(tiếp theo và hết chương 5)

 

CHƯƠNG V

 

“ĐƯỜNG CHÍN ĐOẠN” VÀ

 

SỰ TUYÊN NHẬN CÁC QUYỄN LỊCH SỬ CỦA

 

TRUNG QUÔC TẠI CÁC KHU VỰC BIỂN CỦA

 

BIỂN NAM TRUNG HOA

 

(CÁC LUẬN ĐIỂM ĐỆ TR̀NH SỐ 1 VÀ 2)

 

 

(bấm vào đây để đọc trọn chương 5)

 

 

 

1.    Các Nội Dung Của Các Luận Điểm Đệ Tŕnh

 

Số 1 và 2 Của Phi Luật Tân

 

230. Đă xác định rằng ḿnh có thẩm quyền tài phán để cứu xét Các Luận Điểm Đệ Tŕnh Số 1 và 2 của Phi Luật Tân, Phiên Ṭa giờ đây hướng tới nội dung [merits: từ ngữ luật học chỉ t́nh tiết, tức lẽ đúng hay sai của vấn đề, khi xét đến bằng chứng và các sự tranh luận pháp lư liên quan đến cả hai mặt t́nh (de facto) và lư (de jury), không bị che khuất bởi các chi tiết về thủ tục, các chi tiết kỹ thuật pháp lư, cảm nhận cá nhân …, chú của người dịch] của các sự khiếu tố đó.

 

231. Xây dựng trên luật quốc tế có trước và Công Ước về Luật Biển năm 1958, Công Ước thiết lập các giới hạn cho các sự hưởng quyền trên biển và đặt ra các quyền và các nghĩa vụ của các Quốc Gia duyên hải – cũng như các Quốc Gia khác – trong phạm vi các khu biển như thế.  Các Điều từ số 2 đến 32 của Công Ước quy định các quyền và các nghĩa vụ của các Quốc Gia bên trong phạm vi lănh hải và giới hạn sự nới rộng lănh hải đến mức 12 hải lư.  Các Điều 55 đến 75 của Công Ước quy định sự tạo lập một khu kinh tế độc quyền và giới hạn sự nới dài của nó ở mức 200 hải lư.  Các Điều từ 76 đến 85 của Công Ước quy định các quyền và các nghĩa vụ của các Quốc Gia đối với thềm lục địa, một cách tổng quát, giới hạn thềm lục địa đến mức 200 hải lư, và đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật theo đó một số Quốc Gia có thể tuyên nhận một thềm lục địa vượt quá 200 hải lư.  Các Điều từ 86 đến 120 và từ 133 đến 191 của Công Ước quy định các quyền và các nghĩa vụ của các Quốc Gia tại biển mở ngỏ [hay biển tự do: high seas] và tại Khu Vực đáy biển vượt quá các giới hạn của thẩm quyền tài phán quốc gia.  Công Ước chính v́ thế cung cấp – và xác định các giới hạn trong đó – một hệ thống bao hàm các khu trên biển có khả năng bao quanh một khu vực trên biển hay đáy biển.

 

232. Phiên Ṭa đă sẵn cho hay rằng nó hiểu, trên căn bản các hành động của Trung Quốc, rằng Trung Quốc tuyên nhận các quyền lịch sử đối với các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động tại các hải phận của Biển Nam Trung Hoa bên trong phạm vi “đường chín đoạn”, nhưng Trung Quốc không xem các hải phận đó tạo thành bộ phận của lănh hải hay nội hải của nó (khác với lănh hải được phát sinh bởi các ḥn đảo).  Sự tuyên nhận như thế sẽ không phải không tương hợp với Công Ước tại bất kỳ khu vực nào nơi Trung Quốc sẵn sở đắc các quyền như thế xuyên qua sự điều hành của Công Ước.  Đặc biệt, điều này sẽ là trường hợp nằm bên trong phạm vi khu kinh tế độc quyền và thềm lục địa của Trung Quốc.  Tuy nhiên, đến mức mà sự tuyên nhận của Trung Quốc các quyền lịch sử nới dài đến các khu vực sẽ được xem tạo thành bộ phận của sự hưởng quyền của Phi Luật Tân trên một khu kinh tế độc quyền và thềm lục địa, ít nhất nó sẽ là một sự khác biệt với Công Ước.

 

233. Trong Các Luận Điểm Đệ tŕnh số 1 và 2 của ḿnh, Phi Luật Tân thỉnh cầu Phiên Ṭa tuyên phán rằng các sự hưởng quyền của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa bị giới hạn vào các sự hưởng quyền được quy định trong Công Ước và rằng bất kỳ sự tuyên nhận nào về các quyền lịch sử, hay các quyền chủ quyền khác và thẩm quyền tài phán, bên trong phạm vi “đường chín đoạn” vượt quá những ǵ được quy định trong Công Ước, bị cấm chỉ.   

 

234. Các sự tuyên nhận của Trung Quốc các quyền và thẩm quyền tài phán trong phạm vi “đường chín đoạn” và Các Luận Điểm Đệ Tŕnh của Phi Luật Tân trên sự tranh chấp này nêu lên ba vấn đề liên hệ với nhau, nhưng riêng biệt:

       (a)        Thứ nhất, Công Ước, và đặc biệt các quy tắc của nó về khu kinh tế độc quyền và thềm lục địa, có cho phép sự bảo vệ các quyền đối với các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động khác biệt với các điều khoản của Công Ước và các điều khoản có thể được thiết lập trước khi Công Ước có hiệu lực bởi sự thỏa thuận hay hành vi đơn phương hay không?

(b)   Thứ nh́, trước khi Công Ước có hiệu lực, Trung Quốc đă có các quyền lịch sử và thẩm quyền tài phán trên các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động tại các hải phận của Biên Nam Trung Hoa vượt quá các giới hạn của lănh hải hay không?

(c)   Thứ ba, và độc lập với hai sự cứu xét trước tiên, Trung Quốc trong nhiều năm kể từ khi kư kết vào Công Ước, đă thiết lập các quyền và thẩm quyền tài phán trên các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động ở các hải phận của Biển Nam Trung Hoa khác biệt với các điều khoản của Công Ước hay không?  Nếu có, sự thiết lập các quyền và thẩm quyền tài phán như thế có phù hợp với Công Ước hay không?

 

(a) Công Ước và Các Sự Tuyên Nhận Các Quyền Lịch Sử và Thẩm Quyền Tài Phán Có Trước

 

235. Phiên Ṭa đối diện với câu hỏi rằng liệu Công Ước có cho phép sự bảo quản các quyền đối với các nguồn tài nguyên khác biệt với Công Ước và được thiết lập trước khi Công Ước có hiệu lực hay không.  Để trả lời câu hỏi này, cần khảo sát mối quan hệ giữa Công Ước và các nguồn tư liệu khả hữu khác về các quyền theo luật quốc tế.  Mối quan hệ giữa Công Ước và các sự thỏa thuận quốc tế khác được tŕnh bày nơi Điều 311 Công Ước.  Phiên Ṭa xét thấy rằng điều khoản này áp dụng như nhau đối với sự tương tác của Công Ước với các tiêu chuẩn khác của luật quốc tế, chẳng hạn như các quyền lịch sử, không có h́nh thức của một sự thỏa thuận.  Điều 311 quy định như sau:

 

Điều 311

Quan Hệ Với Các Công Ước Khác và Các Thỏa Ước Quốc Tế

1.     Công Ước này sẽ có ưu thế, như giữa các Bên Quốc Gia, trên Các Công Ước Geneva về Luật Biển ngày 29 Tháng Tư 1958.

 

2.     Công Ước này sẽ không thay đổi các quyền và các nghĩa vụ của Các Bên Quốc Gia Kết Ước vốn phát sinh từ các thỏa ước khác phù hợp với Công Ước này và không ảnh hưởng đế sự hưởng quyền của Các Quốc Gia Kết Ước khác về các quyền của chúng hay sự thi hành các nghĩa vụ của chúng chiếu theo Công Ước này.

 

3.     Hai hay nhiều Quốc Gia Kết Ước có thể kư kết các thỏa ước sửa đổi hay đ́nh chỉ sự điều hành các điều khoản của Công Ước này, chỉ áp dụng riêng cho các quan hệ giữa chúng mà thôi, với điều kiện rằng các sự thỏa thuận như thế không liên quan đến một sự làm suy yếu điều khoản từ đó không tương hợp với sự thực hiện hữu hiệu đối tượng và mục đích của Công Ước này, và với điều kiện nữa rằng các thỏa thuận như thế sẽ không ảnh hưởng đến sự áp dụng các nguyên tắc căn bản được biểu hiện ở đây, và rằng các điều khoản của các sự thỏa thuận như thế không được ảnh hưởng đến sự hưởng quyền của các Quốc Gia Kết Ước khác các quyền của chúng hay sự thi hành các nghĩa vụ của chúng theo Công Ước.

 

4.     Các Quốc Gia Kết Ước có ư định kư kết một sự thỏa thuận được đề cập nơi đoạn 3 phải thông báo với các Quốc Gia Kết Ước khác qua sự đăng kư với Công Ước ư định của chúng để kư kết sự thỏa thuận và về sự sửa đổi hay đ́nh chỉ sự thi hành mà thỏa ước dự trù.

 

5.     Điều này không ảnh hưởng đến các sự thỏa thuận quốc tế được cho phép hay bảo toàn một cách công khai bởi các điều khác của Công Ước này.

 

6.     Các Quốc Gia Kết Ước đồng ư rằng sẽ không có các sự tu chính đối với nguyên tắc căn bản liên quan đến di sản chung của nhân loại được nêu ra nơi Điều 136 và rằng các nước sẽ không phải là một bên của bất kỳ sự thỏa thuận làm suy yếu điều đó.

