John T. McAlister, Jr.
Princeton University
& Paul Mus
Yale University
NGƯỜI VIỆT NAM VÀ
CUỘC CÁCH MẠNG CỦA HỌ
Ngô Bắc dịch
*****
Lời Tựa
Khi vươn tới đỉnh của cầu thang, tôi có thể nh́n thấy từ xa dưới hành lang mờ tối, bóng h́nh của ông che khuất mặt trời cuối chiều chiếu xuyên qua một cửa sổ gần đó. Ông th́ bất động như thể trong cơn hôn mê. Khi tiến đến gần hơn, tôi có thể nói rằng ông đang đứng với đầu mũi giầy ấn sát vào bức tường và khuôn mặt ông gần như bị dán vào một bảng cáo thị. Tôi có nghe nói rằng ông có tập thiền, nhưng không, tôi nghĩ, ở trong hành lang của Sảnh Đường Cao Học – ít nhất là không tập thiền trong một buổi chiều mùa thu rạng nắng.
Bước tiến gần của tôi làm ông giật ḿnh, và trong nháy mắt ông quay người lại, đổi cặp mắt kính đang đeo bằng một cặp kính khác mà ông cầm nơi tay. Thoạt nh́n cả hai cặp mắt kính trông dầy đến nỗi chúng có vẻ giống như đáy của các chai nước ngọt soda được gắn vào gọng mắt kính.
“Thưa có phải Giáo Sư Mus không?, tôi hỏi ông với một giọng ngập ngừng. Khi ông trả lời một cách từ tốn, tôi nghĩ ngợi về ông. Thị giác của ông th́ kém đến nỗi ông không thể đọc được một bảng cáo thị mà không ấn mắt sát vào bảng. Đây có phải là người tôi được nghe nói đến? Con người đă nhảy dù xuống hậu tuyến của Nhật Bản tại Việt Nam để tổ chức một cuộc kháng chiến chống lại sự chiếm đóng thời chiến? Con người đă đi t́m kiếm Hồ Chí Minh tại vùng núi non hiểm trở của miền bắc Việt Nam để thương thảo với ông ta nhằm ngăn cản một cuộc chiến tranh trong nước? Có thể không phải như thế.
“Tôi muốn ghi danh học môn của ông về Việt Nam”, tôi ấp úng trong sự ngờ vực rằng tôi đă t́m thấy ông Paul Mus. Năm đó là năm 1957, và tôi là sinh viên năm cuối bậc cử nhân tại Đại Học Yale. Hầu như không người nào tại Mỹ hay biết nhiều về Việt Nam, và tôi không phải là ngoại lệ. Nhưng tôi đă t́m hiểu đủ để biết rằng ông Mus, một giáo sư người Pháp mỗi năm giảng dạy một học kỳ tại New Haven, có lẽ là học giả am tường nhất trên thế giới về Việt Nam và rằng các giảng khóa của ông tại Đại Học Yale nói chung bị lăng quên, ngoại trừ một nhóm nhỏ các sinh viên bậc cao học.
Vào khoảng khắc gặp ông tôi tức thời bị lay động bởi cảm nhận mạnh mẽ về sự nghịch lư vốn là đặc tính hiển nhiên nhất của Paul Mus. H́nh dạng của ông đă là một sự trái ngược gây sững sờ với cuộc đời tích cực, trong thực tế nguy hiểm mà ông đă sống qua. Ngoài thị giác yếu kém một cách khốn khổ, ông th́ vụng về và lăng đăng. Khổ người kềnh càng của ông di chuyển trong các sự chuyển dịch cà giật khiến liên tưởng rằng ông ta hoàn toàn xa lạ với một thế giới hành động và cứng rắn về mặt thân xác. Khuôn mặt bẹt, tṛn, và cởi mở th́ quá tử tế và dễ thương cho một kẻ đă từng đấu trí với Hồ Chí Minh, với các lực lượng chiếm đóng của Nhật Bản, và với các du kích quân do Cộng Sản chỉ huy.
Sự nghịch lư giữa vẻ bề ngoài của Mus và đời sống tích cực của ông, tuy thế, là một sự giới thiệu tuyệt hảo về ông. Nó chuyên chở bản chất của nhân cách của ông và mang lại ch́a khóa đến con đường mà ông tiến bước trong chức nghiệp của học giả và thày giáo. Người ta quá say đắm bởi sự nghịch lư, ông đă khám phá, đến nỗi dễ dàng hơn để thông đạt với họ bằng cách khiêu gợi sự ṭ ṃ của họ xuyên qua các lời phát biểu xem ra không thể tin cậy được. Ngoài ra, c̣n thích thú hơn. Nghịch lư đă mang lại cơ hội cho sự khôi hài, mà ông Mus đă sử dụng trong một cách hóm hỉnh và trêu ghẹo để đơn giản hóa các vấn đề phức tạp. Bởi v́ căn bản văn hóa của cuộc xung đột đương thời tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á lân cận chứa đựng các sự phức tạp vượt quá sự chú ư của phần lớn dân chúng, giọng văn của Mus đă mang lại các vấn đề này một sự sống động mà một cách nào khác sẽ không có được.
Đă có một sự hào hứng lớn lao để trở thành một trong nhóm nhỏ các học tṛ của Paul Mus. Ông lấp đầy các bài giảng của ông và các cuộc thảo luận trong lớp với các câu chuyện hấp dẫn, đă biến các sự kiện khô khan của các điều chẳng hạn như đời sống làng xă Việt Nam thành các sự phác họa sống động về người dân có thể tin tưởng được. Không c̣n các người Việt Nam xa cách và không thể tiên đoán được. Đời sống xem ra hỗn độn của họ trở nên rơ ràng hơn trong tiêu điểm, xuyên qua sự giải thích cặn kẽ của ông Mus về lư do tại sao các giá trị từng có thời nối kết họ với nhau đă bị suy giảm sinh lực mà không có bất kỳ các giá trị mới nào thay vào vị trí của chúng. Trên bối cảnh này các tính chất nghịch lư của người Việt Nam xem ra chỉ là các khía cạnh ngoài mặt của một t́nh cảnh khốn khổ sâu xa của con người – một t́nh trạng mà con người lần ṃ tới các giá trị mới cho các sinh hoạt hiện đại khắp thế giới đă chia sẻ. Tính lớn lao của Mus như một thày giáo và học giả là khả năng của ông để h́nh dung t́nh cảnh này về con người đáng nể phục, xuyên qua cả các cái nh́n phân tích thấu triệt lẫn các câu chuyện hấp dẫn từ các kinh nghiệm cá nhân của ông.
Giống như bất kỳ một “tín đồ trung tín: true believer” nào khác, tôi lo ngại rằng các người khác hay biết về ông Mus. Song ông ta không bao giờ trở nên nổi tiếng, bởi v́ hầu như chỉ có một ít tác phẩm của ông về Việt Nam được viết bằng tiếng Pháp. Đây là một phần của sự nghịch lư của Mus đă gây ra sự bối rối và thất vọng. Vào cuối thập niên 1950, trước khi Việt Nam trở thành một vấn đề thúc bách nhất của sự quan tâm quốc gia của Hoa Kỳ, kiến thức của Mus chính yếu là một vấn đề của sự chú ư về học thuật. Nhưng khi Hoa Kỳ ngày càng trở nên dính líu sâu đậm hơn tại Việt Nam, tôi cảm thấy một sự xao xuyến gia tăng rằng các sự thấu triệt của Mus về tính chất và xă hội Việt Nam đă không được cung cấp cho một sự hội kiến của khối độc giả Mỹ. Sự lo âu của tôi đă được nâng cao hơn nữa bởi phẩm chất hỗn tạp của khối lượng tràn ngập các quyển sách về Việt Nam đă xuất hiện và vốn đă trở thành một phần của sự tranh luận công khai về cuộc chiến.
Bất kể gần hai thập niên giảng dạy tại Hoa Kỳ, ông Mus không hề cảm thấy buộc phải hoặc phiên dịch các tác phẩm quan trọng của ông sang Anh ngữ hay viết một quyển sách về Việt Nam đặc biệt dành cho khối độc giả Mỹ. Ông luôn luôn gạt sang một bên các đề nghị về sự trước tác của ông dành cho người Mỹ với ư kiến rằng sự khảo cứu của ông về các nên văn minh ban sơ của Đông Nam Á sẽ có giá trị học thuật lâu bền hơn, hay cho rằng một người Pháp không có quyền để dính líu bản thân vào chính trị Hoa Kỳ. Đương nhiên, tôi không bao giờ nhận thấy bất kỳ điều ǵ trong các lời giải thích này là rất thỏa đáng. Như thế, sau cùng, tôi đă thuyết phục ông cho phép tôi được bảo trợ một sự phiên dịch tác phẩm quan trọng nhất của ông về người Việt Nam, quyển Viet Nam: sociologie d’une guerre, xuất bản năm 1952, trong một giai đoạn trọng yếu của cuộc chiến tranh Pháp-Đông Dương.
Quyển sách này là một bản phân tích thấu đáo nhất về các nền tảng văn hóa của chính trị Việt nam chưa hề được viết hay sẽ không bao giờ được viết ra. Trong đó Mus đă chứng tỏ một sự uyên bác về kiến thức và kinh nghiệm mà không một người nào khác có thể sánh được. Nhưng ông cũng đă viết quyển sách trong một văn phong phức tạp đến nỗi ngay các người Mỹ thông thạo tiếng Pháp – và cả người Pháp nữa – đă phải khó khăn để hấp thụ ư nghĩa đầy đủ của nó. Tôi đă tin tưởng rằng các vấn đề về văn phong này có thể được khắc phục xuyên qua một sự phiên dịch cẩn thận sẽ làm sáng tỏ các điểm mù mờ và truyền tải một số sự sống động của các cuộc thảo luận trong lớp học của ông Mus vào sự tŕnh bày. Nhận thức được các sự yếu kém của chính ḿnh trong vai tṛ một người phiên dịch, tôi đă quyết định mời gọi một thông dịch viên chuyên nghiệp hàng đầu, Bà June Guicharnaud, kẻ đă phiên dịch hầu hết các tác phẩm của André Gide sang Anh ngữ. Bằng việc phụ giúp bà với các điểm trọng yếu, tôi cảm thấy rằng dự án có thể được hoàn tất với ít sự khó khăn và với lợi ích lớn lao cho sự bận tâm đang gia tăng của người Mỹ về Việt Nam.
Sau vài tuần nỗ lực cao độ nhưng không thỏa măn, khi bà Guicharnaud kết luận rằng quyển sách th́ quá phức tạp để phiên dịch, tôi đă thất vọng. Bà ấy nói, “văn phong của Mus th́ phức tạp hơn văn phong của Proust”. Mặc dù bà đă muốn tôi đi t́m một vài người phiên dịch khác, tôi biết điều này sẽ là một việc vô ích. Bà Guicharnaud, vợ của một vị giáo sư lỗi lạc về tiếng Pháp tại Đại Học Yale, đă bị lôi cuốn bởi Mus và đă chấp nhận sự thách đố của việc phiên dịch với sự nhiệt thành và ḷng tận tụy. Tôi cảm thấy chắc chắn không có ai có khả năng hay quả quyết hơn bà. V́ thế tôi đă thỉnh cầu bà tiếp tục hay ít nhất t́m được vài cách nào đó để mang sự hiểu biết sâu sắc của Mus về xă hội Việt Nam đến sự chú ư của các độc giả Mỹ.
