NGU YÊN
Ư Thức Về Kư Hiệu Học
tùy luận
kỳ 10
kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3, kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, kỳ 9,
Lời Giới Thiệu: Bài Ư Thức Về Kư Hiệu Học gồm có 11 phần. Sẽ đăng liên tiếp để độc giả tiện theo dơi. Bài này trích từ sách: Sơ Thảo: Tư Tưởng Văn Học Dẫn Vào Thế Kỷ 21 do nhà thơ Ngu Yên giới thiệu, nhận định và áp dụng những lư thuyết mới về văn chương và ngôn ngữ từ giữa thế kỷ 20 sang thế kỷ 21.
10. Dịch Thuật: Những Lư Thuyết Mới
Avadesh Kumar Singh cho rằng thế kỷ 19 là thế kỷ của xâm chiếm thuộc địa, tạo nên những xung đột về khai hóa và hệ thống tư tưởng. Thế kỷ 20 thuộc về hậu hiện đại với sự diễn tiến quy mô của bạo lực. Trước thế kỷ 21, người ta đă tiên đoán là thế kỷ của hiểu biết, nhưng có lẽ không được rơ ràng, v́ thế kỷ nào chẳng phải là thế kỷ của kiến thức mới. Điểm nhấn ở đây là kiến thức đi vào sự hiểu biết một cách nhanh chóng hơn bao giờ hết. Với văn minh điện tử và mạng lưới, với nhu cầu liên kết toàn cầu, khiến kiến thức bùng nổ, hiện thân qua nhiều ngôn ngữ, thậm chí là toàn cả ngôn ngữ đang hiện diện trên địa cầu. Dẫn đến, dịch thuật đóng vai tṛ tâm điểm, liên lạc viên chính thức, khiến cụm từ "thế kỷ dịch thuật" đă được đặt tên cho thế kỷ 21.
Vào gần cuối thế kỷ 20, những lư thuyết mới về dịch thuật tranh nhau ra đời. Chưa có một lư thuyết nào mạnh đủ, để chiếm cứ ngôi vị hàng đầu. Tuy nhiên, sự tiếp tục phát triển và nhu cầu bức bách, những lư thuyết này cống hiến những phương pháp, kỹ thuật dịch khác nhau; có khi nghịch nhau; có khi giẫm chân nhau; nhưng thực tế đă tương hợp nhau bằng cách dàn trải cho người dịch một tầm nh́n khoáng đạt về dịch thuật, một hiểu biết rộng răi về ngôn ngữ, xă hội văn hóa; và một khả năng sử dụng nhiều loại kỹ thuật để đạt được giá trị cao trong bản dịch. Có lẽ, quan trọng hơn hết, là người dịch nh́n được sự hạn hẹp của lối dịch truyền thống và sự giới hạn của tự điển.
Những Lư Thuyết Đương Đại Về Dịch Thuật
Contemporary Translation Theories
Revised 2nd Edition
Edwin Gentzler. Multilingual Matters LTD
Clevedon.Buffalo.Toronto.Sydney. 2001
( Trích chương 2 về lư thuyết dịch thuật mới.)
Dịch thuật đă có từ lâu đời, nhưng dịch thuật hiện đại, theo Gentzler, bắt nguồn từ Cấu Trúc Luận và phản ảnh sự phát triển của thời đại.
Lư thuyết dịch thuật đương đại là ǵ?
Trước hết là chuyển dịch nội bộ trong bản văn gốc, theo nghĩa intralingual translation. Giai đoạn thứ hai là chuyển dịch từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ dịch, theo nghĩa interlingual translation. Sau cùng, chuyển dịch những kư hiệu, nhóm kư hiệu không lời vào bản dịch, theo nghĩa intersemiotic.
Và lư thuyết dịch thuật đương đại, theo George Steiner, là lư thuyết ưu đăi sự tự do, nói một cách khác, sử dụng những h́nh thức sáng tạo để mô phỏng ư định trong bản nguồn.
Những nhà tư tưởng trong các ngành chuyên môn khác như nhân chủng, xă hội, tâm lư....cũng đóng góp nhiều quan niệm và luận lư liên quan đến ngôn ngữ, tức là liên quan trực tiếp với gốc và dịch. Lư thuyết đương đại chú trọng những phương pháp khoa học hơn như trong Kư hiệu học, nhất là Cấu trúc luận, đi sâu vào bên trong những tầng lớp ẩn núp dưới mặt ngoài của văn bản. Liên can đến văn hóa ngoại quốc (nguồn) và dân tộc học (dịch).