 

236. Mối quan hệ giữa Công Ước và các quy tắc khác của luật quốc tế cũng được nói rơ nơi Điều 293(1) Công Ước, áp dụng cho sự giải quyết tranh chấp – kể cả thủ tục này – và quy định rằng “[một] ṭa án hay phiên ṭa có thẩm quyền tài phán theo đoạn này sẽ áp dụng Công Ước này và các quy tắc của luật quốc tế không trái ngược với Công Ước này.”

 

237. Các điều khoản này phản ảnh các quy tắc tổng quát của luật quốc tế liên quan đến sự tương tác của các bộ phận khác nhau của luật pháp, quy định rằng ư định của các bên kư kết một Công Ước sẽ kiểm soát mối quan hệ của nó với các văn kiện khác.  Điều này có thể được nh́n thấy, trong trường hợp có các sự xung đột giữa các hiệp Ước, nơi Điều 30 của Công Ước Vienna về Luật Các Hiệp Ước.  Các Điều 30(20 và 30(3) của Công Ước Vienna quy định rằng, như giữa các hiệp ước, bản hiệp ước sau sẽ có ưu thế cho đến mức có bất kỳ sự bất tương thích nào, trừ khi một hiệp ước nào ghi rơ rằng nó phụ thuộc vào hiệp ước kia, trong trường hợp đó ư định của các bên sẽ chiếm ưu thế.

 

238. Trong trường hợp Công Ước, sự áp dụng các quy tắc nêu trên dẫn đến bốn đề xuất:

(a)   Nơi Công Ước cho phép hay bảo tồn một cách công khai các sự thỏa thuận quốc tế khác, Điều 311(5) quy định rằng các sự thỏa thuận như thế sẽ vẫn không bị ảnh hưởng.  Phiên Ṭa xét thấy rằng điều khoản này áp dụng theo cùng cung cách nơi các quyền lịch sử, có thể có có h́nh thức một sự thỏa thuận một cách nghiêm ngặt, được cho phép và được bảo tồn một cách công nhiên, chẳng hạn như trong các Điều 10 và 15, đề cập một cách công nhiên đến các vũng lịch sử và các bằng khoán lịch sử.

(b)   Nơi Công Ước không cho phép hay bảo tồn một cách công nhiên một sự thỏa thuận có trước, quy tắc của luật quốc tế thông thường, hay quyền lịch sử, các tiêu chuẩn có trước như thế sẽ không trái ngược với Công Ước nơi sự điều hành của chúng không xung đột với bất kỳ điều khoản nào của Công Ước hay đến mức độ sự giải thích cho thấy rằng Công Ước có ư định để các sự thỏa thuận, các quy tắc, hay các quyền có trước tiếp tục hoạt động.

(c)   Nơi các quyền và các nghĩa vụ xuất hiện một cách độc lập với Công Ước không trái với các điều khoản của nó, Điều 311(2) quy định rằng hoạt động của chúng sẽ giữ nguyên không thay đổi.

(d) Nơi các quyền và các nghĩa vụ độc lập đă xuất hiện trước khi Công Ước có hiệu lực và không trái với các điều khoản của nó, các nguyên tắc được tŕnh bày nơi Điều 30(3) của Công Ước Vienna và Điều 293 Công Ước quy định rằng Công Ước sẽ có ưu thế trước các quyền hay các nghĩa vụ trái ngược, sớm hơn.

 

239. Không điều nào của Công Ước quy định một cách công khai hay cho phép sự hiện hữu tiếp tục của các quyền lịch sử đối với các nguồn tài nguyên sinh động hay phi sinh động của khu kinh tế độc quyền.  Tương tự, không điều khoản nào trong Công Ước quy định hay cho phép một Quốc Gia được duy tŕ các quyền lịch sử trên các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động của thềm lục địa, biển mở ngỏ, hay Khu Vực.  Câu hỏi dành cho Phiên Ṭa do đó rằng liệu Công Ước tuy thế có ư định cho phép sự hoạt động liên tục của các quyền lịch sử như thế, như thế các sự tuyên nhận của Trung Quốc phải được xem là không trái ngược với Công Ước hay không.

 

      i. Văn Bản Và Khung Cảnh Của Công Ước

 

240. Trong phạm vi khu kinh tế độc quyền, Điều 56(1) Công Ước quy định về các quyền chủ quyền và thẩm quyền tài phán của Quốc Gia duyên hải trong các ngôn từ như sau:

Điều 56

Các Quyền, thẩm quyền tài phán và các bổn phận của Quốc Gia duyên hải

tại khu kinh tế độc quyền

1.     Tại khu kinh tế độc quyền, Quốc Gia duyên hải có:

 

(a)   Các quyền chủ quyền cho mục đích thăm ḍ và khai thác, bảo tồn và quản trị các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bất luận sinh động hay không sinh động, các hải phận bên trên đáy biển và thuộc đáy biển và tầng lớp bên dưới đáy biển của nó, và đối với các hoạt động khác nhằm khai thác kinh tế và thăm ḍ khu vực, chẳng hạn như sự sản xuất năng lượng từ nước, luồng chảy, và gió;

 

(b)  Thẩm quyền tài phán như được quy định trong các điều khoản liên hệ của Công Ước này về:

(i)             Sự thiết lập và sử dụng các ḥn đảo nhân tạo, các sự thiết trí cơ sở, và các kiến trúc;

(ii)           Nghiên cứu khoa học về biển;

(iii)         Sự bảo vệ và bảo tồn môi trường biển;

 

(c)   Các quyền và các bổn phận khác được quy định trong Công Ước này.

 

 

241. Các quyền của các Quốc Gia khác trong khu kinh tế độc quyền sau đó được tŕnh bày nơi Điều 58, giới hạn chúng vào việc hàng hải, hàng không, và việc đặt các dây điện và ống dẫn dầu dưới biển, và các sự sử dụng biển hợp pháp quốc tế khác liên hệ với các sự tự do này.  Các quyền tại biển mở ngỏ và các tự do áp dụng tại khu kinh tế độc quyền chỉ đến mức độ chúng không bất tương thích với các điều khoản trong phần này của Công Ước.  Điều 58 Công Ước quy định như sau:

Điều 58

Các quyền và các bổn phận của Các Quốc Gia khác tại khu kinh tế độc quyền

 

1.     Trong khu kinh tế độc quyền, tất cả các Quốc Gia, bất luận duyên hải hay sâu trong đất liền, hưởng dụng, theo các điều khoản liên kết của Công Ước này, các tự do được nói đến trong Điều 87 về việc hàng hải và hàng không và việc lắp đặt các đường dây điện và ống dẫn dầu dưới biển, và các sự sử dụng biển hợp pháp quốc tế khác liên hệ với các tự do này, chẳng hạn như các sự tự do đi liền với sự hoạt động của các chiếc tàu, máy bay, và các đường dây điện và ống dẫn dầu dưới biển, và thích hợp với các điều khoản khác của Công Ước này.

 

2.     Các Điều 88 đến 115 và các quy tắc luật quốc tế thích hợp khác áp dụng cho khu kinh tế độc quyền cho đến mức độ chúng không trái ngược với Phần (Part) này.

 

 

3.     Trong việc hành sử các quyền và sự thi hành các bổn phận của chúng chiếu theo Công Ước này tại khu kinh tế độc quyền, Các Quốc Gia phải tôn trọng một cách hợp thức các quyền và các bổn phận của Quốc Gia duyên hải và phải tuân hành các luật và các sự quy định được chấp nhận bởi Quốc Gia duyên hải phù hợp với các điều khoản của Công Ước này và các quy tắc khác của luật quốc tế đến mức độ chúng không trái ngược với Phần này.

 

242. Sau cùng, các quyền của Các Quốc Gia khác “có các công dân đánh cá theo thói quen trong khu” được nói đến một cách riêng biệt nơi Điều 62 của Công Ước.  Theo điều khoản này, Các Quốc Gia duyên hải chỉ buộc phải cấp giấy phép đánh cá tại khu kinh tế độc quyền cho các công dân nước ngoài trong trường hợp Quốc Gia duyên hải không có khả năng để thu hoạch toàn thể số đánh bắt có thể cho phép.  Ngay khi đó, việc đánh cá lịch sử trong khu vực chỉ là một trong các tiêu chuẩn sẽ được áp dụng để chỉ định sự tiếp cận, và việc đánh cá của nước ngoài phải tuân theo các luật lệ và các quy định của Quốc Gia duyên hải.  Điều 62 Công Ước quy định nơi phần liên hợp như sau:

Điều 62

Sự sử dụng các nguồn tài nguyên sinh động

 

1.     Quốc Gia duyên hải phải phát triển mục tiêu vận dụng tối đa các nguồn tài nguyên sinh động tại khu kinh tế độc quyền không gây phương hại cho Điều 61.

 

2.     Quốc Gia duyên hải sẽ xác định khả năng của ḿnh để thu hoạch các tài nguyên sinh động của khu kinh tế độc quyền.  Nơi mà Quốc Gia duyên hải không có năng lực để thu hoạch toàn thể số đánh bắt cho phép, nó sẽ, xuyên qua các sự thỏa thuận hay các sự dàn xếp khác và đúng theo các điều khoản, các điều kiện, các luật và các quy định được đề cập đến nơi đoạn 4, chuẩn cấp các Quốc Gia khác sự tiếp cận với phần thặng dư của số đánh bắt có thể cho phép, đặc biệt lưu ư đến các điều khoản của các Điều 69 và 70, nhất là trong sự quan hệ với Các Quốc Gia đang phát triển sở tại.