Sự dàn xếp chúng tôi đạt được đă đưa đến quyển sách này. Không có nỗ lực kiên nhẫn và cần mẫn của bà Guicharnaud, quyển sách này sẽ không bao giờ là điều khả hữu, và sự thông thái của Paul Mus sẽ không bao giờ được cung cấp cho người Mỹ. Thay v́ một bản dịch, tiêu điểm của sự chú ư được thu hẹp vào việc viết lại hoàn toàn những ǵ tôi xem là các phần trọng yếu nhất của quyển Viet Nam: sociologie d’une guerre, chiếm khoảng gần một phần ba nguyên bản. Bà Guicharnaud đồng ư đưa ra một bản dịch sát nghĩa, không dũa gọt các chương này, sau đó tôi tái sắp xếp và viết lại. Các ư tưởng và tin tức được dời chỗ, một vài chương thực sự được tách ra và nội dung của chúng được tái lập trong một khuôn khổ mới, các chương khác được mở rộng một cách sâu xa đến nỗi chúng mất đi hầu hết dấu vết của h́nh thức nguyên thủy. Mục đích chỉ đạo là nhằm nắm bắt bản chất tư tưởng của Mus và tŕnh bày nó trong một phong cách càng đơn giản và mạnh mẽ bao nhiêu càng tốt. Kết quả đă là một quyển sách hoàn toàn mới.
Chỉ sau khi bản thảo được hoàn tất ông Muc mới xem xét rằng tôi đă tŕnh bày những ǵ tôi xem là bản chất kiến thức của ông về Việt Nam ra sao. Mặc dù ông đă chấp thuận và thúc giục xuất bản, tôi chịu trách nhiệm một ḿnh về những khiếm khuyết của những ǵ xuất hiện nơi đây. Nếu quyển sách này có giá trị như tôi nghĩ về nó, khi đó là nhờ sự thông thái của ông Mus như một học giả và sự nhạy cảm của ông như một vị thày giáo. Khi viết nó, tôi đă cố hành động như người phiên dịch của ông, rút ra từ sự hiểu biết về kiến thức của ông cũng như từ sự học hỏi của riêng tôi về Việt Nam.
Tôi đă đưa ra tất cả các sự phán đoán về sự tổ chức và đă viết toàn thể nội dung, kể cả việc viết lại phần lớn hai bài viết từ các tạp chí uyên bác mà ông Mus đă phổ biến nguyên thủy bằng tiếng Anh và là điều tôi cảm thấy phải là một phần của quyển sách. Hồi Mở Màn (Prologue) và Hồi Kết Cuộc (Epilogue), nỗ lực cung cấp một khung cảnh cho tư tưởng của ông Mus, hoàn toàn của riêng tôi. Bởi vai tṛ của tôi trong việc chuẩn bị cho quyển sách, ông Mus nhấn mạnh rằng tên tôi xuất hiện như đồng tác giả chính yếu, mặc dù tôi ưa thích rằng chỉ có tên của ông không thôi. Trong mọi ư nghĩa, đây là quyển sách của ông, bởi v́ không có ông, tôi có lẽ sẽ không bao giờ trở thành một người nghiên cứu về Việt Nam.
Sự soạn thảo quyển sách đă được bảo trợ bởi Trung Tâm Quốc Tế Học (Center of International Studies), Đại Học Princeton; tôi muốn bày tỏ ḷng biết ơn của tôi đến ông cựu giám đốc Trung Tâm, Giáo Sư Klaus Knorr và đến Giáo Sư Harry Eckstein, về sự ủng hộ của họ cho dự án. Trung tâm đă không chỉ cung cấp ngân khoản để ủng hộ việc làm của tôi trên quyển sách, mà cho cả công việc của Bà Guicharnaud. Trong các giai đoạn cuối cùng của việc soạn thảo, tôi đă được ủng hộ một phần bởi một khoản trợ cấp từ Liên Ủy Ban về Á Châu học của Hội Đồng American Council of Learned Societies – Social Science Research Council, mà tôi rất lấy làm hân hạnh để tri ân nơi đây.
Về sự cho phép được sử dụng nhiều phần của quyển Viet Nam: sociologie d’une guerre trong h́nh thức tái sắp xếp và viết lại, tôi xin cám ơn đến nhà xuất bản quyển sách, Édition du Seuil tại Paris. Về sự cho phép gộp hai trong các bài viết của ông Mus trong h́nh thức được tu chỉnh đáng kể, tôi xin cám ơn các chủ biên của tờ Pacific Affairs và Yale Review. Hai người bạn thân, Giáo Sư Frederick W. Mote của Đại Học Princeton University và Ông William A. K. Lake tại Hoa Thịnh Đốn, đă cung cấp nhiều ư kiến hữu ích trên phiên bản ban sơ của bản thảo, là điều mà tôi cảm kích nhất. Các ông John Jay Iselin và Hugh Van Dusen của nhà xuất bản Harper & Row đă mang lại sự khích lệ ân cần, sự cố vấn biên tập tuyệt vời, và sự biến hóa mau chóng từ một bản thảo lộn xộn thành một quyển sách hấp dẫn. Sau cùng, tôi không thể bày tỏ cho đủ thường xuyên và thật nhiều ḷng biết ơn đặc biệt của tôi đến bà June Guicharnaud về sự đóng góp quả quyết trong sự h́nh thành quyển sách.
Sự phấn khích của việc hoàn tất quyển sách và bổ túc một cái nh́n mới mẻ về Việt Nam dành cho các độc giả Mỹ đă bị che lấp bởi một nỗi buồn nặng nề. Khi quyển sách này được đưa đến nhà in, ông Paul Mus đă gặp phải một loạt các cơn đau tim và, tại một bệnh viện tỉnh ở Avignon hôm 9 Tháng Tám, ông đă từ trần. Bất kể sự xáo trộn của thời đại ông và một số xui xẻo cá nhân, ông đă sống một cuộc đời đáng thèm muốn chất đầy sự phiêu lưu, hồi tưởng, và thỏa măn với việc bao quát nhiều hơn phần đóng góp của ông về kinh nghiệm con người. Với những kẻ mà trong tâm hồn, tinh thần của Paul Mus sẽ vẫn c̣n là một sự hiện diện sống động, ấn phẩm bằng Anh ngữ một sự tóm lược kiến thức của ông về Việt Nam có thể giúp nhắc nhở chúng ta về sinh lực của một con người làm chúng ta xúc động sâu xa. Tôi chỉ biết ân hận rằng, ngoài nỗi thương tiếc của ḿnh, bà Suzanne Musđă phải chịu đựng gánh nặng của việc phải làm một số sự dàn xếp cho sự ấn hành.
John T. McAlister, Jr.
Center of International Studies
Woodrow Wilson School of Public and International Affairs,
Princeton University
15 Tháng Mười, 1969.
*****
Chương 1
Việt Nam: Một Dân Tộc Mất Thăng Bằng
Chiến sự chua chát tại Việt Nam là một sự nhắc nhở thường trực rằng những ǵ xảy ra tại góc xa xôi của Á Châu liên quan đến toàn thế giới, có số phận ở một số mức độ nào đó sẽ được quyết định nơi đó. Việt Nam nằm giữa Trung Hoa, nơi gần một phần tư dân số của trái đất đă sẵn theo Cộng Sản, và Ấn Độ, nơi gần một tư khác của dân số trái đất c̣n cùng chia sẻ triết lư chính trị của Phương Tây, và các dân tộc Tây Phương nói chung vẫn không hay biết ǵ về xứ sở đó. Sự ngu dốt đó là phần không nhỏ của vấn đề.
Nhận biết được sự ngu dốt của ḿnh, các nhà quan sát trung lập từ nhiều dân tộc đă đến Việt Nam để tự thân xem xét nó. Các cuộc thăm viếng của họ th́ quan yếu, hoàn toàn tách rời khỏi chiến tranh, bởi các báo cáo của họ gửi về sẽ có ư nghĩa chính trị cho tương lai lâu dài sẽ tới. Trên căn bản các cảm tưởng như thế, các dân tộc sẽ h́nh thành các chính sách của họ đối với Việt Nam. Và bởi v́ các quan hệ giữa hai xứ sở luôn luôn bị ảnh hưởng bởi những ǵ mà bên này tin tưởng rằng bên kia nghĩ về ḿnh, các phán đoán mà các khách thăm viếng này định h́nh tại chỗ sẽ ảnh hưởng chính trị gấp đôi – tại xứ sở của chính họ và tại ngay Việt Nam. Người Việt Nam đang quan sát các quan sát viên.
Các phản ứng đầu tiên của các quan sát viên này được đánh giá cao kể từ khi xuất hiện. Giống như nhiều người khác trước họ, họ bị quyến rũ bởi tính t́nh và tinh thần của người dân Việt Nam. Khi sự chỉ trích được nêu ra, nó được nhắm vào xă hội Việt Nam; hay – một cách chính xác hơn – vào sự bất lực của Việt Nam để thành lập một xă hội, vào chủ nghĩa cá nhân quá độ của họ.
“Họ kỳ vọng nhiều điều từ người khác, đặc biệt từ người Pháp và người Mỹ, nhưng họ không có khuynh hướng chính ḿnh đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn. Họ không giữ lời hứa trừ khi họ nh́n thấy một số lợi điểm trước mắt để giữ lời; họ không hiểu được tầm quan trọng của một đạo lư cao quư và thận trọng trong các mối quan hệ xă hội và công việc. Họ không có tinh thần đồng đội, không có các kế hoạch dài hạn. Đúng là mọi người chỉ v́ ḿnh, và điều nhục nhă duy nhất là bị khám phá ra.” Sự tŕnh bày như thế là một điệp khúc thông thường trong hầu hết các báo cáo với một hạn kỳ ở Sàig̣n.
Không có tinh thần công dân, một sự thiếu vắng nói chung viễn kiến – cá nhân tách rời và xa lạ với xă hội – khía cạnh đen tối của bức tranh được vẽ bởi các du khách đến Việt Nam là như thế. Họ cũng đưa cho chứng ta phần bên kia, nhưng khía cạnh đen tối th́ đáng nhấn mạnh bởi nó dẫn đến phần lớn vấn đề, đặc biệt vấn đề trách nhiệm về các lỗi lầm này. Các lỗi lầm này có bị quy kết cho một số sự thiếu sót sâu xa trong tính t́nh người Việt hay không, hay cho phương cách mà các t́nh huống đă định h́nh đời sống Việt Nam, hay cho một số sự kỳ cục trong thái độ của các quan sát viên, không có ǵ phải ngờ vực rằng họ là những người có thiện chí?
Đúng là thường các tính chất tốt và xấu thấy được dường như bù trừ lẫn nhau. Các du khách đă không bỏ sót hoạt động lớn lao của người Việt Nam trong tất cả công việc của họ, hay sự tài t́nh thường gây sững sờ mà họ phô bày khi thực hiện các nhiệm vụ của đời sống hàng ngày. Các câu chuyện đă được kể về t́nh bạn tận tâm của họ, về cảm thức sâu xa của họ dành cho sự liên đới gia đ́nh. Có thể nào tất cả điều này là đúng cho một dân tộc không có tinh thần cộng đồng? Có thể nào mà người Việt Nam sẽ bị xem là các nạn nhân của sự vô cảm tập thể ngay lúc khi mà năng lực và sự kiên tŕ của binh sĩ của họ, kể cả những kẻ làm cách mạng do Cộng sản cầm đầu đă chiến đấu thất tốt chống lại người Pháp, và giờ đây đang đánh nhau với Hoa Kỳ, lại thu hút được sự chú ư của thế giới? Viên tướng lĩnh Pháp quá cố de Lattre de Tassigny đă bày tỏ sự ngưỡng mộ khí phách của các binh sĩ mà ông đối diện trong t́nh huống cá nhân đă khiến cho ḷng kính phục của ông rung động.