Đă nói đến lư thuyết, chẳng có lư thuyết nào đơn giản. Để t́m hiểu ngọn ngành một lư thuyết tất một người sẽ mất ít nhất vài năm. Việc sơ thảo là cung cấp cho người đọc những nét chính và những lối mở rộng về lư thuyết để người đọc tự t́m hiểu sâu rộng hơn.
· Lớp thực tập dịch thuật ở Bắc Châu Mỹ.
Dịch thuật vẫn chưa được xem là bộ môn chính ở vùng này. Được xem là một công việc kỹ thuật hơn là nghệ thuật và sáng tạo. Ngay cả dịch giả cũng tự cho ḿnh không có thị trường để phát huy.
Trước thập niên 1960, không có một lớp thực tập dịch thuật nào ở Hoa Kỳ. Năm 1964, Paul Engle, giám đốc của thực tập sáng tác tại đại học Iowa đă thực hiện lớp thực tập đầu tiên về dịch thuật và cung cấp chứng chỉ chính thức cho bộ môn này. sau đó, dịch thuật được lưu tâm và lan tràn ra các đại học khác và các tạp chí văn chương lớn bắt đầu chú ư đến tầm quan trọng của dịch thuật. Việc này dẫn đến sự thành lập Hiệp Hội Dịch Thuật Văn Học Hoa Kỳ (ALTA) vào cuối thập niên 1970. Từ đó dịch thuật phát triển lớn mạnh tại Hoa Kỳ.
I.A.Richards: Phê B́nh Mới và Dịch Thuật.
Nếu có một sự minh họa nào về lư thuyết thực tiễn trong lớp thực hành về dịch thuật, đó là Practical Criticism (Phê b́nh thực dụng) của I.A.Richard, 1929. Ông dạy về sáng tác và dịch thuật tại đại học Harvard.
Ông nổi tiếng trong việc thử nghiệm, cho các sinh viên giỏi trong lớp, 13 bài thơ của các tác giả từ Shakespeare đến Ella Wheeler Wilcox. Sinh viên nhận những bài thơ không biết tên tác giả, không tựa đề, không một thông tin nào đính kèm. Mục tiêu của Richards là 1- Giới thiệu một cách mới, cung cấp tài liệu về văn hóa hiện đại của Hoa Kỳ. 2- Đưa ra một kỹ thuật mới để mỗi cá nhân tự khám phá bản thân về thi ca. 3- T́m hiểu một phương pháp dạy học mới. Ông hy vọng rằng, giá trị thẩm mỹ được nhận thức hoàn toàn do giác quan và trí tuệ, tâm t́nh; không bị ảnh hưởng của tên tuổi tác giả và những lời phê phán.
Và phương pháp này cũng được áp dụng vào dịch thuật, để t́m hiểu trực tiếp văn bản. Theo truyền thống, dịch thuật văn bản văn chương được xem là một cách đọc kỹ lưỡng. Theo Richards, dịch thuật mở rộng sự giải thích và kinh nghiệm về thẩm mỹ. "Một sự hiểu biết thành thạo không chỉ liên quan đến chiều hướng suy tư rơ ràng, gợi lên cảm xúc chính xác, sự lĩnh hội đúng đắn về sắc điệu và nhận biết ư định rơ ràng, mà hơn nữa, c̣n nhận được những ư nghĩa đóng góp trong thứ tự thích hợp."
Ông xuất bản "Toward a Theory of Translating" (Hướng về Một Lư Thuyết Chuyển Dịch) năm 1953. Đặt lại vấn đề sự đồng nghĩa giữa chữ gốc và chữ dịch. Theo ông, dịch giả không chỉ lưu tâm về kư hiệu cho thấy cái ǵ đó mà c̣n định rơ đặc điểm, nhận thức, đánh giá, ảnh hưởng, nối kết và định hướng.
Mặc dù trải qua nhiều tranh căi, đôi khi chính ông cũng công nhận những khuyết điểm của phương pháp dịch thuật mà ông chủ trương nhưng sau cùng ông vẫn vững niềm tin rằng học thuật sẽ giúp cho dịch giả thấu hiểu bản văn và chuyển dịch với kinh nghiệm đă kinh qua văn bản. Và dịch thuật nghĩa là chính xác.
