Oliver W. Wolters
Cornell Unversity
Về Việc Kể Chuyện Lịch Sử Việt Nam
Trong Các Thế Kỷ Thứ Mười Ba và Mười Bốn
Ngô Bắc dịch
Đại ư: Triều đại nhà Trần cai trị Việt Nam từ 1226 đến 1400 và đă duy tŕ các quan hệ triều cống với Trung Hoa. Trong khi Trung Hoa thụ hưởng một t́nh trạng tương đối ổn định từ thế kỷ thứ 13 sang thế kỷ thứ 14, sự sụp đổ của Việt Nam dưới thời Trần trở nên điều tất yếu. Triều đại nhà Trần đă dựa vào Khổng học để tăng cường sự nắm giữ quyền lực của ḿnh hơn là để phát huy sự ḥa hợp xă hội. Bận tâm với sức mạnh và thẩm quyền đă tạo ra các hậu quả bi thảm trên định chế triều đại.
***
Bài khảo luận của tôi để kỷ niệm sinh nhật của Tạp Chí [Đông Nam Á học] phác họa những đường nét có thể là chương kết luận cho một cuộc nghiên cứu về Việt Nam trong các thế kỷ thứ mười ba và mười bốn khi triều đại nhà Trần ngự trị (1226-1400). Trong năm 1225 gia tộc nhà Trần đă lật đổ vị hoàng đế cuối cùng của triều đại trước, nhà Lư (1009-1225) và cho đến bấy giờ là triều đại lâu dài duy nhất. Trong thực tế, thời trị vi của đế triều nhà Lư, c̣n lâu hơn gần năm mướ năm so với triều đại kế nhiệm nó. Dù thế, không có ǵ phải nghi ngờ rằng nhà Trần đă là triều đại nổi tiếng nhất trong mọi triều đại Việt Nam nhờ các chiến thắng của nó khi các đội quân của Kubilai Khan đến tấn công ba lần trong thế kỷ thứ mười ba. Song người ta đă phải t́m hiểu loại triều đại của nó ra sao và xứ sở mà nó đă cai tri phải được định nghĩa như thế nào. Người ta phải hướng nh́n đến Trung Hoa, nguồn gốc của định chế triều đại, để có được sự hướng dẫn hay người ta phải t́m kiếm ở nơi nào khác? Một biến cố trong năm 1237 làm liên tưởng đến tính mơ hồ. Năm đó các quan chức bị yêu cầu tiến dâng “trầu và trà lên hoàng đế khi ông ta xuất hành từ Đầu Cầu Phia Đông gần kinh đô. “Trần cau và trà” mang cả yếu tố Đông Nam Á lẫn yếu tố Trung Hoa vào khung cảnh.
Chương kết luận của tôi sẽ được viết như một lịch sử tường thuật lại theo cấu trúc biên niên và tôi hy vọng, sẽ không có tiêu điểm quá chật hẹp. Một sự tŕnh bày về một thời khoảng quan trọng như các thế kỷ của nhà Trần cần nhiều chỗ. Một giá trị khác của lịch sự tường thuật là sử gia được khuyến khích một cách liên tục để đặt ra các câu hỏi như thế nào và tại sao các sự việc đă thực sự xảy ra trong một khung cảnh văn hóa cá biệt và có thể đang biến đổi. Sử gia cũng phải có khoảng trống để suy ngẫm về các vấn đề phát sinh và bị thách đố để trải nghiệm qua với các công cụ tường thuật hữu hiệu và tài nghệ tinh xảo nói chung.
Chương cuối cùng sẽ được dẫn trước bởi năm chương khác t́m cách khai mở các tính chất đúng theo văn bản (textual properties) trong các nguồn tài liệu của tôi. Một sự phân tích theo từng chương các nguồn tài liệu, tôi hy vọng, sẽ cứu vớt tôi ra khỏi vấn đề mà tôi đă từng dự liệu rằng nếu một sử gia cố gắng kết hợp một khảo hướng kể chuyện với các điều kiện của sự phê b́nh sát theo văn bản và liên tục phải chậm bước hầu đặt các câu hỏi về h́nh thức của một bản văn cũng như về nội dung của nó. 1 “Tư tưởng bị đông lạnh bởi các sự ngắt quăng”, Tiến Sĩ Johnson đă nhận xét, và cũng như thế, sẽ là lịch sử tường thuật.
Bởi “các tính chất đúng sát theo văn bản” trong các nguồn tài liệu tôi đề cập không ǵ khác hơn là các đặc điểm và cấu trúc văn chương theo khuôn mẫu vốn mong mỏi được thừa nhận hầu cho phép các nguồn tài liệu sẽ được phú cho ư nghĩa bao chùm và vượt lên trên các khía cạnh cụ thể của tin tức. Một ư nghĩa đúng theo văn bản của nguồn tài liệu tượng trưng cho cách thức mà Việt Nam “đă xuất hiện ra” đối với tác giả của nó, hay theo thể cách của nó. Sự tường thuật của riêng tôi về Việt Nam trong chương kết luận sẽ cứu xét đến “các diện mạo” (appearance) cạnh tranh với các nguồn tài liệu, các phương thức theo đó chúng soi sáng lẫn nhau, và cũng như các trường hợp làm sao mà đôi khi chúng có vẻ giống nhau. Điều mà tôi viết ra không thể giúp thể hiện một “diện mạo” khác chưa có, tuy nhiên, có lẽ, nó có thể gần sát hơn với một “sắc diện” (countenance), hay thực chất, đàng sau nhiều “diện mạo” khác nhau. Khi dùng chữ “sắc diện” (countenance), phát sinh từ từ ngừ trong tiếng la Tinh “continentia” (cách thức mà một người giữ được sự b́nh tĩnh của ḿnh), tôi hiểu là tầm mức theo đó nước Việt Nam thời Trần “được giữ yên tĩnh”.
Viết lịch sử theo lối thuật chuyện (narrative history) là kể một câu chuyện với một cốt truyện (plot). Cốt truyện bao gồm phương cách mà các phần và hiệu quả của một câu chuyện cấu kết với nhau. Các nguồn tài liệu của tôi có thể được đọc như các câu chuyện với các cốt truyện chịu trách nhiệm về các ư nghĩa và ‘diện mạo” của chúng. Trong một thời gian dài tôi đă tin tưởng trằng thế kỷ thứ mười bốn cấu thành một đường phân cách trong lịch sử Việt Nam, nhưng tôi không cảm thấy được kịch tính (drama) cho đến khi tôi hiểu biết nhiều hơn về thế kỷ thứ mười ba. Chính v́ thế, cái nh́n lướt qua thời nhà Trần làm liên tưởng đến một đề tài cho cốt truyện trong chương kết luận: một cách đơn giản, một triều đại sẵn đang tan ră trong ṿng một thế kỷ của cuộc chiến thắng quân sự ngoạn mục. Câu chuyện và cốt truyện của nó, được phác thảo trong bài khảo luận này, phản ảnh một số sự suy tưởng chất chứa trong đầu khi tôi tiến tới việc viết chương kết luận của ḿnh. Bài khảo luận, một cách tương tự, giống như một trong nhừng lời đề tựa của tác giả Henry James, trong đó nói chuyện về một câu chuyện.