Song các sự mâu thuẫn có hiện hữu; trong thực tế, hiện giờ người Việt Nam dường như bị xem được tạo lập bởi các sự trái ngược. Nhưng đây là một t́nh cờ của khoảnh khắc lịch sử; không phải cố hữu trong bản chất. Sự quen biết lâu dài với người Việt Nam phát hiện ra rằng họ có tràn đầy tinh thần nhóm, không chỉ trong đời sống gia đ́nh của họ mà c̣n trong các cộng đồng lăng xă của họ, tiêu chuẩn xă hội truyền thống của họ. Chính từ các ngôi làng này mà bất kỳ sự giải thích cụ thể nào về Việt Nam phải có điểm khởi đầu của nó ở đó.
Các Khái Niệm Truyền Thống
Về Cộng Đồng Chính Trị
Ngôi làng điển h́nh của Việt Nam được bao quanh trong ṿng một lũy xanh dầy và các các cây có gai nhọn; các người dân làng quen sống đàng sau một loại b́nh phong bằng tre, hay có lẽ giống như sống bên trong một chiếc ṿng kỳ diệu của một câu chuyện thần tiên. Cung cấp cho các nhu cầu của họ từ những cánh đồng bao quanh, họ tự khép ḿnh đàng sau sự bảo vệ chung của họ, cách xa các kẻ lạ, xa hơn nữa, ngay cả với nhà nước. Thí dụ, khi xẩy đến các thuế khóa (ở đó, y như ở các nơi khác, là mối quan tâm chính yếu của nhà nước) họ vẫn đưa ra một mặt trận thống nhất. Họ đóng thuế như một nhóm, và cộng đồng chịu trách nhiệm. Các làng xă khống chế phong cảnh; chúng làm thành xương sống của đất nước. Song mỗi làng bảo tồn một sự tự trị nội bộ, và chủ quyền tuyệt đối, với một nền kinh tế dựa trên sự tiêu thụ bản đia. Trước khi người Âu Châu đến nơi, người Trung Hoa thực hiện những ǵ mà thương mại đ̣i hỏi.
Nhà nước Việt Nam truyền thống được quy ước hóa phù hợp với tư tưởng chính trị Khổng học; nó được thu ḿnh đàng sau một bức tường có các đặc tính Trung Hoa. Nó th́ độc đoán, nhưng nó bảo vệ một khoảng cách nghi lễ giữa chính nó và thần dân của nó. Cùng lúc, nó can thiệp một cách trực tiếp vào đời sống làng xă bằng việc quy định nông lịch và bằng việc áp đặt, xuyên qua các nghi lễ của nó, các thái độ và các tiêu chuẩn của cách cư xử trên cả nhóm và từng cá nhân. Bằng quyền thanh tra của nó các sự vụ của làng, nhà nước đảm bảo sự đồng nhất với các mô h́nh được cung cấp bởi truyền thống Trung Hoa; sự điển chế các bộ luật của triều đại nhà Lê, trong thế kỷ thứ mười lăm, là một thí dụ nổi bật.
Nhà nước Việt Nam truyền thống đă giữ các yêu cầu ngân sách của nó ở mức tối thiểu bằng việc cai quản xuyên qua các quyền hành chứng thực và trấn áp sau rốt, chứ không phải là quyền hành pháp. Trách nhiệm cho sự thực hiện chi tiết vẫn nằm trong tay các làng xă. Nhà nước là một kẻ phối hợp, không phải là người điều hành. Mục tiêu của nó là để ngăn cản các cộng đồng nhỏ hơn không đi chệch hướng, và “các thượng thư: ministers” (từ ngữ này không có nghĩa Tây Phương của nó [tức các bộ trưởng, chú của người dịch]) chính yếu của nó là một loại chánh án ṭa án cao cấp ngồi phán đoán các sự sai sót so với mô h́nh Khổng học. V́ thế, nhà nước đă tuyển dụng nhân viên của nó cho mọi chức vụ trừ các chức vụ thấp nhất của nó từ giới văn nhân trí thức, những kẻ có học vấn bao gồm hoàn toàn về Khổng tử, các thư kinh cổ điển, và các nhà b́nh luận các kinh sách.
Trung Hoa có cung cấp một sự mô tả loại hệ thống này trong một sưu tập phong phú các tác phẩm và các lời luận giải. Xă hội là nội dung của văn chương của chính nó, và đó là điều nó kỳ vọng về chính nó. Nói rằng sự giáo dục của các viên chức có tích chất văn chương cũng là nói rằng trong một vài ư nghĩa, nó có tinh chất xă hội, nhưng nó không được định hướng đến tương lai, như các ngành học xă hội Tây phương . Chắc chắn cũng có sự lưu tâm đến việc cải thiện hiện tại, nhưng lư tưởng nhắm đạt được nằm nơi quá khứ. Bởi v́ các điều xấu xa hiện tại phát sinh từ sự lăng quên mô h́nh Khổng học, cách chữa trị chúng không phải nằm nơi sự canh tân mà ở việc quay trở về lư tưởng. Kiến thức như kỹ thuật xă hội là một chủ nghĩa thủ cựu thuần túy.
Một thái độ như thế đă có các hậu quả rộng lớn. Nó được lập ra cho một quốc gia tương đối ít tốn kém, không có nhu cầu áp đặt các sắc thuế đè bẹp lên trên các làng xă; nhưng sau cùng sự tiết kiệm của nó trở nên đắt giá, bởi, bằng vào việc chối bỏ ư tưởng về sự tiến bộ có tính chất xây dựng và bởi một sự định hướng công dân khác với chúng ta, hệ thống chính trị truyền thống tại Việt Nam trong thực tế th́ mong manh trước sự chấn động của thế giới hiện đại. Nh́n về phía trước không tương lai vốn không phải là một sự lập lại một quá khứ tốt đẹp hơn, nhà nước đă không thể ủy nhiệm bất kỳ thẩm quyền mới nào cho các công dân của nó. Ngược lại, quốc gia Tây Phương thường xuyên t́m cách lôi kéo sự chú ư của người công dân, bởi nó kỳ vọng t́m thấy sự tiến bộ trong vài điều ǵ mới mẻ; chúng ta cần các định chế đại diện để bảo đảm cho các người tham dự và các người thọ thuế rằng giải pháp đạt được là một bước tiến về phía trước, điều tốt đẹp nhất có thể làm được. Nhưng khi tất cả sự khôn ngoan, mọi giải pháp có được sẽ được t́m thấy, đă sẵn hiện hữu trong quá khứ, khi đó – nếu mọi việc trong nhà nước đều diễn tiến tốt đẹp ở các khía cạnh khác – “việc học kinh sách” th́ đủ để hướng dẫn viên quan lại tại một huyện.
Trong các cộng đồng lăng xă nông thôn của Việt Nam, một bộ phận đại diện chắc chắn là hữu ích, nhưng mục đích của nó không phải là một sự bỏ phiếu b́nh đẳng. Đúng hơn, nó biểu thị cấu trúc theo hệ cấp của xă hội. Tuổi tác, các thành tố văn chương, và ở một mức độ nhỏ hơn, sự tích lũy của cải cung cấp căn bản của hệ cấp. Các mối quan hệ gia đ́nh cũng được kể đến; người đứng đầu một gia đ́nh can thiệp và chịu trách nhiệm cho các hậu duệ và thân nhân của ông ta.
Về mặt lịch sử, mối nguy hiểm chính yếu cho một hệ thống như thế là một giới quư tộc ăn bám có thể tự thiết lập bằng việc sáp nhập các chức vụ chính trị và việc tích lũy các điền sản to lớn, với các công nhân thực sự rơi xuống mức độ các nông nô, như trong tất cả các nước nông nghiệp khác. Nhưng điều này đă không có thể xảy ra tại Việt Nam bởi v́ vị hoàng đế không bao giờ chuẩn cấp các bằng khoán vĩnh viễn. Các tài sản thừa kế luôn luôn có tính chất nghi lễ và biểu trưng, ràng buộc với bàn thờ gia tộc. Về các ngạch trật của guồng máy thư lại hành chính, hay quan chế, giống như nó được gọi bởi người Âu Châu, vốn tạo thành hệ cấp thực sự của xứ sở, chúng được mở ra cho sự thi đua của công chúng và chính v́ thế có tinh chất khả dĩ tiếp cận, trên lư thuyết, với mọi người. Các thành phố chỉ được phát triển rất ít và các đặc ưu quyền thương mại trong thực tế bị độc quyền hóa bởi người Trung Hoa, làm nản ḷng sự tích lũy các sản nghiệp đô thị lớn lao, vốn rất dễ bị xâm hại trước sự trả thù và tịch thu bởi quyền lực trung ương một cách nào đó.
Tại các làng xă, giống như các nơi khác, tập quán không tán dương sự sở hữu đất đai rộng lớn. Đất đai bị chia cắt thành các mảnh, thường rất nhỏ, ít nhất tại các khu vực trồng lúa gạo, là trái tim của đất nước. Tích lũy ngay dù một tài sản khiêm tốn đă là công việc của một đời người, và không một gia đ́nh nào có thể ngự trị ở trên thượng tầng tại một trong những ngôi làng nhỏ trong một thời gian rất lâu. Uy tín th́ tốn kém; các nghĩa vụ của nó phục vụ như một thước san bằng kinh tế, bởi xă hội đo lường uy tín bằng việc chu toàn các nghĩa vụ đó. Các buổi gặp mặt, các tiệc tùng và các khoản quyên tặng là các phương cách cho phần dân chúng c̣n lại trong cộng đồng chia sẻ sự giàu có của bất kỳ ai vươn tới sự nổi bật xă hội. Một câu tục ngữ phổ thông từ Trung Hoa đă tóm tắt t́nh trạng: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời`”. Đó là đặc tính của đời sống làng xă mà câu tục ngữ chỉ có ư nghĩa khi “không ai” được hiểu “không gia đ́nh nào”; cá nhân chỉ là một hiện tượng nhất thời.
Từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau chúng ta biết những sản phẩm nào đă được xuất cảng từ Đông Dương trở lùi về thế kỷ thứ mười bẩy, khi bắt đầu có hoạt động mậu dịch đáng kể với Âu Châu. Ít sản phẩm nào đến từ nông thôn Việt Nam. Thay vào đó chúng đến từ các vùng cao nguyên của xứ sở với các cây sơn mài và cây dâu tằm của họ, hay từ các vùng núi đồi với rừng rậm, được cư trú bởi những sắc dân không phải Việt Nam, đặc biệt sắc dân Tày và Mường vùng núi, các kẻ sông giữa sắc dân Thái của Thái Lan và dân Việt Nam. Để mang các sản phẩm này ra đến bờ biển và các thuyền buồm của ḿnh, người Trung Hoa đă là các người trung gian. Chính quyền giới hạn hoạt động của nó vào việc đánh các thuế quan.
