Lănh Sự Horace Remillard,

Sàig̣n, Nam Kỳ (Cochin China)

 

 

Phần Bổ Túc

BÁO CÁO THƯƠNG MẠI

BÁO CÁO MẬU DỊCH VÀ LĂNH SỰ HÀNG NGÀY

ẤN HÀNH BỞI

PH̉NG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ QUỐC NỘI

BỘ THƯƠNG MẠI HOA KỲ,

WASHINGTON, D. C.

 

Ấn Phẩm Thường Niên                           Số 54a                  10 Tháng Tư, 1918

 

*****

 (kỳ 3)

 

kỳ 1 -  kỳ 2

 

Ngô Bắc dịch

 

Lời Người Dịch

       Dưới đây là bản dịch ba Phần Bổ Túc Các Báo Cáo Thương Mại của Lănh Sự Hoa Kỳ tại Sàig̣n được ấn hành bởi Bộ Thương Mại Hoa Kỳ, trong các năm 1915, 1917 và 1918.  Ba văn bản này mang lại các con số thống kê chính xác và hữu ích, phản ảnh các lănh vực hoạt động kinh tế và ngoại thương chính yếu của Việt Nam gần 100 năm trước đây, trong thời Thế Chiến I 1914-1918.

       Hai bản văn năm 1915 và 1917 được soạn thảo bởi Lawrence Palmer Briggs, Lănh Sự của Hoa Kỳ tại Sàig̣n trong thời gian đó, và bản văn năm 1918 được soạn thảo bởi Horace Remillard, người kế nhiệm làm Lănh Sự Hoa Kỳ tại Sàig̣n từ năm 1917 đến 1919.  Tiểu sử ngắn gọn về hai tác giả này được ghi lại trước bài viết liên hệ.

***

Remillard, Horace -- Sinh tại Roxbury (nay là một phần của thành phố Boston, Quận Suffolk, tiểu bang Massachusetts ngày 5 Tháng Tám, 1885.  Ông tốt nghiệp Harvard University (Cử Nhân), 1909; đă từng là biên tập quyển hướng dẫn nghỉ hè của Harvard University và phiên dịch quyển “le Nouveau Cynée”.  Ông đă được bổ nhiêm, sau kỳ khảo thí (5 Tháng Năm 1909), làm Học Viên Thông Dịch tại Trung Hoa 2 Tháng Sáu, 1909; Phụ tá Tổng Lănh Sự tại Hán Khẩu 10 Tháng Một, 1912; cũng được bổ làm Thông Dịch Viên, 15 Tháng Mười, 1912; Phó và Phụ Tá Tổng Lănh Sự tại Hán Khẩu, 21 Tháng Bảy, 1913; Phó và Phụ Tá Tổng Lănh Sự và Thông Dịch Viên tại Thiên Tân, 17 Tháng Ba, 1914; Phó và Phụ Tá Tổng Lănh Sự và Thông Dịch Viên tại Hán Khẩu, 6 Tháng Hai, 1915; Phó Lănh Sự và Thông Dịch Viên tại Phúc Châu, 19 Tháng Bảy, 1916; Phó Lănh Sự và Thông Dịch Viên tại Sán Đầu (Swatow), Quảng Đông, 6 Tháng Chín, 1916; Lănh Sự hạng chín, 16 Tháng Tư, 1917; được bổ nhiệm đến Sàig̣n 21 Tháng Tư, 1917; được thăng trật Lănh Sự hạng tám ngày 14 Tháng chín, 1917; đại biện lâm tḥi tại Batavia 1919; được thăng Lănh Sự hạng sáu, 5 Tháng Chín, 1919; được bổ nhiệm đến Huelva, 1 Tháng Bảy, 1920; tại Rome, 1924; Tangier, 1926-29; Port Said, 1931-38.

***

 

http://saigon-vietnam.fr/indochine_10/indochine-francaise.jpg

 

 

 

ĐÔNG DƯƠNG THUỘC PHÁP

TRUNG KỲ

Soạn Thảo Bởi

Lănh Sự Horace Remillard, Sàig̣n, 26 Tháng Một

 

Hải cảng Đà Nẵng là cửa ngơ chính yếu cho các sản phẩm của Trung Kỳ, mặc dù ba tỉnh phía bắc của phần đất bảo hộ này xuất cảng từ Hải Pḥng, và hậu quả thuộc về Bắc Kỳ về mặt quan thuế.  Các hải cảng nhỏ khác là Qui Nhơn, Đồng Hới, và Phan Thiết.