Trong chương đầu tiên của ḿnh, tôi sẽ cung cấp một bối cảnh lịch sử của thời nhà Trần và giải thích các chủ định của tôi. Nhưng chương cuối cùng của tôi cần đến điều mà tôi đă tiến tới việc xem như một khung cảnh thích hợp cho lịch sử nhà Trần, tôi sẽ để ư đến nhiều nguồn tài liệu. Một nguồn trong chúng, và có lẽ trong sự phân tích cuối cùng, là nguồn tài liệu đáng lưu ư nhất, sẽ là điều mà tôi sẽ đề cập đến như “các tiếng nói” theo đó tôi muốn nói đến văn vần hay thơ thời nhà Trần được lưu giữ trong các tuyển tập Thơ Văn Lư Trần, được xuất bản tại Hà Nội trong các năm 1978 và 1989, và cũng như trong các niên sử Việt Nam được đề cập đến dưới đây. “Các “tiếng nói” giúp chúng ta nghe được cách thức mà con người trong thời nhà Trần bày tỏ các sự quan tâm tức thời và khác biệt của họ. Mặc dù thuộc giới tinh hoa, họ khá đa dạng: đó là các tiếng nói của các nhà lănh đạo, các hoàng thân, các nhà sư, các viên tướng lĩnh, các nhà thơ, nhiều loại quan chức khác nhau, và các điền chủ. Các tài liệu Trung Hoa là nguồn tài liệu khác và không hề chỉ có tính cách tầm thường hay không đáng tin, bất kể “diện mạo” mà chúng chuyên chở là “diện mạo” của một xứ sở chậm tiến về văn hóa và chính trị, xa xôi và biệt lập với suối nguồn văn minh tại Trung Hoa. 2 “Các tiếng nói” và các nguồn tài liệu Trung Hoa không thể bị bỏ quên trong khi, như vẫn bị xẩy ra quá thường xuyên, người ta lại trở lùi về nguồn tài liệu khác và nổi tiếng, bộ Đại Việt Sử Kư Toàn Thư hay các niên sử nhà Trần, được biên soạn hồi giữa thế kỷ thứ mười lăm và [là] nguồn tài liệu đă chuẩn cấp vị thế của “văn bản chủ yếu” cho thời kỳ này nhờ chi tiết khá phong phú của nó. Các niên sử, với các sự ngắt giọng thường xuyên được trù tính bởi chính nhà viết sử để nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các đoạn bút kư của ḿnh, thuật lại câu chuyện về gia tộc nhà Trần như một mối quan hệ chuyển động của các ông hoàng và các bầy tôi và mang lại cho Việt Nam “diện mạo” được điều hành bởi và phục vụ cho gia tộc cầm quyền, mặc dù cốt truyện của nó, tôi sẽ nghĩ, chỉ được khai mở trong khung cảnh hồi đầu thế kỷ thứ mười bốn. Tôi tiếp tục nhận thấy ḿnh phải kháng cự lại ảnh hưởng của các niên sử và tự nhủ ḿnh rằng nó chỉ cung cấp một trong nhiều “diện mạo” của Việt Nam thời nhà Trần.
Khung cảnh kế tiếp sẽ giúp cho chuyện kể của tôi được khởi sự, và tôi sẽ ít quan tâm đến sự tŕnh bày rậm rạp cho bằng một ít đặc điểm có vẻ, theo ư kiến của tôi, ảnh hưởng đến những ǵ xảy ra. Tôi sẽ bắt đầu với hệ cấp tỉ mỉ của gia tộc nhà Trần, trên đó ngự trị một “Thiên Tử”, nguồn gốc của mọi đề xướng và được nghênh đón như một kẻ đứng đầu triều đại và hoàng đế kiểu Trung Hoa. Theo Chen Fu, một sứ giả Trung Hoa năm 1293, chỉ những người quan trọng trong xă hội phân chia thứ bậc tỉ mỉ này mới dùng các khay bằng bạc đựng trầu cau của họ. Không khoản nào trong các tài liệu của triều đại nhà Lư trước đây làm liên tưởng đến một Triều Đ́nh biệt lập và hoàn toàn cặn kẽ đến thế, như triều đ́nh đă mau chóng được thiết lập bởi gia tộc tàn nhẫn này, xuất thân từ những kẻ đánh cá trước đây thuộc vùng châu thổ sông Hồng và có lẽ có gốc gác Trung Hoa. Tôi sẽ ám chỉ đến chương của tôi về các niên sử để nhớ lại bằng cách nào, qua một chuỗi các sự ứng phó táo bạo để đối đầu với các t́nh trạng khẩn cấp bất ngờ, gia tộc này đă có thể bảo đảm rằng người con trai trưởng của nhà lănh đạo sẽ kế vị ông ta, và kết hôn với một phụ nữ thuộc gia tộc họ Trần. Hơn nữa, cùng nguồn tài liệu sẽ cho thấy các hoàng đế được phụ tá bởi các chú bác và anh em của ḿnh, những kẻ mà các hoàng đế trút xuống các đặc quyền và phong cho các chức vụ cao cấp nhất. Trong năm 1266 hoàng đế cho phép các thành viên của hoàng tộc được tập họp kẻ không có ruộng và khai khẩn đất bỏ không. Các ông hoàng ngày càng trở nên giàu có. Chen Fu chỉ hay biết về các điền trang của các ông hoàng tại vùng thôn quê chứ không phải ở thành thị. Nơi đây, khi đó, sẽ là một gia tộc hư đốn và đan kết chặt chẽ. Một “tiếng nói” thế kỷ thứ mười ba – tiếng nói của hoàng đế Thánh Tôn (mất năm 1290) trong một bữa tiệc gia đ́nh năm 1268 – vang lên: “đế quốc là của tổ tiên chúmg ta”, và những kẻ thừa kế nó (có nghĩa chính ông ta) phải chia sẻ việc hưởng thụ sự giàu có và uy thế với các anh em của ḿnh trong gia tộc”. Trong năm 1370, một vị công chúa họ Trần, tập họp các thân nhân phái nam yếu đuối chống lại một kẻ soán ngôi, nhắc nhở họ một cách kiêu hănh rằng “đất nước là của tổ tiên chúng ta. Tại sao chúng ta là nhường nó lại cho kẻ khác?”
Một hệ thống chỉ huy được trải ra từ vị lănh đạo và các hoàng thân xuống các bầy tôi tin cậy, được gọi là hành khiển [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] và thường là các thái giám, và từ đó, xuống các nhân viên thừa hành cấp dưới. Mọi việc tùy thuộc vào nhà lănh đạo và nhóm cận thần gồm các hoàng thân và hành khiển chứ không phải trên một hệ thống thư lại. Công việc sẽ được điều hành trong một cung cách không chính thức và thoải mái. Dấu hiệu cho thấy một người thuộc vào giới cận thần triều đ́nh là khi, bởi một số lư do này hay kia, người đó lọt vào mắt nh́n của nhà lănh đạo và được “bổ nhiệm” vào một chức vụ trách nhiệm. Thí dụ, trong năm 1299 một học giả trẻ gặp may mắn để có cơ hội thảo một bức thư tạ lỗi của kẻ kế ngôi say rượu lên vua cha. Chức nghiệp của người đó giờ đây được thăng tiến. Nhưng chính thể tổ chức thất thường này cũng có khả năng lâm vào t́nh trạng ngặt nghèo, như Chen Fy nhận xét.
Sự giám sát cá nhân của các nhà lănh đạo trên chính quyền của ḿnh trở nên hợp lư khi người ta ghi nhận rằng một nguồn tài liệu Trung Hoa, quyển An Nam Chí Nguyên (An-nan zhi-yuan), mô tả Việt Nam trong các thời nhà Lư và nhà Trần như một xứ sở “nhỏ bé và có thể tiếp cận được”, nơi chỉ có các cỗ xe kéo là cần thiết để di chuyển trên đất liền từ kinh đô đến Lạng Sơn tại biên giới phía bắc hay xuống Thanh Hóa nơi bờ biển. Các nguồn tài liệu Trung Hoa sử dụng mọi công cụ thuật truyên khả hữu để nhấn mạnh rằng lănh địa nhà Trần không ǵ khác hơn là một “góc biển” nhỏ xíu với các sự giao thông đường sông dầy đặc mang lại cho các nhà lănh đạo sự tiếp cận dễ dàng với các khu vực xa xôi hơn. Mọi nguồn tài liệu được tô điểm bởi các sự đề cập đến các con sông. Các con sông là quang cảnh của các cuộc thao diễn hải quân, chiến tranh, lụt lội, các con đê, các kinh đào, sự chuyển vận thương mại, thả bè, các ngôi chợ và tṛ giải trí được tổ chức trên các chiếc cầu, các sự lẩn trốn của các ông hoàng và các cuộc vượt thoát, các truyền thuyết, và thi ca về phong cảnh. Năm 1241, Thái Tôn (mất năm 1277) đă táo tợn vượt qua biên giới Quảng Đông bằng một chiếc thuyền đi sông. Tất nhiên, các đồ phụ tùng của một chiếc thuyền có thể biểu thị thứ bậc hoàng triều.