Tuy nhiên, nhà nước truyền thống đảm nhận một trong các chức năng chính yếu khác, ít nhất đă góp phần không kém cho thẩm quyền của nó như khía cạnh nghi lễ của nó đă làm, và một cách cụ thể hơn: chức năng quân sự. Việt Nam đă không chỉ sinh ra tự nhiên; nó đă chỉ chiếm hữu lănh thổ của nó với giá của các cuộc chiến tranh không ngừng. Khi, vào năm 939, sau cùng nó đă tự giải phóng khỏi sự đô hộ của Trung Hoa trong hơn mười thế kỷ, nó thấy ḿnh tham dự vào một cuộc chiến tranh sinh tử với láng giềng phía nam của nó, Vương Quốc Theo Ấn Độ Giáo của Chàm, khi đó chiếm cứ bờ biển hiện đại của Việt Nam từ bắc Đồng Hới cho tới phía nam Nha Trang). Đă cần đến nhiều thế kỷ để mang sự chiếm đóng đến hồi kết cuộc; không lâu trước sự thất trận chung cuộc của nó trong năm 1470-71 (sau đó họ ít nhiều đă biến mất, ngoại trừ các khoảnh đất nhỏ bao quanh thị trấn duyên hải Phan Rang), họ vẫn c̣n phát động cuộc chiến tranh trên lănh thổ Việt Nam.
Sự dũng mănh mà với nó quân đội pḥng thủ xứ sở có thể được phán đoán từ sự kiện rằng trong thế kỷ thứ mười ba, nó đă đánh bái quân xâm lăng Mông Cổ đáng gờm, các kẻ đă gây ra biết bao sự tàn phá tại Âu Châu. Nó cũng tổ chức lănh thổ sau lưng mặt trận của các sự tiến quân của nó. Khi đi chinh phục đất đai nó đă thiết lập một mạng lưới các làng quân sự hay làng các cựu chiến binh, kế đó một thuộc địa trừng phạt tội phạm, đặc biệt thích hợp cho các kẻ lưu vong chính trị, và sau cùng một bức màn vững chắc của các làng tự do thuộc loại thông thường. Đây là những ǵ đă xảy ra, thí dụ, tại miền nam Việt Nam (phần mà người dân Việt gọi là Nam Bộ và từng có thời được biết là “French Cochin-China: Nam Kỳ Thuộc Pháp”.) Công việc của quân đội đă là một tiến tŕnh không thể đảo ngược, vượt quá các sự đảo ngược quân sự tạm thời. Bởi điều này, người Chàm, các kẻ từng chiến thắng nhiều trận đánh, đă thua cuộc chiến và – hơn nữa –- đánh mất ḥa b́nh. Quân đội đă dẫn dắt các nông dân Việt Nam (vốn tự xưng ḿnh là Việt Nam [?]) khai khẩn cho đến Vịnh Thái Lan, và ngày nay người Chàm tại An Nam và người Căm Bốt tại Nam Kỳ chỉ c̣n tồn tại trên sách vở và nơi nghệ thuật Ấn Độ đẹp đẽ của họ trong các bảo tàng viện.
Ngoài các cuộc chiến tranh với nước ngoài này, vốn tạo thành căn bản của sự phát triển quốc gia, c̣n có các cuộc xung đột nội chiến chua chát giữa miền bắc và miền nam trong các thế kỷ thứ mười bẩy và mười tám. Vào lúc đó, các lực lượ.ng quân sự dường như được bổ túc bởi một guồng máy cảnh sát đặc biệt được phát triển tại các thành phố chính. Nhà nước có tính chất nghi lễ không rút lui hay là một kẻ chậm lụt trong các thời điểm đó.
Các chuyên viên Âu Châu từng có một cơ hội để khảo sát các ngân sách của Việt Nam truyền thống đă sững sờ bởi sự khiêm nhường của chúng. Ở tầm mức xa nhất khả dĩ, chính sách trung ương tản quyền quản trị dẫn đến việc các công tŕnh công chánh được chấm định gần các làng xă, xă sẽ xây dựng chúng và hưởng lợi từ chúng. Tư trên cao nhà nước phối hợp các công tác tập thể này hay quyết định rằng chúng phải được tiến hành, nhưng bản thân công tŕnh là sản phẩm của sự tham gia địa phương. Mỗi làng xây dựng và duy tŕ đoạn đê của chính nó, đào phần của nó cho một kinh đaṣ. Mỗi làng lập ra một nhóm quân tuyển mộ của chính nó để cung cấp cho quân đội hoàng triều và tự lo liệu khoản tiếp liệu của ḿnh. Bởi v́ các sắc thuế được đánh phần lớn bằng hiện vật, đă không có đủ tiền tệ lưu hành để xâm lấn vào sự tự trị của làng xă.
Kiến trúc thượng tầng chính trị tại nhà nước Việt Nam truyền thống cũng đi theo một chính sách về trợ giúp xă hội. Các quan lại có dự trữ gạo chống lại các tai họa chung, luôn luôn đe dọa trong một vùng đất nơi bờ biển bỏ ngỏ cho các trận băo và các đồng bằng ở châu thổ các con sông thường gặp hiểm nguy ngập lụt định kỳ, mặc dù các khoản dự trữ của họ về thực phẩm th́ không đủ cho những năm tệ hại nhất.
Tác Động Của Chính Sách Thực Dân Pháp
Trên Các Truyền Thống Chính Trị Của Việt Nam
Sự tŕnh bày này về đời sống Việt Nam truyền thống khó là một bản kết toán của một trường phái về cá nhân chủ nghĩa vô chính phủ, giống như một số quan sát viên nghĩ phải được quy kết cho đời sống Việt Nam ngày nay. Khi đó, t́nh trạng tệ hại hơn này trong đời sống dân tộc có phải bị hạ thấp xuống, ở một số mức độ, v́ hơn bảy mười năm đô hộ của Pháp hay không? Làm như thế, với sự hạn chế thích đáng, người ta không cần gọi chế độ thực dân là đàn áp thuần túy, như một số thích nói về nó như thế. Tinh thần công dân Việt Nam bộ không đủ lư do cho sự suy tàn trong sự kiện rằng đời sống chính trị đă bị rút xuống một vấn đề hành chính; và rằng (tệ hại hơn) nền hành chánh đó lại nằm trong tay người ngoại quốc hay sao?Mặt khác, các kẻ bút chiến đă có một cơ hội tốt để vạch ra rằng làm sao mà khuôn khổ của đời sống làng xă đă bị giáng cho một sự tổn thất nặng nề bởi khái niệm của Pháp về các sắc thuế, trả bằng tiền và được đánh theo một tỷ lệ phải được xem là quá đáng đối với các dân làng. Làng xa cổ truyền đă không thể tồn tại. Nó vẫn tiếp tục trông như cũ, ít nhất tại Bắc Kỳ (Tonkin) và Trung Kỳ (An nam) (Bắc Bộ, hay miền bắc Việt Nam, và Trung Bộ, hay miền trung Việt Nam), nhưng nó đă trở thành một vỏ ngoài trống rỗng, không có thực chất xă hội nó từng có để giữ đ̣i sống được tái tục thường trực. Với trái tim thoát ra khỏi nó, ngay vẻ bề ngoài của làng xă đă ở vào một vị thế bấp bênh trừ khi có thể có một sự đảo ngược hoàn toàn trong chiều hướng, trở lại sự quân bằng đă mất của đời sóng. Đó là điều mà một số người vẫn c̣n mong ước, nhưng liệu nó có khả hữu hay không?
Sự tăng trưởng của các thành phố; sự mở rộng của một nền kinh tế dựa trên tiền tệ được liệt kê trên các thị trường hối đoái quốc tế; các mối ràng buộc mà tiền tệ đă tạo ra giữa thành phố và xứ sở, với các khoản vay nặng lăi phát sinh và sự tích lũy các điền sản to lớn; sự kiểm soát bởi chính quyền trung ương với tay xuống các sự vụ của làng xă; nhu cầu thế tục hóa nhà nước –- tất cả các yếu tố này đă biến cư dân, người dân [tiếng Việt trong nguyên bản chú của người dịch] thành một người thọ thuế theo nghĩa hiện đại của từ ngữ: một kẻ đóng các khoản thuế của ḿnh bằng tiền như một cá nhân chứ không phải như một thành phần vô đanh tập thể trả thuế bằng gạo hay các sản phẩm khác. Song t́nh trạng thuộc địa đă không cho phép sự tiến hóa này sẽ được kèm theo và đền bù bởi điều sẽ biến người đó thành một công dân của thế giới hiện đại.
Chính v́ thế, sự cân bằng Khổng học giữa nhà nước nghi lễ và lăng xă tự trị bị dẫn đến sự tiêu vong, hay gần như thế, mà không có bất kỳ điều ǵ thấy được thay thế cho nó. Việt Nam vẫn c̣n đang t́m kiếm điường đi của nó giữa đống phế tích đó. Chiến tranh đă làm trầm trọng hơn nỗi thống khổ của nó, nhưng đă không gây ra nó.
Không nhất thiết có bất kỳ sự bất công nào trong việc thú nhận rằng nước Pháp chưa bao giờ đáp ứng đầy đủ với những ǵ đ̣i hỏi nơi họ tại Việt Nam – một xứ sở vẫn c̣n chưa hiểu được bản thân, bị ném vào sự hỗn loạn như đang gánh chịu, bởi một sự thay đổi bạo động trong chiều hướng lịch sử của nó. Song đến một tầm mức đáng kể, chính những ǵ nước Pháp đă làm tại Việt Nam tạo ra điều không thể thiếu sót được -- và có thể cùng một lúc, mà hầu hết các nước Tây Phương không nhận thấy và vẫn chính thức từ chối không chịu thừa nhận: rằng Việt Nam phải là một quốc gia thống nhất và độc lập.
Mục đích này là tất cả những ǵ mà sự phân chia và t́nh trạng chiến tranh hiện nay hướng tới, và các thành tố cho giải pháp của nó không có tính chất bản địa mà rơ ràng lệ thuộc vào một sự giải quyết quốc tế. Nhưng trước tiên một nhu cầu khiêm tốn hơn cần phải được thỏa măn: cải chính các sự kiện về bản thân Việt Nam. Bởi nếu các sự kiện này chỉ có thể được hiểu trong sự tương quan với các biến chứng quốc tế, điều cũng đúng là các khía cạnh quốc tế của t́nh h́nh chỉ có thể hiểu được nếu các khía cạnh bản địa rơ ràng.
Thoát ra khỏi ảnh hưởng của Pháp, ít nhất trong khía cạnh thực dân của nó, các sử gia Việt Nam không c̣n phải xem thế kỷ vừa qua như một chương trong lịch sử của chủ nghĩa thực dân Pháp, mà như một chương trong lịch sử của choính họ. Nh́n từ góc cạnh đó, xem ra nó sẽ ít là một sự gián đoạn hơn một sự chuẩn bị cho thế giới hiện đại. Một sự chuyển tiếp như thế đă và vẫn c̣n là một vấn đề rất nghiêm trọng, với các hậu quả sâu xa; nhưng đó là một vấn đề của Việt Nam, không phải của thực dân. Chủ nghĩa thực dân chỉ thúc đẩy nó nhanh hơn.
Một số người bảo thủ nh́n một cách lạc quan một phương thuốc chữa trị chính trị, xă hội, và ngay cả khía cạnh cảnh sát cho các sự phiền nhiễu hiện tại nơi một sự quay về các định chế lăng xă truyền thống, ít nhiều được cập nhật hóa. Nơi đó, họ nói, Việt Nam một lần nữa sẽ t́m thấy bản chất thực sự của nó. Nhưng một sự đảo ngược như thế trên ḍng lịch sử chỉ có thể được thực hiện với sự khó khăn lớn lao nhất. Thế quân b́nh Khổng học đă mất là một toàn thể, trong một thế giới đă biến mất; nó không thể được mang về từng mảnh, và thế giới đó sẽ không quay trở lại.