 

 

3.     Trong việc cấp phát sự tiếp cận cho Các Quốc Gia khác với khu kinh tế độc quyền của ḿnh theo điều này, Quốc Gia duyên hải sẽ cứu xét đến tất cả các yếu tố liên hợp, kể cả, trong số các điều khác, tầm quan trọng của nguồn tài nguyên sinh động của khu vực đối với nền kinh tế của Quốc Gia duyên hải liên quan và các quyền lợi quốc gia khác của ḿnh, các điều khoản 69 và 70, các điều kiện của Các Quốc Gia đang phát triển trong phân vùng và vùng trong việc thu hoạch phần thặng dư và nhu cầu tổi thiểu hóa sự hủy hoại kinh tế tại Các Quốc Gia có các công dân đánh cá thường xuyên trong khu hay của những quốc gia đă thực hiện những nỗ lực đáng kể trong việc nghiên cứu và nhận diện các giống cá.

 

4.     Công dân của Các Quốc Gia khác đánh cá trong khu kinh tế độc quyền phải tuân hành các biện pháp bảo tồn và các điều khoản và điều kiện khác được thiết lập trong các luật và các quy định của Quốc Gia duyên hải.  Các luật và các quy định này phải phù hợp với Công Ước này và có thể liên hệ, giữa các điều khác, đến các điều kể sau …

 

243.            Như một vấn đề của văn bản không thôi, Phiên Ṭa xét thấy rằng Công Ước th́ rơ ràng trong việc chuẩn cấp các quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động thuộc khu kinh tế độc quyền cho riêng Quốc Gia duyên hải.  Khái niệm các quyền chủ quyền trên các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động nói chung không tương thích với Quốc Gia khác có các quyền lịch sử đối với cùng các nguồn tài nguyên, đặc biệt nếu các quyền lịch sử như thế được xem là độc quyền, như sự tuyên nhận các quyền lịch sử của Trung Quốc rơ ràng như vậy   Hơn nữa, Phiên Ṭa xét thấy rằng, như một sự giải thích thông thường, (a) sự bao gồm một điều khoản tŕnh bày về các quyền của Các Quốc Gia khác và (b) sự chú ư dành cho các quyền của Các Quốc Gia khác trong sự phân phát bất kỳ số đánh bắt dư thừa nào loại trừ khả tính rằng Công Ước đă có ư định dành cho Các Quốc Gia khác có các quyền vượt quá các quyền được ghi rơ.

 

244. Cùng các sự cứu xét được áp dụng đối với các quyền chủ quyền của thềm lục địa, được nêu ra nơi Điều 77 Công Ước.  Trên thềm lục địa, các quyền của Các Quốc Gia khác bị giới hạn đến việc lắp đặt các dây điện và các ống dẫn dầu và đến các quyền và các sự tự do mà chúng, một cách nào khác, được hưởng quyền tại các hải phận bên trên.  Trong thực tế, các điều khoản của Công Ước liên quan đến thềm lục địa c̣n minh thị hơn nữa rằng các quyền đối với các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động liên hệ với Quốc Gia duyên hải một cách chuyên độc (exclusively).  Điều 77(2) quy định một cách công nhiên rằng “các quyền được đề cập trong đoạn 1 [về các nguồn tài nguyên thiên nhiên] có tính chất độc quyền theo nghĩa rằng nêu Quốc Gia duyên hải không thăm ḍ thềm lục địa hay khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên của nó, không ai có thể tiến hành các hoạt động này mà không có sự ưng thuận rơ ràng của Quốc Gia duyên hải.” Điều 81, một cách tương tự. nói rằng “Quốc Gia duyên hải có quyền chuyên độc để cho phép và quy định việc khoan trên thềm lục địa cho mọi mục đích.”

 

245. Di chuyển ra khỏi văn bản đến khung cảnh của các quyền trên vùng kinh tế độc quyền, Phiên Ṭa nhắc lại nhận định trước đây của ḿnh (xem đoạn 231 bên trên) rằng hệ thống các khu trên biển được tạo lập bởi Công Ước có ư định mang tính chất bao quát và bao trùm bất kỳ khu vực nào của biển và đáy biển.  Cùng chủ định của Công Ước để cung cấp một căn bản toàn diện cho các quyền và các bổn phận của Các Quốc Gia Kết Ước xuất hiện nơi Lời Nói Đầu, ghi nhận ư định giải quyết “mọi vấn đề liên quan đến luật biển” và nhấn mạnh ước muốn thiết lập “một trật tự pháp lư cho biển.”  Cùng mục tiêu của việc giới hạn các ngoại lệ đối với Công Ước đến mức độ nhiều nhất có thể được cũng hiển hiện nơi Điều 309, quy định rằng “không sự bảo lưu (reservations) hay ngoại lệ (exceptions) có thể được đưa ra đối với Công Ước này trừ khi được cho phép một cách công nhiên bởi các điều khác của Công Ước này.”

 

246. Trung Quốc đă phát biểu quan điểm của nó rằng “các quyền liên hợp của nó (relevant rights) tại Biển Nam Trung Hoa, được h́nh thành trong diễn tiến lịch sử lâu dài”, “được bảo vệ theo luật quốc tế kể cả Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS)”. 233 Đến mức độ các quyền liên hợp của Trung Quốc bao gồm một sự tuyên nhận các quyền lịch sử đối với các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động trong phạm vi “đường chin đoạn”, một phần tại những khu vực một cách nào khác sẽ bao gồm khu kinh tế độc quyền và thềm lục địa của Phi Luật Tân, Phiên Ṭa không thể đồng ư với lập trường này.  Công Ước không bao gồm bất kỳ điều khoản công nhiên nào bảo tồn hay bảo vệ các quyền lịch sử khác biệt với Công Ước.  Ngược lại, Công Ước hủy bỏ các quyền và các sự thỏa thuận có trước ở mức độ có bất kỳ sự bất tương thich nào.   Công Ước th́ bao quát trong việc tŕnh bày bản chất của khu kinh tế độc quyền và thềm lục dịa và các quyền của Các Quốc Gia khác bên trong phạm vi các khu đó.  Sự tuyên nhận các quyền lịch sử của Trung Quốc th́ không tương hợp với các diều khoản này.

 

247. Phiên Ṭa cứu xét thấy văn bản và khung cảnh của Công Ước th́ rơ ràng trong việc hủy bỏ bất kỳ các quyền lịch sử nào mà một Quốc Gia có thể đă từng có trong các khu vực giờ đây tạo thành một phần của khu kinh tế độc quyền và thềm lục địa của một Quốc Gia khác.  Không có sự mơ hồ ở đây đ̣i hỏi Phiên Ṭa phải viện dẫn  đến cách giải thích bổ túc được nêu ra trong Điều 32 của Công Ước Vienna Convention.  Tuy thế, trong t́nh trạng nhạy cảm của các vấn đề thảo luận trong các tố tụng này, Phiên Ṭa xét thấy xác đáng để nhắc lại nguồn gốc và mục đích đàng sau các điều khoản của Công Ước về khu kinh tế độc quyền và thềm lục địa.

 

ii. Sự Thương Thảo Về Công Ước và Sự Tạo Lập Khu Kinh Tế Độc Quyền

 

248. Phiên Ṭa nhắc lại rằng trước khi có sự chấp nhận Công Ước, sự thất bại chính yếu của Các Hội Nghị Liên Hiệp Quốc Lần Thứ Nhất và Thứ Nh́ về Luật Biển là v́ sự không đồng ư về chiều rộng của lănh hải và tầm mức của thẩm quyền tài phán của Các Quốc Gia duyên hải trên các nguồn tài nguyên, khi đó chủ yếu liên can đến ngư nghiệp, thuộc hải phận kề cận các băi biển của chúng.  Thời kỳ này trùng hợp với phong trào giải phóng chế độ thực dân rộng răi của Các Quốc Gia đang phát triển, và nhiều chính phủ mới độc lập t́m cách giành đạt được sự kiểm soát nhiều hơn trên các hải phận kề cận với bờ biển của chúng.  Sự thiếu đồng ư trên một tiêu chuẩn quốc tế và các khả năng tăng trưởng của các đội thuyền đánh cá đường xa của Các Quốc Gia đă phát triển dẫn đến sự tuyên bố đơn phương phổ biến các khu đánh cá độc quyền có các chiều rộng biến đổi và đến sự tuyên bố, bởi một số Quốc Gia, một lănh hải rộng 200 hải lư.  Các sự tuyên nhận các khu như thế, kể cả khu đánh cá độc quyền của Iceland được cứu xét bởi Ṭa Công Lư Quốc Tế trong các vụ kiện về Fisheries Jurisdiction (Thẩm Quyền Tài Phán Ngư Nghiêp), 234 thường bị chống đối bởi Các Quốc Gia vùng biển truyền thống, đă t́m cách hạn chế phạm vi của thẩm quyền tài phán quốc gia.

 

249. Sự tạo lập Các Ủy Ban Đặc Nhiệm (Ad Hoc) và Đáy Biển Thường Trực xảy ra trước Hội Nghị Liên Hiệp Quốc Lần Thứ Ba về Luật Biển được thúc đẩy bởi sự quan ngại về sự lan truyền vô quy định của các sự tuyên nhận các quyền và thẩm quyền tài phán trên biển và với viễn ảnh rằng các sự phát triển kỹ thuật sẽ mau chóng cho phép sự khai thác rộng lớn hơn các nguồn tài nguyên của đáy biển, sẽ rơi vào tay Các Quốc Gia có khả năng nhất dể tuyên nhận chúng. 235 Các Quốc Gia Mỹ Châu La Tinh và Phi Châu đă được tổ chức chung quanh một sự khẳng định quyền kiểm soát lớn hơn trên các nguồn tài nguyên duyên hải 236 và các điều khoản dự thảo trên khái niệm một khu kinh tế độc quyền đă được giới thiệu tại Kenya trong khóa họp năm 1972 của Ủy Ban Đáy Biển (Seabed Committee). 237 Trong h́nh thức này, khu kinh tế độc quyền đă là một đề nghị thỏa hiệp: một h́nh thức được tiêu chuẩn hóa của thẩm quyền tài phán của Quốc Gia duyên hải – có tinh chất độc quyền nếu Quốc Gia duyên hải mong muốn như thế -- trên các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động, tuy thế đă ngừng không nới rộng lănh hải vượt quá 12 hải lư.