Ezra Pound: Lư Thuyết Minh Xác Tiểu Tiết (Theory of Luminous Details).
Khác với lư thuyết dịch thuật chính xác của I.A.Richards, thi sĩ Pound đưa ra lư thuyết dịch thuật tập trung vào diễn tả chi tiết, các từ ngữ riêng lẻ, từng h́nh ảnh hoặc ngay cả một phần của ảnh tượng. Thay v́ giả định ư nghĩa theo kiểu duy nhất và nhất quán của Richards.
Lư thuyết của Pound dựa trên khái niệm khả năng của ngôn ngữ, chữ trên trang sách, những tiểu tiết rơ ràng, được nh́n thấy, không đơn giản chỉ như những nét đen trên nền trắng, tiêu biểu cho điều ǵ, mà đó là những h́nh ảnh điêu khắc, như chữ chạm trổ trên đá. Phương pháp này cho phép người dịch được quyền rộng răi để dịch thuật có phản ứng cá nhân. Dịch giả là nghệ sĩ, nhà điêu khắc, người viết chữ nghệ thuật, kẻ đúc khuôn cho chữ.
Quan điểm sáng tác của Pound ảnh hưởng quan niệm dịch thuật. Khi thành danh, ông là một trong những thi sĩ sáng lập phong trào Thơ Dụng Ảnh (imagism) tách rời truyền thống với những quan niệm mới như trừu tượng và ấn tượng. Về sau, là thời kỳ nghệ sĩ Vị Lai (vorticist) đặt toàn bộ chữ nghĩa vào thực hành việc minh xác những chi tiết. Nói một cách khác, những chi tiết được tŕnh bày bằng khả năng ngôn ngữ trở thành quan trọng. Bản dịch là một bức tranh "tiền-tượng trưng."
Trong tác phẩm "The Pound Era", 1971 của Hugh Kenner, cho rằng từ năm 1911, Pound bắt đầu có ư tưởng dịch thuật như là mô h́nh cho nghệ thuật thi ca. Lư thuyết của ông không nhấn mạnh trên ư nghĩa của bản dịch hoặc ngay cả ư nghĩa của những từ ngữ. Sử dụng cùng với kỹ thuật sáng tác tác phẩm Canto, ông bắt đầu dịch Odyssey của Homer.
Văn bản trở thành một cơn lốc xoáy với một đám chữ nghĩa cuốn hút vào một hệ thống năng lực mà con người là tâm điểm. Khi ông sử dụng từ "h́nh ảnh", không có nghĩa là a, b và c như "đêm " là đêm, như "biển" là biển, nhưng có nghĩa là "lối của đêm", "cách thức của biển".
Ông quan tâm đến sinh lực của chữ. Ông nhận xét chữ viết của Trung Hoa không chỉ đại diện cho ư nghĩa, hoặc cấu trúc mà quan trọng là sinh hoạt trong chữ đó. Theo ông, chữ luôn luôn liên mạng với chữ. Đôi khi để được tự do chuyển dịch, phải tách rời từ ngữ ra khỏi ư nghĩa của nó, để t́m kiếm sự phù hợp.
Lư thuyết dịch của ông cũng đă đạt được ảnh hưởng lớn ở Hoa Kỳ và Âu Châu trong thập niên 1960-1970.
Frederic Will: Nghịch Biện Trong Dịch Thuật. (The Paradox of Translation.)
