“Chao ôi! Con chim bị nhốt nói, trên bầu trời, tôi cũng sẽ biết để cánh tôi vào đâu”.
Những vần thơ đầu tiên làm năm lên bẩy lên tám tuy không có giá trị ǵ, nhưng người anh cả của Tagore đọc cho mọi người nghe với lời khích lệ đứng đắn, nên Tagore năm mười ba tuổi dă cho đăng những bài thơ đầu trên nguyệt san. Một kỷ niệm ông cho là quư báu nhất trong đời làm thơ của ông là khi ông được làm quen với thi sĩ Bankim Chattergee, người mà ông vẫn ngưỡng mộ. Tagore được ông yêu quư và khuyến khích đặc biệt. Có một buổi, nhân sử gia Dutt cưới vợ, bữa đó để tỏ ḷng ái mộ một văn tài, theo tục lệ, chủ nhân liền lấy ṿng hoa quàng vào cổ Bankim. Tagore cũng có mặt trong tiệc cưới hôm đó, thi sĩ Bankim liền lấy ṿng hoa ở cổ ḿnh ra quàng vào cổ Tagore và nói: “Ṿng hoa này đáng trao cho thi tài này”. Rồi ông liền lấy tập thơ của Tagore ra hết lời khen ngợi. Tagore ôm mặt khóc v́ sung sướng, từ đó ông luôn luôn tin tưởng là ḿnh có chân tài. Sau này khi nhận gải Nobel, ông đă nhớ lại cái ơn khích lệ của thi si Bankim. Sự khích lệ đó với ông c̣n nhiều lần giá trị hơn giải Nobel. Tuy được Bankim khen, thực ra thơ Tagore vẫn chưa có ǵ là xuất chúng.
Năm mười bảy tuổi, ông đă viết được tới bẩy ngàn câu thơ và vào năm đó gia đ́nh ông gửi ông sang học Luật ở Anh quốc. Con chim lạ của phương Đông bỗng phải ngừng ca hát ở xứ sương mù. Tuyết lạnh ở Luân-đôn đă làm ông ngạc nhiên: “Thật như một giấc mộng, tất cả rất gần mà như rất xa, lần đầu tiên tôi vượt khỏi ngưỡng cửa gia đ́nh mà đă khám phá được một vẻ đẹp bất ngờ vô tận”.
Nhưng sương mù lạnh lẽo ở Anh làm ông thấy buồn tẻ, đối với Tagore phải là những hoa sen trên ḍng dông Gange, ánh sáng của bầu trời xanh thăm thẳm, hương thơm nồng nàn của xứ Bengale. Cho nên ít lâu sau ông bỏ về quê hương.
Ngày về của ông rất trữ t́nh lúc t́m lại con sông xưa và giấc mơ êm ái. Xứ Bengale đă chỉ cho đứa con trở về chí hướng dầu tiên của nó. Bên ḍng sông Rabindranath viết:
Đó, ở trong không gian vô giới hạn
mà những đám mây trải dài nằm ngủ
Ta xây ngôi nhà cho em, nàng Thơ hỡi.
Tuy thế cuộc thăm viếng nước Anh cũng ghi dấu lại trong tác phẩm cả Tagore, đó là sự so chiếu đầu tiên giữa Đông phương và Tây phương.
Với đôi mắt mới, ông nh́n ra thế giới. Thế giới rộng lớn biết bao, đẹp đẽ biết bao, mà nỗi thống khổ của cá nhân con người cũng cỏn con biết bao trước vũ trụ.
* *
*
Tagore thực sự gia nhập vào nghiệp văn chương với tác phẩm đầu tay: Sandhyà Sangit (Khúc hát buổi chiều). Tập thơ này tuy kỹ thuật chưa sắc bén nhưng cũng nói lên được rất nhiều tư tưởng của Tagore, và cũng được coi là một trong những luồng tư tưởng điển h́nh của cuộc đời ông. Cuốn sách ra đời năm ông vừa 20 tuổi, tuổi chớm thanh xuân, làm cho mọi người hướng về Tagore như một v́ sao mới mọc đă chói sáng. Qua tác phẩm này người ta đọc được tâm sự u ẩn, đè nén của một dân tộc bị áp bức. Chàng trai Tagore bấy giờ mới bước vào đời t́m cách giải thích ư nghĩa hành vi của ḿnh sẽ làm trong đời sống bằng một quan niệm nhị nguyên. Con người có thể phân ra làm hai loại bản ngă: bản ngă vĩnh cửu và bản ngă nhất thời. Bản ngă nhất thời làm căn bản cho những hoạt động vô tổ chức, thiếu suy xét hàng ngày. C̣n nhờ bản ngă vĩnh cửu con người có thể thoát ra khỏi những ước lệ tầm thường, những ràng buộc của vật chất để đi sâu vào bản thể sự vật, do đó con người và vũ trụ có thể ḥa đồng với nhau được. Muốn đạt được bản ngă vĩnh cửu th́ phải phấn đấu với tâm lư. Trong một đoạn thư Tagore viết như sau:
“Tôi cảm thấy rơ ràng rằng đời sống tạm thời của chúng ta không thể nào hợp nhất với đời sống trường cửu được. Đời sống nhất thời chỉ bám vào đời sống trường cửu thôi. Nhưng sự khổ đau sung sướng của con người chỉ có ở trong đời sống nhất thời, đời sống trường cửu không bao giờ chia sẻ hai trạng thái đó… Chúng ta có thể vượt ra khỏi những dằn vặt, những trói buộc hàng ngày. Chúng ta theo đuổi thú vui chơi hành lạc, nhưng cũng nhiều khi chúng ta ra công chiến đấu với đời sống nhất thời và lấy làm sung sướng rằng đau khổ cũng đẹp đẽ như một ṿng hoa choàng cổ vậy.