 

http://saigon-vietnam.fr/indochine_3/Tourane-courbet.jpg

Hải Cảng Đà Nẵng

 

Ngoại Thương Của An Nam –

Mậu Dịch Duyên Hải

       Các t́nh trạng thương mại tại Trung Kỳ, theo các thống kê mới được cung cấp gần đây, tiếp tục bất lợi: các cơ sở hải vận không thích đáng, giá biểu chuyên chở cao một cách bất thường; giá cả sản phẩm lên cao ở hải ngoại, mậu dịch nhập cảng đương nhiên nhỏ hơn về khối lượng, mặc dù có lên cao đôi chút về trị giá, và các số xuất cảng chính yếu của Trung Kỳ phải chịu một giá thấp trên thị trường ngoại quốc với giá biểu kim loại bạc lên cao, khiến nó khó t́m được khách mua.  Các trị giá gộp và thuần (tịnh) của mậu dịch vẫn tiếp tục thấp kém so với các trị giá thời trước chiến tranh.

       Các số nhập cảng sụt giảm từ $1,102,440 trong năm 1914 xuống $721,123 năm 1915, nhưng gia tăng chút ít năm 1916, lên đến $811,643.  Các số xuất cảng có trị giá là $2,148,306 năm 1914, $1,967,696 năm 1915, và $1,985,922 năm 1916.

       Sự gia tăng $90,520 trong trị giá hàng nhập cảng nằm trong phạm vi tương ứngvới giá cả hàng hóa cao hơn khắp thế giới.  Trị giá các số xuất cảng trong năm 1916 có độ cùng trị giá của năm 1915.  Tổng số trọng lượng các hàng nhập cảng độ 10,033,973 cân Anh (pounds) và của số xuất cảng là 31,157,366 cân Anh.  Trong số nhập cảng, có 1,628,421 cân Ạnh, trị giá $323,541, là nhận từ Pháp và 8,375,522 cân Anh, trị giá $488,102, từ các nước khác; trong số xuất cảng, có 11,285,519 cân Anh, trị giá $1,248,502, đến các nước ngoài.

       Trong khi thương mại của Đà Nẵng phần lớn là các sản phẩm cồng kềnh chỉ có ít giá trị so sánh với khối lượng của chúng, và trong khi ít tàu cập bến cảng này, phần lớn mậu dịch diễn ra dọc theo duyên hải.  Trị giá hàng hóa nhập cảng từ các miền khác nhau của Đông Dương lên tới $3,095,181, như sau: từ Nam Kỳ, $105,654; từ Bắc Kỳ, $849,316, và từ các hải cảng khác của Trung Kỳ, $2,140,211.  Các sản phẩm này bao gồm gạo, thóc, diêm, vải bông, và các mặt hàng khác trong được liệt kê riêng biệt trong các tờ khai quan thuế tại Đà Nẵng.  Trị giá hàng hóa xuất cảng đến các phần khác của Đông Dương lên toi=’ $1,544,560, phân chia như sau; từ [? đến] Bắc Kỳ, $357,117; từ [?đên] Nam Kỳ, $384,113, và từ [?đến] các hải cảng khác của Trung Kỳ, $803,330.  Các chuyến hàng này bao gồm chính yếu các hạt cau, đường mía bản xứ, quế, than đá, lụa sống, và da sống.

 

Các Mặt Hàng Hàng Đầu Của Số Nhập Cảng

       Bảng dưới đây đưa ra trị giá của một số các mặt hàng chính yếu được nhập cảng vào Trung Kỳ từ mọi nước trong các năm 1915 và 1916:

Mặt Hàng                          1915                            1916

Dầu hỏa                              $100,172                     $130,930

Giấy và sản phẩm từ giấy     104,464                         63,664

Cuộn vải bông                    105,715                           62,850

Đồ gốm và đồ sứ                    30,198                         26,845

Dược phẩm                        18,908                            10,860

Pháo                                                                             8,213

Trà                                                                                7,554

Hương (nhang)                                                             5,213

 