 

250. Phiên Ṭa nhắc lại lịch sử này bởi nó đóng khung các sự tranh luận đă diễn ra trong suốt sự thương thảo Công Ước.  Nhật Bản và Liên Bang Sô Viết sở hữu các đội tàu đánh cá đường xa lớn nhất và đă t́m cách để duy tŕ nguyên trạng (status quo), đưa ra các đề nghị sẽ chỉ dành “các quyền ưu tiên: prefential rights” cho Các Quốc Gia duyên hải, trong khi bảo vệ vị thế của Các Quốc Gia đánh cá truyền thống.  Như được tóm lược bởi Nhật Bản:

Trong khi chuẩn cấp một quyền ưu tiên đánh bắt cho Các Quốc Gia duyên hải đang phát triển tương ứng với các khả năng thu hoạch của chúng và một quyền ưu đăi khác biệt cho các Quốc Gia duyên hải đă phát triển, các đề nghị cũng cứu xét đến các quyền lợi chính đáng của Các Quốc Gia khác.  Chính v́ thế, chúng t́m kiếm để bảo đảm rằng một sự thích nghi tiệm tiến của các quyền lợi có thể xảy ra trong sự khai thác mở rộng và sự sử dụng các nguồn tài nguyên ngư sản của biển mở ngỏ, mà không gây ra bất kỳ sự thay đổi đột ngột nào trong trật tự hiện tại của việc đánh cá có thể dẫn đến việc làm xáo trộn các cơ cấu kinh tế và xă hội của Các Quốc Gia. 238

Liên Bang Sô Viết, về phần ḿnh, đă t́m cách giới hạn các quyền của các Quốc Gia duyên hải đối với ngư trường bên ngoài 12 hải lư vào một quyền ưu tiên để bảo lưu “phần như thế của số cá đánh bắt được có thể cho phép có thể được thu hoạch bởi các tàu hải hành dưới lá cờ của Quốc Gia đó.” 239 Các đề nghị này sau hết bị cự tuyệt và không được phản ảnh trong văn bản của Công Ước, như được chấp nhận.

 

251. Trong diễn tiến của các sự tranh luận này, Trung Quốc đă tích cực tự đặt ḿnh như một trong các kẻ biện hộ hàng đầu các quyền của Các Quốc Gia đang phát triển và cương quyết chống đối bất kỳ ư kiến đề nghị nào rằng Các Quốc Gia duyên hải có thể bị bắt buộc phải chia sẻ các nguồn tài nguyên của khu kinh tế độc quyền với các nước khác đă đánh cá trong lịch sử tại các hải phận đó.  Phiên Ṭa cứu xét các nhận xét của ông Ling Ching nhân danh Trung Quốc trong kỳ họp thứ 24 của Ủy Ban Thứ Nh́ có tính cách đại diện cho lập trường cam kết mà Trung Quốc đă nhiều lần phát biểu trong suốt cuộc thương thảo của Công Ước.

Về câu hỏi liệu Quốc Gia duyên hải phải hành sử chủ quyền đầy đủ trên các nguồn tài nguyên có thể tái tạo và phi tái tạo trong khu kinh tế của nó hay chỉ có các quyền ưu tiên trên chúng.  [Ông Ling] nói rằng các nguồn tài nguyên như thế tại các khu vực biển ngoài khơi của một Quốc Gia duyên hải là một phần kết hợp của các tài nguyên thiên nhiên của nó.  Các siêu cường trong nhiều năm đă cướp đoạt một cách bừa băi các nguồn tài nguyên ngoài khơi của Các Quốc Gia duyên hải đang phát triển, do đó gây tổn hại nghiêm trọng các quyền lợi của họ.  Sự tuyên bố chủ quyền vĩnh viễn trên các nguồn tài nguyên như thế là một quyền chính đáng, điều sẽ phải được tôn trọng bởi các nước khác.  Tuy nhiên, các siêu cường, trong khi đưa ra sự thừa nhận bằng miệng khu kinh tế, lại bênh vực cho việc đặt các sự hạn chế trên chủ quyền của Các Quốc Gia duyên hải trên các nguồn tài nguyên của họ.  Thí dụ, một nước trong chúng đă đề nghị rằng Quốc Gia duyên hải phải cho phép các ngư phủ ngoại quốc quyền để đánh cá bên trong khu đó trong các trường hợp khi mà Quốc Gia đă không thu hoạch 100 phần trăm số đánh bắt có thể cho phép.  Sự lư luận như thế th́ vô lư.  Ư kiến đề nghị trong thực tế quay trở về đề nghị nổi tiếng của siêu cường rằng Các Quốc Gia duyên hải sẽ chỉ được cấp phát “các quyền ưu tiên” khi đánh cá tại các khu vực ngoài khơi của chính họ.  Song, sự thiết lập các khu kinh tế độc quyền trên các nguồn tài nguyên trên đó Các Quốc Gia duyên hải sẽ hành sử chủ quyền vĩnh viễn chỉ dơn giản có nghĩa rằng các nước đang phát triển đang giành lại các quyền bị mất từ lâu của họ và không cách nào ám chỉ một sự hy sinh về phía các siêu cường.  Quốc Gia duyên hải phải được cho phép để quyết định liệu các ngư phủ ngoại quốc có được phép đánh cá tại những khu vực thuộc thẩm quyền tài phán của nó bởi các thỏa ước song phương hay cấp vùng hay không, nhưng nó không bị bị bắt buộc phải chuẩn cấp cho Các Quốc Gia khác bất kỳ quyền nào như thế. 240

 

252. Phiên Ṭa ghi nhận các ư kiến này không chỉ bởi các nhận xét của bất kỳ Quốc Gia cá biệt nào trong suốt cuộc thương thảo một Công Ước đa phương biểu thị cho nội dung của bản hiệp ước sau cùng, mà c̣n bởi sự chống đối kiên quyết của Trung Quốc đối với bất kỳ sự thích nghi nào việc đánh cá lịch sử vốn tiêu biểu phần lớn lập trường đă thắng thế trong văn bản sau cùng của Công Ước.  Phiên Ṭa cũng ghi nhận rằng lập trường của Trung Quốc, như được khẳng định trong suốt cuộc thương thảo Công Ước, th́ không tương thích với một sự tuyên nhận rằng Trung Quốc sẽ được hưởng quyền trên các quyền lịch sử đối với các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động tại Biển Nam Trung Hoa, các quyền sẽ có tính chất ưu tiên trên các quyền của khu kinh tế độc quyền của các nước ven biển khác.  Trung Quốc chưa hề đưa ra một sự tuyên nhận như thế trong diễn tiến của cuộc thương thảo, cho dù Biển Nam Trung Hoa và vấn đề chủ quyền trên Quần Đảo Spratly đă được nêu lên trong vài dịp trao đổi giữa Trung Quốc và Phi Luật Tân trong hoạt động của Ủy Ban Đáy Biển (Seabed Committee) 241giữa Trung Quốc và Việt Nam trong Hội Nghị Liên Hiệp Quốc Lần Thứ Ba [nhấn mạnh bởi người dịch]. 242

 

253. Phiên Ṭa cũng xét thấy lịch sử thương thảo Công Ước có tính chất giảng giải nhờ ánh sáng mà nó chiếu rọi vào ư định dành cho Công Ước phục vụ như một văn bản toàn diện và tầm quan trọng đối với mục đích của sự cấm đoán trên các sự bảo lưu được trân giữ nơi Điều 309.  Công Ước được thương thảo trên căn bản đồng thuận và văn bản sau cùng tượng trưng cho một chính sách toàn kiện (package deal).  Một sự cấm chỉ trên các sự bảo lưu được nh́n là thiết yếu để ngăn cản Các Quốc Gia khỏi việc cào quắp lại, xuyên qua các sự bảo lưu, các bộ phận của sự thỏa hiệp sau cùng mà chúng đă chống đối trong các cuộc thương thảo.  Về phương diện này, Công Ước tuân theo thể thức của các hiệp ước đa phương khác được xem là có tầm quan trọng nền tảng, kể cả Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Pháp Chế Rome về Ṭa H́nh Sự Quốc Tế, và Công Ước Khung Của Liên Hiệp Quốc về Sự Biến Đổi Khí Hậu.  Tầm quan trọng của một sự thỏa thuận toàn diện, không có các sự bảo lưu, được bày tỏ một cách rất rơ rệt trong các nhận xét của Chủ Tịch Hội Nghị trước Phiên Khoáng Đại Không Chính Thức và Nhóm Các Chuyên Viên Pháp Lư có nhiệm vụ soạn thảo các điều khoản cuối cùng:

Sự quan tâm chính yếu của chúng ta là sự thiết lập một trật tự pháp lư kết hợp toàn diện cho sự sử dụng các đại dương và các nguồn tài nguyên và tiềm năng của nó.  Tất cả mọi điều khác phải bị phụ thuộc và phục vụ cho mục đích này.  Đây là chức năng của Lời Nói Đầu và các điều khoản sau cùng.  Chúng không được cho phép để tạo ra các sự tranh chấp như thế sẽ che khuất và cản trở mục tiêu phủ quyết, ngăn trở công việc của Hội Nghị và làm nguy hại các cơ may thành công của chúng ta.

Chúng ta phải t́m cách bảo tồn nguyên vẹn, và bảo vệ, hiệu quả và sự bền vững của bộ luật mà chúng ta đang cố gắng tạo lập dưới h́nh thức một Công Ước, bao hàm mọi đề tài và vấn đề liên hệ đến luật biển như một sách lược kiện toàn bao gồm một số thành tố nào đó cấu thành một thực thể (entity) duy nhất và bất khả phân chia.