Một giáo sư ở Bombay nói rằng: “Bản ngă vĩnh cửu tiêu biểu cho bóng h́nh của thi hào, nó c̣n thanh cao hơn chính bản thân thi hào, nó đă gợi hứng cho thi hào trên khoảng không mà nó ngự trị”.
¶ ¶
¶
Sống bên hoa cỏ chim và hương khói buổi chiều Tagore khám phá ra một nguồn vui đơn giản và lớn lao, nguồn vui mà ông ca tụng suốt cuộc đời đó là cái vui khiêm nhường được có ở trên thế giới! Ông nhận lănh được sự toàn phúc và sự lăng quên chính bản thân. Tập Les chants du matin bắt đầu nỗi vui này.
Sáng nay một con chim đă chỉ lối cho tôi
Dẫn tôi ra khỏi rừng
Tới bờ của đại-dương-vui-sướng
Bỗng chốc tôi nh́n thấy mặt trời
Bỗng chốc tôi nghe thấy tiếng hát
Bỗng chốc tôi gửi thấy mùi hương hoa ngào ngạt
Bỗng chốc linh hồn tôi mở rộng.
(Les chants du matin)
Tập Prabhat Sangit (Les chants du matin) là tập diễn tả niềm vui sướng ḥa đồng với ngoại vật của thi nhân. Tagore muốn ḥa ḿnh vào thiên nhiên cây cỏ, vui đùa với chim mông hoa cỏ núi đồi. Đi vào thiên nhiên con người cảm thấy một nguồn vui vô tận, mọi việc lúc đó đều trở thành tầm thường b́nh dự trước sự bao la rực rỡ của thiên nhiên. Sự lo sợ của con người trước cái chết cũng vụt tan biến, v́ chết cũng là sự ḥa hợp với thiên nhiên vĩnh cửu. “Khúc ca buổi sáng” là một tập thơ chan chứa yêu đời gồm 13 bài thơ là 13 vũ khúc. Thi nhân trở thành độ lượng khoan dung v́ tất cả những sự tầm thường hèn mọn đến đâu cũng trở thành niềm vui thú được như người ta “Nghe thấy vang dậy khắp nơi từ mặt đất cho tới tận trời sao, một điệu nhạc thanh tao dịu dàng đầy ư nghĩa và rất thiết tha”.
* *
Năm 22 tuổi Tagore cưới vợ, nàng Mrinalini Devi, và 17 năm chung sống hạnh phúc với người vợ hiền đă mang cho tác phẩm ông một sự no đủ và một nguồn cảm trữ t́nh chưa bao giờ có. Khuynh hướng thi ca của ông cũng thay đổi, ít những bài diễm t́nh mà phần nhiều thuộc loại tụng thân ca. Tagore sống với vợ trong một trang trại như một ẩn sĩ.
Phần lớn những thi ca và tiểu thuyết nổi tiếng của ông được sáng tác trong thời kỳ này- những cuốn Jardinier d’amour, la Fugitive, le Don d’Amant, la Traversée… - là những cuốn thơ viết trong thời kỳ chứa chan hạnh phúc này.
Tagore không bao giờ kể chuyện tâm t́nh cho chúng ta, người ta chỉ biết ông rất cưng chiều vợ. Nhưng thực sự dịu dàng không phải là đối tượng trong thơ ông. Bên cạnh người đàn bà, nửa là vợ, nửa là mộng, ông muốn thực hiện một sự kết hợp hoàn toàn. Ông sớm nhận ra cái phù phiếm của ham muốn:
Tôi bóp chặt tay nàng và gh́ chặt nàng vào ngực tôi.