       Dầu hỏa là mặt hàng đơn độc lớn nhất đă tiếp nhận và có trị giá tới $130,930, gia tăng $30,218 trên ngạch số năm 1915.  Trên 50 phần trăm số dầu hỏa được bán ra là của Mỹ.  Nhu cầu có tỷ lệ lớn so với dân số, là v́ sự kiện rằng kerosene (dầu lửa, dầu hôi) là phương tiện thắp sáng các trung tâm chính yếu của Trung Kỳ, trái với sự sử dụng điện lực tại Bắc Kỳ và Nam Kỳ.  Giấy, được nhập cảng tới $63,664, đến chính yếu từ Trung Hoa, và phần lớn được dùng trong sự thờ phụng.  Trong sự liên kết này, nên nhớ trong đầu rằng tại Hội An và các nơi khác, có các khu định cư của người Trung Hoa.  Vải bông cuộn được nhập cảng tới trị giá $62,850, chính yếu từ Ấn Độ.  Số nhập cảng các sản phẩm bông vải, vốn sụt giảm trong các năm gần đây, không được liệt kê thành một mục khoản riêng biệt trong các tờ khai quan thuế.

 

http://saigon-vietnam.fr/indochine/tourane-gare.jpg

Nhà Ga Xe Hỏa Đà Nẵng

Trị Giá Các Mặt Hàng Chính Xuất Cảng Từ Trung Kỳ.

       Các thống kê sau đây đưa ra trị giá các số xuất cảng chính yếu đên mọi nước từ An Nam trong các năm 1915 và 1916;

Mặt Hàng                          1915                            1916

Quế                                     $472,586                     $751,979

Đường mía                           247,708                       428,580

Trà                                        289,073                       314,212

Da sống                                  98,529                         86,234

Lụa                                     $115,399                       $69,662

Mây                                        48,180                         26,661

Ḷng đỏ trứng                        24,436                         13,762

Chất albumen (phôi nhũ)        10,000                           8,942

 

       Quế, sản phẩm chính của Trung Kỳ về mặt thương mại, chủ yếu nằm trong tay các nhà buôn Trung Hoa, chở sang Trung Hoa và Hồng Kông.  Trong năm 1916, 854,206 cân Anh đà được chở đi, trong đó 144,353 cân Anh là vỏ quế loại lớn và 709,853 cân Anh thuộc loại nhỏ. Trị giá được ước lượng là $751,979, hay $379,118 cho loại lớn và $372,861 cho vỏ quế loại nhỏ.  Sản phẩm này có được từ miền trung và miền bắc Trung Kỳ.  Đặc biệt tại Trung Hoa, loại vỏ lớn được tán thưởng cho mục đích y khoa; tuy nhiên, Âu Châu vẫn tiếp tục ưu tiên sử dụng sản phẩm của Tích Lan (Ceylon).

       Trong năm 1916, 15,560,630 cân Anh đường mía đă được xuất cảng ra hải ngoại từ Đà Nẵng, 8,230,221 cân Anh sang Pháp quốc và 7,330,409 cân Anh đến các nước ngoài khác.  Số xuất cảng sang Pháp có trị giá $235,956; và số xuất cảng sang các nước khác có trị giá $192,624, làm thành trị giá tổng cộng là $428,580.  Các chuyến hàng sang Pháp bao gồm 3,707,908 cân đường nâu và 4,520,424 cân đường trắng; gần như mọi chuyến hàng đến các nước khác đều là đường nâu.  Số thu hoạch mía năm 1916 th́ tuyệt hảo, và giá cả có được th́ cao.  Ngành này tập trung chính yếu quanh Quảng Ngăi [nguyên bản ghi là Quang-Nghae, chú của người dịch], tại Trung Kỳ.

       Trà thường được chở sang Pháp hay đến các hải cảng khác của Đông Dương.  Trong năm 1916, 1,794,591 cân Anh được xuất cảng sang mẫu quốc, gia tăng 25,139 cân Anh trên số lượng của năm 1915.  Có vẻ là nhu cầu này sẽ không sụt giảm trong tương lai gần, bởi trà này được yêu cầu bởi người gốc Đông Dương có mặt tại Pháp.  Vùng Tam Kỳ tại miền trung Trung Kỳ là địa hạt sản xuất chính.  Vùng này, cùng với Bắc Kỳ, phải thỏa măn một nhu cầu lớn ở hải ngoại và chắc chắn sẽ làm được như thế khi các cơ xưởng của nó được thiết trí bằng máy móc hiện đại để chế biến trà.