Năm 1965, lúc đang làm giám đốc chương tŕnh dịch thuật ở đại học Iowa, ông thành lập tạp chí văn học về dịch thuật: Micromegas, có nội dung thi ca từ nhiều quốc gia. Năm 1966, tác phẩm về lư thuyết "Literature Inside Out" (Văn Chương Từ Trong Ra Ngoài) đặt ra câu hỏi về danh xưng, ư nghĩa và gián tiếp đề nghị, dịch thuật có thể được xem như một h́nh thái của danh xưng, sáng tác tiểu thuyết, và sự hiểu biết. Cuốn sách tiếp theo, "The Knife in the Stone" ( Lưỡi Dao Khắc Trên Đá), 1973, đối phó trực tiếp với thực hành dịch thuật. Theo ông, v́ văn hóa của hai dân tộc luôn luôn khác nhau, nên phần lớn từ ngữ khó xác định rơ ràng để chuyển dịch. Will đặt câu hỏi về những lư thuyết dịch thuật dựa trên sự quan hệ với đối tượng thực tế phổ thông. Thực tại chỉ được biết đến qua danh xưng mà con người gán cho. Như vậy, đến một lúc nào đó, ngôn ngữ là nguồn sáng tạo của thực tế. Sinh hoạt chính của con người là đặt tên cho vạn vật, không có khả năng này, nhân loại giờ đây vẫn c̣n man rợ. Ngôn ngữ biểu lộ cá tính, nhịp sống, ước mơ và tiết lộ nội tâm. Nói một cách khác, ông chống lại quan niệm sự vật thực tế của văn hóa này, có thể chuyển dịch qua văn hóa khác. Ông thừa nhận cốt lơi mẫu số chung của kinh nghiệm nhân loại và cảm xúc có thể giải quyết được bản chất khó xác định tự nhiên của ngôn ngữ; mang những thực tại bên ngoài vào trọng tâm. Chúng ta chuyển dịch bản thân vào ngôn ngữ. Danh xưng, tên tuổi không nhất thiết cho chúng ta thấu triệt bên trong của sự vật, chỉ bằng nh́n thực tế bên ngoài, nhưng giúp chúng ta tự hiểu nội tâm ḿnh nhiều hơn.
Theo ông, văn chương bao gồm sự thật và kiến thức. Ông đặt câu hỏi, "Kiến thức c̣n làm được ǵ nữa, ngay cả thế giới thiên nhiên và Thượng Đế, ngoại trừ khả năng hiểu biết?" (trang 26). Quan niệm về văn bản của ông bớt dần sự nhất quán và toàn thể mạch lạc, thay vào là sự đan dệt lẫn với thực tế, đưa đến thực hành, thay đổi, và chuyển dịch trong nhiều lối khác nhau. Ông hoàn toàn tin tưởng ngược với thi sĩ Robert Frost, khi Frost cho rằng 'thi ca là những ǵ bị đánh mất trong dịch thuật.'
Quan niệm của ông có thể tóm lại trong chính lời nói của ông, "Dịch thuật là phần xuất sắc trong diễn tŕnh mang những động lực thúc đẩy đàng sau các tác phẩm ngôn ngữ của con người...có thể chuyển trực tiếp, có thể thi hành, có thể tiếp tục...Tác phẩm văn chương được đánh giá cao, được xây dựng bởi các tiềm lực hối thúc...những khối lực này sẽ tiếp tục đẩy tới, qua thời gian, từ nền văn hóa này đến nền văn hóa khác."
Quá Tŕnh Văn Học của Dịch Thuật
Trong New York Times Book Review, tác giả Milan Kundera viết về hiện tượng dịch thuật ở tây phương:
"Trong năm 1968 và 1969, tác phẩm 'The Joke' đưọc dịch sang ngôn ngữ tây phương. Ngạc nhiên thay! Ở Pháp, dịch giả viết lại cuốn tiểu thuyết này và hoa mỹ hóa cách viết của tôi. Ở Anh, nhà xuất bản cắt bỏ những đoạn suy tư, hạn chế những chương mang chất nhạc điệu, thay đổi thứ tự các thành phần, sáng tác lại cuốn tiểu thuyết. Ở một quốc gia khác: Tôi gặp được dịch giả, người này không biết một tiếng Séc nào. Tôi hỏi, "Như vậy, làm sao ông dịch cuốn tiểu thuyết?" "Bằng con tim." Nói xong, ông rút ra từ trong bóp, một tấm h́nh của tôi" (Kundera, 1988:1)
Câu chuyện này cho thấy dịch thuật bị ảnh hưởng lớn bởi thương mại, chính trị và bởi những ưa thích hoặc cấm kỵ của nền văn học của mỗi dân tộc. Về cơ bản, dịch thuật trong mô h́nh 'tự do' đ̣i hỏi tài năng của dịch giả. Những dịch giả có tài năng thiên phú như thi sĩ Pound, là người có khả năng đặc sắc về ngôn ngữ, mới có thể diễn dịch tự do mà không làm mất giá trị của văn bản chính. Đó là trực giác về ngoại ngữ và kiến thức đa văn hóa.
