NGU YÊN
Ư Thức Về Kư Hiệu Học
tùy luận
kỳ 1
Lời Giới Thiệu: Bài Ư Thức Về Kư Hiệu Học gồm có 10 phần. Sẽ đăng liên tiếp để độc giả tiện theo dơi. Bài này trích từ sách: Xa Lộ 21: Tư Tưởng Văn Học Dẫn Vào Thế Kỷ do nhà thơ Ngu Yên giới thiệu, nhận định và áp dụng những lư thuyết mới về văn chương và ngôn ngữ từ giữa thế kỷ 20 sang thế kỷ 21.
Phần Một.
Dẫn Nhập: Kư Hiệu và "Lơ Là Lơ Láo."
Trong giai đoạn hoàng kim của tờ Văn Học ở hải ngoại do nhà văn Nguyễn Mộng Giác làm chủ bút, từ thập niên 1985- 1995, xảy ra vài chuyện tranh căi về văn học. Lúc đó, tranh căi trong sáng và đẹp đẻ, người đúng lư được hoan nghênh. Người thua vui vẻ nhận lỗi. Tôi thích nhất là câu chuyện "Lơ Là Lơ Láo" do nhà văn B́nh Nguyên Lộc đề ra và người quen, kẻ lạ phúc đáp tưng bừng.
Nhớ lại, ông B́nh Nguyên Lộc thắc mắc câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
" Bó thân về với triều đ́nh,
Hàng thần lơ láo phận ḿnh ra đâu?"
Hàng thần, có nghĩa: đầu hàng. V́ vậy mới lơ láo giữa triều đ́nh lạ lẫm, tự hỏi, số phận ḿnh sẽ đi về đâu.
Hay là: Hàng thần lơ láo, có nghĩa: khi về với triều đ́nh, thấy đám quan tướng lơ láo, chẳng ra ǵ, nên mới than thân.
Tóm lại, Hàng có nghĩa đầu hàng hay hàng dài, hàng dăy?
Tôi không nhớ rơ chi tiết nhưng nhớ có nhiều lời qua tiếng lại, rất nhộn và vui. Ông B́nh Nguyên Lộc, một ḿnh đại chiến quần hùng, cuối cùng, cười x̣a nhận đă thua, v́ ông muốn hiểu theo ư "đám quần thần lơ láo" nghịch với đa số hiểu nghĩa hàng phục.
Nhắc lại chuyện này, điển h́nh cho thấy từ ngữ, nhất là trong thơ, mang nhiều ư nghĩa và h́nh ảnh khác nhau cho dù viết giống nhau. Nếu người đọc chỉ đọc bản quốc ngữ, đôi khi cũng thắc mắc như nhà văn B́nh Nguyên Lộc.
Cấu Trúc Luận cho rằng, chữ "Hàng" dù tự bản thân có ư nghĩa riêng, vẫn phải có nghĩa liên hệ và tương quan với những chữ khác trong câu và trong đoạn thơ. Nghĩa của một chữ tương quan với những chữ khác, là nghĩa đặc thù của chữ đó, trong tương quan đó. Có khi kéo theo một số ư nghĩa khác liên quan trong phạm vi của nghĩa chính thức trong tự điển. Vậy th́, đọc lại nguyên một đoạn:
"
Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!
Bó thân về với
triều đ́nh, (2465)
Hàng thần lơ láo phận ḿnh ra đâu?
áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Sao bằng riêng một biên thùy,
Sức này đă dễ làm ǵ được nhau? (2470)
Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
Thấy ngay, chữ "Hàng" liên kết với "bó thân", "ràng buộc", "luồn", "cúi", và nghịch với "gây dựng cơ đồ", " riêng một biên thùy", "nào biết có ai trên đầu". Như vậy, chữ "Hàng" trong đoạn thơ này phải là đầu hàng. Không thể hiểu theo nghĩa những dăy quan tướng công hầu lơ láo.
Kư Hiệu Học dùng cách truy vào văn bản: Nguyên truyện Kiều được viết bằng tiếng Nôm. Việc xác định ư nghĩa chữ "Hàng" phải tra cứu bằng tiếng Nôm.
|
Hàng (xiáng) |
- Nộp ḿnh chịu thua: Đầu hàng; Hàng
thần; Hàng ḱ (cờ trắng) |
|
Hàng (háng) |
- Dẫy có thứ tự: Nhất hàng thụ (một rặng cây); Hàng ngũ - Vị trí trong gia đ́nh: Ngă hàng nhị (tôi là anh ba) |
Rơ ràng chữ "Hàng" mang nghĩa là " Nộp ḿnh chịu thua", đúng với Bó thân về với triều đ́nh.
Sự nghi ngờ của nhà văn B́nh Nguyên Lộc, hăy tạm cho, thuộc về quyền của người đọc, trong ư nghĩa của thuyết Người Đọc Cảm Ứng (Reader Respose Theory). Mỗi người đọc đều có thể hiểu khác nhau trên cùng một văn bản. Tác giả mất chủ quyền về ư nghĩa. Nhất là sau khi tác giả qua đời, người đời sau đọc sách, mạnh ai nấy hiểu. Quyền ấy trở thành quyền bất thành văn.