 

BẮC KỲ

       Hải Pḥng, tọa lạc tại cửa sông Hồng, cửa ngỏ cho toàn thể thương mại của Bắc Kỳ, một phân hạt giàu có về nông nghiệp và các tài nguyên khoáng sản.  Năm 1916 đặc biệt thỏa măn theo quan điểm của doanh nhân địa phương, kẻ, mặc dù bán ra ít hơn, nhưng lại thu được nhiều tiền hơn các năm trước, nhờ ở các giá cả bị thổi phồng.  Sản lượng nói chung ít hơn trừ một ít trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như các ngành hầm mỏ và bông vải, vốn được kích thích bởi chiến tranh Âu Châu.  Hơn nữa, sự gia tăng sản lượng ngô và một số nông phẩm khác giảm xuống tới mức tối thiểu, bởi các giá biểu chuyên chở lên cao khiến cho việc xuất cảng không sinh lợi.  Điều đang xảy ra tại Bắc Kỳ vào lúc này là một sự tái điều chỉnh theo đó một số mặt hàng và sản phẩm nào đó đang bị loại bỏ hầu tập trung vào các sản vật được yêu cầu.

 

Hải Cảng Hải Pḥng

       Các thống kê sau đây rút ra tờ các Tờ Khai Quan thuế Hàng Hải Đông Dương mang lại số lượng và trị giá các số nhập cảng vào Bắc Kỳ trong năm 1916: từ Pháp và các thuộc địa, 11,033 tấn và $3,958,430; từ các nước khác, 40,808 tấn và $8,926,636: tổng cộng, 51,841 tấn và $12,885,066.  Các số xuất cảng được phân phối như sau; đến Pháp và các thuộc địa, 10,915 tấn và $3,052,102; đến các nước khác, 242,379 tấn và $9,084,703: tổng cộng, 253,294 tấn và $12,136,805.

 

 

Các Mặt Hàng Nhập Cảng Hàng Đầu

Cho Thấy Sự Gia Tăng Về Số Lượng

       Mậu dịch nhập cảng trong năm 1915 gánh chịu ảnh hưởng nặng nề cuộc chiến tranh tại Âu Châu, nhưng trong năm 1916 đă có một sự cải thiện tổng quát trong t́nh h́nh.  Gần như tất cả các sản phẩm chính yếu mua từ hải ngoại đă gia tăng về số lượng, như được nh́n thấy trong bảng dưới đây:

Mặt hàng                           1915                            1916

                                           Cân Anh                      Cân Anh

Vũ khí và đạn dược           657,412                       1,178,920

Bao (bị, túi) đay                 4,016,781                    4,392,225

Thuốc điếu và thuốc lá          268,741                       322,753

Sản phẩm bông vải

       Tấm vải                          972,449                    2,567,698

       Cuộn bông                  6,951,765                    6,045,451

Bột lúa ḿ                           3,050,946                    3,630,756

Sắt và thép                         5,262,380                    7,209,444

Máy móc                               363,539                       528,990

Thịt và thịt đóng hộp          14,320                               19,824

Thuốc phiện                        75,397                               88,181

Giấy và sản phẩm giấy       2,542,786                    2,997,371

Sản phẩm lụa                      60,406                             59,265

Rượu vang [a* (gallons)]      595,031                       461,002                                 

a*: 1 gallon = 3.78 lít

Thuốc điếu và thuốc lá nhập tự nhiều nguồn khác nhau.  Trong năm 1916, 20,946 cân Anh thuốc lá từ Algeria và 41,442 cân Anh từ Trung Hoa đă t́m đường đến thị trường địa phương.  Thuốc điếu chính yếu đến từ Algeria, 56,259 cân Anh được nhập cảng.  Một số lượng nhỏ thuốc lá của Anh Quốc và Mỳ được nhập cảng từ Hồng Kông và Phi Luật Tân, và x́ gà Ḥa Lan nói chúng được ưa thích.

       Mặt hàng vải tấm cấu thành một loại hàng nhập cảng quan trọng vào Bắc Kỳ, phần lớn trong đó đến từ nước Pháp.

       Về số nhập cảng sắt và thép, hơn ba phần tư, hay 5,554,710 cân Anh đến từ các nước khác.  Các chuyến hàng này trước đây đến từ nước Pháp, nhưng bởi chiến tranh Âu Châu, các nhà kinh doanh Đông Dương đă hướng đến các thương nghiệp Mỹ tại Trung Hoa để t́m mua các sản phẩm sắt và thép. 

       Nhu cầu về mọi loại máy móc gia tăng với sự phát triển kinh tế của Đông Dương.  Số nhập cảng năm 1916 tổng cộng 598,990 cân Anh, bao gồm đầu máy xe hỏa, dụng cụ, máy may, máy điện, máy nông nghiệp, máy in và máy dệt.