Những thử nghiệm về dịch thuật trong tinh thần tự do như thử nghiệm của Angela Elston trong The Goden Crane Anthology of Translation (Tuyển tập dịch bài thơ Hoàng Hạc Lâu,) năm 1980, bà tuyển chọn những bản dịch của nhiều dịch giả về chung một bài thơ: Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. Kết quả cho thấy có sự khác biệt lớn giữa các dịch giả; có bản dịch khác xa với bản chính. Pound vẫn là người dịch Hoàng Hạc lâu cừ khôi nhất. Việc này, đặt ra câu hỏi khó trả lời về giá trị của dịch thuật trong tinh thần tự do.
Ngày nay, những học giả vẫn tiếp tục tranh luận về những mâu thuẫn giữa dịch sát và dịch thoáng. Những tranh luận này không để hơn thua v́ cả hai bên đều có luận lư và lẽ phải. Nhưng quan trọng là những kết quả dịch hoặc về dịch được đưa ra, nằm giữa giới hạn của sát và thoáng, như Translating Neruda: The Way to Manchu Picchu, 1980 của John Felsteiner; Eight Stages of Translation, 1984 của Robert Bly; The Poet's Other Voice: Conversations on Literary Translation, 1985 của Edwin Hong's; Translating Poetry: The Double Labyrinth, 1989 của Daniel Weissbort.
Trong thế giới dịch thuật của Bắc Châu Mỹ, những nổ lực t́m kiếm vẫn tiếp tục hàng ngày, không chỉ ở cấp bậc đại học hoặc các lớp dịch thuật ngoại vi mà chính mỗi dịch giả nổi danh và những môn đồ cùng phái vẫn khai phá những lối đi. Giới hạn của "sát" th́ khá dễ nhận ra. Giới hạn của "thoáng" khó mà xác định. Không phải khó xác định biên giới ngôn ngữ và văn bản mà khó xác định giới hạn trong ḷng người bởi cá tính, văn tài, học thuật và trực giác ngoại ngữ.
Lawrence Venuti: Xét Lại Dịch Thuật.
Ông là chủ bút của Rethinking Translation: Discourse, Subjectivity, Ideology, năm 1992. Tác giả của hai tác phẩm lớn trong lănh vực dịch thuật hiện đại: The Translator's Invisibility: A history of Translation, năm 1995 và The Scandals of Translation: Towear an Ethics of Difference, năm 1998. Và một tác phẩm khác quan trọng của ông: The Translation Studies Reader, năm 2000.
Trước hết, ông phê phán sự yếu kém về xuất bản những tác phẩm dịch, nhất là trong các quốc gia chưa có phát triển cao. Điều đó đưa đến nhận định về sự hiểu biết văn chương văn hóa thế giới và ư thức hệ của dân tộc về nhân loại. Tiếp theo, ông đưa ra một số thuật ngữ và phương pháp để phân tích dịch thuật. Sau cùng, ông đề nghị một số chiến lược dịch mà người dịch có thể thử nghiệm.
Ông đặt nghi vấn về quan niệm tính chất căn nguyên và nguồn tác giả phải phụ thuộc vào việc chuyển sang bản dịch. Ông cũng đặt nghi vấn về quan niệm "tương đương". Bản dịch là văn bản phức tạp dày đặc nhiều nghĩa bóng nội hàm và ám chỉ, chứa đựng nhiều tầng lớp diễn ngôn và tài liệu bổ sung cho ngôn ngữ; điều này làm cho bản gốc được nh́n ngắm từ nhiều góc cạnh khác nhau và được đào sâu qua nhiều lớp ngầm. Cho phép dịch giả có nhiều lựa chọn để hỗ trợ hoặc chống lại những quan điểm văn học hoặc tư tưởng trong lúc chuyển dịch.
Về lănh vực cung cấp những phương pháp mới để phân tích dịch thuật của Venuti, đă gây ra tranh căi sôi nổi. Những ai quan tâm về dịch thuật hiện đại, không thể bỏ qua những tác phẩm của ông, chúa đựng nhiều ư kiến, phương pháp, lư luận mới lạ trong ngành dịch thuật. Những chiến lược dịch thuật của ông, người dịch có thể thử nghiệm nhưng có lẽ, có kết quả hay không là do sự phù hợp của cá tính và kiến thức của mỗi dịch giả.
Không có ngoại lệ của quy luật Babel, sẽ không có một phương pháp dịch nào hoàn hảo. Nghệ thuật như vơ thuật, không có môn phái vơ nào đệ nhất vơ lâm, chỉ có người này đánh vơ giỏi hơn người kia; người này thẩm thấu vơ đạo hơn người khác. Tuy nhiên, vơ thuật cũng như dịch thuật, được tiếp tục khai phá theo thời gian.