Tôi sẽ tiến tới việc giới thiệu điều mà tôi nh́n như một khia cạnh thiết yếu của khung cảnh, và “các tiếng nói” giờ đây nhận được sự chú ư của tôi. Chuyện kể về thời nhà Trần phải cứu xét đến ảnh hưởng của dhyana, hay thiền trong Phật Giáo, trên tâm thức của các vị hoàng đế. Những kẻ cai trị cho đến năm 1357, chưa đầy nửa thế kỷ trước khi triều đại sụp đổ, đă để lại một bộ phận văn chương Phật Giáo đáng kể, và chúng ta học hỏi được từ nó răng họ đă tạo ra một đức tính về việc tránh có thiên kiến hay thiên vị, việc ḥa giải các quan điểm dị biệt, và việc dung chấp các phương cách hành đạo đơn giản (upaya) của đa số thần dân của họ. Nhưng họ không lăng quên các nhiệm vụ chính thức của ḿnh. Thái Tôn tuyên bố rằng ông phải siêng năng làm việc nhưng t́m cách dùng sự nhàn hạ vào việc nghiên cứu không ǵ khác hơn Kinh Kim Cương (Diamond Sutra), một tài liệu chính cho các sự giảng dạy căn bản của thiền phái về sự trống rỗng, nhận thức của con người về bản chất Đức Phật như một khoảng trống không, tính thực hành của sự giác ngộ tức thời, và tính tương đối của mọi hiện tượng. Những kẻ hấp thụ được các lời giảng dạy này có thể bất chấp các sự khác biệt và đặc biệt sự khác biệt của quá khứ, hiện tại và tương lai. Thánh Tôn, trong một bài thơ về bản chất đức Phật, viết: “không có quá khứ hay tương lai, mất mát hay dành đoạt được”. Quá khứ chỉ quan trọng khi xét theo hiện tại. “Lúc này” là khi các tia chớp của sự giác ngộ tinh thần khả dĩ vươn đạt tới được và nghiệp quả xấu tránh thoát được. Cái nh́n thanh thản này sẽ phù hợp với phương thức quản trị thoải mái và hướng vào hiện tại, và người ta sẽ kỳ vọng các kẻ làm chủ được các kỹ thuật thiền định để sở đắc các kho dự trữ bao la ḷng tin tưởng nơi khả năng của họ để đối đầu với mọi t́nh huống.
Khung cảnh đă được dựng xong, một câu chuyện theo nhịp bước nhanh sẽ khởi sự. Triều đại mới mau chóng tự thiết lập. Năm 1299 kẻ nổi loạn cuối cùng từ thời nhà Lư chuẩn bị đầu hàng, và người viết sử nhận định rằng “đất nước đă thống nhất”. Năm 1237 chú của vua Thái Tôn, nghĩ đến tương lai nhưng chỉ nhằm bảo đảm cho sự thừa kế đế triều, v́ thế đă nói với người cháu trai của ông: “cần liều ḿnh để kết hôn [với người vợ của anh cháu] hầu có được sự tin tưởng trong tương lai”. Thái Tôn miễn cưỡng đồng ư, và sự thù hận gia tộc chua chát được giải quyết trong năm 1258 khi đứa con của sự sắp xếp này lấy con gái của người anh bị xúc phạm. Các nhà vua trị v́ giờ đầy xem ra thụ hưởng một chế độ tự chuyên (autocracy) không bao giờ thất bại, và người viết sử, luôn luôn quan tâm đến câu chuyện của các ông hoàng, ngừng lại để b́nh luận về bữa tiệc gia tộc được vua Thánh Tôn ban yến vào năm 1268: “Chính nhờ thế, vào lúc này các hoàng thân đă hoàn toàn yên ổn, ḥa hợp lẫn nhau, và kính trọng nhà lănh đạo”. Trong một đoạn văn khác của sự trần thuật trù liệu sau một mục về việc điền khuyết các chức vụ c̣n trống năm 1246, người viết sử ngừng lại để ghi nhận rằng “vào lúc này, xứ sở không gặp khó khăn nào. Dân chúng th́ hài ḷng và các quan chức đă nắm giữ các chức vụ của họ trong một thời gian lâu dài. Các chức vụ cao cấp nhất tại Triều Đ́nh đều nằm trong tay các thành viên khôn ngoan và học thức của gia tộc cầm quyền”.
Nhưng trong năm 1257 quân Mông Cổ xâm lăng lần thứ nhất và bị đánh bại sau một cuộc giao tranh trên sông. Tiếp theo dó cho đến năm 1288, khi, tại sông Bạch Đằng, người Việt Nam đă chiến thắng lần thứ ba, câu chuyện sẽ tràn ngập các chi tiết hào hứng. Bởi v́ các cuộc chiến thắng của Việt Nam th́ nổi tiếng, tôi sẽ cẩn thận để tŕnh bày rằng đă có những lúc suưt nguy khốn, gần như là các tai họa, và c̣n có cả các trường hợp phản bội. Tuy nhiên, quan trọng hơn bất kỳ điều ǵ khác, tôi sẽ trù liệu để cho phép “các tiếng nói” sẽ được nghe thấy đều đặn hầu cung cấp, một cách tương tự, sự b́nh luận tiếp diễn của chúng, được sắp xếp theo niên lịch, về những ǵ đang xảy ra. Bằng cách này, tôi hy vọng sẽ phát triển chủ đề mà tôi tin rằng quan yếu cho việc hiểu biết thế kỷ thứ mười ba cũng như màn kịch của lịch sử triều đại nhà Trần. Chủ đề là làm hưng phấn sự tin tưởng khi đối diện trước sự hiểm nguy. Người dân Việt Nam sẽ tiến tới việc tin tưởng rằng các nhà lănh đạo của họ sở đắc các phương sách để thành công trong mọi trường hợp.
Ngoại giao sắc sảo là một phương sách. “Chính do Ư Muốn của Ông Trời mà xứ sở chúng ta một lần nữa phải sản sinh ra được sự thông thái giống như nhà hiền triết, sử quan của Triều đ́nh, ông Lê Văn Hưu, kêu lên, trong năm 1272 khi ông ta ghi chép phương thức mà Đinh Tiên Hoàng trong năm 968 tự xưng là “hoàng đế”, một tước hiệu trước tiên được mang bởi Triệu Đà trong thế kỷ thứ nh́ trước Công Nguyên. Tước hiệu là một ẩn dụ cho sự độc lập của Việt Nam tách khỏi Trung Hoa, một đế quốc khác. Các nhà lănh đạo cũng tin tưởng rằng một Triều Đ́nh “theo triều đại” sẽ giúp vào việc cung cấp sức mạnh mà họ liên kết với Trung Hoa. Dưới thời nhà Trần, chính quyền tốt có nghĩa không ǵ khác hơn chính quyền mạnh” Nhưng Triệu Đà và các nhà lănh đạo Việt Nam trong thế kỷ thứ mười và sau đó cũng bảo vệ nền độc lập của họ bằng việc gửi một cách thận trọng và nhiều lần việc các phái bộ triều cống nhún nhường sang Trung Hoa hầu ngăn chặn trước việc phái sang các sứ giả Trung Hoa hay tọc mạch. Không may, Kubilai Khan, một người Mông Cổ, th́ lập dị và đ̣i hỏi rằng “các chư hầu” của ông ta phải sang Trung Hoa để đích thân bái kiến, và gia tộc họ Trần phải chiến đấu để duy tŕ phiên bản của chính nó về mối quan hệ triều cống. Sau năm 1988 mối quan hệ được tái lập như nguyên, không thay đổi.
Nền ngoại giao của nhà Trần sau hết đă thắng thế, nhưng các sự thành công trong thời chiến dưới sự lănh đạo của các hoàng thân nhà Trần, hơn bất kỳ điều ǵ khác, sẽ khiến người dân Việt Nam tin rằng họ không thể bị xâm phạm. Một thày bói, sau này được bổ nhiệm vào toán cận thần tùy tùng của đế triều, đă tiên đoán đúng về sự thất trận của quân Mông Cổ khi chúng đến xâm lăng lần thứ nh́ và thứ ba trong thập niên 1280. Nhưng không một ai lại có điều kiện tốt hơn để tin tưởng nơi các bài học kinh nghiệm cho bằng Trần Quốc Tuấn, vị tư lệnh và con trai của ông hoàng bị sỉ nhục có vợ bị Thái Tôn cướp mất trong năm 1237. Khi mất đi vào năm 1300, Quốc Tuấn nh́n lại thành quả tái diễn và kéo dài của cuộc kháng chiến của Việt Nam trước Trung Hoa hầu bắt buộc các nhà lănh đạo, các phụ tá cao cấp của họ, và “người dân bé nhỏ” [phải biết là] cần đến việc hợp tác với nhau. Ông ta đoan chắc với họ rằng các chiến thuật du kích sẽ đền bù cho sự khiếm khuyết về nhân số vượt trội. Ngay trong năm 1286, vào lúc khởi đầu cuộc xâm lăng thứ ba, ông đă tự tin đến nỗi ông hứa hẹn rằng “chắc chắn” ông sẽ chiến thắng.