Chúng ta phải t́m cách thu hút mức độ phê chuẩn tiêu biểu và sâu rộng nhất và thời điểm có hiệu lực sớm nhất của Công Ước mới.

Mục tiêu thứ nh́ mà tôi nêu rơ chi tiết ở đây không thể đạt được nếu chúng ta phơi bày sự thống nhất và cấu kết thiết yếu của bộ luật mới ra trước sự nguy hiểm của sự làm hư hỏng xuyên qua sự hành sử không giới hạn quyền bảo luu. 243

 

254. Về vấn đề này, Phiên Ṭa ghi nhận rằng Trung Quôc và Các Quốc Gia khác đă chống đối sự cấm đoán hoàn toàn trên các sự bảo lưu 244 và rằng chiều hướng sau cùng trong Công Ước tượng trưng cho một sự thỏa hiệp: một số sự bảo lưu nào đó được cho phép sẽ được đưa ra trong văn bản của Công Ước trong khi bất kỳ sự bảo lưu nào khác bị cấm chỉ.  Chính v́ thế, Trung Quốc có hưởng quyền, và đă thực hiện, việc hiệu lực hóa (activate) các sự bảo lưu đối với sự giải quyết tranh chấp bắt buộc trong Điều 298 – mà Phiên Ṭa đă sẵn xác định không được áp dụng cho vụ tranh chấp này – nhưng không được quyền tự loại bỏ ḿnh ra khỏi hệ thống giải quyết bắt buộc nói chung. 245 Trong quan điểm của Phiên Ṭa, sự cấm chỉ các sự bảo lưu có tính chất thông tri về chiều hướng của Công Ước đối với các quyền lịch sử.  Điều đơn giản không thể nghĩ rằng các nhà soạn thảo Công Ước lại có thể đi xa đến như thế để trui rèn một văn bản đồng thuận và để cấm chỉ, ngoài một ít sự bảo lưu công khai, bất kỳ sự bảo lưu nào trong khi, cùng lúc, dự liệu rằng Công Ước phát sinh sẽ bị phụ thuộc vào các sự tuyên nhận rộng răi các quyền lịch sử.

 

iii. Các Quyền Tai Khu Kinh Tế Độc Quyền Trong Các Vụ Tranh Chấp Khác liên can đến Luật Biển

 

255. Vụ tranh chấp hiện tại không phải là trường hợp đầu tiên trong đó một Quốc Gia có tuyên nhận các quyền trong hay đối với khu kinh tế độc quyền của một Quốc Gia láng giềng.  Phiên Ṭa xét thấy hữu ích, cho việc xác nhận sự lư luận của chính ḿnh, để thảo luận một cách ngắn gọn các quyết định khác nhắm vào các sự tuyên nhận liên can đến các quyền trong khu kinh tế độc quyền của Quốc Gia khác.

 

256. Trong quan điểm của Phiên Ṭa, trường hợp liên quan nhất xảy ra trong sự cứu xét dành cho các hoạt động đánh cá lịch sử trong sự phân định ranh giới của Vịnh Gulf of Maine giữa Hoa Kỳ và Canada bởi một pḥng xét xử của Ṭa Công Lư Quốc Tế (International Court of Justice).  Khu vực sẽ được phân định ranh giới gồm cả Cồn Georges Bank, với các nguồn tài nguyên ngư sản phong phú của nó, và Hoa Kỳ đă lập luận rằng đường phân định ranh giới phải cứu xét đến sự sử dụng từ lâu cồn cát bởi các ngư phủ Hoa Kỳ.  Pḥng xét xử đă không chỉ bác bỏ lập luận này v́ lư do phân định ranh giới, mà c̣n tiếp tục b́nh luận về bản chất các quyền đánh cá của Hoa Kỳ và ảnh hưởng trên các hoạt động đanh cá của Hoa Kỳ của sự chấp nhận bởi Hoa Kỳ và Canada các khu đánh cá độc quyền, vụ kiện đă được thiết định trước khi có sự tuyên bố về một khu kinh tế dộc quyền đầy đủ bởi Hoa Kỳ nhưng vào một lúc khi Các Quốc Gia đă sẵn khởi sự để tuyên bố các khu như thế một cách đơn phương trong sự phản ảnh sự đồng thuận xuất hiện tại Hội Nghị Liên Hiệp Quốc Lần Thứ Ba.  Trong khung cảnh này, Pḥng Xét Xử vụ Gulf of Maine đă b́nh luận như sau:

Pḥng Xét Xử không thể chấp nhận các lập trường này của Các Bên.  Liên can đến lập trường của Hoa Kỳ, nó chỉ có thể xác nhận rằng quyết định của nó không quy kết bất kỳ trọng lượng quyết định nào, cho mục đích phân định ranh giới mà nó có trách vụ phải thi hành, cho thời xa xôi trước đây hay sự liên tục của các hoạt động đánh cá được thực hiện trong quá khứ trong phạm vi của phần của khu vực phân định ranh giới nằm bên ngoài đường đóng cửa của Vịnh.  Cho đến lúc rất gần đây, như Pḥng Xét Xử nhắc lại, các dải biển rộng lớn này đă là một phần của biển mở ngỏ và như thế được mở tự do đối với các ngư phủ không chỉ của Hoa Kỳ và Canada mà cũng cho ngư phủ của các nước khác, và trong thực tế, chúng được đánh cá bởi rất nhiều công dân của các nước khác.   Pḥng xét xử dĩ nhiên sẵn sàng cho phép rằng, trong suốt thời kỳ của sự cạnh tranh tự do đó, Hoa Kỳ, như Quốc Gia duyên hải, có thể có khả năng tại một số dịa điểm và thời gian nào đó – bất kể kéo dài trong bao lâu – giành đạt được một vị trí không chế thực sự cho ngư nghiệp của nó.  Nhưng sau khi Các Quốc Gia duyên hải đă lập ra các khu đánh cá độc quyền rộng 200 hải lư, t́nh trạng đă thay dổi một cách triệt để.    Các Quốc Gia Thứ Ba và các công dân của chúng nhận thấy họ bị tước đoạt bất kỳ quyền tiếp cận nào đến các khu vực biển nằm trong phạm vi các khu này và bất kỳ vị trí thuận lợi nào mà chúng có thể đạt được trong các phạm vi đó.  Đối với Hoa Kỳ, bất kỳ sự khống chế hoàn toàn có thực mà nó đă từng có khả năng đạt được trong khu vực bị biển thể thành một t́nh trạng của sự độc quyền hợp pháp đến tầm mức các địa điểm trong nội vụ đă trở thành bộ phận hợp pháp của khu đánh cá dộc quyền của riêng nó.  Ngược lại, đến tầm mức chúng đă trở thành bộ phận của khu đánh cá độc quyền của Quốc Gia láng giềng, không sự tín nhiệm nào c̣n có thể được đặt định trên sự khống chế đó.  Rơ ràng, bất kể t́nh trạng ưu đăi nào mà Hoa Kỳ có thể hưởng dụng trước đây, điều này không thể cấu thành trong bản thân của nó một căn bản giá trị cho sự tuyên nhận giờ đây của nó sự sáp nhập vào khi đánh cá độc quyền của riêng nó bất kỳ khu vực nào, theo luật, đă trở thành một phần của Canada. 246

 

257. Vụ kiện này, dĩ nhiên, không dính líu đến sự phân định ranh giới, nhưng Phiên Ṭa xét thấy các quan điểm của Pḥng Xét Xử trên hiệu lực của các khu đánh cá độc quyền, đă tuyên bố như một vấn dề của thông luật, để xác nhận sự giải thích của chính nó về các điều khoản của Công Ước.  Phiên Ṭa không có ǵ ngờ vực rằng các ngư phủ Trung Quốc đă từng thực hiện từ lâu sự sử dụng các hải phận của Biển Nam Trung Hoa, kể cả những khu vực vượt quá lănh hải của bất kỳ địa h́nh nào.   Nếu Trung Quốc có các quyền lịch sử mang lại cho nó một vị thế đặc ưu về các nguồn tài nguyên của các hải phận như thế, sự chấp nhận khu kinh tế độc quyền như một vấn đề của thông luật và sự gia nhập của Trung Quốc vào Công Ước đă biến đổi t́nh trạng đó.  Xuyên qua Công Ước, Trung Quốc giành đoạt được các quyền bổ túc tại các khu vực kề cận với các bờ biển của nó nay đă trở thành một phần của khu kinh tế độc quyền của nó, kể cả các khu vực kề cận với bất kỳ ḥn đảo nào được hưởng quyền một khu như thế.  Tuy nhiên, điều nhất thiết theo sau rằng Trung Quốc cũng đă từ bỏ các quyền nó có thể nắm giữ tại các hải phận đă được phân chia bởi Công Ước thành các khu kinh tế độc quyền của Các Quốc Gia khác.