Tôi cố gắng chất đầy sắc đẹp của nàng trong tay tôi,
cướp nụ cười nàng bằng những cái hôn, uống những
tia nh́n của nàng bằng mắt tôi..
Nhưng chao ôi, ! tất cả nó đâu rồi ?
Tôi cố gắng siết lấy sắc đẹp th́ nó vượt khỏi
chỉ c̣n lại một thân h́nh ở trong tay tôi.
Rồi loạn và mệt ră, tôi ngă xuống
Làm sao thể xác có thể với tới được đóa hoa mà chỉ riêng
linh hồn mới có thể ?
Thi sĩ nhận ra là ḷng ham –muốn-vô-cùng kéo ông vượt lên khỏi ham muốn nhục thể. Tagore lư tưởng hóa vợ ông, nâng lên sự toàn bích, coi nàng như tác phẩm của thượng-đế. Những bài thơ viết tặng Ourvashi nữ thần của sắc đẹp chứng tỏ một sự phân tích tỉ mỉ tâm lư phụ nữ, dấu hiệu của sắc đẹp vượt khỏi nhục dục.
* *
*
Nhưng hạnh phúc không ở lâu với ông, trong mấy năm liền, vợ ông mất, con gái cũng chết, con trai ông cũng chết luôn:
“Hăy tin vào t́nh yêu, dù nó mang lại đau buồn
Hăy giúp tôi có được óc hy sinh khó khăn hàng ngày”.
Nhưng sau đó là một t́nh trạng cô quạnh trầm trọng hơn là một sự thất vọng lăng mạn. Ông đề tặng hai mươi bẩy bài thơ trong Smaran để ghi nhớ vợ ông. Rải rác trong các cuốn La Fugitive, La Corbeille d Fruits, le Don d’Amant La Traverséc, đều in dấu vết thảm thiết của sự thất vọng. Người bạn thơ của ông thi sĩ Satish Chandra Roy, cha ông Deven-dranath, anhh ông Samindranath cũng lần lượt từ trần (khoảng 1902 tới 1907). Tagore cứ cúi măi không những xuống sự đau đớn, mà c̣n xuống ư nghĩa của sự huyền bí của đời sống và cái chết. Từ đó, cái chết luôn luôn có mặt trong thơ ông, ông không công nhận rằng chết là một sự hoàn thành một cuộc đời trái lại ở ngưỡng cửa của vĩnh viễn c̣n có một sự ǵ khác mới bắt đầu.
Ngài là trí tuệ thâm sâu nhất của hữu thể tôi ngài có
bằng ḷng không
hỡi vị Chúa Tể của đời tôi.
V́ tôi đă dâng ngài cái b́nh
chứa đầy những khổ sở và vui sướng của tôi.
Tôi không biết sao ngài chọn tôi là đồng bạn
ngài có giữ ngày và đêm,
những hành vi những giấc mở của tôi vào việc tôi luyện nghệ thuật của ngài không ?
Ngài có ḥa vào âm nhạc của những khúc ca mùa thu
mùa xuân của tôi không,
và ngài có hái những đóa hoa đă măn khai của tôi cho ṿng hoa của ngài không ?
Tập thơ có tiếng nhất của Tagore khiến ông được trao giải Nobel là tập Gitânjali, nó là kết quả của sự suy nghiệm về đớn đau của con người, nhất là về ư nghĩa tử sinh sau khi những người thân thiết nhất của ông lần lượt ĺa đời. V́ đau khổ quá khiến tâm hồn ông chai cứng gần như chết đi, và sau cùng v́ ông vẫn c̣n tiếp tục sống nên ông thấy lóe ra một lối thoát cho đớn đau khiến ông như tái sinh ra lần nữa ở cơi đời này bằng một quan niệm sống mới mẻ. Ông trở về trước Thượng-đế mà ông gọi là bậc thầy của Thi nhân (maitre-Poète) và xin được sống trọn vẹn trong vẻ đẹp nhiệm mầu của Thi ca:
“Ḷng khoa trương Thi sĩ của tôi sẽ chết đi v́ hổ thẹn khi giáp mặt Ngài, ôi Bậc Thầy của Thi nhân, tôi xin được ngồi dưới chân Ngài. Và nguyện đời tôi được giản dị và ngay thẳng như ông sáo mà Ngài đă ban đầy âm nhạc”.