Muốn có thêm bằng cớ về sự tin tưởng của Việt Nam nơi kinh nghiệm của họ, tôi sẽ ám chỉ đến sự biên soạn của Lư Tế Xuyên vào năm 1329 các câu chuyện về các vị thần linh giám hộ cho xứ sở, quyển Việt Điện U Linh Tập, được thảo luận nới chương thứ ba trong cuộc nghiên cứu của tôi. 3 Nhiều vị thần đă được vinh danh về sự trợ giúp của họ để chống lại các cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ, và các công trạng cụ thể của hai vị thần đă được ghi chép lại. Các cốt truyện của các câu chuyện th́ đơn giản và thường được cấu trúc một cách đồng nhất: các mối quan hệ nhất định thành công giữa các nhà lănh đạo Việt Nam thường là các vị trong thế kỷ thứ mười một, với các thần linh địa phương, nhưng chỉ khi nào nhà lănh đạo nhận biết một cách tỉnh táo sự hiện diện của một vị thần, trắc nghiệm vị thần đó nếu cần, chỉ định vị thần đó vào một chức vụ có trách nhiệm quân sự, và tưởng thưởng về các sự đóng góp của vị thần đó vào sự chiến thắng. Vị thần, luôn luôn chào kính nhà lănh đạo, giờ đây gia nhập vào nhóm cận thần tùy tùng. Khi thủ tục này được tuân theo, chiến thắng “chắn chắn” sẽ đến. “Diện mạo” Việt Nam trong các câu chuyện là diện mạo của một miền đất được bảo vệ bởi siêu nhiên với phong cảnh đẹp đẽ. Phong thủy cũng vậy, là một nguồn gốc cho sự tin tưởng trong các thời nguy hiểm. Theo các nhà thơ Việt Nam, kinh nghiệm cho thấy rằng các núi non cưỡi ngang biên giới phía bắc của họ, bị xem bởi người Trung Hoa là một khu vực hoang dại và không lành mạnh, đă cung cấp một bức b́nh phong bảo vệ từ thời thượng cổ.
Sự tin tưởng vào tương lai mà người chú của vua Thái Tôn nhấn mạnh trong năm 1237 xem ra được chứng minh trong suốt thế kỷ thứ mười ba. Sự thừa kế đế triều được đảm bảo. Các người con trai cả của hoàng đế được huấn luyện và giáo dục kỹ lưỡng bởi các bà mẹ trong gia tộc họ Trần nhất định trở nên các nhà cai tri thích hợp. Các hoàng thân lớn tuổi, hết thế hệ này đến thế hệ khác, đều nhất mực được bổ nhiệm và tự nổi bật trong những chức vụ cao cấp nhất. Các sứ bộ triều cống được phái đi một cách thường lệ, các điềm triệu, chiến tranh du kích, các trận đánh trên sông, các vị thần linh giám hộ, và phong thủy – nguồn tài liệu nhấn mạnh như thế, đă nhiều lần bảo vệ xứ sở. Đến giờ tôi sẽ nhớ lại một “tiếng nói” được thảo luận trong chương thứ tư của tôi và dưới h́nh thức một văn bia ai điếu và cảm động năm 1291 để vinh danh một vị công chúa nhà Trần từ trần, Trần Phụng Dương, vợ của Trần Quang Khải. Quang Khải là con của vua Thái Tôn và là đại thần chính yếu trong suốt thời có các cuộc xâm lăng thứ hai và thứ ba. Các người đàn bà can đảm và trung thành là một phần trong câu chuyện của nhà Trần. Bia kư xem ra minh chứng các chủ đề hay tái diễn trong thế kỷ thứ mười ba một cách quả quyết đến nỗi nó có thể đại diện cho “toàn thể văn bản” của thế kỷ thứ mười ba trong ư nghĩa rằng các chủ đề đựoc nối kết với nhau xuyên qua gia tộc họ Trần. 4 Bia kư bao hàm các đặc tính nổi bật của gia tộc: hôn nhân trong họ liên tục, chính quyền của các ông hoàng, Phật Giáo theo thiền phái, sự sử dung cố hữu các ẩn dụ rút ra từ Trung Hoa để cung cấp các h́nh ảnh về chính họ (bởi thiếu mất sự ao ước và cung cách dịu dàng của sự trách mắng, công chúa được so sánh một cách uyển chuyển với một “vị trưởng lăo” Khổng học, anh hùng tính thời chiến (công chúa lấy thân ḿnh chùm lên trên người chồng để bảo vệ ông ta khi họ vượt trốn bằng đường sông). Người phụ nữ táo bạo này tượng trưng cho khả năng của gia tộc ḿnh để đối phó một cách đầy tin tưởng với các t́nh trạng khẩn cấp. Bia kư ca ngợi sự thích ứng của bà bằng cách liệt kê không ít hơn mười lăm vai tṛ, được nêu rơ chi tiết, trong đó bà giỏi trội bật lên. Đặc biệt, bà gánh vác các vấn đề gia đ́nh nặng nề phát sinh từ cuộc kết hôn của bà với một ông hoàng thời chiến bận rộn sao lăng bà và gia đ́nh của ông. Chồng của bà là một nhà hành chính, ngoại giao, tướng lĩnh, và nhà thơ. Các ông hoàng khác cũng đa tài tương tự. Sự vụ nhà nước không lệ thuộc hoàn toàn vào các vị hoàng đế. Gia tộc nhà Trần năng động và tài ba cung cấp một kho dự trữ ḷng dũng cảm cho mọi t́nh huống. Tai họa được tránh khỏi nhờ gia tộc luôn luôn t́m cách cố kết với nhau.
Chủ đề chính trong câu chuyện của tôi đến nay rằng người Việt Nam, bất kể những ǵ xẩy ra, có lư do để ngày càng tin tưởng hơn. Các vấn đề nội bộ của xứ sở không phải là không điều hành được, xứ sở rơ ràng không thể bị khuất phục khi bị tấn công từ bên ngoài, gia tộc có khả năng cấu kết với nhau một cách hữu hiệu, và không có lư do để giả định rằng t́nh h́nh sẽ thay đổi một cách bất lợi. Ngược lại, mọi điều trong kinh nghiệm Việt Nam sẽ xem ra đều có thể tiên đoán được. Sự tái lập các phái bộ triều cống sang Bắc Kinh chắc chắn sẽ thuyết phục Triều Đ́nh nhà Trần rằng quân Mông Cổ không c̣n đáng sợ nữa. Các hoàng đế Nhân Tôn (mất năm 1308), người đă truyền giảng đạo Phật tại vùng nông thôn, Anh Tôn (mất năm 1320) và Minh Tôn (mất năm 1357) thực hành thiền định. Các nhà thơ, sử dụng các h́nh thức văn chương Trung Hoa, vui sống tại “vùng đất của các con sông” của họ, và sử dụng ngôn ngữ mà các thi sĩ Trung Hoa nổi tiếng thời nhà Đường đă dùng để tán dương phong cảnh của họ. “Các ḍng sông uốn khúc”, Nguyễn Sương [?] viết, “và lăo tướng quân [Trần Quốc Tuấn] thảo luận về quang cảnh trận chiến”. Các niên sử tŕnh bày vua Minh Tôn như một nhà lănh đạo tráng kiện đă tuyển chọn và điều khiển các quan chức của ông với “sự sáng suốt”. Cũng thế, người viết sử giờ đây ghi chép các thời trị v́ của Anh Tôn và Minh Tôn, phơi bày cốt truyện của ḿnh, cho tha6ư đâu là phương cách một chính quyền tốt được điều hành (và những ǵ ngăn cản nó) như đă xảy ra trong các thập kỷ đầu tiên của thế kỷ thứ mười bốn, khi các người có học được bổ nhiệm vào nhóm tùy tùng cận thần nhà vua. Sự bắt mạch kê toa của người viết sử là một sự hồi tưởng đến sự tŕnh bày của Việt Điện U Linh Tập về mối quan hệ giữa một nhà lănh đạo tốt với các thần linh; trong cả hai trường hợp nhà lănh đạo phải đưa ra đề xuất và các kết quả đều có lợi. Toa thuốc của nhà viết sử, giống như mệnh đề của các chuyện kể, được cấu trúc như một sự phát biểu lập lại nhiều lần và có thể nhận biết về mặt cú pháp: nhà lănh đạo bổ nhiệm làm quan chức các nhân vật cao quư hoạt động hữu hiệu, có được tiếng tốt và hưởng dụng các sự gia ơn của ḿnh. 5 Sử quan hiển nhiên đang biểu thị cho một cận thần; nhà lănh đạo đích thân “bổ nhiệm” và tưởng thưởng nhân viên của ông.
Một chi tiết khác trong các niên sử làm liên tưởng đến sự ổn định trong nửa đầu thế kỷ thứ mười bốn. Trong một sự ngắt khúc trù định nơi đoạn thuộc niên đại 1323, người viết sử tuyên bố rằng, vào lúc này, mười ba nhân vật đáng ngưỡng mộ kế tiếp nhau phục vu các nhà lănh đạo. Các nhân vật này, và hiếm khi có các thái giám, tượng trưng cho (chức năng) hành khiển [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] trong thế kỷ thứ mười bốn. Một số c̣n tích cực cho măi đến thập niên 1360. Chính quyền phải ở trong tay các người tốt ngay dù tất cả các nhân vật đáng kính này không hẳn được biết đến như các người đậu qua các kỳ khảo hạch.