 

257. Một chỉ dấu trái ngược có thể được quy kết cho quyết định của Ṭa Công Lư Quốc Tế trong Các Vụ Kiện Thẩm Quyền Tài Phán Các Ngư Trường (Fisheries Jurisdiction Cases). 247 Trong các cuộc tranh chấp đó, liên can đến sự tuyên bố của Iceland một khu đánh cá độc quyền 50 hải lư, Ṭa cho rằng các quyền ưu tiên được khẳng định bởi khu đánh cá của Iceland th́ không tương thích với sự loại bỏ tất cả việc đánh cá bởi Các Quốc Gia khác và rằng Iceland không thể tiêu diệt các quyền của Các Quốc Gia khác đă thường xuyên đánh cá trong khu vực. 248 Tuy nhiên, trong quan điểm của Phiên Ṭa, quyết định này từ năm 1974 phải được hiểu trong khung cảnh luật biển như nó có khi đó, khác biệt với luật ưu thắng theo Công Ước hay trong thông luật mới xuất hiện về khu kinh tế độc quyền có hiệu lực vào lúc có vụ kiện Gulf of Maine.  Như một vấn đề sơ khởi, Phiên Ṭa ghi nhận rằng các nguyên đơn trong vụ kiện Thẩm Quyền Tài Phán Các Ngư Trường, Vương Quốc Thống Nhất (Anh Quốc) và Cộng Ḥa Liên Bang Đức, chưa bao giờ khẳng định rằng việc đánh cá lịch sử của chúng thay thế cho sự tuyên bố của Iceland về một khu đánh cá, mà chỉ tuyên xác một quyền tiếp cận.  Việc này chính v́ thế khác biệt từ nền tảng với các tố tụng này, nơi Phiên Ṭa hiểu rằng Trung Quốc xem rằng các quyền lịch sử đă tuyên nhận của nó đối với các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động thực sự phủ nhận các quyền khu kinh tế độc quyền của Các Quốc Gia duyên hải khác tại Biển Nam Trung Hoa.  Bất kể sự khác biệt này, Phiên Ṭa cũng cứu xét sự lư luận được tŕnh bày trong vụ kiện Thẩm Quyền Tài Phán Các Ngư Trường không thể áp dụng được theo luật biển hiên tại.  Vào lúc Iceland tuyên bố khu 50 hải lư của nó hồi Tháng Bảy 1972, sự nới dài thẩm quyền tài phán quốc gia trên các khu vực biển vượt quá lănh hải vẫn c̣n là một đề tài tranh căi nóng bỏng.  Bởi Ṭa Án xem t́nh trạng của thông luật khi đó là ưu thắng, nó cho phép một khu đánh cá độc quyền chỉ tới 12 hải lư và các quyền ưu  tiên tại một khu vực không xác định vượt quá giới hạn đó. 249 Tuy nhiên, chỉ it năm sau đó, tiến tŕnh làm việc tại Hội Nghị Liên Hiệp Quốc Kỳ Thứ Ba (được tŕnh bày ở trên tại các đoạn từ 249 đến 252) được đúc kết thành sự đồng thuận tán thành khu kinh tế độc quyền.  Luật được áp dụng trong vụ kiện Gulf of Maine và được ghi chép trong Công Ước chính v́ thế khác biệt một cách cụ thể với luật được cứu xét bởi Ṭa trong vụ kiện Thẩm Quyền Tài Phán Các Ngư Trường.

 

259. Một chiều hướng trái ngược với vụ Gulf of Maine cũng có thể được xác định trong vụ trọng tài Eritrea kiện Yemen, trong đó phiên ṭa trọng tài đă nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc bảo tồn các cách thức đánh cá cổ truyền tại Red Sea (Hồng Hải) vốn được thi hành trong nhiều thế kỷ, mà không để ư đến các quy định chi tiết về các ranh giới trên biển.  Phiên ṭa trọng tài cũng đă cho rằng “chế độ đánh cá truyền thống không bị giới hạn vào vài hải phận của các đảo cá biệt” mà cũng nới rộng xuyên qua khu kinh tế độc quyền của Eritrea và Yemen. 250 Phi Luật Tân làm nổi bật quyết định này 251 – một cách xác thực trong quan điểm của Phiên Ṭa – trên căn bản luật có thể áp dụng.  Vụ Eritrea kiện Yemen không phải là một vụ trọng tài theo Phụ Lục VII của Công Ước và rằng phiên ṭa trọng tài không bị ràng buộc bởi Điều 293 để chỉ áp dụng Công Ước và các quy tắc luật không trái ngược với điều đó.  Thay vào đó, sự thỏa thuận trọng tài của Các Bên đă trao quyền phiên ṭa trọng tài, trong giai đoạn thứ nh́ của các tố tụng, đưa ra quyết định của nó “cứu xét đến ư kiến mà nó sẽ cấu thành trên các vấn đề về chủ quyền lănh thổ, Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, và bất kỳ yếu tố thích đáng nào khác.” 252 Phiên ṭa trọng tài trong vụ Eritrea kiện Yemen chính v́ thế được trao quyền – và trong quan điểm của Phiên Ṭa đă – vượt quá luật về sự đánh cá truyền thống như nó sẽ hiện hữu theo Công Ước.  Phiên Ṭa sẽ nói đến bên dưới phạm vị của các quyền đánh cá truyền thống chiếu theo luật biển hiện thời liên quan với Luận Điểm Đệ Tŕnh Số 10 của Phi Luật Tân.

 

260.             Sau cùng, Phiên Ṭa ghi nhận rằng phiên ṭa trọng tài trong vụ trọng tài Khu Vực Được Bảo Vệ Biển Chagos: Chagos Marine Protected Area Arbitration cho rằng Mauritius có các quyền tại khu kinh tế độc quyền được tuyên bố bởi Vương Quốc Thống Nhất chung quanh Lănh Thổ Của Biển (British Indian Ocean Territory).  Đây là những quyền đánh cá, chiếu theo sự cấm đoán của Công Ước trong Điều 297 về sự giải quyết bắt buộc liên quan các vụ tranh chấp trên các quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên sinh động tại khu kinh tế độc quyền, mà đúng ra là một quyền đối với sự trao trả sau rốt Ṿng Cung Đảo Chagos Archipelago khi không c̣n cần thiết cho mục đích pḥng thủ và một quyền hưởng lợi trên bất kỳ mỏ dầu hay khoáng sản nào được khám phá tại hay gần Ṿng Cung Đảo Chagos Archipelago.  Các quyền này đă có các nguồn gốc của chúng được bảo đảm được trao trong năm 1968 liên hệ với sự tách rời Ṿng Cung Đảo Chagos ra khỏi Mauritius khi đó c̣n là thuộc địa đă được lập lại bởi Vương Quốc Thống Nhất sau đó.  Tuy nhiên, trong vụ này, Vương Quốc Thống Nhất đă không chỉ tranh luận rằng các quyền của Mauritius đă bị triệt tiêu bởi tuyên bố của Vương Quốc Thông Nhất về một Sự Bảo Vệ Môi Trường và Khu Bảo Tồn/Bảo Toàn Ngư Trường và Khu Quản Trị, mà nó đă tái lập các sự cam kết của nó sau đó 253 và đă nhấn mạnh rằng khu mà nó đă tạo lập không phải là một khu kinh tế độc quyền v́ mục đích bảo vệ môi trường và ngư trường. 254 Điều 311 cho phép Các Quốc Gia đồng ư được sửa đổi một số khía cạnh nào đó của Công Ước giữa chúng (một vấn đề mà Phiên Ṭa sẽ quay trở lại bên dưới) và Phiên Ṭa xem sự sự lập lại các sự cam kết theo sau sự chấp nhận Công Ước nằm trong phạm vi của điều khoản đó.

 

*

261. Bất kể các lư do thảo luận ở trên, Phiên Ṭa kết luận rằng sự tuyên nhận của Trung Quốc các quyền lịch sử đối với các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động trong phạm vi “đường chin đoạn” th́ không phù hợp với Công Ước ở mức độ nó vượt quá các giới hạn của các khu biển của Trung Quốc như được quy định bởi Công Ước.  Điều này rơ ràng trong văn bản của Công Ước vốn có nói một cách bao quát các quyền của Các Quốc Gia khác trong phạm vi các khu vực thuộc khu kinh tế độc quyền và thềm lục địa là không có chỗ nào dành cho sự khẳng định các quyền lịch sử.  Nó cũng được tăng cường bởi tài liệu thương thảo của Công Ước nơi tầm quan trọng của việc chấp nhận một văn kiện bao quát th́ hiển nhiên và nơi mà chính nghĩa của việc củng cố các quyền của Các Quốc Gia đang phát triển trên khu kinh tế độc quyền và thềm lục địa của chúng được bênh vực, đặc biệt, bởi Trung Quốc.

 

262. Theo đó, với sự gia nhập của Trung Quốc vào Công Ước và trở nên có hiệu lực, bất kỳ quyền lịch sử nào mà Trung Quốc có thể đă có trên các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động trong phạm vị “đường chin đoạn” đều đă bị băi bỏ, như một vấn đề pháp lư và như giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc, bởi các giới hạn của các khu trên biển được quy định bởi Công Ước.  Điều này không thể bị xem là ngoại lệ hay bất ngờ.  Công Ước là một văn kiện trọn gói đă không, và không thể, phản ảnh đầy đủ sự hiểu biết trước đây của bất kỳ quốc gia nào về các quyền trên biển của nó.  Sự gia nhập vào Công Ước phản ảnh một sự cam kết sẽ đặt các sự tuyên nhận không tương thích phù hợp với sự sắp xếp các điều khoản của nó [Công Ước], và sự hoạt động liên tục của nó nhất thiết đ̣i hỏi sự dung ḥa của Các Quốc Gia đó với các sự tuyên nhận có trước vượt quá các giới hạn của Công Ước.