Nhà nước hiện đại là một kẻ xây dựng, một nhà kinh doanh, một nhà tổ chức, một trọng tài trong công việc hàng ngày. Nó được tập trung hóa, như hoạt động thời hiện đại. Một nhóm các dân làng có thể đắp một con đê, nhưng họ không thể đặt đường rầy xe hỏa hay mua được xe hỏa cho đường rầy. Họ c̣n có thể làm ít hơn nữa để đối phó với các vấn đề truyền tin trên trời; một phi trường tọa lạc gần một ngôi làng thôn quê phục vụ cho thế giới. Một nhà nước sẽ đảm trách các công việc như thế, toàn phần hay một phần, hay có liên kết với các quyền lợi tư nhân của nó tham dự vào sinh hoạt quốc gia, cho đến mức mà các công việc này diễn tiến, đă bị cắt rời một cách không thể cứu văn được khỏi cơ thể Khổng học. Dù tốt hay xấu hơn, nhà nước công dân, trách nhiệm cá nhân, và các sắc thuế nặng nề là một phần của vận mệnh hiện đại. Từ bỏ chúng sẽ là từ bỏ nền kinh tế, và tối hậu, nền chính trị của xứ sở, không chỉ theo lời cố vấn, mà c̣n là sáng kiến của người ngoại quốc. Nhà nước nghi lễ và làng xă truyền thống, với sự cách biệt và điều chỉnh của chúng, thuộc về một thế giới khác.
Sự thiếu thăng bằng của Việt Nam (đến mức mà nó không xảy ra từ nguyên nhân dễ nhận thấy nhất, các t́nh huống kinh khiếp của chiến tranh) đến từ sự mất mát không thể sửa chữa được sự hài ḥa cổ xưa đó vốn đă mang đến cho đời sống ư nghĩa của nó là sống tự nhiên. Thay v́ tạo lập ra t́nh trạng này, chủ nghĩa thực dân đă ngụy trang nó. Bất kỳ chính phủ dân tộc thực sự nào mà người ta có thể tưởng tượng lên nắm giữ quyền hành và được chấp nhận sẽ phải đối diện với cùng sự việc.
Không đáng ngạc nhiên rằng các quan sát viên Tây Phương giờ đây tường thuật các ấn tượng trái nhau. Họ đang thăm viếng một vùng đất nơi nhiều điều đang xảy ra trong ḍng lịch sử. Một số điều của quá khứ vẫn c̣n hiện diện, mặc dù không có biểu hiệu bên ngoài; một số điều của nó đă mất đi, và sự thiếu vắng của điều ǵ có thời từng hiện hữu thường có nhiều ảnh hưởng hơn những ǵ c̣n lại.
Các Khái Niệm Truyền Thống
Về Trách Nhiệm Cá Nhân
Trước thời thực dân, tập quán dân tộc đă định h́nh đời sống Việt Nam với hai mệnh lệnh về bổn phận: Bổn phận đầu tiên của một người là đối với cộng đồng địa phương, với gia đ́nh và làng xă của ḿnh, một tổng thể ḥa hợp mà trong đó người đó đóng góp một nốt nhạc duy nhất. Nhưng điều này không thôi vẫn chưa đủ; người ta cũng nhận được từ trên cao một tiêu chuẩn của tác phong, thái độ, và ngay cả ư định, tất cả được bao gồm trong các nghi lễ truyền thống. Các nông dân được giáo huấn để tin tưởng rằng sự thành công của sức lao động và ngay cả sự sống c̣n của họ tùy thuộc vào các sự tôn trọng nghi lễ; trong cách này họ đă giành đoạt được sự ưu đăi của trời và bảo đảm sự hài ḥa của họ với thiên nhiên. Mệnh lệnh thứ nh́ về bổn phận là như thế, được tôn trọng với sự chăm sóc đặc biệt bởi các người thích hợp. Tất cả sự mê hoặc và uy tín của văn minh Trung Hoa đă bảo đảm tính chân thực của hai loại mệnh lệnh này về bổn phận, và sự tương hợp của chúng.
Tính chất thâm sâu nhất của một tinh thần như thế nằm ở chỗ nó tự thấy ḿnh cân đối với thế giới quan của chính nó. Các tính chất tương đương của các khoa học tự nhiên của chúng ta rằng trong quan điểm đó, có đầy đủ các giá trị đạo đức và công dân. Học thuật và chính trị Trung Hoa có mô tả một xă hội ‘ḥa hợp với thiên nhiên”. Mọi điều một người phải làm là một phần của một sự sắp xếp các sự việc rộng lớn hơn, giống như đối với các nhà thiên nhiên học của chúng ta, mọi cá nhân là một phần của một chủng và loại; mọi bổn phận, trong đầy đủ ư nghĩa của từ ngữ, th́ tự nhiên. Bất kỳ điều ǵ không liên thuộc, điều đó sẽ không t́m thấy vị trí đúng của nó – bất luận trong một quốc gia có chủ quyền, hay trong gia đ́nh với gia trưởng của nó – là vượt quá bản tính tự nhiên. Bất kể là ǵ, nó đă lánh xa “the way: con đường” (đạo) [“tạo”, tiếng Việt trong nguyên bản, viết sai chính tả, phải là đạo, chú của người dịch] trật tự và quy luật của các sự vật, và, né tránh đạo lư, chỉ là việc đánh bạc với vận mệnh.
Chính v́ thế, trộn lẫn với các định chế đă phát triển đầy đủ và thiên nhiên điều ḥa bao quanh chúng là một tiềm lực vô tổ chức, u tối; h́nh ảnh của nó là đời sống của các người trồng lúa gạo, có công việc luôn luôn bị đe dọa bởi một sự quay trở về sự vô trật tự hoặc của xă hội hay khí tượng. Cùng sự thông thái đă khởi hứng cho câu “Không phải thú vật cũng không phải thiên thần: neither beast nor angel” của Pascal và công thức xă hội thực tiễn của các tín đồ Ấn Độ Giáo (một sự cân bằng giữa đức hạnh, lợi ích, và đam mê) cũng t́m thấy sự phát biểu trong chủ nghĩa thực nghiệm (empiricism) Hoa-Việt. Nó có dành một chỗ cho các hoạt động cá nhân hay xă hội bên lề của các h́nh thức đă kiện toàn và các nghi lễ của họ. Nhưng các sự mạo hiểm như thế nằm bên ngoài lănh vực các bổn phận của con người; chúng không tùy thuộc vào bất kỳ mối quan hệ “tự nhiến” nào; chúng bước vào một vùng đất chưa được khám phá. Tiêu chuẩn duy nhất của chúng là sự thành công.
Tất cả các điều này cho thấy lư do tại sao các sự tường thuật về phương cách mà người dân ứng xử tại Sàig̣n ngày nay không nên được xem như một sự chỉ dẫn cho tính chất Việt Nam, mà như một dấu hiệu xă hội đánh dấu các thời đại. Ngày nay, cuộc sống Việt Nam đă đoạn tutyệt với diễn tŕnh lịch sử của nó. Tác phong hiện tại sẽ nằm ngoài vấn đề dưới một chính quyền Khổng học ổn định trong đó một đạo lư hiện diện khắp nơi chi phối sự cư xử từ trên cùng xuống dưới cùng, xuyên qua tất cả các cấp bậc của các nhóm tự nhiên. Nhưng ngay dù đôi lúc khi sự xáo trộn xảy ra trong quốc gia và chính quyền có thể dường như ḥan toàn nằm bên ngoài, sự hỗn loạn trong sinh hoạt nhóm tước đoạt các con người thông thường không chỉ một sự chống đỡ cụ thể mà c̣n cả một bộ luật đạo lư. Các nhóm ấn định quan điểm của cá nhân đă tan biến. Đó là một thời kỳ gián đoạn của xă hội “tự nhiên”. Cá nhân bị bỏ mặc với sáng kiến của ḿnh; bất kỳ điều ǵ vẫn diễn tiến. Song tất cả chờ đợi các dấu hiệu của một sự trở về trật tự b́nh thường.
Cấu trúc của văn hóa cổ truyền Trung Hoa và Việt Nam không thể nào được phục hồi. Niềm tin rằng sự phục hồi của nó sẽ hữu dụng th́ không đủ để mang nó trở lại. Nó đă hữu hiệu trong cả ngh́n năm bởi v́ những kẻ tham dự trong đó tin tưởng rằng đó là chân thực. Kiến thức không đối thủ cạnh tranh của người Trung Hoa và uy tín của các tác phẩm của họ bảo đảm sự thực của nó, ngay cả đối với những kẻ chỉ biết đến văn hóa Trung Hoa từ xa. Các khoa học của chúng ta đă triệt hủy tất cả các điều đó, trên mặt các định chế cũng như trong các giá trị tuyệt đối. Nhà nước có tính chất nghi lễ không có sự tương đương trong thời hiện đại.
Căn bản khác của đạo lư truyền thống khó mà khá hơn: chế độ tự trị làng xă đă bị tàn phá khắp Việt Nam bởi nền kinh tế đương đại, dựa hoàn toàn trên sự trao đổi. Bị rúng động từ bên trên, với sự đánh mất một quyền lực chủ tế hài ḥa với thiên nhiên, tầng lớp cao nhất c̣n trụ lại, các định chế kinh tế và chính trị sụp đổ từ bên dưới, với sự biến mất của cấu trúc kinh tế cổ xưa.
Các Khả Tính Cho Sự Tái Thiết Xă Hội
Liệu có bất kỳ căn bản nào cho sự tái xây dựng hay không?
Cáo buộc được nêu ra chống lại sự đô hộ của ngoại bang không phải là nó đă triệt hủy các định chế vốn được tôn trọng qua thời gian; khi làm như thế người Pháp chỉ thực hiện một chức năng lịch sử. Ngoài ra, họ đă bắt đầu cung cấp cho xứ sở về mặt kỹ thuật, hành chính, và bằng việc giáo dục một nhóm các nhà lănh đạo – không đủ đông đảo, chắc chắn như thế, nhưng có phẩm chất cao. Lỗi lầm thực sự của họ là họ đă du nhập một nền kinh tế tiền tệ thay thế cho một nền kinh tế đổi chác mà không nhận thức đầy đủ về nhu cầu điều chỉnh nó với toàn thể xă hội của xứ sở. Cần phải dung ḥa với nền kinh tế đang hoạt động (một nền kinh tế dựa trên sự tự trị của làng xă) trong một thời gian, nhưng mục tiêu sẽ phải là loại trừ nó bởi việc giáo dục dần dần người dân nông thôn về một vài điều ǵ khác nữa.
Thay v́ một chính sách tiến bộ như thế, người Pháp lựa chọn việc duy tŕ trật tự cũ, với động lực đáng hoan nghênh nhằm tránh bất kỳ sự chấn động nào đối với cấu trúc xă hội địa phương, mà với hậu quả thực tiễn rằng trong xứ sở nền kinh tế tiếp tục được đặt trên ít hoạt động mậu dich và sự tiêu thụ địa phương, trong khi tại các thành phố đă phát triển một nền kinh tế thương mại hiện đại, dựa trên sự trao đổi toàn cầu. Những người tổ chức hoạt động mậu dịch vẫn duy tŕ các công nhân ở mức độ kinh tế truyền thống như đă bán sản phẩm công việc của họ ở mức độ kinh tế thành thị. Khoản sai biệt giữa hai nền kinh tế đă chui vào túi của họ.