Polysystem là hệ thống nghiên cứu văn chương, được sáng lập bởi nhà tư tưởng Itamar Even-Zohar (1939- ...) gốc Do Thái, chuyên biệt về nghiên cứu văn hóa tại đại học Tel Aviv. Được khai phá bởi những nhà tư tưởng Nga trong học phái Tân H́nh Thức (Formalism) năm 1920. Măi đến 1970 mới bắt đầu phát triển.
Lư thuyết Polysystem phân tích sự tương quan giữa văn chương và ngôn ngữ nhưng rồi chuyển sang hệ thống văn hóa xă hội. Lư thuyết này được sử dụng khắp nơi trên thế giới do các học viên ngành văn hóa và văn chương.
Polysystem, theo Baker và Malmkjaer trong Shuttleworth and Cowie, 1997, được thành h́nh như một tổ chức hỗn tạp và tương quan với nhau trong một hệ thống, để mang đến một diễn tŕnh tiến hóa, sinh hoạt liên tục toàn thể trong polysystem, (Đa Hệ Thống).
Theo Even-Zohar, Polysystem giống như một hệ thống gồm nhiều hệ thống bên trong và có nội bộ liên quan hỗ trợ, có những thành phần trùng hợp, sử dụng đồng thời những chọn lựa khác biệt, có chức năng tạo nên hoàn toàn một cơ cấu với những thành phần phụ thuộc lẫn nhau. Những hệ thống nội bộ không tương đương nhưng hoạt động theo cấp bậc trong Đa Hệ Thống (Polysystem).
Lư thuyết Polysystem được Itamar Even-Zohar tŕnh bày trong chương đầu tiên trong Polysystem Studies của tạp chí Lư Thuyết Văn Học và Thông Tin Toàn cầu, tập 11, số 1 năm 1990.
Nói một cách b́nh dân hơn, Đa Hệ Thống nghiên cứu và phê phán các hệ thống khác như văn chương, xă hội, văn hóa, lịch sử....cùng một lúc, các lănh vực này liên quan và ảnh hưởng lẫn nhau.
Về cơ bản, v́ ngôn ngữ là đối trọng của polysystem nên liên quan đến dịch thuật. Phải nói rằng, trong tầm nh́n rộng, bất kỳ hệ thống phân tích, luận lư nào có mục tiêu ngôn ngữ, dịch thuật cần phải quan tâm. Do đó, dịch thuật có thể nhỏ trong cuốn tự điển, cũng có thể bát ngát, chưa thấy giới hạn.
Polysystem chẳng những là hệ thống của hệ thống, (theo ư kiến của Holmes) chuyển ngôn ngữ thế giới với nhau, c̣n là những hệ thống bên trong để tự t́m hiểu ngôn ngữ dân tộc.
Ư kiến của Even-Zohar, Polysystem mang đến những ích lợi::
- Khi một nền văn chương chưa vững chải thường t́m kiếm những ưu điểm của hệ thống văn chương đă phát triển để làm mẫu.
- Khi một nền văn chương yếu kém thường nhập vào những ḍng văn chương ngoại để tăng trưởng nhanh chóng.
- Khi có những khúc quanh quan trọng trong văn học thế giới, những biến chuyển này được truyền đi toàn cầu một cách nhanh chóng.
Ông cũng thừa nhận, chiến lược dịch thuật được xác định bởi một hệ thống riêng trong Đa Hệ Thống. Theo Genztler, Polysystem mang đến cho dịch thuật ba ưu điểm:
- Dịch thuật văn chương được t́m hiểu song song với xă hội, lịch sử và văn hóa.
- Dịch thuật không c̣n nằm trong phạm vi văn bản mà mở rộng theo ảnh hưởng chức năng của văn hóa.
- Dịch thuật dùng văn bản nhưng được đào sâu ở nơi từ ngữ liên quan lịch sử và văn hóa.
Những con đường mở ra nghiên cứu về những lư thuyết mới cho dịch thuật, đang được chú trọng. Nhưng không khỏi gây nhiều hoang mang, v́ những tranh luận hầu như đều có lư và những phản bác cũng hữu lư. Trong hoàn cảnh này, một số nhà tư tưởng tách rời lư thuyết, chú tâm về thực dụng, đưa ra những phương pháp trực tiếp đối phó với dịch thuật, thay v́ lư thuyết dịch thuật luôn luôn bị ràng buộc bởi hệ thống ngôn ngữ và những hệ lụy của nó.