(Gitanjali)
Muốn giải thoát cho ư nghĩa cái chết đă ám ảnh ḿnh từ cả chục năm, thi sĩ tự cho ḿnh một sứ mệnh thiêng liêng đối với quan niệm hẹp ḥi và sự lo âu của con người trước cái chết. Nếu cứ luôn luôn bị ám ảnh bởi cái chết, làm sao có thể hiểu rơ giá trị của đời sống để tận hưởng nó. (Thật sự, Tagore muốn nói rằng nếu có cái chết bên cạnh, th́ ư nghĩa đó chính là để chúng ta đối chiếu nó với giá trị của đời sống để tận hưởng cuộc đời mà thôi).
V́ sự sống và sự chết không có ǵ mâu thuẫn với nhau cả. Chết đi vũ trụ vẫn thanh cao, thiên nhiên vẫn tươi đẹp, âm nhạc vẫn tưng bừng, con người tan vào thiên nhiên tan vào và ẩn khuất trong sự tuyệt diệu vĩnh viễn đó. Tới bờ vực cái chết là đi vào một cuộc hành tŕnh, một cuộc xuống thuyền ra đi khỏi bờ của thế giới trần gian vào cơi vô cùng dưới con mắt nh́n đầy ân huệ của Thượng-đế.
Tagore là một người hữu thần, tin ở Thượng đế? Không hẳn thế, v́ ông đă đặt vào lời Kabir, nhân vật của ông, lời nói sau: “Ta không mộ đạo, cũng không vô thần (chữ đạo có nghĩa tổng quát để chỉ sự tín ngưỡng mà tôi), ta không đi tới địa ngục cũng không đi tới thiên đàng”.
Con người đi sâu vào cảnh khổ, càng thấy cơi vô cùng đi gần với thế giới hữu hạn, Thượng-đế gần với con người. Con người ḥa hợp với những h́nh ảnh thiêng liêng siêu h́nh, và cánh cửa linh hồn mở rộng để đón nhận tất cả ân huệ của đời sống và của Thượng-đế.
Trong việc làm thơ cũng như trong đời sống, Tagore nhiều lần vượt qua 3 giai đoạn chính của tâm hồn.
- Santam: sự b́nh yên sau cuộc chinh phục bản ngă.
- Sivam: sự thân thiện, hoạt động của linh hồn sau khi bản ngă đă bị khuất phục.
- Advaitam: T́nh yêu sau cùng, hợp nhất và ḥa đồng với tất cả, với Thượng-đế.
Tagore sinh ra để hát lên những lời ca ngợi Thượng-đế.
Tôi yêu đời tôi, v́ tôi yêu ánh sáng của bầu trời bao quanh tôi, tôi sẽ hái những hoa quả của tôi chứa đầy lẵng để mang vào vườn của Ngài.
Ông đă vượt qua được cô quạnh. Cái chết chỉ là một quăng cách để tới một sự bất đầu lại.
* *
*
Khi ông 50 tuổi, ông bắt đầu dịch thơ của ông ra Anh ngữ, được các thi sĩ Anh đón tiếp nồng nhiệt, v́ vậy ông nổi tiếng trên thế giới bắt đầu từ Anh-quốc. Và năm 1913 là năm ông 53 tuổi, ông được Hàn-lâm-viện Thụy-Điển trao tặng giải Nobel. Ông là người Á-châu đầu tiên được vinh dự lănh giải này, danh vọng ông tới bực thang cao nhất. Năm 1915 v́ hâm mộ ông từ lâu. Anh-hoàng trao tặng ông chức Huân-tước, nhưng ông không nhận, lấy cớ là dân tộc ông đang lầm than ông không thể vui sướng một ḿnh (Ấn-độ hồi ấy đang bị người Anh đô-hộ).
Ngoài công việc sáng tác và trước tác, ông đă có lần hoạt động chính trị, gia nhập một chính đảng, nhưng chẳng bao lâu ông nhận thấy rằng sự vận động về chính trị kinh tế không có lợi ích trường cửu, mà chỉ có vận động bằng văn hóa mới có giá trị sâu xa, lâu dài. Ông đă nhấn mạnh rằng cuộc tranh đấu của chúng ta là I cuộc tranh đấu gắt gao về tinh thần. V́ thế năm 1901 ông thành lập Ḥa-B́nh Học-Viện (Santiniketan) để thực hành tư tưởng và triết lư của ông, và cũng để áp dụng quan niệm mới về giáo dục của ông bấy giờ đối với một đường lối giáo dục đô hộ của người Anh. Có lẽ chính v́ ông đă có một kinh nghiệm bản thân về sự khắt khe tù tội mà học đường đă hành hạ ông những năm c̣n nhỏ đi học.