Vào giữa thế kỷ 20, những lư thuyết mới về ngôn ngữ xuất hiện và tranh căi trên những biện chứng mang tính khoa học. Những lư thuyết gia này cố gắng đi t́m sự giải thích văn bản qua cấu trúc hoặc phản cấu trúc của ngôn ngữ, cao hơn hết là ngôn ngữ triết học và ngôn ngữ thi ca. Chẳng những chỉ là những học thuyết về ngôn ngữ, họ c̣n tạo thành pḥng trào triết học. Đặt lại câu hỏi về giá trị thực sự của truyền thống; Xác nhận lại vai tṛ ngôn ngữ trong những lănh vực khác qua sự thông đạt. Và vào thập niên 1980, đă xâm nhập vào những bộ môn khác như Nhân Chủng Học, Chính Trị Học, Xă Hội Học, Tâm Lư Học.... ngay cả vấn đề kinh tế cũng đă dự phần.
Những lư thuyết như Cấu Trúc Luận (Structuralism), Giải Cấu Trúc (Deconstruction), Kư Hiệu Học (Semiotics) Kư Hiệu Giải Tích (Semiology), Ngôn ngữ Tương Phản Học ( Constrastive Linguistics) ....là những lư thuyết phức tạp, không dễ hiểu. Câu chuyện "Lơ Là Lơ Láo" là một ví dụ tạm bợ, vá víu chưa chính xác, chỉ dùng để tiện đường, mượn hoa cúng Phật, dẫn đến những lư thuyết gai góc, đang tiến vào thế kỷ 21, có tầm ảnh hưởng trên lời nói và chữ viết, trên ngôn ngữ b́nh dân và ngôn ngữ văn chương, và hầu như trên toàn diện đời sống. Có khía cạnh nào trong đời sống mà không sử dụng ngôn ngữ? (1)
Điểm nhấn cần quan tâm để mở rộng và đào sâu là trường hợp đặc thù do sự phát triển của ngôn ngữ Việt. Sự leo ḍng từ ngôn ngữ viết tượng h́nh (chữ Hán chữ Nôm) sang ngôn ngữ viết mẫu tự ( chữ ABC) khiến cho ngôn ngữ viết của người Việt hôm nay mang những cá tính đặc biệt. Sự quan tâm này cần thiết khi thí nghiệm những lư thuyết tây phương vào văn học Việt Nam.
Ví dụ: Ngày nay khi người Mỹ viết chữ TREE, người Việt viết quốc ngữ chữ CÂY, cả hai là kư hiệu đại diện hoặc biểu tượng cho thực vật có thân có lá có rễ. Trong khi chữ MỘC trong Hán Việt, có h́nh dạng thân cây, và trong bộ chữ tiếng Trung Hoa, cũng có h́nh cây.
và tiếng Hoa:
Hơn nữa, cách ghi lại, chuyển thành mă hiệu, lại là một vấn đề cách biệt. Cần phải được kỹ thuật hóa và qui tắc hóa để có tính khoa học. Ví dụ:
Con gà ở Texas, Hoa Kỳ gáy khác con gà ở Bà Rịa, Bến tre hay sao? Người Mỹ mă hiệu tiếng gà Tây phương: "cock-a-doodle-doo". Người Việt mă hiệu, khác hẵn: "̉-ó-o-̣-̣". và chắc chắn những con gà ở các dân tộc khác sẽ có tiếng gáy ghi thành nhiều mă hiệu khác nhau. Nếu chỉ bằng chữ viết ̣ ó o, đa số người Mỹ sẽ không hiểu tiếng gà gáy nhưng nếu phát âm lớn tiếng: ó o hay ka-doo, cách nào cũng vậy, cả thế giới đều hiểu.
Tuy nhiên, đối tượng của thí nghiệm cần phải được tuyển chọn theo tiêu chuẩn giá trị. Ví dụ sử dụng Semiotics và Semiology để phân tích một bài thơ. Cả hai Semiotics và Semiology đều có tầm quan trọng về giải mă văn bản. Nhưng với điều kiện văn bản đó được đánh giá cao hoặc được viết bởi tác giả đáng tin cậy. Những văn bản khoa trương thanh thế, rỗng, th́ giải mă không có giá trị, thường khi sai lầm nếu cố gắng v́ mục đích khác.
Trăm năm
người ta
tài
mệnh
ghét.
Làm thơ theo phương pháp bỏ bớt chữ cho bí hiểm, hoặc dụng chữ kiêu kỳ khó hiểu, làm sao giải mă? C̣n như thế này, dễ hiểu biết bao, mà vẫn không thay đổi nội dung:
Trăm năm trong cơi người ta,
chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Giữa lúc từ ngữ và diễn tŕnh ngữ pháp đang bị nghi ngờ về khả năng và hiệu quả cho thông đạt, có nên xét lại cách dùng từ ngữ, cú pháp trong thi ca Việt? Nơi mà truyền thống cưu mang nhiều huyền thoại, có thể gôm lại trong một số cụm từ: bóng bẩy, chải chuốt, bí hiểm, mơ hồ, tối nghĩa và rỗng... Có nên t́m hiểu về câu cú trong thơ Việt, nơi nhiều chữ mà ít ư, nơi h́nh ảnh nghèo nàn và ngữ cảnh hời hợt, nơi phô trương hơn là tŕnh bày điều ǵ thật sự thôi thúc?
GHI:
(1) Câu chuyện này chỉ nhớ lại bằng bộ nhớ có tuổi, e rằng không chính xác lắm. Có thể t́m đọc rơ hơn trong bộ tạp chí Văn Học lưu trữ trong thư viện Quốc Hội Hoa Kỳ..
Ngu Yên
http://www.gio-o.com/NguYen.html
© gio-o.com 2015