Jean-Paul Vinay và Jean Darbelnet đưa ra phương pháp thực hành Phân Tích Tương Phản (Contrastive Linguistics) dùng cách tiếp cận sự khác biệt và tương tựa giữa hai ngôn ngữ. Họ quan sát sự thay đổi trong những chi tiết xảy ra, khi chuyển từ bản gốc sang bản dịch. Kỹ thuật có tên gọi: Translation shifts, chuyển dịch uyển chuyển.
Họ áp dụng vào cả hai loại chuyển dịch: nghĩa đen và nghĩa bóng; văn bản thường và văn bản văn chương.
Phương pháp này có thể dùng khám phá, chuyển dịch phong cách (style) và sắc điệu (tone) của bản văn nguồn.
Phương pháp này cũng mang hiệu quả khi dịch thuật xảy ra giữa hai ngôn ngữ có nhiều khác biệt từ cấu tạo cho đến văn hóa, như dịch ngôn ngữ Trung Hoa sang Anh ngữ. Thường xuyên gặp nhiều trở ngại, chẳng những về sự tương đương của từ ngữ, c̣n là sự tương xứng của ư nghĩ và h́nh tứ.
Họ đưa ra 5 giai đoạn căn bản:
- Xác định văn bản dịch. Bao gồm việc chọn lựa ngôn ngữ gốc và bản văn.
- Tra cứu văn bản gốc. Đánh giá nội dung, cách mô tả, t́nh cảm và trí năng của bản văn. Công việc này càng tỉ mỉ chừng nào, càng giúp việc chuyển dịch giá trị chừng nấy.
- Tái tạo ngữ cảnh, mạch văn trong ngôn ngữ dịch.
- Cân nhắc ảnh hưởng của tu từ, văn phong.
- Chuyển dịch rồi sửa chữa.
Phần quan trọng chính là tái tạo ngữ cảnh và mạch văn. Dịch văn chương không dịch từ ngữ mà dịch ngữ cảnh, ngữ ư và diễn tiến của mạch văn. Bao gồm chuyển đổi về văn phạm và tương đương về văn hóa.
Descriptive Translation (Chuyển Dịch Mô Tả) do Gideon Toury đề nghị để tái tra cứu và tái thẩm định văn bản. Từ năm 1980, phương pháp này được sử dụng chuyên về mô tả hơn là phân tích cơ cấu.
Descriptive Translation Studies and Beyon, 1995, của Gideon Toury, đề nghị những chỉ tiêu để xem xét và mô tả những yếu tố phù hợp với văn hóa xă hội về phía dịch giả và khái quát hóa những quy luật chi phối kết quả của bản dịch.
Phương pháp này được một số nhà nghiên cứu ủng hộ, tập trung vào việc mô tả dịch thuật, hầu t́m đến chuyển dịch một cách khoa học và sử dụng những kỹ thuật có qui tắc rơ ràng.
(Tôi thật sự cũng không hiểu rơ h́nh đồ về quan niệm Descriptive Translation này. Nhưng ghi lại đây để quí vị tiện theo dơi.)
Phương pháp của Toury trở thành phổ thông và mang nhiều hiệu quả đến cho dịch thuật thực dụng.
Mỗi phương pháp đều mang lại một số giải tỏa những trở ngại về dịch thuật văn chương. Hầu như những trở ngại này càng lúc càng chi tiết và sâu xa. Chủ yếu v́ tác giả và dịch giả đều là người, với những phức tạp và đặc thù riêng biệt. Nhưng điều đó không cản trở được sự chuyển dịch đang sinh hoạt nhộn nhịp. Và đó cũng là niềm hy vọng của tác giả.Tác phẩm trong nhiều ngoại ngữ có cơ hội sống dài hơi hơn, chỉ trong một ngôn ngữ.
Đến nay, vẫn chưa có một lư thuyết phổ quát về dịch thuật v́ đặc tính phức tạp, dị biệt giữa các ngôn ngữ và sự chứng ngộ của dịch giả. Lư thuyết về dịch thuật chưa được xem là hoàn hảo v́ những mất mát xảy ra trong khi chuyển dịch. Hầu như những lư thuyết đương đại đều hướng về sự t́m lại hoặc bù đắp cho những mất mát đó.