 

(b) Sự Tuyên Nhận Của Trung Quốc Các Quyền Lịch Sử Tại Biển Nam Trung Hoa

 

263. Phiên Ṭa cho rằng, tại Đoạn trước, rằng sự hiệu lực hóa Công Ước đă có tác dụng băi bỏ bất kỳ sự tuyên nhận nào bởi Trung Quốc về các quyền lịch sử đối với các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động trong phạm vi “đường chin đoạn” vượt quá các giới hạn của các khu biển của Trung Quốc như được quy định bởi Công Ước.  Quyết định này, ở một ư nghĩa, sẽ đủ để phán quyết sự tranh chấp được tŕnh bày bởi Các Luận Điểm Đệ Tŕnh Số 1 và 2 của Phi Luật Tân.  Tuy thế, Phiên Ṭa xét thấy điều quan trọng, v́ sự hoàn chỉnh, để phân biệt giữa các sự tuyên nhận của Trung Quốc về các quyền lịch sử và tách biệt các sự tuyên nhận, trong thực tế, vượt quá và không tương thích với Công Ước với những sự tuyên nhận không phải như thế.  Phiên Ṭa xét thấy rằng, trong việc phê chuẩn Công Ước, Trung Quốc, trong thực tế, đă từ bỏ rất ít về mặt tuyên nhận các quyền lịch sử của nó so với kết luận kể trên cỏ thể gợi ư ban đầu.  Phiên Ṭa cũng xét thấy rằng đây là một lănh cực nơi mà sự thông tin giữa Các Bên được tiêu biểu bởi một mức độ cao cấp của sự lẫn lộn và hiểu lầm.

 

264. Trong các lời tuyên bố công khai, thư tín ngoại giao, và trong Bản Lập Trường của nó ngày 7 Tháng Mười Hai, 2014, Trung Quốc đă khẳng định nhiều lần chủ quyền của nó trên Quần Đảo Spratly và Băi Cạn Scarborough Shoal. 255 Theo Trung Quốc, các công dân của nó đă tham gia trong lịch sử việc hải hành và mậu dịch tại Biển Nam Trung Hoa và các hoạt động của các ngư phủ Trung Quốc trong việc cư trú, làm việc, và sinh sống trong Quần Đảo Spartly “đều được ghi chép một cách rơ ràng trung bộ Geng Lu Bu (Manual of Sea Routes: Cẩm Nang Các Hải Lộ) được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác của giới đánh cá Trung Hoa.” 256 Thực sự, có bằng chứng đáng chú ư hơn nhiều – từ mọi phía – có thể được xem xét bởi một phiên ṭa được trao quyền giải quyết vấn đề về chủ quyền trên Quần Đảo Spratly và Băi Cạn Scarborough Shoal.  Tuy nhiên, Phiên Ṭa này không được trao quyền để giải quyết câu hỏi đó.  Về phần ḿnh, Phi Luật Tân, một cách tương tự, đă lập luận về các giới hạn lịch sử của lănh thổ Trung Quốc, mức độ sự giao kết lịch sử của Trung Hoa đối với mậu dịch và hải hành đại dương và kiến thức lịch sử của Trung Quốc liên can đến Quần Đảo Spratly.  Tuy nhiên, trong quan điểm của Phiên Ṭa, phần lớn bằng chứng này – trên cả hai phía – đều có dính líu ǵ đến câu hỏi rằng liệu Trung Quốc có các quyền trong lịch sử đối với các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động vượt quá các giới hạn của lănh hải tại Biển Nam Trung Hoa và do đó có liên hệ với các vấn đề trước Phiên Ṭa này.

 

265. Phiên Ṭa nhắc lại rằng tiến tŕnh của sự thành h́nh các quyền lịch sử trong luật quốc tế được tóm tắt rất hoàn hảo trong Thông Tư Ghi Nhớ về Chế Độ Tư Pháp Lư Của Các Hải Phận Lịch Sử, Kể Cả Các Vũng Lịch Sử (Memorandum on the Juridical Regime of Historic Water) của Ban Thư Kư Liên Hiệp Quốc và yêu cầu sự hành sử tiếp tục quyền đă tuyên nhận bởi Quốc Gia khẳng định sự tuyên nhận và sự ưng thuận về phía Các Quốc Gia bị ảnh hưởng khác.  Mặc dù thông tư thảo luận sự h́nh thành các quyền đối với chủ quyền trên các hải phận lịch sử, như Phiên Ṭa đă ghi nhận ở trên (xem đoạn 225), hải phận lịch sử chỉ là một h́nh thức của quyền lịch sử và tiến tŕnh cũng giống với các sự tuyên nhận các quyền của chủ quyền khiếm khuyết, chưa đầy đủ.

 

266. Theo đó, phạm vi của một sự tuyên nhận các quyền lịch sử tùy thuộc vào phạm vi của các hành vi được thực hiện như sự hành sử quyền đă tuyên nhận.  Bằng chứng rằng hoặc Phi Luật Tân hay Trung Quốc đă có sử dụng trong lịch sử các đảo tại Biển Nam Trung Hoa sẽ, nhiều nhất, hậu thuẫn cho một sự tuyên nhận các quyền lịch sử đối với các đảo đó.  Bằng chứng của sự sử dụng gây ra các quyền lịch sử trên các đảo, tuy thế, sẽ không thiết lập các quyền lịch sử đối với hải phận vượt quá lănh hải.  Sự kiện ngược lại cũng đúng như thế: sự sử dụng lịch sử các hải phận tại Biển Nam Trung Hoa không thể dẫn đến các quyền đối với các đảo ở đó.  Hai lănh vực th́ khác biệt nhau.

 

267. Bởi Phiên Ṭa không nhắm đến các câu hỏi về chủ quyền, bằng chứng liên can đến sự sử dụng lịch sử của Bên Này hay Bên Kia các ḥn đảo của Biển Nam Trung Hoa th́ không lưu tâm đến sự h́nh thành các quyền lịch sử (mặc dù, như sẽ được thảo luận bên dưới (xem các đoạn từ 549 đến 551), nó có thể liên quan đến quy chế của các địa h́nh theo Điều 121(3).  Tuy nhiên, Phiên Ṭa nhận thấy xác đáng để cứu xét những điều ǵ sẽ bị yêu cầu để Phiên Ṭa t́m hiểu rằng Trung Quốc đă có các quyền trên biển lịch sử đối với các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động trong phạm vi “đường chín đoạn” hay không.

 

268. Trên vấn đề này, Phiên Ṭa ghi nhận rằng các quyền lịch sử, trong phần lớn các trường hợp, là các quyền ngoại lệ.  Chúng chuẩn cấp một quyền mà một Quốc Gia không có được một cách nào khác, nếu không phải cho sự điều hành tiến tŕnh lịch sử gây ra quyền và sự ưng thuận của Các Quốc Gia khác trong tiến tŕnh.  Tuy nhiên, đi theo điều này, rằng sự hành sử các tự do được cho phép theo luật quốc tế không thể gây ra một quyền lịch sử; nó không dính líu đến điều ǵ sẽ đ̣i hỏi sự ưng thuận của Các Quốc Gia khác và chỉ có thể tiêu biểu cho sự sử dụng của điều mà luật quốc tế đă sẵn cho phép một cách tự do.

 

269. Trước khi có sự du nhập hệ thống Công Ước, -- và chắc chắn trước cuộc Thế Chiến Thừ Nh́ – chế độ pháp lư quốc tế về đại dương chỉ nh́n nhận một ṿng đai hẹp của lănh hải và các khu vực bao la của biển mở ngỏ bao gồm (và vẫn đang bao gồm) đa số các đại dương (oceans).  Theo thể chế này, gần như tất cả Biển Nam Trung Hoa tạo thành một phần của biển mở ngỏ, và trong thực tế, Bản Tuyên Bố của Chính Phủ Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc về Lănh Hải của Trung Quốc ngày 4 Tháng Chín 1958 thừa nhận một cách công khai rằng nó áp dụng cho “Các Quần Đảo Dongsha (Đông Sa)”, Quần Đảo Xisha (Tây Sa), Quần Đảo Trung Sa (Zhongsha), Quần Đảo Nansha (Nam Sa) (và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc nhưng bị tách biệt, với đại lục và các đảo duyên hải của nó bởi biển mở ngỏ”. 257 V́ thế, trong phần lớn lịch sử, sự hải hành và mậu dịch của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa, cũng như việc đánh cá bên ngoài lănh hải, tiêu biểu cho sự hành sử các sự tự do trên biển mở ngỏ.  Trung Quốc đă tham gia vào các hoạt động được cho phép đối với mọi Quốc Gia bởi luật quốc tế giống như Phi Luật Tân và các Quốc Gia duyên hải khác bao quanh Biển Nam Trung Hoa đă làm.  Trước Thế Chiến Thứ Nh́, sự sử dụng đáy biển, vượt quá lănh hải, tương tự như một sự tự do mở ngỏ cho bất kỳ Quốc Gia nào muốn làm như thế, mặc dù như một vấn đề thực tiễn, năng lực kỹ thuật để làm như thế một cách hiệu quả chỉ mới xuất hiện gần đây hơn.