       Giấy và các sản phẩm từ giấy được nhập cảng lên tới 2,997,374 cân Anh trong năm 1916, trong đó 454,588 cân Anh vượt quá trọng lượng của năm trước.  Luôn luôn có một nhu cầu lớn về các sản phẩm này tại Bắc Kỳ, bởi các cơ sở ấn loát to lớn tọa lạc tại Hà Nội, thủ phủ của Chính Quyền Đông Dương.  Gần như tất cả giấy đều xuất phát từ Pháp.

 

Các Mặt Hàng Quan Trọng

Của Mậu Dịch Xuất Cảng

       Dưới đây là số lượng của các mặt hàng hàng đầu được xuất cảng từ Bắc Kỳ trong các năm 1915 và 1916:

Mặt hàng                                            1915                                         1916

Hạt hồi hương   cân Anh                   164,463                                   143,079

Benzoin ……... như trên                                                                     16,755

Ximăng, đá xi măng    tấn                  38,450                                     48,939

Than đá ……….cân Anh                    477,396                                   419,110

Cà phê …….. cân Anh                         793,215                                 1,087,530

Vải cuộn, vải lẻ …cân Anh                 5,711,173                                6,027,596

Cá tươi, ủ muối, hun khói, và

đóng hộp ……………cân Anh                  5,488,792                            3,221,802

Sơn mài, que & nhựa … -nt-                         218,035                                202,162

Ngô …………………tấn                                 25,472                                 2,810

Dầu

-          Thầu dầu … cân Anh                                 1,100,316                                   434,086

-          Sơn mài ……..-nt-…                                  3,346,362                                   847,889

Gạo …………………. tấn                         285,129                                      111,129

Trà ………………. cân Anh                         151,676                                   186,729

Tungsten …………..  tấn                                  397                                             424

Kẽm ……………….  tấn                                  33,335                                   39,403

       Tổng số xuất cảng dầu hồi hương trong năm 1916, lên tới 143,079 cân Anh, đă được gửi sang Pháp, so với 163,812 cân Anh đến nước đó trong năm 1915.

       Các số xuất cảng cà phê sang Pháp năm 1916 lên tới 1,079,593 cân Anh, trị giá $174,060.  C̣n có số lượng bổ túc 20,728 cân Anh được chở xuống Trung Kỳ và Nam Kỳ.  Sự gia tăng số xuất cảng này có thể được quy phần lớn cho quan thuế biểu được áp đặt lên cà phê ngoại quốc bởi nước Pháp, cho phép Bắc Kỳ cạnh tranh một cách thuận lợi, bất kể các giá biểu chuyên chở khổng lồ.

       Số lượng ngô xuất cảng trong năm 1916 chỉ có 2,810 tấn, ít hơn năm 1915 đến 22,662 tấn.  Các chuyến hàng đến các nước ngoài (Hồng Kông) chỉ hơn năm 1915 một chút (2,810 tấn so với 1,310 tấn năm 1915); do đó số sụt giảm là trong mậu dịch với Pháp, giảm mất 93.6 phần trăm.

       Gạo là mặt hàng chính được xuất ra hải ngoại từ bắc Kỳ.  Số xuất cảng năm 1916 về gạo và các phó sản của nó lên tới 111,129 tấn, trị giá $3,161,919, tượng trưng cho 44 phần trăm tổng số xuất cảng của Hải Pḥng về trọng lượng và 26 phần trăm về trị giá.  Các chuyến hàng sang Pháp là 2,342 tấn, hay 18,534 tấn ít hơn năm 1915.  Các hải cảng khác, kể cả Hồng Kông, nhận 108,787 tấn, tượng trưng cho 45 phần trăm tổng số giao dịch của Bắc Kỳ với nước ngoài.

       Sự gia tăng 35,053 cân Anh trong số xuất cảng trà là do các chuyến hàng gia tăng được chở sang Pháp cho người gốc bản xứ Đông Dương.

 

Sản Lượng Xi Măng và Đá Vôi –

Các Số Bán Gia Tăng của Than Đá.

       Bảng dưới đây đưa ra một sự tóm lược số bán tổng gộp của xi-măng và đá vôi giữa các năm 1907 đến 1916, bởi công ty La Société des Ciments Portland Artificiels de l’Indochine (một tổ hợp với số vốn 2,000,000 phật lăng), có nhà máy tại Hải Pḥng.