( C̣n tiếp. Kỳ tạm biệt, Dịch Thuật: Thực Hành và Kỹ Thuật)
Tài Liệu Tham Khảo Chung:
Ahmadpour, Kamran. Developing a Framework for Understanding Information Literacy in the 21st Century: A Review of Literature. 2014. http://faculty.uoit.ca/kay/files/capstones/Ahmadpour_%202014_FrameworkInformationLiteracy_Final.pdf
Barthes, Roland. Elements of Semiology. Translated by Annette Lavers and Colin Smith. Hill and Wang, A division of Farrar, Straus and Giroux, New York, 1977. Duke University Press, Durham and London, 1990.
Benson, Jackson j. New Critical Approaches to the Short Stories of Ernest Hemingway
Chandler, Daniel. The Basics Semiotics. Second Edition. Routledge, London and New York, 2002.
Chandler, Daniel. Semiotics for Beginners, http://visual-memory.co.uk/daniel/Documents/S4B/
Culler, Jonathan. Theory and Criticism after Structuralism. Cornell University Press, Ithaca, New York, 1982.
Eco, Umberto. Interpretation and Over-interpretation: World, History, Texts. Lecture at Clare Hall, Cambridge University, March 7-8, 1990.
Eco, Umberto. A Theory of Semiotics. Indiana University Press, Bloomington, 1976.
Eco, Umberto. Semiotics and the Philosophy of Language. Indiana University Press, Bloomington, 1986.
Eco, Umbert. The Scandal of Metaphor: Metaphorology and Semiotics. Source: Poetics Today, Vol. 4. No. 2, Metaphor, 1983, pp. 217-257. Duke University Press.
Eggins, Suzanne. An Introduction to Systemic Functional Linguistics, 2nd Edition. Continuum International Publishing Group, London New York, 2004.
Ellis, John M. Against Deconstruction. Princeton University Press, Princeton , New Jersey,1989.
Halliday, M.A.K. and Jonathan J. Webster. Continuun Companion to Systemic Functional Linguistics. Continuum International Publishing Group, London New York, 2009.
Halliday, M.A.K. Introduction to Functional Grammar. 4th edition. Routledge, London and New York, 2014.
Hermawan, Andri. A Semiotic Analysis on Kim Addonizio's Poems Based on C.S. Peirce's Theory. 2010.
Hoopes, James. Peirce on Signs. The University of North Carolina Press, 1991.
Juan, Jr. E. San. In Lieu of Saussure: A prologue to Charles Sanders Peirce's Theory of Signs. http://clogic.eserver.org/2012/SanJuan.pdf.
Langendoen, D. Terence. Review: Linguistics at the Begining of the 21st Century. Reviewed work(s): The Handbook of Linguistics by Mark Aronoff: Janie Rees- Miller. Source: Journal of Linguistics, Vol. 38. Nov. 3 (nov., 2002) pp. 627-643. Cambridge University Press.
Leitch, Vincent B. Literary Criticism in the 21st Century. Bloomsbury, NewYork, USA, 2014.
Marmaridou, Sophia and Kiki Nikiforidou and Eleni Antonopoulou. Trends in Linguidtics. Reviewing Linguistic Thought. Converging trends for the 21st Century. Mouton de Gruyter, Division of Walter de Gruyter GmbH & Co. KG, Berlin. 2005
Peirce, Charles Sanders. Writings on Semiotic, First Edidition. University of North Carolina Press, Chapel Hill and London. 1991.
Saussure, Ferdinant and Roy Harris. Course in General Linguistics. Open Court, Chicago and La Salle, Illinois, 1998.
Scholes, Robert. An Introduction Structuralism In Literature. New Haven and London, Yale University Press, 1974.
Stanford Encyclopedia of Philosophy. Peirce's Theory of Signs. Published 2006, revised 2010.
Taverniers, Miriam. Systemic Functional Linguistics and the Notion of Grammatical Metaphor. Doctoral dissertation, University of Gent: Department of English, Belgium, 2002.
Young, Lynne and Claire Harrison. Systemic Funtional Linguistics and Critical Discourse Analysis, Studies in Social Change. Continuum London-New York, 2004.
Ngu Yên
http://www.gio-o.com/NguYen.html
© gio-o.com 2015