Tóm lại, một bản sao của hệ thống Trung Hoa về sự bóc lột đă được tháp vào xứ sở, nhưng với một sự kết bện tây phương mới mẻ vào nó. Sự khác biệt là người Pháp đă phải khắc phục một khoảng cách giữa người Việt Nam với chính họ, vốn đă không hiện hữu (hay ít nhất không cùng mức độ) giữa người Việt Nam và người Trung Hoa. Lớp người trung gian cần thiết được cung cấp bởi cộng đồng địa phương, và họ đă thu tóm một phần ngày càng lớn trong sự lưu hành tiền tệ, đặc biệt tại các thành phố. Vị thế của họ cho phép họ thỏa măn bất kỳ sự chống đối nào đối với thành tố thực dân Pháp. Cùng lúc, bởi phương cách cho vay nặng lăi truyền thống, gặp thuận lợi bởi như cầu mới về tiền tệ của nông dân, họ đă tạo ra một sự thay đổi sâu đậm trong xă hội Việt Nam. Nơi đây người ta nh́n thấy cách thức làm sao một xă hội có thể bị định h́nh bởi các sắc thuế khi các sắc thuế được hiện đại hóa trước khi các phương tiện chi phó được hiện đại hóa. Họ đă vứt bỏ các truyền thống chế ngự của nó; họ đă đi ra các thành phố để sinh sống. Và những người ở lại đàng sau thực hiện các công việc mua bán của họ xuyên qua lớp trung gian người Hoa.
Sự khác biệt giữa hai hệ thống kinh tế phải được giảm trừ một cách lũy tiến bằng việc giáo dục khối quảng đại nông dân, nhưng thay vào đó nó đă được ổn định hóa, làm cho các sự việc trở nên rất thuận tiện cho lớp người trung gian.
Sự điều chỉnh đối diện với bất kỳ chính quyền dân tộc nào của nước Việt Nam mới là một vấn đề nền tảng. Nó sẽ không được giải quyết một cách đơn gian/ bằng việc thống nhất Việt Nam dưới một chính quyền, ngay dù chính quyền đó có năng lực. Trong thực tế, sự khó khăn có tính chất xă hội hơn là chính trị. Hăy đặt định h́nh thức truyền thống của sự quản trị hoạt động trở lại, như thể đúng là chưa có ǵ đă xảy ra; ngay cả việc giả định – và đây là một giả thiết lạc quan nhất – rằng chiến tranh có thể được loại trừ. Các sắc thuế sẽ quay trở lại. Và người ta sẽ bắt đầu t́m kiếm một phương thuốc chữa trị cho sự thiếu vắng sự cân bằng đạo lư trong nước ở nơi đâu? Một cách thức hay hơn để chuẩn bị một đất nước lâm vào t́nh trạng vô chính phủ đă không thể t́m thấy. Đó là một cuộc mạo hiểm không có sự kết thúc. Nó sẽ chấm dứt bằng việc tạo ra một sự kháng cự, nếu một sự đề kháng chưa sẵn hiện hữu.
Không có ǵ khả dĩ sống sót được về mặt đạo lư mà không bắt đầu mang trả lại cho người Việt Nam niềm tin rằng họ đang sống trong các nhóm tự nhiên – song, không phải các nhóm cổ xưa, bởi thiên nhiên đă nhảy bỏ qua một giai đoạn. Ngoại trừ đối với gia đ́nh, các sự thống hợp cổ truyền đă bị phá vỡ bởi sự bất cân bằng xă hội và kinh tế của các làng xă và sự hỗn tạp của các thành phố. Nền kinh tế cổ xưa đă ra đi quá mức quay đầu trở lại. Với các kẻ cho vay nặng lăi giàu sụ hơn nhờ đất đai, việc tích lũy các tài sản đô thị và các sự sở hữu đai đai rộng lớn, giới nông dân bị truất hữu bắt đầu bị sa vào một tầng lớp vô sản.
Tư bản chính v́ thế phải được hướng tới một kế hoạch tài chính và kỹ thuật để trang bị xứ sở hầu thực hiện càng nhiều càng tốt những ǵ nó có thể làm được từ các nguồn tài nguyên của chính ḿnh, nếu chỉ nói đến giá trị giáo dục của một kế hoạch như thế. Các làng xă sẽ phải được tái thiết lập trong các nhóm tự nhiên, với một nền kinh tế ổn định thích hợp với sự dẫn nhập chúng vào hệ thống tiền tệ hiện đại, trong một cách sao cho các sắc thuế sẽ không tạo ra sự phân ră. Một chương tŕnh các hợp tác xă của khách tiêu thụ và các nhà sản xuất sẽ hoàn thành công việc đó. Các giới chức thẩm quyền giỏi giang nhất đồng ư rằng lịch sử của Việt Nam chỉ hướng một đường lối như thế cho sự phát triển tương lai của Việt Nam.
Điều như thế xem ra đối với tôi là các thành tố cụ thể và thường trực nằm đàng sau sự bất ổn định đạo lư và sự bất ḥa tập thể của người Việt Nam mà các quan sát viên phía chúng ta của cuộc xung đột nghĩ rằng họ nh́n ra. Ít nhất, một phần của giải pháp phải được t́m kiếm nơi phần này.
Nhiều sự đóng góp của thế giới Tây Phương cho Việt Nam chắc chắn sẽ phải được giữ lại bởi bất kỳ nhà nước Việt Nam hiện đại nào, nhưng trong một h́nh thức được tự nhiên hóa. Sẽ không phải dễ dàng ǵ để trả lại cho người dân Việt Nam một niềm tin rằng họ đang sống trong các nhóm tự nhiên có thể sinh tồn được trong ḥa b́nh và trật tự, không có chúng không ǵ bền vững được. Rằng phần lớn sự giáo huấn Khổng học vẫn c̣n có thể áp dụng được. Nhưng nếu một trật tự như thế phải được bảo đảm, sẽ phát sinh ra câu hỏi, đâu là điều mà Tây Phương đề nghị để thay thế cho nhà nước nghi lễ? Nhà nước đó bảo đảm sự thống nhất và trật tự trong thế giới bởi một sự ḥa hài giữa các định chế của con người với luật tự nhiên, và sự học hỏi về Trung Hoa đă chống đỡ cho sự b́nh yên đó. Nhưng, như nhà thơ đă thắc mắc, các đống tuyết rơi năm xưa nay ở đâu?
Những kẻ giờ đây đi đến Việt Nam phải thẩm định các mối nghi ngờ hiện đang công kích người Việt Nam, ít vào cá nhân họ hơn, về những ǵ, như một dân tộc, đang lâm nguy đối với họ. Từ các chiều sâu trong kinh nghiệm lịch sử của họ, họ đă rút ra tín điều rằng ḥa b́nh trên trái đất là điều kiện của tất cả sự thành công, của mọi sự tổ chức có hiệu quả giữa các dân tộc cá biệt.
Bị đánh mạnh bởi sự vô trật tự vũ trụ của thời đại, họ chắc chắn có các lư do sâu xa để quay lại chống hai quốc gia mà họ kỳ vọng nhất, Pháp và Hoa Kỳ, và cho việc quy trách hai nước này về t́nh trạng ngoại lai dường như đă làm tê lie6t. họ. Nhưng cần phải hiểu rằng họ đă không trách móc chúng ta một cách cá biệt; điều mà họ trách mắng là toàn thể văn minh tây phương (kể cả chủ nghĩa Cộng Sản), và sự phân hóa toàn cầu đang diễn ra. Nền văn minh tây phương đang gặp nguy hiểm của việc trở thành đối với họ, sự thay thế cho ư niệm truyền thống của họ về một “thiên nhiên bị giải trừ thiên nhiên hóa” .
Người Việt Nam vốn quen thuộc việc đặt văn hóa và vận mệnh dân tộc của họ vào trong một sự thống hợp của văn minh. Không có ǵ ít hơn lại sẽ giúp họ an tâm. Không nên quên rằng họ vẫn c̣n hiểu biết ít về thế giới bên ngoài biên giới của chính họ; hậu quả, cùng lúc khi chúng ta đang thắc mắc rằng họ thuộc loại dân nào, họ cũng đang thắc mắc rằng chúng ta thuộc loại dân nào. Nói với họ rằng trời giúp các kẻ tự giúp ḿnh có thể không phải là đi thẳng vào vấn đề, bởi giải pháp cho t́nh trạng hiện tại không hoàn toàn nằm trong tay người Việt Nam./-
___
Chương này đă xuất hiện trong một phiên bản hơi khác biệt trên tờ The Yale Review, vol. XLI (Summer 1952), các trang 524-533. Bài viết này được in lại nơi đây với sự cho phép của chủ biên quản lư tạp chí The Yale Review.
******
Chương 2
Các Nguồn Cội Của
Truyền Thống Chính Trị Việt Nam
Các vấn đề chính yếu của Việt Nam – chủ nghĩa cộng sản hay chính phủ công ḥa, chương tŕnh và tương lai các đảng phái chính trị, sự kháng cự có vũ trang hay sự hợp tác cho sự tái xây dựng xă hội, cải cách nông nghiệp và việc kỹ nghệ hóa – không thể được nh́n thấy một cách rơ ràng trừ khi chúng được nh́n từ quan điểm của cộng đồng làng xă. Từ ngay bước khởi đầu lịch sử của nó, đời sống chân thực của đất nước đă là đời sống của các làng xă của nó. Bất kể các biến cố của nhiều thế kỷ, điều này vẫn c̣n đúng trong bản chất.
Tuy nhiên, các đại diện của nước Pháp có khuynh hướng suy nghĩ về Việt Nam trên b́nh diện các trung tâm đô thị. Điều này th́ tự nhiên bởi các thành phố này, như các khu vực của sự phát triển hiện đại, đă là các sự tạo lập của Pháp. Nhưng quan điểm này đă có các hậu quả đáng kể khi nước Pháp tái chiếm đóng Việt Nam vào mùa thu năm 1945, sau khi sự đầu hàng của Nhật Bản đă kết thúc Thế Chiến II. Một bộ phận đáng kể người Việt Nam bị đô thị hóa nhiều hơn ngày càng trở nên tiến bộ đă rút lui ra khỏi các thành phố và quay trở lại vùng nông thôn và các tập quán của tổ tiên mà họ mới từ bỏ hồi rất gần đó. Họ an cư với một cuộc sống bằng rau cỏ nhưng dẻo dai tại các ngôi làng của họ giữa khung cảnh truyền thống của các thửa ruộng trồng lúa, thửa này liền với thửa kia chạy xa tít hết cả tầm mắt nh́n. Sự thoái lui về vùng thôn quê là một sự phản đối chống lại sự tái chiếm đóng của Pháp. Đó là một sự t́m kiếm một căn bản từ đó kháng cự sự phục hồi tư thế tiền chiến tranh xuyên qua một cuộc đấu tranh kéo dài.
Một khi Hà Nội và các vùng phụ cận của nó đă được tái chiếm và giải tỏa phe Việt Minh hồi đầu năm 1947, một cuộc tấn công quân sự của Pháp đă được phóng ra trong mùa thu của năm đó đánh vào các căn cứ kháng chiến tại vùng núi đồi của Bắc Kỳ (Tonkin) (Miền bắc Việt Nam). Chiến dịch này, được thi hành bởi lính nhảy dù, biệt kích đường sông, chứng tỏ một cách xác quyết rằng các lực lượng vũ trang Pháp đă có khả năng xâm nhập vào bất kỳ khu vực nào bị kiểm soát bởi đối thủ của họ. Ngoại trừ các thời kỳ ngắn ngủi, yếu thế hơn tại một số vị trí nào đó – đôi khi bởi một sự thiếu hụt nhân lực, đôi khi bởi sự bố trí các binh sĩ hay bởi các kế hoạch bị thích nghi một cách tồi tê với các t́nh trạng địa phương – lợi thế này đă được duy tŕ. Tuy nhiên, nó đă không mang lại giải pháp chính trị mà bộ tổng tham mưu Pháp đă tiên liệu trong năm 1947 như kết quả từ một chiến dịch của các vụ đột kích địa phương. Ngay dù các hoạt động này được mở rộng, chúng đă không mang người Pháp đến gần hơn mục tiêu của họ về một sự b́nh định hữu hiệu các khu vực nông thôn. Kế đó, điều được quyết định là thay thế Lực Lượng Viễn Chinh Pháp bằng một quân đội dân tộc Việt Nam, một lực lượng đă phải được thành lập từ con số không. Điều đă được tin tưởng rằng một quân đội Việt Nam có thể mang lại sự b́nh định vẫn tiếp tục lẩn tránh người Pháp. Nhưng điều này cũng không phải là phương thuốc trị bách bệnh.