Tagore xuất hiện đồng thời với một nhân tài siêu việt khác của Ấn là Thánh Ghandi, nhưng hai người lại đứng trên hai lập trường tiêu biểu chống đối nhau trong trào lưu tư tưởng Ấn để vận động cho xứ sở, Ghandi đứng trên lập trường tôn giáo chính trị, Tagore trên lập trường văn học triết lư. Hai vị đă nhiều lần bút chiến, nhưng dù lập trường chống đối bao giờ họ cũng tôn kính nhau v́ họ đều là những bậc thánh nhân.
Tháng 8 năm 1941 Rabindranath Tagore từ trần hưởng thọ 80 tuổi để lại một chỗ trống khó bù đắp cho nền văn học Ấn, và để lại cho toàn thể thế giới một toàn bộ tác phẩm vô cùng phong phú về ư nghĩa sinh tử của con người trước cuộc đời.
NGUYỄN QUANG HIỆN
Tháng 6-1964
Thơ Rabindranatha Tagore
![]() |
Bản dịch: Nguyễn Đ́nh Toàn & Nguyễn Quang Hiện
GITANJALI
I
Người đă tạo tôi thành vô biên, đó là thú vui của Người. Cái ly rượu mong manh này người đă không ngớt tát cạn và làm đầy trở lại bằng nhựa sống tươi mát.
Cái ống sáo sậy nhỏ bé này, Người đă mang theo nó cả núi đồi và thung lũng, và Người đă thổi lên những nhạc điệu đời đời vẫn mới.
Ân huệ của Người th́ vô tận, mà hai cánh tay tôi th́ quá ngắn. Những niệm kỷ đi qua và Người vẫn c̣n ban ân huệ nhưng tay tôi luôn văn c̣n những chỗ để làm đầy.
II
Khi Người bảo tôi hát, h́nh như trái tim tôi đă căng đầy kiêu hănh, tôi ngước nh́n dung nhan Người và lệ lứa đầy trên mắt.
Tôi biết Người ưa tôi hát và biết rằng chỉ như một ca sĩ tôi nhận sự có mặt của Người.
Say sưa với cái thú vui ca hát, tôi quên mất chính bản thân ḿnh, và tôi gọi Người là bạn, Người vị Chúa Tể của tôi.
VII
Lời ca của tôi đă lột hết điểm trang. Tôi không c̣n đặt nó trong ḷng kiêu hănh. Những đồ trang sức làm cản trở chúng ta xum vầy và tiếng khua động của chúng tới che lấp lời th́ thầm của Người.
Người: Ôi Bực-Thầy-của-Thi-Nhân, tôi ngồi dưới chân Người. Tôi chỉ nguyện làm sao cho đời sống, tôi được giản dị, ngay thẳng như ống sáo mà Người đă làm đầy âm nhạc.
VIII
Tôi đă nhận được lời mời đi vào đại hội trần gian, và như thế đời tôi đă được chúc lành. Mắt tôi đă nh́n và tai tôi đă nghe.
Phần vụ của tôi trong cuộc lễ này, là sử dụng nhạc khí của ḿnh, và tôi đă cố làm hết sức tôi.
Có phải bây giờ đă đến lúc tôi được phép đi vào để giáp mặt Người và dâng Người lời chào mừng thầm lặng.
XXV
Nơi mà trí tuệ không sợ hăi và ngửng cao,
Nơi mà trí thức tự do,
Nơi mà đời sống không bị cắt rời bởi những thành tŕ hẹp ḥi
Nơi mà ngôn ngữ thốt lên từ đáy ḷng thành thật,
Nơi mà sự cố gắng không ngừng hướng tới sự toàn bích,
Nơi mà ḍng trong sáng của lư trí không bị lạc lơng tuyệt vọng trong sa mạc buồn tẻ và khô cằn của tập quán,
Nơi mà trí tuệ được Người hướng dẫn tiến tới sự phát triển không ngừng của tư tưởng và hành động,
Trong thiên đường tự do đó,Cha ơi, xin cho quê hương tôi thức tỉnh.
XLII
Vào sáng tinh sương một tiếng th́ thào nói rằng chúng ta sắp sửa xuống thuyền, chỉ có một ḿnh Người và tôi, và không ai trên đời biết ǵ về cuộc hành hương vô hướng vô định của chúng ta. Trên đại dương không bến bờ, trước nụ cười yên lặng của Người, tiếng hát của tôi vút lên thành nhịp điệu, tự do như làn sóng và vượt ra khỏi sự ràng buộc của ngôn ngữ.
Đă đến giờ chưa? C̣n việc ǵ làm ở đây nữa? Người hăy nh́n xem, chiều đang xuống trên băi cát và trong ánh sáng tàn tạ con chim biển đang bay về tổ ấm.
L
Tôi đă đi ăn mày từ cửa này qua cửa khác. Trên con đường làng th́ cỗ xe vàng của Người hiện ra ở đằng xa như một giấc mộng huy hoàng và tôi chiêm ngưỡng vị Vua của các v́ Vua!