 

http://saigon-vietnam.fr/indochine_8/cimenterie-haiphong.jpg

Nhà Máy Xi-măng Hải Pḥng

 

 

Năm            Tiêu Thụ Địa Phương     Trung Kỳ & Nam Kỳ          Hải Ngoại          Tổng Số Hàng Năm

                   Đá Vôi                        Ximăng     Đá Vôi      Ximăng       Đá Vôi       Ximăng     Đá Vôi     Ximăng

                   Tấn                              Tấn           Tấn             Tấn              Tấn          Tấn               Tấn            Tấn

1907           …..                              8,564         …..              8,825         …..       28,690       …..            46,079

1908           …..                              7,052         …..              8,907         …..       11,149       …..            27,108

1909           …..                              7,000         …..            10,000         …..       18,000       …..            35,000

1910              217                           6,122         2,589           7,693           10       27,724       2,816         41,539

1911              658                           8,200         4,847           6,774             26       33,535       5,531         48,509

1912              688                           10,279       4,890           7,114             345       26,371       5,923         43,764

1913              734                           6,533         4,505           8,096             32       35,488       5,271         50,117

1914           506                              6,200       3,451          12,627             253       32,608       4,210         51,435

1915              655                           8,880        2,535         21,649             76       38,450       3,266         68,979

1916           1,390                           11,556       2,132         14,676          …..       48,939       3,522         75,171

       Trong năm 1916, các chuyến than đá duyên hải và ra hải ngoại của Bắc Kỳ lên tới 419,110 tấn.  Ngoài ra, 247,306 tấn được tiêu thụ tại địa phương và 67,057 tấn cho các tàu hơi nước chạy bằng than.  Điều này mang tổng số lên 733,473 tấn, biến năm 1916 thành năm than kỷ lục.

 

http://saigon-vietnam.fr/indochine_8/chambre-commerce.jpg

Pḥng Thương Mại Hải Pḥng

 

Bảng dưới đây được đưa ra trong báo cáo mậu dịch của Pḥng Thương Mai Hải Pḥng cho năm 1916 cho thấy tổng số bán ra của tất cả các công ty khai thác mỏ than tại Bắc Kỳ kể từ 1907:

Năm                       Than Bánh             Than Vụn                     Than Cục       Tổng Số

                   Tấn                              Tấn                  Tấn                  Tấn

1907                         84,244                     89,273               147,886                  221,403

1908                         86,090                     97,840               169,417                  353,347

1909                         91,966                   126,286               178,000                  296,252

1910                         81,684                   143,893               212,085                  437,662

1911                         83,884                   146,827               202,157                  432,868

1912                         99,150                   163,884               217,538                  480,572

1913                       121,950                   178,247               256,782                  556,988

1914                       176,768                   190,343               233,826                  600,937

 

http://saigon-vietnam.fr/indochine_6/charbonnages-tonkin.jpg

Công Ty Than Đá Bắc Kỳ

 

 

 

Sự Tăng Trưởng Của Ngành Vải –

Các Số Xuất Cảng Khoáng Sản

       Trong bảng dưới đây, điều được phô bày là tầm quan trọng của ngành vải mà Bắc Kỳ đă đóng giữ kể từ 1907, chỉ bảy năm sau khi các thử nghiệm đầu tiên trong ngành này được thực hiện.  Điều có thể ghi nhận rằng trong các số xuất cảng năm 1916 về vải lên tới 4,558,892 cân Anh, cho thấy chỉ có một sự sụt giảm chút ít so với số các chuyến hàng chở ra hải ngoại được thực hiện trong năm 1914, một năm kỷ lục.  Nhu cầu của các thị trường nước ngoài về vải cuộn Bắc Kỳ hơi kém hơn so với mấy năm gần đó, trong khi thị trường Pháp cho thấy rơ ràng khá hơn.  Gần như tất cả số vải lẻ đều được tiếp nhận bởi Pháp cho các mục đích chiến tranh.