Mặc dù các lực lượng Pháp đă chứng tỏ khả năng đi đến bất kỳ nơi đâu tại Việt Nam, họ hiếm khi có thể ổn định hóa các sự chinh phục của họ, ngoại trừ tại một số khu vực đô thị nào đó. Sự kiện này th́ nghiêm trọng từ một quan điểm chính trị, không chỉ v́ các lư do về “thể diện” mà c̣n bởi sự chiếm đóng của Pháp đă bộc lộ các người ủng hộ ở địa phương của họ, trong khi sự di tản sau đó phơi bày họ ra trước sự diệt trừ bởi Việt Minh. Chuỗi các diễn biến này cho thấy rằng sự chiếm đóng của Pháp đă chỉ có bề mặt. Bất kể sự kiểm soát của Pháp không thể phủ nhận được tại một số khu vực nào đó, phe Việt Minh đă có thể tự ḿnh tái xâm nhập một cách bí mật. Họ đă có thể đặt ra các mức thu tô trên mùa màng và thu các sắc thuế. Nhà chức trách Pháp hoạt động ban ngày nhưng ban đêm thuộc về phía Việt Minh. T́nh trạng tệ hại không ngừng này trên mọi sự việc mà người Pháp nỗ lực để tái xây dựng, cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, dần dần dẫn dắt họ đến một sự thay đổi quan trọng trong chính sách. Trong suốt thời kỳ 1946-1947, người ta có thể theo dơi sự tái định hướng này hàng tháng trong các lời tuyên bố chính thức và trong các lời b́nh luận của báo chí ôn ḥa của Pháp. Nước Pháp đă không c̣n suy nghĩ về việc phục hồi một Đông Dương thuộc địa. Đúng hơn điều cần thiết là phải “giải phóng” Việt Nam ra khỏi quyền chủ tể của Pháp và thiết lập một chính quyền phe dân tộc, dưới sự lănh đạo của Hoàng Đế Bảo Đại, để chống lại phe Việt Minh.
Quyền Lực Chính Trị
Của Các Nông Dân Việt Nam
Điều ǵ mà các địch thủ rải rác của Pháp nắm trong tay chống lại họ đă gây ra một sự thay đổi trong chính sách của Pháp? Có điều ǵ tại Việt Nam của các cánh đồng lúa sẽ không bị khuất phục ngay dù nó bị cắt đứt khỏi mọi sự tập trung hóa hành chính và kỹ nghệ? Để trả lời các câu hỏi này người ta phải chơi một ván cờ. Nó phải được sắp đặt trên một bàn cờ -- một sự tŕnh bày trong trường hợp đặc thù này là một sự mô tả thích hợp về mạng lưới chia thành các mảnh ruộng của các cánh đồng lúa ở vùng nông thôn. Nằm tại chính nền tảng của xă hội Việt Nam, các cánh đồng lúa trong suốt ḍng lịch sử đă cung cấp cho xă hội này một lư do để tồn tại. Các cánh đồng đă mang lại căn bản cho một cấu trúc xă hội ổn định, một kỷ luật cho việc làm, và một tiết điệu cho các lễ lạc cộng đồng – tóm lại, một hợp đồng giữa bản thân xă hội, đất và trời.
Trong khuôn khổ giới hạn này được thích nghi theo tâm tính của họ, người Việt Nam đă t́m thấy lối sinh sống, bất kể các sự thiếu thốn vật chất. Người Pháp đă làm hết sức của họ để tôn trọng môi trường truyền thống này trong khi cùng lúc phơi bày nó trước các tư tưởng về một lối sống tốt đẹp hơn. Mặc dù người Việt Nam có chấp nhận người Pháp tiến vào vùng nông thôn trong các cấu trúc truyền thống của họ, họ đă không thể thay đổi khuôn mẫu đời sống của họ theo chiều hướng của các tư tưởng Pháp. Bởi v́ các thành tố của nền văn minh Pháp và các quan điểm của nó về đời sống chính trị chính yếu có tính chất đô thị, chúng mang lại một ư tưởng rất mờ nhạt về sự cấu kết bên trong của một đời sống gắn chặt với đất đai. Trải qua nhiều thời đại, cuộc sống này dường như không thay đổi. Trong thực tế, nó tự lập lại từ thế hệ này đến thế hệ kia. Các cuộc chinh phục của Trung Hoa vào Việt Nam, do đó ảnh hưởng về mặt xă hội và văn hóa, chỉ là các chuyện hàng thế kỷ mới xảy ra khi nh́n từ quan điểm chính trị.
Tại Việt Nam hàng triệu con người bám lấy mặt đất bằng phẳng và có thể tưới tiêu nước. Ở đó tràn ngập các ngôi làng – 7000 ngôi làng trong chúng tại vùng Châu Thổ Sông Hồng không thôi, nơi hơn 7,000,000 cư dân chen chúc trên 15,000 cây số vuông. Ngôi làng như một đơn vị là thành tố chủ yếu trong cảnh trí của con người. Trong thực tế, nó câu thành cảnh trí đó và tạo lănh thổ Việt Nam như hiện nay: một sự tái lập của các ngôi làng trải dài đến tận các biên giới của nó. Bất kỳ hành động nào được thực hiện trong nội vi của xứ sở này v́ thé sẽ hàm ư tái trang bị kinh tế, xă hội và chính trị của các sự an cư của các ngôi làng này.
Sự hài ḥa giữa người Việt Nam – giống dân đă bước vào lịch sử vào năm 208 Trước Công Nguyên [?] ở vùng nào đó quanh viền phía nam của Trung Hoa – với các điều kiện môi trường của họ được chứng minh sâu dậm đến nỗi không có chủng tộc nào có thể kháng cự lại sự tiến bước của họ, cũng như không có bất kỳ lực nào sau đó t́m cách kéo được họ ra khỏi vùng đất này. Cuộc nam tiến lịch sử của người Việt Nam từ Châu Thổ Sông Hồng thuận tiện hơn bằng các chiến dịch quân sự. Nhưng nó đă được củng cố bởi giới nông dân, các kẻ đă mở rộng mạng lưới các làng xă của họ và đă triệt hủy mọi dấu vết của Vương Quốc Chàm bị đánh bại, xứ nằm trên đường di chuyển xuống phía nam. Trong thế kỷ thứ mười tám, một phần lớn của Nam Kỳ (Cochin-China) cũng đă được chiếm một cách tương tự từ dân Căm Bốt, các kẻ đă bị lùi ngày càng xa hơn về phía tây. Nếu người Pháp không đến, phần c̣n lại của Căm Bốt sẽ là phần thưởng cho kẻ chiến thắng trong một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Thái Lan. Chính v́ thế lịch sử Việt Nam tuôn tràn xuống Đông Dương giống như một cơn lũ quét sạch các giống dân khác ở bất kỳ chỗ nào họ sống tại đồng bằng, trên đó có các cánh đồng lúa hay vùng đất thuận lợi cho sự phát triển các cánh đồng lúa.
Một bằng chứng mạnh hơn và quyết đoán hơn về sự hài ḥa giữa người Việt Nam với các vùng đắt bằng phẳng thích hợp cho việc trồng lúa là sự kiện rằng sự bành trướng của họ ngừng lại tại chân các ngọn đồi của các vùng cao nguyên. Ngoại trừ một số tiền đồn quân sự hay chính trị nào đó, chẳng hạn như Cao Bằng tại biên giới Trung Hoa hay khoảnh đất Pleiku của cao nguyên trung phần, người Việt Nam không cư trú tại các cao nguyên đồi núi của Việt Nam. Trong thời kỳ gần đây khi người Pháp trở nên liên hệ với lịch sử của họ, người Việt Nam – đă sẵn di chuyển từ Bắc Kỳ (Tonkin) hết con đường xuống Vịnh Xiêm La, một khoảng cách gần 1,200 dậm Anh – hầu như đă không thực hiện các sự xâm nhập vào lănh thổ của cao nguyên trung phần, bản quán của dân miền núi: montagnards. Các khu định cư của họ luôn luôn bị ép giữa các ngọn núi và biển trên một giải đất dài 600 dậm Anh và tại những nơi chỉ rộng có vài dậm. Bị chặn vây tại phía tây bởi gờ của các đồi dốc che phủ bởi rừng rứ này với chứng bệnh sốt rét độc địa chết người, người Việt Nam dần dần đạt được sự quân bằng dân số tại các đồng bằng bằng cách canh tác lúa gạo được dẫn nước tưới tiêu.
Tại phong cảnh mở rộng này được chấm họa với các làng xă, người Việt Nam đă phát triển cách sống của họ. Theo tác giả Pierre Gourou 1 chính trên các đồng bằng đất thấp này mà người ta đă t́m thấy sự phát triển thích hợp nhất với các t́nh huống của thổ nhưỡng và khí hậu ở tŕnh độ của một xă hội của các nghệ nhân tại một vùng nhiệt đới. Kết quả, người ta có thể nh́n thấy rằng sự bành trướng của Việt Nam tượng trưng cho một sự liên tục lịch sử. Mọi nơi mà lúa gạo có thể được canh tác với nước, những cộng đồng nông nghiệp Việt Nam này đă tràn ngập gần như một cách tự phát. Mặc dù bị đánh về quân sự vài lần trong lịch sử bởi người Chàm, các kẻ nằm trên lối bành trướng về phía nam của họ, người Việt Nam đă không chỉ đánh bại các đối thủ này trong trường kỳ mà c̣n làm bật gốc rễ họ. Phần nào giống như dân Hồi Giáo, mặc dù có lẽ với ít sự khoan dung về đạo lư hơn, người Việt Nam đă mang đến toàn bộ cuộc sống chứ không phải một nền kinh tế, tín ngưỡng, và hệ thống luật pháp riêng biệt. Người Việt Nam đă cấu tạo đất nước theo h́nh ảnh riêng của chính họ. Bất kỳ nơi đâu lối sống đó theo sau người Việt Nam đến định cư ở đó, và kinh nghiệm chứng tỏ rằng họ đă đến để ở lại đó.
Một giả thuyết nổi tiếng của Pierre Gourou rằng tại một xứ sở nhiệt đới. sự canh tác lúa gạo tại các cánh đồng ngập nước là điều ǵ đó không thôi mang lại sự phát triển của một nền văn minh tiền tiến, trong khi cùng lúc hạn chế nó. Sự bành trướng của Việt Nam tương ứng với quan điểm lịch sử này. Song để giải thích sự thành công của nó trong cách đó, điều cần thiết là phải khảo sát một cách chặt chẽ cấu trúc xă hội của người Việt Nam, bởi v́ người Chàm và người Căm Bốt cũng quen biết với phương pháp trồng lúa đó. Trong thực tế, người Việt Nam sau khi họ chinh phục người Chàm đă không khôi phục tất cả các hệ thống dẫn nước tưới tiêu khéo léo của họ. Về mặt lịch sử, dường như sự ưu việt thực hành của xă hội nông thôn Việt Nam có được là nhờ sự hài ḥa của nó với hệ thống xă hội Trung Hoa. Hơn nữa, nhược điểm của các đối thủ của người Việt Nam có thể quy kết cho sự đồng nhất của họ với các nguyên tắc và truyền thống xă hội của Ấn Độ.