Chiếc xe ngừng lại nơi tôi đứng. Người để mắt nh́n tôi và Người xuống xe với nụ cười. Tôi cảm thấy sự may mắn của đời tôi sau cùng đă đến. Bỗng nhiên, Người ch́a bàn tay và bảo: “Người có ǵ cho ta không ?”
A ! Ch́a tay xin một kẻ ăn mày, cái tṛ chơi vương giả này làm tôi bối rối ngẩn ngơ, sau cùng, tôi lấy ra ở trong bị một hạt lúa nhỏ trao Người.
Nhưng tôi nhạc nhiên biết bao, khi buổi tối trở về, trút bị xuống đất, tôi thấy cả một hạt vàng giữa những hạt lúa hèn mọn.
Tôi liền khóc lên cay đẳng và nghĩ rằng: Sao tôi không có ḥng hiến dâng. Người tất cả đời tôi.
LX
Trên bờ thế giới vô tận, bầy trẻ con tụ họp.
Trên đầu chúng bầu trời xanh bao la êm đềm và bên cạnh những làn sóng vang động không ngừng.
Trên bờ thế giới vô tận, bầy trẻ con tụ tập nhẩy múa và la hét.
Chúng xây nhà bằng cát và chơi vỏ hến. Với những lá vàng chúng thả xuống biển sâu làm thuyền. Bầy trẻ con chơi đùa trên bờ thế giới.
Chúng không biết bơi, chúng không biết quăng lưới, những người ṃ ngọc lao ḿnh xuống nước, những người lái buôn dương buồm, lũ trẻ nhỏ vơ đá cuội chơi rải ranh, chúng không t́m kiếm kho tàng dấu kín, chúng không biết quăng lưới.
Thủy triều dâng lên với tiếng cười và băi cát mỉm cười những mảnh ánh sáng sám.
Trên bờ thế giới vô tận bầy trẻ con tụ họp. Trận băo đi lang thang trên nền trời không lối, những chiếc tàu ch́m trong biển không dấu vết, thần chết lảng vảng và bầy trẻ con nô đùa. Trên bờ của thế giới vô tận có bầy trẻ con tụ họp.
XC
Ngày mà thần chết đến gơ cửa nhà anh, anh sẽ tặng y quà ǵ? Nhất định tôi sẽ không để y ra về tay không. Tôi sẽ đặt trước thần chết chiếc b́nh tràn đầy của đời tôi với những trái nho dịu ngọt mà tôi đă hái trong những ngày mùa thu và những đêm mùa hè, những bó lúa ngày mùa và những hạt thóc lượm lặt trong cuộc sống đa mang, tôi sẽ đặt chúng trước cửa nhà khi thần chết đến gơ.
XCII
Tôi biết tôi sẽ có một ngày tôi nhắm mắt ĺa đời, sự sống đă nghỉ ngơi yên lặng trong tôi sau khi đă buông màn trước mắt.
Tuy vậy những ngôi sao vẫn thức dậy ban đêm b́nh minh vẫn trở ḿnh như cũ, và thời gian vẫn đầy giống như những cơn sóng biển mang theo lạc thú và buồn phiền.
Khi tôi nghĩ tới phút giây ngừng nghỉ này, bỗng nhiên ánh sáng của thần Chết chiếu rọi vào tôi và cái vũ trụ của Người với những kho tàng no đủ. Êm ái biết bao nhiêu nơi trú ngụ khiêm nhường; êm ái bao nhiêu ngay cả cuộc đời kém giá nhất.
Những của cải mà tôi ước ao một cách vô ích và những của cải mà tôi đă có được những điều mất rồi!
XCIII
Tôi đă đến kỳ nghỉ ngơi: Các Bạn ơi ! Hăy cầu chúc cho tôi lên đường b́nh yên, tôi ngả mũ chao các bạn đó.
Đây, tôi để chiếc ch́a khóa trước cửa nhà, và để lại đó tất cả mọi quyền hành.
Tôi chỉ xin các bạn hăy nói với tôi vài lời chúc lành. Trong thời kỳ chúng ta gần gũi, tôi đă nhận được của các bạn nhiều hơn là cho đi.
Bây giờ ngày đă rạng, ngọn đèn lụn đă chiếu sáng vào góc tối của tôi. Một tiếng gọi vọng tới và tôi đă sẵn sàng lên đường.
XCIV
Giờ khởi hành đă đến, hăy chúc tôi may mắn, bạn ơi !
Bầu trời đỏ b́nh minh, lối đi đă mở ra tuyệt diệu.