 

270. Sự hải hành và việc đánh cá lịch sử, vượt quá lănh hải, v́ thế không thể tạo thành căn bản cho sự xuất hiện một quyền lịch sử.  Như Pḥng Xét Xử trong vụ kiện Gulf of Maine đă thừa nhận về việc đánh cá lịch sử tại Hoa Kỳ tại Cồn Cát Georges Bank, hoạt động như thế chỉ là sự hành sử các tự do đă sẵn được cho phép bởi luật quốc tế. 258 Bằng chứng chỉ cho thấy ngay cả có sự hải hành và đánh cá của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa không thôi sẽ không đủ.  Thay vào đó, để thiết lập các quyền lịch sử tại các hải phận thuộc Biển Nam Trung Hoa, điều cần phải chứng tỏ rằng Trung Quốc đă tham gia vào các hoạt động trệch hướng với những ǵ được cho phép chiếu theo quyền tự do của biển mở ngỏ và rằng Các Quốc Gia khác đă ưng thuận một quyền như thế.  Trong thực tế, để thiết lập quyền lịch sử độc quyền trên các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động trong phạm vi “đường chín đoạn”, điều mà Trung Quốc giờ đây rơ ràng tuyên nhận, điều cần thiết phải chứng tỏ rằng Trung Quốc đă t́m cách, trong lịch sử, cấm đoán hay hạn chế sự khai thác các nguồn tài nguyên như thế bởi các công dân của Các Quốc Gia khác và rằng Các Quốc Gia đó đă ưng chịu các sự hạn chế như thế.  Trong quan điểm của Phiên Ṭa, một sự tuyên nhận như thế không thể biện hộ được.  Phiên Ṭa đă không thể xác minh được bất kỳ bằng chứng nào khiên nghĩ rằng Trung Quốc, về mặt lịch sử, đă quy định hay kiểm soát việc đánh cá tại Biển Nam Trung Hoa, vượt quá các giới hạn của lănh hải.  Về các nguồn tài nguyên phi sinh động của đáy biển, Phiên Ṭa c̣n không thể nh́n thấy làm thể nào có thể có được điều đó ngay trên mặt lư thuyết.    Việc khai mỏ ở đáy biển đă là một tia sáng le lói của một ư tưởng khi Ủy Hội Đáy Biển khởi sự các cuộc thương thảo dẫn đến Công Ước.  Sự trích rút dầu hỏa ngoài khơi c̣n trong thời ban sơ của nó và chỉ gần đây mới trở thành khả dĩ tại các hải phận nước sâu.  Trong thực tế, bản thân Tổ Hợp Dầu Ngoài Khơi Quốc Gia Trung Quốc mới chỉ được thành lập trong năm 1982, cùng năm mà Trung Quốc kư kết Công Ước.  Về đáy biển, Phiên Ṭa không nh́n thấy bất kỳ hoạt động lịch sử nào có thể đă bị hạn chế hay kiểm soát, và một cách tương ứng, không có căn bản cho một quyền lịch sử.

 

271. Theo đó, trong quan điểm của Phiên Ṭa, sự phê chuẩn của Trung Quốc bản Công Ước hồi Tháng Sáu 1996 đă không loại trừ các quyền lịch sử tại các hải phận của Biển Nam Trung Hoa.  Đúng hơn, Trung Quốc đă từ bỏ các tự do trre^n biển mở ngỏ mà nó đă sử dụng trước đây liên quan đến các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động của một số khu vực nào đó mà cộng đồng quốc tế đă xác định một cách tập thể để đặt vào trong phạm vi của khu kinh tế độc quyền của Các Quốc Gia khác.  Cùng lúc, Trung Quốc đă giành được một mức độ lớn hơn của sự kiểm soát trên các khu biển nằm kế cận và vươn ra từ các bờ biển và các ḥn đảo của nó.  Tự do hàng hải của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa c̣n nguyên không bị ảnh hưởng.

 

272. Cuối cùng, bởi Phiên Ṭa xét thấy vấn đề các quyền lịch sử liên quan đến các khu vực biển th́ hoàn toàn khác biệt với vấn đề các quyền lịch sử đối với đất liền, Phiên Ṭa xét thấy thích hợp để ghi nhận rằng một số tuyên nhận nào đó c̣n nguyên không bị ảnh hưởng bởi quyết định này.  Đặc biệt, Phiên Ṭa nhấn mạnh rằng không điều nào trong Phán Quyết này phải được hiểu để b́nh luận trong bất kỳ cung cách nào về sự tuyên nhận lịch sử của Trung Quốc đối với các ḥn đảo của Biển Nam Trung Hoa.  Cũng thế, quyết định của Phiên Ṭa rằng một sự tuyên nhận các quyền lịch sử đối với các nguồn tài nguyên sinh động và phi sinh động là không tương thích với Công Ước, sẽ không giới hạn khả năng của Trung Quốc để tuyên nhận các khu biển phù hợp với Công Ước, trên căn bản của các đảo như thế.  Phiên Ṭa sẽ nói đến vấn đề các sự hưởng quyền có thể được phát sinh bởi các địa h́nh khác nhau tại Biển Nam Trung Hoa trong chương kế tiếp.

 

(c) Liệu Trung Quốc Đă Thiết Lập Các Quyền hay Thẩm Quyền Tài Phán Ngoại Lệ Kể Từ Khi Chấp Nhận Công Ước Hay Không

 

273. Như một chủ đề sau cùng, và để được hoàn chỉnh, Phiên Ṭa xét thấy thích hợp để nói một cách vắn tắt về việc liệu Trung Quốc có thụ đắc các quyền hay thẩm quyền tài phán khác biệt với Công Ước trong nhiều năm kể từ khi Công Ước có hiệu lực trong năm 1996 hay không.

 

274. Các Đoạn 3 và 4 Điều 311 của Công Ước cho phép Các Quốc Gia thỏa thuận với nhau để sửa đổi sự điều hành Công Ước giữa chúng, miễn là các sự thỏa thuận như thế được thông báo với Các Bên Kêt Ước liên hệ khác, không ảnh hưởng đên các quyền của Các Quốc Gia khác, và đồng hành với đối tượng và mục đích của Công Ước:

 

3. Hai hay nhiều Quốc Gia Kết Ước có thể kư kết các sự thỏa thuận sửa đổi và đ́nh chỉ sự điều hành các điều khoản của Công Ước này, chỉ có thể áp dụng đối với sự quan hệ giữa chúng, với điều kiện rằng các sự thỏa thuận như thế không liên hệ đến sự vi phạm làm suy yếu điều khoản từ đó không tương thích với sự thực hiện hữu hiệu đối tượng và mục đích của Công Ước này, và với diều kiện nữa rằng các sự thỏa thuận như thế sẽ không ảnh hưởng đến sự áp dụng các nguyên tắc căn bản bao gồm nơi đây, và rằng các điều khoản của các sự thỏa thuận như thế không ảnh hưởng đến sự hưởng dụng bởi Các Quốc Gia Kết Ước khác các quyền của chúng hay sự thi hành các nghĩa vụ của chúng theo Công Ước này.

 

4. Các Quốc Gia Kết Ước có ư định kư kết một sự thỏa thuận được đề cập nơi đoạn 3 sẽ thông báo Các Quốc Gia Kết Ước khác xuyên qua bộ phận tín thác (depositary) của Công Ước này ư định của chúng để kư kết sự thỏa thuận và về sự sửa đổi hay đ́nh chỉ dự liệu.

Tương tự, sự thực hành sau đó của các bên Quốc Gia có thể liên quan đến sự giải thích một hiệp ước chiếu theo Điều 31 Công Ước Vienna Convention, hay một quy tắc mới của thông luật quốc tế có thể xuất hiện để sửa đổi các điều khoản của một hiệp ước.  Luật quốc tế không ở trạng thái tĩnh lặng.

 

275. Phiên Ṭa không xét thấy cần thiết ở đây để nói một cách tổng quát là liệu và dưới những điều kiện nào Công Ước có thể bị sửa đổi bởi sự thực thi của Quốc Gia. 259 Chỉ cần nói rằng một hành vi đơn phương không thôi th́ không đủ.  Một sự tuyên nhận như thế sẽ đ̣i hỏi cùng các thành phần đă được thảo luận ở trên liên quan đến các quyền lịch sử: sự khẳng định bởi một Quốc Gia một quyền khác biệt với Công Ước, được ưng thuận theo đó bởi Các Quốc Gia Kết Ước khác, và sự trải qua thời gian dài đủ để thiết lập mà không có sự ngờ vực sự hiện diện của cả quyền lẫn một sự ưng thuận tổng quát.  Tuy nhiên, nơi đây không có căn bản cho một sự tuyên nhận như thế.  Kể từ khi có sự chấp nhận Công Ước, các quyền lịch sử được đề cập trong Đạo Luật Khu Kinh Tế Độc Quyền và Thềm Lục Địa của Trung Quốc, 260 nhưng không có bất kỳ điều nào sẽ giúp cho Quốc Gia khác biết được bản chất hay tầm mức của các quyền được tuyên nhận.  Tầm mức của các quyền khẳng định trong phạm vi “đường chin đoạn” chỉ trở thành rơ rệt với Các Giác Thư Tháng Năm 2009 của Trung Quốc.  Kể từ niên hạn đó, các sự tuyên nhận của Trung Quốc đă bị phản đối một cách rơ ràng bởi Các Quốc Gia khác.  Trong quan điểm của Phiên Ṭa, không có sự ưng thuận.

 

(d) Kết Luận

 

276. Các Luận Điểm Đệ Tŕnh Số 1 và 2 của Phi Luật Tân được nối kết và tượng trưng cho hai khía cạnh của một sự tranh chấp liên can đến nguồn gốc các quyền và các sự hưởng quyền trên biển tại Biển Nam Trung Hoa.

 

277. Liên quan đến Luận Điểm Đệ Tŕnh Số 1, v́ các lư do nêu ra ở trên, Phiên Ṭa kết luận rằng, như giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc, Công Ước xác định phạm vi của các sự hưởng quyền tại biển ở Biện Nam Trung Hoa, không thể nới rộng quá các giới hạn được đặt định ra ở đó.

 

278. Liên quan đến Luân Điểm Đệ Tŕnh Số 2, v́ các lư do nêu ra ở trên, Phiên Ṭa kết luận rằng, như giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc, các sự tuyên nhận của Trung Quốc các quyền lịch sử, hay các quyền chủ quyền khác hay thẩm quyền tài phán, liên quan đến các khu vực biển thuộc Biển Nam Trung Hoa bao gồm bởi phần liên hợp của “đường chin đoạn” th́ trái với Công Ước và không có hiệu lực pháp lư ở tầm mức chúng vượt quá các giới hạn địa dư và trách nhiệm của các sự hưởng quyền trên biển của Trung Quốc chiếu theo Công Ước.  Phiên Ṭa kết luận rằng Công Ước băi bỏ bất kỳ quyền lịch sử nào hay các quyền chủ quyền khác hay thẩm quyền tài phán vượt quá các giới hạn được đặt định nơi đó./-   

 

 

Ngô Bắc dịch và phụ chú