maurice blanchot

Thomas Tăm Tối

 

kỳ IV

 

 

truyện

xem kỳ I , xem kỳ II , xem kỳ III ,

 

   Vào khoảng nửa đêm thứ nhì, Thomas trở dậy và đi xuống nhà dưới không gây một tiếng động. Chẳng ai thấy hắn ngoài một con mèo gần như đui, nhìn đêm thay đổi hình dạng, đuổi theo cái đêm mới này mà nó không nhìn thấy. Sau khi tuồn mình vào một cái hang ở đó nó không đánh hơi thấy mùi gì, con mèo này bắt đầu kêu meo meo, gào lên từ đáy họng tiếng kêu khàn khàn của loài mèo để cho biết chúng là những con vật thiêng liêng. Nó lấy hơi và gầm lên. Nó rút ra từ con vật thần tượng mà nó đang trở thành tiếng kêu không thể hiểu nổi để đáp lời và nói với đêm tối.

   Cái gì xảy ra vậy? tiếng kêu này nói. Những tinh thần mà tôi thường thông giao, cái tinh thần kéo mạnh cái đuôi khi cái đĩa đã đầy, cái tinh thần đánh thức tôi buổi sáng và đặt tôi vào giường ngủ buổi tối trong một cái chăn nhồi bông mềm mại và cái tinh thần, đẹp đẽ nhất trong mọi tinh thần, cái tinh thần kêu meo meo, ư ử và đối với tôi thật giống như thể đó chính là tinh thần của tôi, tất cả đã biến mất. Tôi hiện đang ở đâu? Nếu kiểm tra một cách sơ sài bằng cái chân của tôi, tôi chẳng thấy gì hết. Chẳng ở đâu có cái gì cả. Tôi đang ở khúc ống máng chót cùng mà từ đó tôi chỉ thể té xuống. Té xuống, đó không phải là điều làm tôi sợ. Nhưng thực ra là tôi cũng chẳng thể té xuống; chẳng có sự rơi xuống nào là có thể cả; tôi bị bao quanh bởi một sự trống không đặc biệt nó hất tôi lại và tôi chẳng thể băng qua. Vậy tôi đang ở đâu? Khốn khổ thân tôi. Có lần, tôi đã đi sâu vào những bí mật thượng thặng, khi đột nhiên trở thành một con vật mà người ta có thể ném vào lửa một cách vô tội vạ. Tôi biết, trước khi phạm phải, do một tia sáng phân đôi tôi, do một cú cào tôi đưa ra, những lời nói dối, những tội ác. Và giờ đây tôi là một sinh vật không đáng kể. Tôi nghe thấy một tiếng nói quỉ quái tôi dùng để nói điều tôi nói ra mà chẳng hề biết một chữ nào của lời nói này. Tôi tư tưởng, và tư tưởng của tôi với tôi cũng vô ích như lông dựng ngược và những cái vuốt tai đối với những loài vật xa lạ mà tôi tùy thuộc. Chỉ có sự kinh hoàng nhập vào tôi. Tôi xoay mình và lại xoay mình lại trong khi nghe lời ta thán của một con vật rùng rợn. Tôi cảm thấy, nỗi đau thầm kín, một bộ mặt lớn chẳng thua gì bộ mặt của tinh thần, với một cái lưỡi trơn và nhạt, cái lưỡi của một kẻ đui mù, một cái mũi méo mó, không có khả năng đánh hơi, với những con mắt khổng lồ, không có ngọn lửa thẳng băng nào cho phép chúng ta nhìn thấy những sự vật bên trong chúng ta. Bộ lông của tôi tẽ ra. Đó là, chẳng thể nghi ngờ được, cái động tác tuyệt cùng. Ngay khi không còn có thể, ngay cả trong đêm nay, rút ra từ nơi tôi, trong khi vuốt lông tôi, một ánh sáng siêu nhiên, thì đó sẽ là sự chấm dứt. Tôi đã tối hơn cả bóng tối. Tôi là đêm của đêm. Tôi đi để gặp con mèo thượng đẳng, xuyên qua những bóng tối mà tôi phân biệt bởi vì tôi là bóng của những bóng tối. Hiện giờ, trong tôi, không có sự run sợ nào. Thân thể tôi, hoàn toàn giống thân thể một con người, thân thể của kẻ được ân sủng, đã giữ được những kích thước của nó, nhưng cái đầu tôi lại khổng lồ. Có một tiếng động, cái tiếng động tôi chưa hề nghe bao giờ. Một ánh sáng mờ có vẻ như thoát ra từ thân tôi, dù rằng ánh này nhạt nhòa và ướt át, tạo ra quanh tôi một vòng tròn, nó như một cái thân thể khác tôi không thể ra khỏi. Tôi bắt đầu nhìn rõ một quang cảnh. Trong khi sự tăm tối trở thành đè nặng quá đỗi, một diện mạo mầu trắng lớn nổi lên trước mặt tôi. Tôi nói tôi, do được dẫn dắt bởi một bản năng mù quáng, bởi từ khi tôi mất cái đuôi thẳng tôi dùng để xoay trở trong thế giới, tôi rõ mình không còn là chính tôi nữa. Cái đầu không ngừng lớn hơn này và, thay vì là một cái đầu, dường như chỉ là một cái nhìn, phải vậy không nào? Tôi không thể nhìn nó mà không cảm thấy bực bội. Nó nhúc nhích, nó tiến lại. Nó quay thẳng về phía tôi và, dù chỉ là cái nhìn, nó cho tôi ấn tượng khủng khiếp là nó không thấy tôi. Cảm giác này không thể chịu đựng được. Nếu tôi vẫn còn lông, hẳn tôi sẽ cảm thấy lông dựng đứng chung quanh toàn thân tôi. Thế nhưng, trong trạng thái của tôi, tôi lại không có những phương tiện để cảm nhận được sự sợ hãi tôi cảm thấy. Tôi đã chết, đã chết. Cái đầu này, cái đầu tôi, chẳng còn nhìn thấy tôi nữa, bởi vì tôi đã bị hư vô hóa. Bởi chính tôi là kẻ nhìn tôi và là kẻ không nhận ra mình. Ôi con mèo thượng đẳng mà tôi đã trở thành trong chốc lát để nhận chân cái chết của tôi, nay tôi sẽ biến đi cho rồi. Trước tiên tôi không còn là một con người nữa. Tôi lại trở thành một con mèo nhỏ bé lạnh lẽo và không thể ở đâu được, nằm duỗi ra trên mặt đất. Tôi ngáp thêm một lần nữa. Tôi ném một cái nhìn cuối củng trên cái thung lũng sẽ khép lại và nơi đó tôi thấy một người, chính hắn cũng lại là con mèo thượng đẳng. Tôi nghe thấy hắn cào mặt đất, có lẽ bằng móng của hắn. Cái mà người ta gọi là cõi ngoài đối với tôi đã chấm dứt.