Xin đừng hỏi tôi mang theo cái ǵ ? Tôi ra đi với hai bàn tay không và với trái tim đầy mong đợi.
Tôi sẽ đợi cái ṿng hoa hôn phối. Tôi không mặc chiếc áo nâu của những kẻ hành hương, trí óc tôi không hề sợ hăi dù trên đường đi đầy gian nan.
XCVI
Thoạt đầu tôi không ư thức được thời gian mà tôi đă vượt qua ngưỡng cửa cuộc đời.
Đâu là cái uy quyền đă mở cửa cho sự huyền nhiệm bao la này, như một bông hoa mở giữa đêm khuya ở trong rừng.
Lúc sớm mai mắt tôi mở ra trong ánh sáng, tôi bỗng cảm thấy rằng tôi đă không c̣n là một khách lạ của trần gian này.
Cũng như thế cái chết hiện ra với tôi như một kẻ vô danh đă từng quen biết. Và bởi v́ tôi yêu cuộc đời này, tôi biết là tôi sẽ cũng rất yêu cái chết.
Đứa trẻ thét lên khi người mẹ kéo nó ra khỏi bầu ngực phải, để một phút sau nó lại t́m thấy an ủi bên bầu ngực trái.
XCVI
Khi rời khỏi nơi này, đây là những lời giă biệt của tôi: cái mà tôi đă nh́n thấy th́ không có cái ǵ đáng ngạc nhiên.
Tôi đă được nếm chất mật kín đáo của bông sen nở trên đại dương ánh sáng và như thế tôi đă được ban ơn – đó là lời tôi giă biệt.
XCVII
Khi chúng ta cùng nô đùa với nhau, chưa bao giờ tôi hỏi Người là ai? Không phải tôi thẹn thùng hay sợ hăi, cuộc đời tôi vẫn luôn náo nức.
Lúc sáng sớm, như một người bạn ngay thẳng, người gọi tôi trở dậy và dẫn tôi từ khoảng quang đăng này đến khoảng quang đăng khác.
Trong lúc đó, tôi không quan tâm đến ư nghĩa của bài ca mà Người đă hát cho tôi. Giọng nói của tôi nhập điệu trái tim tôi cũng nhẩy múa theo nhịp.
Như bây giờ, phút vui chơi đă qua rồi, cái nh́n bất chợt nào đây? Vũ trụ và rất cả những v́ sao im lặng dâng lên sự kính phục, những cái nh́n cúi xuống dưới chân người.
XCVIII
Tôi phủ dưới chân Người ṿng hoa bất bại.
Chắc chắn tôi linh cảm thấy sự lầm lạc của ḷng kiêu hănh ḿnh; tôi biết rằng sự khó nhọc quá đáng của đời tôi đă làm vỡ giới hạn, trái tim trống của tôi giống như một ống sậy rỗng, bay lên tiếng nức nơ du dương, và những viên đá cuội tan ra thành nước mắt.
Chắc chắn tôi biết rằng trăm cánh hoa sen không nở măi, nhưng chúng t́m thấy cái kho tàng kín đáo của mật ngọt.
Trên trời cao một con mắt theo dơi tôi đă gội cho tôi sự yên lặng. Không có cái ǵ bỏ rơi tôi cả.
Và dưới chân Người tôi chấp nhận cái chết toàn vẹn.
C
Tôi lao ḿnh vào chiều sâu của đại dương h́nh thức, trong hy vọng đạt tới viên ngọc hoàn hảo và vô h́nh. Trên cái thuyền bị sóng gió rập vùi, tôi không c̣n bơi từ cảng này tới cảng nọ được nữa
Đă xa rồi những ngày tôi rỡn đùa với sóng.
Và bây giờ tôi ước nguyện được chết trong cái không chết.
Trong tính pḥng cạnh cái hang không đáy tỏa ra một điệu nhạc không âm độ, tôi ôm lấy chiếc thụ cầm của đời tôi.
Hơi thụ cầm ta phụ họa mi phương thức của vĩnh cửu ! và khi tiếng nức nở cao nhất của mi ngân lên, dưới chân Đài Yên Lặng, ta sẽ đặt mi nằm im.
CI
Vâng, trước mặt họ tôi sẽ khoe khoang là đă được biết Người. Họ sẽ nh́n thấy chân dung Người trong tất cả tác phẩm của tôi. Họ tới hỏi tôi: “Ai thế vậy ? – tôi chỉ biết trả lời: “Sự thực tôi biết nói ǵ với các anh?” Họ trách cứ tôi và quay đi khinh bỉ. Và Người vẫn giữ nguyên nụ cười.