Năm                                   Vải Sợi                                                            Vải Lẻ, Vụn            ______

       Đến Pháp        Nước Ngoài    Tổng Số               Đến Pháp      Nước Ngoài     Tổng Số_____

Đơn Vị: Cân Anh

1907              685,851        1,069,451    1,755,302        413,412          661,380       1.071,522

1908           1,626,333           995,597    2,621,930        641,777          219,561       861,388

1909                16,755        2,014,957    2.031,712        742,950       2,285,285       3.028,235       

1910                     220        2,781,544    2,781,764        391,096       1,509,093       1,900,189

1911    …………               2,737,231    2,737,231        721,129       1,020,283       1,741,412

1912    …………               3,461,308    3,461,308        557,323      1,078,269       1,635,592

1913                      411       3,774,586        3,774,997 ….4,9...         1,58..1..3       2,0..6,592 *    

1914    ………….             4,748,768        4,748,768     236,238     343, 351          579,589

1915               289,223       3,559,196    3,848,419               220         1,712,074       1,712,294

1916           1,910,286        2,648,606    4,558,892     1,193,349         275,355      1,468,704

* một ít số quá mờ, không đọc được, chú của người dịch

 

       Ba nhà máy dệt vải của Bắc Kỳ, tọa lạc tại Nam Định, Hải Pḥng, và Hà Nội, sử dụng 62,000 con suốt và 270 máy dệt, sản xuất ra từ 4,500 đến 5,000 tấn sợi.  Chúng cung cấp cho các nhu cầu địa phương sâu rộng cũng như cho nhu cầu nước ngoài to lớn.

       Các số xuất cảng khoảng sản kim loại đà gia tăng một cách liên tục từ 1910, với ngoại lệ của các năm 1912 và 1914.  Năm 1916 được đánh dấu bởi một sự gia tăng đáng kể hơn 6,000 tấn so vơi năm 1915, bất kể các giá biểu chuyên chở hạn chế và thái quá.  Các giá cả lên cao nhận được, nhờ có các nhu cầu tạo ra bởi chiến tranh, khiến việc khai thác các hàm mỏ trước đây để không, nay lại sinh lợi

       Một trong các đặc điểm chính yếu của mậu dịch này là sự phát triển một thị trường rộng lớn tại Nhật Bản, nơi 30,873 tấn kẽm và toàn thể sản lượng chất antimony, lên tới 785 tấn, được bán ra trong năm 1916.  Hoa Kỳ có tiếp nhận 4.500 tấn kẽm và Đại Anh Cát Lợi 4,030 tấn.  Trong toàn thể sản lượng khoáng sản, Pháp chỉ tiếp nhận 424 tấn thiếc và tungsten.

 

Các Chuyến Hàng Sơn Mài –

Dầu Thầu Dầu và Dầu Sơn Mài.

       Số xuất cảng que (bút) sơn và nhựa sơn mài trong năm 1916 tương tự như năm trước, nhưng ít hơn rơ rệt so với thời trước chiến tranh.  Điều này xảy ra là v́ bị mất thị trường Pháp và bởi sự sử dụng các sản vật này tại địa phương để chế tạo chất nhuộm, đang thay thế cho thuốc nhuộm có chất aniline của Đức Quốc.  Sự phân bố số xuất cảng sơn mài trong 10 năm từ 1907 đến 1916 như sau:

Năm                       Đến Pháp               Các Nước Ngoài            Tổng Số

                                                               Đơn vị trọng lượng: Cân Anh

1907                       643,523                   156,306               799,829

1908                       588,849                   326,280               915,129

1909                         59,083                   213,846               272,929

1910                       812,174                     41,226               853,400

1911                       399,798                   115,962               506,760

1912                       683,426                     83,774               767,200

1913                    1,090,616                     65,037             1,155,653

1914                       412,922                   100,971               513,893

1915                         52,029                   166,006               218,035

1916                       123,458                     78,701               202,162

       Cả dầu thầu dầu lẫn dầu sơn mài đều sụt giảm trong các số nhập cảng trong năm 1916.  Trong các năm 1914 và 1915 dầu thầu dầu đă không được chở đến nước Pháp, và trong năm 1916 chỉ có 33,369 cân Anh, là điều khó hiểu khi xét tới nhu cầu lớn lao tại Mặt Trận Tây Phương.  Năm 1917 mang lại triển vọng khá hơn, Chính Phủ Pháp đă thúc giục các nhà trồng trọt hăy gia tăng sản lượng của họ hầu các trạm hàng không có thể được tiếp tế một cách đầy đủ.