   Quì gối, lưng cong xuống, Thomas xới đất. Chung quanh hắn vài hố đất trải ra, ngày chìm xuống những hố này. Lần thứ bẩy, hắn chuẩn bị một cách chậm chạp, đào rộng một lỗ lớn theo khổ người hắn, để lại trong đất vết tay hắn. Trong khi hắn bới đất, khoảng trống, như thể đã bị lấp đầy bởi mười hai tay, rồi bởi cánh tay, sau cùng bởi toàn thân, cung cấp cho công việc của hắn một sự đối kháng chẳng mấy chốc hắn không thể nào còn chiến thắng nổi nữa. Nấm mồ đầy một hữu thể mà nó hấp thụ sự vắng mặt. Một xác chết không thể cục cựa được đặt sâu ở đó, tìm được trong sự vắng mặt hình dạng này cái hình dạng toàn hảo của sự hiện diện của nó. Đó là một bi kịch mà sự hãi hùng được dân làng cảm thấy, trong giấc ngủ của họ. Ngay khi, cái hố được đào xong, Thomas nhào xuống đó, trên cổ có đeo một tảng đá lớn, hắn đụng phải một thân xác ngàn lần cứng hơn đất, chính là cái thân xác của người thợ đào mồ, kẻ đã đi vào trong mồ để đào xới. Cái hố này vừa vặn hắn, hình dạng hắn, bề dầy hắn, như thể đúng như xác hắn, và mỗi khi hắn tìm cách chôn mình cỡ hắn, nằm trong đó hắn giống như một một người chết vô lý kẻ đã thử chôn xác mình trong xác hắn. Vậy nên từ đó, trong tất cả những sự chôn cất hắn có thể có chỗ ở đó, trong tất cả những tình cảm cũng là những nấm mồ cho những kẻ đã chết, trong sự hư vô hóa qua đó hắn chết đi mà không cho phép người ta nghĩ rằng hắn chết, có một kẻ đã chết khác đi trước hắn và kẻ này, giống hệt hắn, đã đẩy tới cực điểm sự mơ hồ của cái chết và của đời sống của Thomas. Trong cái đêm dưới đất này nơi hắn đi xuống với những con mèo và những giấc mơ của những con mèo, có một kẻ giống hắn như đúc khuôn, quấn băng, giác quan bít kín với bảy dấu niêm phong, tinh thần vắng mặt, chiếm chỗ hắn, và kẻ đúc khuôn này là kẻ duy nhất hắn chẳng thể nào thỏa hiệp, bởi hắn cũng như anh ta, được hiện thực trong cái trống không tuyệt đối. Hắn nghiêng mình trên ngôi mộ lạnh giá này. Cũng giống như người tự treo cổ, sau khi đã đạp đổ cái ghế đẩu mình đứng trên đó, bến bờ cuối cùng, thay vì cảm thấy cú nhảy hắn làm trong trống không, lại chỉ cảm thấy sợi dây giữ rịt hắn, giữ cho đến cùng, giữ hoài hủy, được nối với hắn như thể hắn chưa bao giờ đã nối với sự hiện hữu mà hắn muốn rời bỏ, chính hắn cũng cảm thấy hoàn toàn không hiện diện với cái chết, vào lúc hắn biết mình chết, khuất mặt. Không phải thân xác hắn bỏ hắn lại nơi sâu thẳm của chính hắn cái lạnh lẽo mà một xác chết phát ra và nó cũng không phải là cái lạnh những sự không có, vắng mặt sự tiếp xúc, cũng không phải sự tăm tối thấm vào tất cả những lỗ chân lông hắn và, ngay cả khi hắn nhìn thấy được, làm cho người ta không thể dùng bất kỳ giác quan nào, bất kỳ trực giác nào và càng không một tư tưởng nào để nhìn thấy nó, cũng chẳng phải cái sự kiện rằng hắn có thể được coi là đang còn sống đủ để hắn được coi là đã chết. Và đó chẳng phải là một sự ngộ nhận. Hắn đã thực sự chết và đồng thời bị loại bỏ khỏi thực tại của cái chết. Hắn đã là, trong chính cái chết, không có cái