Tôi kể truyện Người trong những khúc ca khó quên, sự bí mật đă tràn ra khỏi tim tôi. Họ tới và hỏi tôi: “Hăy cho chúng tôi biết tất cả những cái đó có nghĩa ǵ ? Tôi chỉ biết trả lời họ: “A ! A ! Ai biết được nó nghĩa là ǵ ?” Họ mỉm cười quay đi khinh bỉ. và Người, Người vẫn giữ nguyên nụ cười.
CIII
Trong một sự cúi chào tối cao, hỡi Thượng-đế tất cả những giác quan của tôi đều hướng tới và chạm vào thế giới dưới chân Người.
Như một đám mây tháng bẩy chứa nặng mưa rào, trí tuệ tôi nghiêng xuống trước cửa nhà Người, trong sự cúi chào tối thượng.
Những nhịp điệu của tôi hát hội lưu thành một ḥa âm duy nhất và quần tụ với nhau nơi đại dương của yên lặng trong sự cúi chào tối thượng.
Như một bầy chim du mục ngày đêm kiên nhẫn bay về tổ trên núi cao, hỡi Thượng-đế, xin cho đời tôi hướng tới được nơi cư trú ngụ đời đời, trong sự cúi chào tối thượng.
(Gitanjali)
tới những biên giới của trần tục
Ôi quá khứ,
bạn đường của những người nh́n lại phía sau
khuôn mặt lờ mờ của những khát khao chưa măn
hăy coi ta là đồng bạn
tới từ khu vực tinh thần vô tận
Như bầy ong kéo nhau về khu rừng không hoa
mi gẩy đàn Sitar với ḷng nhiệt thành nóng cháy
và chiếu bóng đổ dài tới vĩnh biệt hoàn hôn.
Ôi quá khứ,
cuốn đi mất tâm t́nh mộng đẹp !
tới những đặc quyền của Tử thần
mi đă bóc trần
những kho tàng của thống khổ,
sự khoa trương của ḷng ham muốn.
Hăy trả lại cho nó !
Bây giờ, trên nền trời không mây
trên tiếng sáo du tử
một sự ḥa điệu đà ngân lên
ta muốn cùng đi theo.
Bạn là ai, hỡi bạn đọc, người sẽ đọc những bài thơ của tôi trong một trăm năm sau.
Tôi không thể nào gửi cho bạn một bông hoa nào của kho tàng mùa xuân này, hoặc một sợi nắng vàng nào của những áng mây kia.
Bạn hăy mở toang cánh cửa và nh́n ra ngoài
Trong khu vườn hoa của bạn, hăy hái những cánh hoa thơm kỷ niệm đă mất từ trăm năm trước.
Và trong trái tim vui tươi của bạn, bạn có thể cảm thấy sự ham sống của một sáng mùa xuân đang ném ra khúc ca vui tươi bay qua hơn một thế kỷ.
(LE JARDINIER D’AMOUR)
NGUYỄN QUANG HIỆN dịch
Tập san VĂN số đặc biệt về R. TAGORE
Nguyễn Quang Hiện
Nguyễn Quang Hiện sinh năm 1938 tại Hải Dương. Di cư vào Sài G̣n năm 1955 học Trung học Chu văn An. Học đại học Luật Khoa. Phụ tá Tổng Giám Đốc Nha Ngân Sách Ngoại Viện. Du học về kinh tế tại The Hague Hoà lan.
Năm 1975 bị tù cải tạo 3 năm tại Trảng lớn, Tây ninh. Vượt biên tới Songkha Thái Lan. Sang Mỹ năm 1979. Định cư taị Maryland học vi tính và làm việc trong ngành đó cho tới khi về hưu năm 2007.
Trước năm 1975 đă có sáng tác văn thơ đăng trên các tạp chí VĂN, VẤN ĐỀ …
Gió O nhận được một tuyển tập sáng tác của nhà văn Nguyễn Quang Hiện do tác giả và nhà thơ Nguyễn Thanh Châu gửi đến. Được biết hiện có thân hữu đang thu xếp cho in tuyển tập này tại hải ngoại. gio-o.com sẽ giới thiệu một số sáng tác xuất sắc gồm: văn, thơ, tản mạn, của nhà văn Nguyễn Quang Hiện đă xuất hiện trước 1975 trên các tạp chí văn chương uy tín ấy, trong nhiều kỳ. (11.2014)
http://www.gio-o.com/Chung/NguyenQuangHien1Tho.htm
http://www.gio-o.com/Chung/NguyenQuangHien2Tho.htm
http://www.gio-o.com/Chung/NguyenQuangHien3Tho.htm
http://www.gio-o.com/Chung/NguyenQuangHien4Tho.htm
http://www.gio-o.com/Chung/NguyenQuangHienTagore.htm
© gio-o.com 2014