Nhưng đây không phải là toàn thể câu chuyện. Chuyện kể của tôi sẽ bắt đầu phác thảo các quan chức già lăo tiếp tục du hành v́ các công việc khẩn cấp và viết các bài thơ vinh danh các thành quả chuyên nghiệp của nhau, có thể so sánh các đồng sự của họ với các quan chức nổi tiếng Trung Hoa. Một số được đề cập tới trong danh sách của người viết sử ghi dưới niên đại năm 1323. Và, khi thế kỷ tiếp diễn, các bài thơ mô tả sự khổ sở tại vùng thôn quê. Các nhà thơ giờ đây có thể huưt sáo để giữ vững các thần linh của ḿnh khi chúng không c̣n chào đón núi non của họ như một bức b́nh phong bảo vệ, mà lại như nơi trú ngụ của các kẻ bất tử như thể, bất kể các khó khăn tạm thời, họ vẫn hy vọng rằng xứ sở của họ sẽ tồn tại. Tôi cũng sẽ bắt đầu cứu xét các đoạn ghi chép đáng kinh sợ trong các niên sử. Năm 1328, vua Minh Tôn, lo lắng về việc cử nhiệm kẻ thừa kế càng sớm càng tốt, đă hành quyết người cha vợ trong họ Trần khuyến cáo nhà vua hăy từ tốn. Đây là hành vi duy nhất mà nhà viết sử đem ra chỉ trích nhà vua. Và, như điềm xấu nhiều hơn thế, niên sử từ năm 1343 trở đi liên tiếp đề cập đến các cuộc nổi dậy ở vùng thôn quê, đôi khi là các cuộc nổi dậy kéo dài, và các thân thuộc của các ông hoàng và các nhà sư được nói có mặt trong số các kẻ nổi loạn. Trong năm 1389, một nhà sư lập lên một đội quân các kẻ lang thang, đặt tước hiệu, bổ nhiệm hành khiển, và chiếm đóng kinh đô trong ba ngày. Các cuộc nổi dậy tiếp tục cho đến cuối thế kỷ. Các tin thức về chúng th́ sơ sài nhưng đủ để đẩy động thái của làng xă vào một h́nh trạng nổi bật rơ nét hơn và làm liên tưởng đến các đuờng nét mà Triều Đ́nh và các văn hóa cấp dưới ở làng xă cùng có chung. Các lănh tụ địa phương tập hợp các môn đồ, thu hút tùy tùng, và tự xưng với đẳng cấp đế triều và các biểu tượng của Triều đ́nh. Nguyên thủy, gia tộc nhà Trần cũng làm như thế. Các kẻ nổi dậy cũng khai thác các nguồn quyên lực siêu nhiên.
Trung Hoa nhà Mông Nguyên giờ đây đang suy sụp, nhưng t́nh trạng xem ra cũng như thế tại Việt Nam. Những ǵ đă xảy ra một cách quá đột ngột như thế? Tôi sẽ tạm ngừung câu chuyện kể của ḿnh.
Có thể vua Minh Tôn, sinh năm 1300, đang trở nên già lăo. Ông và cha của ông đă lần lượt mất đi khi họ ở tuổi năm mươi và bốn mươi bốn tuổi. Các bài thơ của ông tiết lộ rằng ông bị ám ảnh bởi tội ác của ḿnh vào năm 1328. Khác với các người tiền nhiệm, ông không hề được trợ giúp bởi một người thừa kế có nặng lực. Người thừa kế đầu tiên của ông bị chết sớm, và kẻ thừa kế tiếp theo th́ ham chơi và bất lực về sinh lư. Các hoàng thân lớn tuổi không c̣n là các nhân vật có khả năng nữa. Các bài thơ của ông xác định một cách rơ ràng ông theo phái thiền định. Niên sử mô tả ông th́ nóng tính và tự cao tự đại. Vua Minh Tôn có thể là “nhân vật trơ nhẵn” (round character) duy nhất của câu chuyện, kẻ như E. M. Forster đă định nghĩa, “dầy như một đĩa hát”.
Có lẽ cá tính của vua Minh Tôn giúp vào việc giải thích những ǵ đang xảy ra tại vùng thôn quê, nhưng đối với tôi, đây chỉ là một vấn đề của trường hợp ngẫu nhiên. Câu chuyện kể của tôi, với các thiên kiến của nó đối với các đặc tính bám sâu trong lịch sử nhà Trần, kéo tôi đi theo một hướng khác. Cảnh ngộ của hai khía cạnh trong hệ thống chính quyền gia tộc nhà Trần giờ đây đang tạo ra các vấn đề nghiêm trọng. Trước tiên là quan điểm về tôn giáo của vua Minh Tôn, cách biệt với các sự việc biểu hiện chẳng hạn như sự bất ổn ở nông thôn. Nhà viết sử cho chúng ta hay rằng các thành viên trong nhóm cận thần của ông phàn nàn rằng dân chúng bỏ hoang các làng xă của họ một cách trái phép và rằng các quan chức đă không làm đúng bổn phận của họ. “Tại sao lại lo ngại?” là thực chất của sự đáp ứng của ông, một thoáng nh́n sống động về sự quản trị sự vụ lỏng lẻo của gia tộc nhà Trần.
Nhưng tôi tin rằng một khía cạnh khác của hệ thống nhà Trần đă làm trầm trọng t́nh h́nh một cách vô hạn. Niên sử ám chỉ rằng vua Minh Tôn và gia tộc của ông th́ “quảng đại” đối với các thân nhân của ḿnh và khoan dung khi họ phạm lỗi. Các đường nét này có thể khiến họ trở nên phóng túng thái quá trong việc cho phép các thân nhân của họ chiếm đoạt đất đai Nhà Nước và trong việc dung thứ các sự xâm chiếm tham lam đất ruộng của dân làng. 6 Thói quen của các nhà lănh đạo trong việc cúng dường các ngôi chùa và ban cấp tặng phẩm bằng đất đai cho các thành viên được ân sủng thuộc giới cận thần của họ sẽ tạo ra áp lực kinh tế phụ trội lên vùng nông thôn. Hơn nữa, tác phong của các ông hoàng nhà Trần nhất thiết đă đặt ra các gương xấu cho các quan chức tham lam. Trong niên đại năm 1377, niên sử ca ngợi ngự sử Trương Đỗ bởi v́ ông “lương thiện” và không có “một sản nghiệp”. Ngược lại, Hồ Tôn Xac [Thốc?] vào cuối thế kỷ, bị tố cáo làm hại dân chúng, đă đáp lại: “ngay khi một đứa con trai nhận được một ân sủng của triều đ́nh, cả ḍng tộc hưởng dụng lương bổng của anh ta”.
Tôi sẽ phải đặt câu hỏi tại sao các vị hoàng đế lại cho phép thái độ vô trách nhiệm như thế. Có thể sự thực hành các cuộc hôn phối trong họ làm phát sinh điều mà niên sử ghi chép gần như một cảm giác ám ảnh là việc tách rời ra khỏi phần c̣n lại của dân chúng, và điều này có thể khiến họ vô cảm với những ǵ đang xảy ra bên ngoài ṿng giao tiếp chật hẹp của họ. Cũng vây, có lẽ họ xem không có ǵ cần thiết hơn việc duy tŕ ḷng trung thành và sự ủng hộ của thân nhân của họ. Các tướng lĩnh và các nhà hành chính nổi tiếng của thế kỷ trước hoặc là các ông hoàng hay thành viên trong các gia đ́nh ông hoàng. Nhưng sự vâng lời của gia tộc không thể được xem là chuyện đương nhiên. Câu chuyện thế kỷ thứ mười ba sẽ cung cấp các thí dụ về các cuộc căi cọ, thù hận và phản bội.