chết, con người bị hư vô hóa khủng khiếp, bị chặn lại trong hư vô bởi chính hình ảnh hắn, bởi chính cái tên Thomas này đang chạy phía trược hắn, vác những bó đuốc đã tắt ngúm, và như là sự hiện hữu của cái chết cuối cùng. Khi hắn lại cúi xuống trên cái trống không đó nơi hắn nhìn thấy hình ảnh hắn trong sự vắng mặt hoàn toàn những hình ảnh, hắn đã bị nắm lại bởi cơn chóng mặt thật tàn bạo, một cơn chóng mặt không làm hắn té xuống, nhưng ngăn cản hắn té xuống và nó làm cho sự đổ xuống thành không thể mà nó làm cho không thể tránh được, mặt đất đã co rút lại chung quanh hắn, và đêm tối, một đêm tối không còn đáp ứng cái gì, mà hắn không nhìn thấy và hắn chỉ cảm nhận thực tại của nó bởi nó không thực bằng hắn, nó vây quanh hắn. Dưới mọi hình thức, hắn bị xâm lăng bởi cái ấn tượng hiện hữu trong lòng mọi vật. Ngay trên mặt đất nơi hắn chẳng thể đi sâu vào, hắn đã ở trong trái đất này mà cái bên trong tiếp xúc hắn cùng khắp. Cùng khắp, đêm khép hắn lại. Hắn nhìn, hắn nghe thấy niềm thân thiết của một sự vô tận ở đó hắn bị khép chặt bởi sự vắng mặt của chính những giới hạn. Hắn cảm thấy như một hiện hữu đè nặng sự không hiện hữu của cái thung lũng chết này. Dần dần những đợt bùn ngai ngái và ẩm ướt tiến tới tận nơi hắn. Giống như một kẻ, còn sống, thức giấc trong quan tài của mình, hắn kinh hãi nhìn mặt đất mịn màng nơi hắn trôi nổi biến đổi thành một bầu không khí không có không khí, chứa đầy mùi đất, mùi gỗ mục, mùi vải vóc ẩm ướt. Giờ đây thực sự bị chôn vùi, hắn khám phá ra mình trong một cái hố ở đó hắn ngộp thở, dưới những lớp chồng chất của một thứ vật chất giống như vữa. Hắn run rẩy trong một môi trường giá băng giữa những vật đè hắn. Nếu như hắn vẫn còn hiện hữu, thì đó chỉ là để nhận ra, trong cái phòng đầy hoa phúng điếu này, đầy ánh sáng ma quái này, sự bất khả tái sinh. Hắn tìm cách thở hít trong sự ngột ngạt. Hắn lại thấy được mình vẫn có thể đi đứng, nhìn ngắm, la hét trong lòng một nhà tù nơi hắn bị giam giữ trong một sự im lặng và một màu đen không thể xuyên qua. Sự hãi hùng của hắn sao thật lạ lùng, trong khi, vượt qua những rào cản cuối cùng, hắn hiện ra trên cái cửa hẹp của mồ hắn, không phải là sống lại, mà là đã chết và chắc chắn là mình đã đồng thời được cả cái chết lẫn đời sống buông ra. Hắn bước đi, một cái xác ướp được sơn phết; hắn nhìn mặt trời đang cố làm hiện ra trên bộ mặt lạnh nhạt một gương mặt tươi cười và sống động. Hắn bước đi, Lazare* có thực độc nhất mà chính cái chết được tái sinh. Hắn ta đi tới, băng qua trên những bóng tối cuối cùng của đêm, mà không mất đi sự vinh quang của hắn, mình phủ cỏ và đất, bước đi đều đặn, những bước cùng khoảng cách, dưới những ngôi sao rơi rụng, đối với những người không bị khăn liệm mặt phủ lên, đánh dấu sự thăng thiên tới cái điểm quí báu nhất của đời sống.

___________________________

*Trong Kinh Tân Ước Lazare (Lazarus) là người được Jesus phục sinh một cách huyền diệu. (người dịch chú thích)

 

 (còn tiếp)

đào trung đạo dịch

(theo ấn bản thứ nhì)