       Số lượng dầu thầu dầu và dầu sơn mài được chở đến các nước ngoài từ Bắc Kỳ trong thời khoảng 1907 đến 1916 được chỉ trong bảng kèm dưới đây:

Năm                       Dầu thầu dầu                             Dầu Sơn Mài

                   Đơn Vị Trọng Lượng: Cân Anh

1907                       1,102,741                                     599,210

1908                          531,529                                     763,233

1909                            53,351                                     878,751

1910                       1,176,368                                     790,570

1911                       1,446,659                                     951,592

1912                          867,951                                     890,156

1913                       1,306,887                                    1,086,427

1914                       1,983,258                                     105,607

1915                       1,100,316                                     3,346,362

1916                          431,086                                     817,889

 

Mậu Dịch Với Hoa Kỳ

       Mậu dịch với Hoa Kỳ không thể đo lường bằng các thống kê quan thuế, bởi không có tuyến hàng trực tiếp giữa Hoa Kỳ với bất kỳ hải cảng nào của Đông Dương.  Hậu quả, các số nhập cảng từ Hoa Kỳ thường được liệt kê như đến từ Hồng Kông hay một số hải cảng khác xuyên qua đó chúng đến được Hải Pḥng.  Tuy nhiên, có điều chắc chắn rằng các sản phẩm Mỹ đang giành được thị trường từng năm một kể từ khi có chiến tranh Âu Châu và ngày sẽ càng thuận lợi hơn và có nhiều nhu cầu hơn, nguyên do v́ các nối kết tàu hơi nước bị hạn chế với Âu Châu và sự rối loạn của các ngành chế tạo tại Pháp: cũng có sự quen thuộc hơn với các mặt hàng Mỳ, trong những năm trước đây bị xem là không theo kịp các sản phẩm của Pháp về mặt phẩm chất.

       Số xuất cảng chính từ Hải Pḥng đến Hoa Kỳ trong năm 1916 là kẽm, 4,500 tấn được chở trực tiếp.  Gạo, da sống, thảm, và các mặt hàng khác chắc chắn đă được chuyên chở xuyên qua Hồng Kông.  Các hàng nhập cảng chính yếu từ Mỹ là dầu hỏa, máy đánh chữ, xe hơi, bột ḿ, máy may, đồ kim khí hạng nặng, và các dụng cụ.

 

Hải Vận Tại Hải Pḥng

       Trong những năm gần đây, đă có một sự sút giảm trong số các tàu cập bến Hải Pḥng, bởi có nhu cầu các tàu tại các hải phận khác bởi các nước Đồng Minh và bởi có sự gián đoạn của tàu hải vận Đức Quốc và của Tuyến Dunkirk [hải cảng tại miền bắc nước Pháp. ND] - Hải Pḥng.

       Mặc dù số tàu Pháp tiến vào Hải cảng Hải Pḥng trong năm 1916 kém đi 28 chiếc, trọng tải thuần đăng kư lại nhiều hơn năm 1915 đến 72,501 [tấn].  Sự kiện này xảy ra bởi một vài hăng vận tải hàng hải Âu Châu lớn đă cập bến hải cảng này kể từ Tháng Bảy, 1915.  Trong năm 1916, một tàu Mỳ, trọng tải 2,758 tấn, được đăng kư là đă vào hải cảng này.

       Bảng sau đây cho biết quốc tịch, con số, và trọng tải thuần của các tàu đă cập bến hải cảng Hải Pḥng trong các năm 1915 và 1916:

Quốc Kỳ                            1915                                                    1916

                               Số Tàu             Trọng Tải Tịnh     Số Tàu        Trọng Tải Tịnh      

Pháp                                   194              230,022               166      311,523

Anh                                    135              158,027                 96      113,283

Nhật                                     75                73,211                 21        28,306                               

Na Uy                                   14                13,022                 12        11,481

Ḥa Lan                                7                   5,976                   9        12,068

Bồ Đào Nha                           1                     217                   4          2,544

Trung Hoa                             3                   2.646                   2          1,764

Mỹ …………………………………………….                    1          2,758

Nga                                        9                   8,946              ………………………

__________________________________________________________________________

Tổng Số                 438                  501,067                       311      483,727

_____                                                                             

Nguồn: Horace Remillard, Supplement to Commerce Reports, Daily Consular and Trade Reports, Issued by The Bureau of Foreign and Domestic Commerce, Department of Commerce, Washington, D.C., Annual Series, No. 54a, April 10, 1918, Washington: Government Printing Office, 1918, 7 trang.              

 

 Ngô Bắc dịch và phụ chú

14.09.2015

 

http://www.gio-o.com/NgoBac.html

 

© gio-o.com 2015