Tôi sẽ không giả vờ là toàn năng để cho phép ḿnh duy tŕ luồng chuyện kể, nhưng tôi sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc trù liệu để minh chứng tầm mức đích thực của biến động đă phải trải qua vào giữa thế kỷ thứ mười bốn. Để làm được điều này, tôi sẽ tŕnh bày một sự tương phản quyết liệt giữa Việt Nam không thay đổi, có thể tiên đoán và quản trị được trong thế kỷ thứ mười ba và các lốc xoáy tiếp đó. Đích thực sự tương phản đă trấn áp một cách hiển nhiên các nhân vật điều hành công việc hay ưu tư và luôn luôn trung thành thường là các quan chức – từ giữa thế kỷ trở đi. Họ sẽ bị kinh hoàng bởi sự khác biệt giữa thế giới anh hùng, tuân phục và rơ ràng có thể tiên liệu được của thế kỷ trước với sự bất măn lan tràn và chưa từng thấy trong thời đại của chính họ. Kịch tính trong lich sử nhà Trần là ảnh hưởng mà sự đối chọi giữa sự ổn định và biến động xă hội đă có trên các người này. Họ đă đau khổ đến nỗi họ cảm thấy bị bắt buộc phải viết lại, duyệt xét lại, và ngay cả việc lật đổ những ǵ kinh nghiệm Việt Nam cho đến nay được xem là chuyện đương nhiên, và những ǵ họ đă viết lại chà đạp lên điều không ǵ khác hơn là cốt lơi của kinh nghiệm Việt Nam truyền thống: các khái niệm liên quan đến thời gian và nền an ninh. Họ đă kín đáo đề nghị các phương cách mới cho sự sống c̣n của triều đại, mặc dù họ sẽ không bao giờ dám nâng cao vị thế và vai tṛ riêng của họ trong đời sống công. Họ đă phải viết bởi v́ họ lớn lên trong một truyền thống văn hóa đặt một giá trị cao trên chữ nghĩa viết bằng ngôn ngữ Trung Hoa cổ điển và, tôi ngờ vực, ngay cả việc cứu xét đến một vài điều ǵ đó chỉ có sức mạnh khi nó được viết ra. 7
Một thế kỷ chiến tranh thắng lợi v́ thế được theo sau bởi một thế kỷ khi kinh nghiệm Việt Nam phải được tŕnh bày lại. Các giả định lạc quan nhường chỗ cho sự môi ưu tư lo sợ, và câu chuyện kể của tôi sẽ phải cung cấp các dấu hiệu của sự tương phản trong h́nh thức các tiếng nói của thế kỷ thứ mười bốn như sự b́nh luận của họ trên các sự phát triển quan trọng.
Thời gian giờ này được quan niệm một cách khác. Bởi v́ có sự dửng dưng đối với quá khứ, Việt Nam sau cùng được gán ghép với một xứ thượng cổ, thời hoàng kim của Văn Lang khi “các phong tục c̣n thuần khiết”. Lư do cho sự giả tưởng v́ rằng Văn Lang, nguyên thủy một địa danh khó hiểu trong hai tài liệu Hán ngữ ban đầu về miền tây bắc Việt Nam, được nắm chặt như một ẩn dụ hoài niệm cho điều được giả định là một xă hội Việt Nam có thể thống từ ngàn xưa. Kỷ luật xă hội từ giờ trở đi là mối quan tâm quan trọng của chính quyền. Sự tham chiếu được biết đến đầu tiên về Văn Lang, một cách thích hợp, là trong một bài thơ của Phạm Sư Mạnh, người được đề cập trong danh sách các nhân vật tuyệt hảo năm 1323, được viết khi ông đang tuần cảnh vùng tây bắc hồi giữa thế kỷ. Ẩn dụ, bởi nó đă được viết xuống, có thể trở thành một sự kiện lịch sử, như xảy ra vào khoảng cuối thế kỷ. Sử gia thế kỷ thứ mười ba, ông Lê Văn Hưu, đă cần đến Triệu Đà, vị “hoàng đê’ đầu tiên, như một ẩn dụ cho nền độc lập của Việt Nam trong sự thách thức với cơn tức giận của Kubilai Khan, nhưng Văn Lang đă trở nên đủ quan trọng tự bản thân để chứng minh cho các nỗ lực của các nhà khảo cổ học hồi thập niên 1960 nhằm thu hồi các chế tác phẩm của nó. Ngày nay Văn Lang là một ẩn dụ cho sự khai sinh của quốc gia.
Các điều kiện thay đổi đă khiến cho ư niệm về sự không thay đổi trở nên vô nghĩa. Việt Nam giờ đây đ̣i hỏi một quá khứ như một sự phê phán của hiện tại và để định nghĩa các mục đích của nó cho tương lai. Lê Quát, bạn của ông Mạnh, chỉ trích các Phật tử thuộc mọi tầng lớp xă hội bởi v́, “khi họ giao tặng một điều ǵ đó cho một ngôi đền hay chùa, họ cảm thấy sung sướng như thể sự tưởng thưởng của họ được bảo đảm trong tương lai”. 8 “Được bảo đảm” thuộc vào lănh vực tín hiệu của thế kỷ thứ mười ba bởi tượng trưng cho tính khả dĩ tiên đoán được: “Ư Trời”, “sự chắc chắn”, các hàng rào thiên nhiên”, các cấu trúc văn chương được lập đi lập lại. Ông Quát không c̣n có thể chia sẻ thái độ tin tưởng này lâu hơn nữa.
Vả lại, thời gian có thể được tổ chức một cách khác biệt khi ư niệm về trực hệ (hay trực tuyến: linearity), được ám chỉ bởi thời thượng cổ mới được t́m thấy của Việt Nam, được thiết lập.. 9 Người Việt Nam trí thức giờ đây ngày càng trở nên tin tưởng rằng sự phân chia thời gian của Trung Hoa thành các chu kỳ triều đại tương ứng với kinh nghiệm chính họ khi triều đại nhà Lỳ đang cơn suy sụp. Trong thế kỷ thứ mười ba, Lê Văn Hưu, b́nh luận trong niên kư năm 1005 về nhà lănh đạo sau cùng kém cỏi của gia tộc họ Lư trước đó, th́ giống như tín điều của Trung Hoa về “sự lên xuống” của các triều đại, nhưng lư do th́ đơn giản rằng ông ta đang biên soạn một sử kư thích hợp cho một Triều Đ́nh đế triều và do đó trong thể cách của sử gia nhà Tống Tư mă Quang (Si-Ma Guang) (mất năm 1086) và bị bắt buộc phải thừa nhận quy ước viết sử của Trung Hoa về chu kỳ triều đại. Không giống như thế, Trần Nguyên Đán (mất năm 1390), một hậu duệ của Trần Quang Khải và công chúa anh hùng Phụng Dương, khi ông thách đố các đồng sự khinh xuất của ông bằng cách nhắc nhở họ rằng “sự lên xuống (của các triều đại) xuyên qua thời gian cung cấp một cách chắc chắn các thí dụ cảnh cáo (về các triều đại bị đe dọa bơi sự sụp đổ)”. Mặc dù thành ngữ “sxuyên qua thời gian” (throughout time” có thể là một cách nói hoa mỹ, ông đang đề cập đến một tiết điệu triều đại thuộc về kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa chứ không phải của Việt Nam.
Chính v́ thế, khi thời gian nằm trong một trạng thái lên xuống và kinh nghiệm Việt Nam không c̣n là một chỉ dẫn khả tín, người ta bị bắt buộc phải suy xét về cách sử dụng thời gian tốt nhất. Các quyết định chưa từng thấy giờ đây trở nên khả thi. Trong năm 1377 hoàng đế Duệ Tôn chết đi trong chiến trận khi cố gắng trừng phạt người Chàm bên ngoài biên giới phía nam của Việt Nam v́ các cuộc đột kích tàn phá của họ đe dọa ngay đến kinh đô Việt Nam và khi Triều Đ́nh phải bỏ chạy để được an toàn. Tín điều triều đại cho đến giờ chủ trương rằng các chiến dịch thắng lợi chống lại các kẻ thù ngoại lai tăng cường cho thẩm quyền trong nước. Trong thực tế, sự tin tưởng trong thế kỷ thứ mười ba, tùy thuộc lần lớn vào sự thành công về quân sự. Mặc dù không cương quyết khi đối diện với các vấn đề nội bộ, vua Minh Tôn đă tức thời trong năm 1329 và 1335 chỉ huy quân đội chống lại các kẻ xâm lăng từ phía tây bắc. Nhưng thời đại nay đă thay đổi và các giá trị truyền thống đă bị bỏ rơi. Sự tự tin đà xuống thấp đến độ ngay trước khi mở chiến dịch đánh Chàm, bà vợ của vua Duệ Tôn và các quan chức của ông dám thúc dục ông đảo ngược các ưu tiên của ông và thôi không đi giao chiến cho đến khi ông văn hồi được trật tự trong nước. Một bài khảo luận bác bỏ chiến tranh đă được viết về thời gian này. Một ít năm sau đó, Trần Nguyên Đán khuyến cáo một sự phủ nhận khác thường kinh nghiệm quá khứ khi ông cố vấn vua Nghệ Tôn (mất năm 1394) “kính trọng vua nhà Minh như một người cha và yêu vua Chàm như một người em”. Các tổ tiên của ông Đán sẽ lấy làm thất kinh. Các hoàng đế Trung Hoa và Việt Nam có tư thế ngang nhau.
Một thí dụ văn chương về việc viết lại quá khứ dưới sức ép của các t́nh huống thay đổi được cung cấp bởi một phiên bản cập nhật của quyển Việt Điện U Linh Tập trong đó các thần linh anh hùng giờ đây cũng được vinh danh về việc kiểm soát các ảnh hưởng ma quỷ tại các ngôi làng. 10 Năm 1379 một kẻ nổi loạn gần kinh đô, sử dụng các ma thuật, tự xưng làm “vua”. Bản văn tu chỉnh là một sự đáp ứng nhiều hơn trước điều được nhận thức là một nhu cầu khẩn thiết để văn hồi trật tự tại vùng nông thôn. Điều có thể khẳng định được, đề xuất đưa ra trong năm 1397 để thiết lập các trường học ở làng xă cho việc giảng dạy các nghĩa vụ gia đ́nh, chủ định chắc chắn là để thuyết phục dân làng không đi lang thang và gia nhập các toán nổi loạn. Lê Quát đă lấy làm xót xa về sự vắng bóng các ngôi trường như thế. Sự biện giải dành được thắng thế rằng kỷ luật đạo đức th́ cần thiết ngoài các chiến dịch trừng trị thường lệ chống lại các kẻ nổi dậy.
Trong ít năm sau cùng trước khi có sự sụp đổ của triều đ́nh vào năm 1400, gia tộc nhà Trần tự dính mắc vào các sự thay đổi mau lẹ góp phần vào việc hủy diệt nó. Khi vua Minh Tôn băng hà vào năm 1357, ông ta, cho đến năm 1394, được kế nhiệm bởi ba người con trai. Chỉ có đứa đầu tiên trong chúng, vua Dụ Tôn bất lực và phóng đăng (bị mất năm 1369), là con của người vợ cả của Minh Tôn, con gái của người chú [hay bác] mà ông ta hạ sát vào năm 1328. Sự thừa kế triều đại giờ đây là một cảnh chém giết. Vua Duệ Tôn chết trong chiến trận và vua Nghệ Tôn kém may mắn và ngày càng tuyệt vọng phá vỡ truyền thống bởi việc từ bỏ chính sách của gia tộc ông dựa vào các người thân thích của gia tộc và thay vào đó, ủy thác chính ông và Triều Đ́nh của ông cho một thân nhân qua hôn phối, Lê Quư Ly. Trong năm 1388 vua già Nghệ Tôn, sinh năm 1321, sau cùng đă giao phó số phận của ḿnh cho ông Ly, giết người cháu trai và thừa kế của ḿnh, và ủy thác đứa con c̣n rất trẻ cho sự bảo vệ của ông Ly. Một sự kính trọng thái quá đối với thẩm quyền triều đại của Nghệ Tôn khiến cho người cháu trai bất hạnh của ông ra lệnh cho các người ủng hộ ḿnh hạ khí giới xuống. Trong năm 1392, đến lượt Lê Quư Ly viết lại quá khứ, trong trường hợp này là truyền thống Trung Hoa, hầu ca ngợi Chu Công (Duke of Chou) lên vị thế hiền triết cao hơn cả Khổng Tử; Chu Công là một kẻ bảo hộ gương mẫu của một nhà lănh đạo c̣n trẻ và h́nh ảnh tự phác hiện thời của Lê Quư Ly. Sự trá ngụy của ông giải thích lư do tại sao, ngay trước khi có sự từ trần của vua Nghệ Tôn vào năm 1394, một vị phụ chánh thế kỷ thứ mười hai cho một nhà lănh đạo trẻ tuổi nhà Lư, ông Tô Hiến Thành, lại được ban cấp các danh dự đặc biệt sau khi chết. Ông Thành đă không được biết đến các chuyện kể về các thần linh anh hùng. Quá khứ lại được viết lại một lần nữa về lần này, cũng vậy, tôi tin tác giả của quyển Việt Sử Lược đă tái duyệt xét một cách chặt chẽ thời trị v́ của nhà lănh đạo cuối cùng của nhà Lư, Huệ Tôn (1210-25), để vinh danh vai tṛ của kẻ bảo vệ cho vị vua già đau yếu đó. Kẻ bảo vệ ngẫu nhiên trở thành người sáng lập ra các sự nghiệp của gia tộc nhà Trần, nhưng điều chắc chắn liên quan là mối quan hệ hôn thú của người bảo vệ với nhà lănh đạo họ Lư và kết cuộc trù định, là sự đăng quang danh dự và ḥa b́nh của thân nhân trẻ tuổi của kẻ bảo vệ lên ngôi cao. Trong cả hai khía cạnh, bản văn chuẩn bị một cách rơ rệt căn bản cho việc hợp pháp hóa sự tiếm ngôi của Lê Quư Ly. 11 Các niên sử mô tả thời trị v́ của vua Lư sau cùng rất khác biệt. Người chú của Thái Tôn cưỡng bách vua Huệ Tôn phải tự thắt cổ và hạ sát gia tộc ông ta.
Bản văn tường thuật thế kỷ thứ mười bốn sẽ kết thúc với cuộc tắm máu trong năm 1400 đă lật đổ gia tộc nhà Trần, hủy diệt triều đại, và mang Lê Quư Ly lên ngôi. Vua Nghệ Tôn gàn dở, vụng về và hèn nhát sẽ được đối chiếu với một Lê Quư Ly cương quyết, xảo quyệt và độc ác. Câu chuyện kể cũng sẽ mô tả sự thành lập nhóm cận thần của Lê Quư Ly. Những người này tượng trưng cho những kẻ không phải “là các thi hành công tác hay ưu tư”, bị trấn áp bởi sự thay đổi. 12
Có được các đường nét này phác thảo tầm mức tương phản giữa thế kỷ thứ mười ba và mười bốn, giờ đây tôi sẽ có thể quay trở lại chủ đề của cốt truyện của tôi: một triều đại vốn đă sẵn tan ră trong ṿng một thế kỷ của cuộc chiến thắng quân sự ngoạn mục.
Tôi sẽ nêu ư kiến rằng câu chuyện của tôi về các thế kỷ thứ mười ba và mườI bốn cho thấy rằng quốc gia nhà Trần bị nứt rạn v́ nó bị đè nặng bởi một triều đại. Thể cách và ‘diện mạo” triều đại của nó có thể xem ra hứa hẹn sự liên tục và ổn định, và một lănh thổ nhỏ bé phải nên tương đối dẽ dàng để quản trị. Nhưng “diện mạo” Trung Hoa của nó và sự ứng dụng quy ước Trung Hoa về một chu kỳ triều đại của người viết niên sử nhà Trần nâng cao các kỳ vọng không thực tế. Chỉ có hai khia cạnh của Việt Nam là có thể bị xem là “có tính chất Trung Hoa” (sinic): Các hoàng đế của nó biết rằng các biên giới được ấn định và không thủng lỗ và rằng họ sẽ bị phán xét bởi khả năng của họ để pḥng vệ chúng, và một số văn nhân trí thức tin tưởng một cách đầy đủ nơi thẩm quyền của chữ được viết ra rằng, khi họ bị đối diện với các sự thay đổi nghiêm trọng, họ cảm thấy bị bó buộc phải viết ra kinh nghiệm mà giờ đây được phát lộ. Nhưng định chế triều đại Việt Nam, trong thực tế, th́ mong manh. Thực chất của chính quyền, hay của điều tôi nh́n như “sắc diện” của Việt Nam – khả năng của nó để giữ được sự b́nh tĩnh – như một điều khác biệt với “diện mạo” của nó, tùy thuộc vào các t́nh huống khác hơn là vào uy tín của định chế triều đại và sự bảo đảm giả định của nó cho sự bền vững và chắc chắn không phải một ư thức hệ lệ thuộc vào các giá trị đạo đức tương liên, xă hội và chính trị cùng các nghĩa vụ. Chương cuối cùng của cuộc nghiên cứu của tôi, nếu nó được tiếp nối, sẽ làm nổi bật các khía cạnh của tác phong bản xứ chẳng hạn như một sự ưa thích các phương cách mau lẹ để giải quyết các vấn đề tức thời hơn là việc hoạch định cho tương lai, nhờ cậy đến sự bảo vệ siêu nhiên, một sự điều hành chính quyền có tính cách cá nhân và không chính thức, sự trợ giúp không thể thiếu được của các chú bác và anh em nhà lănh đạo, một gia tộc cầm quyền xa hoa, một đoàn cận thần tùy tùng vâng lời, các ân sủng của các nhà lănh đạo, các thí dụ về ḷng trung thành của các quan chức, và cả về sự lo âu để đạt được thành tích nhằm đến các sự tưởng thưởng chức nghiệp, và các ám chỉ về hệ thống quan hệ họ hàng song phương chống lại sự cư trú thường trực tại các làng xă và sự vun đắp các nghĩa vụ xă hội kiểu Trung Hoa, một hệ thống quan hệ họ hàng ngược với việc gia tộc họ Trần tự bảo vệ bằng cách kết hôn với các thân nhân của nó. Các quan sát viên Trung Hoa đă mau chóng chấm định và phàn nàn tính chất cốt yếu của t́nh trạng văn hóa: sự vắng mặt của trường học nhằm giáo huấn “các quan hệ xă hội thích nghi và các đức tính công dân”. Trong các t́nh huống này, quốc gia nhà Trần có thể được ước vọng chỉ giữ vững được khi gia tộc cầm quyền thống nhất và có khả năng và có thể vận dụng để tạo ưu thế cho nó điều mà tôi đă mô tả như là động thái bản xứ. Điều này là những ǵ đă xảy ra từ 1226 đến 1357, mặc dù các sự việc đă sẵn đi sai đường trong những năm sau cùng thời vua Minh Tôn.
Từ đó trở đi triều đại đă suy sụp một cách đột nhiên và mau chóng mà không có các dấu hiệu rằng nó có thể hồi phục. Các hoàng đế đa năng, có khả năng ứng biến các sự đáp ứng trước các t́nh trạng khẩn cấp, không c̣n hiện diện trên diễn trường. Các quan chức trung thành có thể khuyến cáo các chính sách, nhưng một guống máy thư lại có tổ chức không được cung ứng để giúp lấp đầy khoảng trống khi các hoàng thân thôi không c̣n có khả năng và thực hiện các sự cải cách để tŕ hoăn sự kết thúc như đă có thể xảy ra tại Trung Hoa hồi nhà Đường sau này và tiếp theo đó. Thay vào đó, thẩm quyền nhà Trần đă tạm thời được chống đỡ bởi một kẻ “bảo vệ” bất trung.
Việt Nam trong các thế kỷ thứ mười ba và mười bốn không bao giờ thụ hưởng sự ổn định tương đối của đế quốc Trung Hoa nhưng, cùng lúc, nó bị cự tuyệt một sự linh động chính trị “Đông Nam Á”, khi các chế độ, đôi khi kéo dài không hơn một thế hệ hay như thế, có thể biến mất trong sự kế nhiệm mau chóng mà không có gây ra sự thống khổ kéo dài mà nhà Trần suy sup đă gây ra cho Việt Nam. Sẽ có các sự thay đổi thường xuyên hơn tại thượng tầng, nhưng đời sống bên dưới sẽ không bị thoái hóa thành một sự căng thẳng giữa các dân làng và những kẻ muốn áp đặt trật tự trên họ. Nếu một người đáp lại rằng định chế triều đại đă bảo vệ Việt Nam trong thế kỷ thứ mười ba, người đó sẽ phải giải thích lư do tại sao trong thế kỷ thứ mười, trước khi nguyên tắc triều đại thế tập được thiết lập, Trung Hoa đă bị chặn cửa và thể thức của hệ thống triều cống xác định và điều hành để duy tŕ “một mối quan hệ tốt với Trung Hoa”, uyển từ của nhà viết niên sử dùng để chỉ hệ thống. Các con người đàn ông và đàn bà, chứ không phải các định chế, là yếu tố quan trọng trong các thế kỷ thứ mười và mười một.
Một tiểu thuyết đă được mô tả như “một bộ máy làm phát sinh các sự giải thích.” 13 Cùng điều đó có thể được nói cho sự tường thuật lịch sử, mặc dù, không được may mắn, độc giả của nó thường không được cao thượng như các kẻ đọc tiểu thuyết. Có lẽ các người viết lịch sử trần thuyết phải nh́n nhận một cách thẳng thắn là có tính cách khiêu khích hơn là quyết đoán. Và như thế, để kết luận chương cuối cùng của ḿnh, tôi sẽ c̣n trích dẫn một nguồn tài liệu khác, công tŕnh của ông Ngô Sĩ Liên, nhà b́nh luận hồi cuối thế kỷ thứ mười lăm về các niên sử nhà Trần, và là một nhà Khổng học sùng tín, kẻ mà tôi thảo luận trong chương áp chót dưới nhan đề “Khó là một quốc gia đế quốc thích đáng: một phán quyết cho Việt Nam thế kỷ thứ mười lăm”. Ông Liên cũng thế, đă viết lại kinh nghiệm thời Trần nhưng để châm biếm nó và xóa bỏ nó như là không có giá trị, mà c̣n cả tính chất nguy hiểm nữa. 14 Ông Liên có thể đồng ư với tôi, và, cũng mỉa mia, với các nguồn tài liệu Trung Hoa mà tôi để cứu xét rằng Việt Nam thời nhà Trần, về mặt triều đại, đă không thể cùng nhau cấu kết. Sự khác biệt giữa chúng tôi là ông mong muốn khai thác đạo đức Khổng học để củng cố định chế triều đại, các chính sách của nó, và các nhân viên của nó, trong khi tôi sẽ thuật lại câu chuyện về các hậu quả bi thảm mà định chế nhất thiết, sớm hay muộn, mang đến theo bước chân của nó./-
_______
CHÚ THÍCH:
1. O. W. Wolters, “Engaging J. D. Legge. Narrating the Fall of the Ly and the Rise of the Trần Dynasties”, Asian Studies Association of Australia Review 10, 2 (1986): 24-25.
2. Chen Fu, Chen gang zhong shi za (Taipei: Si-ku quan-shu chen-pen ba-ji, nọ 159); An-nan zhi-yuan (Hà Nội: L. Aurousseau, biên tập, École Franҫaise d’Extrême-Orient, 1932).
3. Lư Tế Xuyên, Việt Điện U Linh Tập (École Franҫaise d’Extrême-Orient A 47).
4. Tôi bị ảnh hưởng bởi Valentine Cunningham, British Writers of the Thirties (Oxford University Press, 1988), trang 2. Ông đă nói đến “một lănh vực được nối kết, toàn bản văn, hay một chuỗi các tín hiệu khác nhau, bổ túc, ít hay nhiều, cho một dấu hiệu đơn nhất”. Điều này có thể là một công việc không thể đạt được đối với sử gia, nhưng nó phát ra cùng các tín hiêu.
5. O. W. Wolters, “Possibilities for a Reading of the 1293-1357 Period in the Vietnamese Annals”, Vietnam Forum 11 (1988): 97-102.
6. Để nghiên cứu về sự bất ổn ở nông thôn, tôi đă hưởng lợi từ các bài khảo luận trong quyển T́m Hiểu Xă Hội Việt Nam Thời Lư Trần, Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa Học Xă Hội, 1981.
7. Tôi ưa thích “việc viết lại: rewriting” “sự phát minh của truyền thống” của Eric Hobsbawm, theo ông, là những ǵ xảy ra trong thời gian có sự thay đổi xă hội mau lẹ.
8. Các đoạn ghi niên sử dưới niên đại 1370, khi Lê Quát mất đi.
9. Rằng đă có hai trường hợp cải cách niên lịch trong thế kỷ thứ mười bốn có lẽ không có tính ngẫu hợp.
10. O. W. Wolters, Two Essays on Đại Việt in the fourteenth century, Yale: Southeast Asian Studies, The Lạc Việt Series, no. 9, 1988, các trang xx-xxii.
11. Wolters, “Narrating the Fall of the Ly and the Rise of the Tran Dynasties”, các trang 25-27.
12. Trong chương cuối cùng đề nghị của tôi, tôi sẽ cứu xét đến các t́nh trạng khác trong sự thay đổi thuộc thế kỷ thứ mời bốn chẳng hạn như một sử sử dụng rơ ràng được mở rộng của sự viết chữ trên sừng thú vật của Việt Nam và sự tham dự của Việt Nam vào mậu dịch đồ gốm quốc tế.
13. Umberto Eco, Reflections on The Name of the Rose, London: Secker & Warburg Limited, 1985, trang 2.
14. Oliver Wolters, “What Else May Ngô Sĩ Liên Mean? A Matter of Distinctions in the Fifteen Century”, trong quyển Sojourners and Settlers: Histories of Southeast Asia and the Chinese, in Honour of Jennifer Cushman, biên tập bởi Anthony Reid, Sydney: Allen & Unwin for ASAA, 1995.
_____
Nguồn: Oliver W. Wolters, On Telling A Story of Vietnam In The Thirteenth and Fourteenth Centuries, Journal of Southeast Asian Studies, bộ 25, số 1 (Tháng Ba 1995): từ trang 63 đến 74.
Ngô Bắc dịch và phụ chú
01/11/2010
http://www.gio-o.com/NgoBac.html
© gio-o.com 2010