Mô H́nh Việt Nam
Theo Hệ Thống Xă Hội Của Trung Hoa
Đâu là bản sắc của văn hóa Việt Nam? Nó có vẻ đă vay mượn từ láng giềng phương bắc sức mạnh để chinh phục các đối thủ phương nam của nó. Nhưng nó đă tiếp thu từ đâu sức mạnh để kháng cự mô h́nh mà nó đă rập khuôn theo và để vứt bỏ sự đô hộ chính trị sau nhiều thế kỷ bị khuất phục? Ngay từ lúc khởi đầu của Việt Nam, câu trả lời then chốt cho các vấn đề lịch sự của nó xem ra sẽ được t́m thấy nơi tinh thần kháng cự đó. Trong một cách nghịch lư, tinh thần này kết hợp các năng lực gây ngạc nhiên của sự đồng hóa với một tính dân tộc vô địch vốn là áo giáp chống lại các sự thất trận, phân hóa và chinh phục. Sự kiện hơn một ngh́n năm bị sáp nhập vào nước Trung Hoa, từ thế kỷ thứ nh́ Trước Công Nguyên đến thế kỷ thứ mười Sau Công Nguyên, c̣n lâu mới làm hao ṃn tính bất khả đả bại đó, dường như thay v́ thế lại đă tăng cường nó.
Chính trong các quyển niên sử của Trung Hoa mà Việt Nam đă xuất hiện từ truyền thuyết và bước vào lịch sử. Trong suốt các thế kỷ thứ nhất và thứ nh́ Trước Công Ngutyên, nó xuất hiện như một tỉnh bị chinh phục. Sự phân chia thành mảnh nhỏ đất đai, nguồn cội của văn minh địa phương, hiển nhiên đă được đảm trách bởi các người thực dân và các quan chức Trung Hoa. Sau đó, nhà nước, xă hội chính thức, các luật lệ, quân đội, chữ viết, và các nghệ thuật dần dần được tạo lập theo kiểu cách Trung Hoa. Khổng Tử được chấp nhận một cách phổ quát tại Việt Nam giống như tại Trung Hoa và các bàn thờ dành cho ông ta được nở rộ ngay tại các làng xă. Nhưng cấu trúc căn bản, có liên hệ chặt chẽ với các cánh đồng lúa, th́ khiêm tốn. Không cần nói, Việt Nam chưa bao giờ là mô h́nh thu nhỏ của thế giới đó, Trung Hoa, nơi bản thân của nó.
“Trong năm đầu tiên của thời t’iao-lu [?] (679 Sau Công Nguyên), một văn bản Trung Hoa được phiên dịch bởi một chuyên viên nổi tiếng về Việt Nam, Émile Garpardone, một học giả khó tính và đáng tin cậy, có viết:
Vua Kao tsung (Cao Tông?) của nhà Đường đă biến đổi vùng đó thành một phần đất bảo hộ tổng quát là An Nam. Thực sự, những khu định cư th́ quê mùa và thảm hại, các bức tường nhỏ và lều tranh mà người dân khác sẽ không bao giờ sống trong đó. Rồi th́ Lư Công Uẩn, dần dà bắt chước Trung Hoa, đă thiết lập các bộ chỉ huy và các quận huyện. Song toàn thể xứ sở khó lớn hơn một tỉnh của Trung Hoa. Một phủ hạng nh́ bao gồm hơn mười làng một chút ít, một huyện chỉ có một hay hai làng. Người Trung Hoa vừa mới đến xứ sở sẽ cười thầm việc này mỗi lúc [nh́n thấy nó].
Các học giả Việt Nam truyền thống chấp nhận khái niệm rằng tiến tŕnh này đặc trưng cho cách thức theo đó xứ sở đă hấp thụ văn hóa Trung Hoa cổ điển. Nhưng một thái độ như thế, nói sát nghĩa, sẽ là một sự thậm xưng. Trong thực tế, một khi các khu rừng đầm lầy của Châu Thổ Sông Hồng được khai quang và khô đi, khi xứ sở được biến thể thành các cánh đồng lúa, và một chính quyền được thiết lập, điều xuất hiện không cách nào lại là một tỉnh mới của Trung Hoa, mà đúng hơn một quốc gia với một cảm nhận bất khuất về lư lịch riêng của chính nó. Tại Quảng Đông, Quảng Tây, và Vân Nam, văn minh Trung Hoa đă tạo lập Trung Hoa bên ngoài các thành tố chủng tộc khác nhau. Phía nam các tỉnh này, trong một khu vực dưới cùng ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, ngược lại, chính là nơi Việt Nam đă được tạo lập. Trong hơn 2000 năm người Việt Nam đă thực hiện một cuộc kháng cự nội tâm trong một cuộc đấu tranh không cân đối chống lại văn hóa Trung Hoa. Từ ngay lúc khởi đầy và từ những nơi thâm sâu của chính họ, họ đă phải chạy trốn khỏi chủ nghĩa câu nệ h́nh thức (formalism) chính thức vốn đă trở thành đặc tính của nền văn minh Trung Hoa.
Nền Tảng Làng Xă
Của Xă Hội Việt Nam
Xem ra ngay từ lúc khởi đầu của sự tổ chức nông nghiệp của xứ sở, làng xă Việt Nam bởi chính tính chất thôn dă của nó, đă là một nơi nương náu bất khả xâm phạm cho dân tộc. Điều đó không nói rằng mỗi làng có khả năng kháng cự một cách cá biệt. Nhưng các ngôi làng này được t́m thấy ở mọi nơi. Chúng không bị tập trung tại bất kỳ một địa điểm khiến cho đôi phương có thể chiếm giữ chúng như một kẻ nắm quyền kiểm soát thủ đô, lật đổ một triều đại, hay khuất phục một triều đ́nh. Người Trung Hoa đă sai lầm biết bao khi cười thầm các định chế tầm thường như thế, bởi các định chế này không bao giờ nhượng bộ họ. Việt Nam trên mọi điều là một cách hiện hữu và sinh sống có cách biểu hiện và phương tiện để bành trướng là làng xă. Sự phong phú của các làng xă và các h́nh thái đồng nhất của các cánh đồng lúa của nó đă mang lại định nghĩa về đất đai bất kỳ nơi nào mà nó đă chiếm lĩnh từ thiên nhiên hoang dại hay từ các dân tộc khác. Đây là phối cảnh từ đó tinh chất bí mật và mờ ảo, mặc dù nhân bản, của dân tộc này có thể được nh́n thấy rơ nhất.
Từ một cái nh́n khác từ trên cao, các khu định cư nông thôn này giữa các hàng rào cao mang lại ấn tượng là các cái rổ (hay thúng). Bên trong người ta có thể nh́n thấy các mái nhà màu xám hay màu nâu giữa một mớ hỗn độn của các mảnh vườn nhỏ, các lối đi, và các ngơ cụt được sắp xếp như thể “răng lược: teeth of a comb”, dùng theo một thành ngữ địa phương gợi h́nh như tranh vẽ. Nó là một không gian được chen chúc và phân chia ở cao độ. Từ mặt đất, ngược lại, mọi sự thay đổi và không có ǵ trông giống như điều nó vừa được mô tả. Không gian xă hội và các sự phân chia của nó đă biến mất đàng sau một loại phối cảnh thoáng nh́n qua không thể xâm nhập được. Các hàng rào tre dựng thẳng đứng quanh làng giống như các tảng đá. Các ngôi làng lướt đi, làng này sau làng kia trong phong cảnh khi khách qua đường đi theo các khúc uốn cong không thể tranh khỏi của con đê làm thành một lối đi. Các khối vô danh này của hành rào bằng tre tạo thành một đường chân trời di động và liên tục luôn luôn bao quanh quang cảnh của các cánh đồng lúa và công việc đa đoan mà nó ám chỉ. Từ đó chính con người tự ḿnh vạch ra đường chân trời của riêng ḿnh, đàng sau đó cuộc sống thực sự của người đó có thể được che dấu. Sau khi đi hết dậm đường này đến dậm đường khác tại miền quê Việt Nam, người ta có cảm tưởng rằng ḿnh vẫn đứng yên một chỗ.
Trong một xứ sở bị uốn nắn về mặt chính trị, khi đây là điều đă từng xảy ra trong suốt nhiều thế kỷ, bởi sự chinh phục, kháng cự, âm mưu, nổi dậy, và bất đồng, bất kỳ hoạt động bí mật nào đều phải chịu các quy định đặc biệt được đặt ra bởi môi trường cụ thể và xă hội đặc thù. Nơi đây một lần nữa, chúng ta phải bước vào một thế giới khác, hăy để lại một bên những ǵ chúng ta biết đă hoàn thành trong thế giới riêng của ḿnh. Tại các đồng bằng trồng lúa dẫn nước tưới tiêu này có các nơi trú náu phi thiên nhiên thông thường mà người ta có thể lẩn trốn: không có rừng rú, không có đầm lầy hay truông bỏ hoang. Nếu người ta muốn ẩn núp và biến mất, người đó chỉ có thể làm như thế đàng sau con người. Hậu quả, kiểu biến dạng này là giải pháp duy nhất cho những người dân bản xứ trong vùng. Nhưng với sự bảo tồn đó các khối dại chúng lại là một chỗ che chở hữu hiệu chống lại bất kỳ đôi phương nào có ngôn ngữ khác biệt, hay cụ thể hơn, có nước da khác biệt.
Khi một người luồn lách giữa người dân của chính ḿnh, làm sao anh ta lại có thể được khám phá thấy? Trong sự phân tích cuối cùng, chính các lăng xă có câu trả lời. Hậu quả, họ luôn luôn cảnh giác và nghi ngờ mọi điều đến từ bên ngoài. Họ giữ bất kỳ kẻ lạ nào ở một khoảng cách xa, ngay dù người đó có cùng chủng tộc. Hay họ không đón chào bất kỳ khách qua đường nào cho đến khi họ biết chắc được lư lịch và các ư định của người đó – mặc dù họ không bao giờ quá nhanh nhẩu để tin tưởng điều ǵ. Một người lạ không được vội vă lên tiếng giải thích. Nếu sự thật được tái xác nhận, người đó phải để họ tự khám phá lấy nó. Họ có các phương pháp của họ được thụ đắc bởi kinh nghiệm biến đổi qua nhiều thế kỷ. Một người khách được chấp nhận cảm thấy y như ở nhà, và ḷng hiếu khách mà người đó t́m thấy tại ngôi làng Việt Nam không phải là lời nói suông. Nếu người khách hội đủ điều kiện để được chấp thuận về mặt các định lệ và quy ước, người đó cũng sẽ được che chở bởi hàng rào. Tác giả Pierre Gourou đă hiểu điều này từ kinh nghiệm cá nhân của ông.
Các làng xă, khi đó, là những ǵ cấu thành Việt Nam, và chỉ xuyên qua chúng, người ta trong các thời điểm trọng yếu mới học hỏi được để biết về xứ sở và tinhb thần dân tộc của nó. Tác giả Pierre Gourou đă tŕnh bày một cách sâu sắc các giá trị này, vốn mang tính chất nền tảng biết bao đối với xứ sở này:
Cùng lúc khi là một sự bảo vệ chống lại các mối nguy hiểm bên ngoài, hàng rào là một loại ranh giới thiêng liêng của cộng đồng làng xă, dấu hiệu của tính cá biệt và sự độc lập của nó. Khi, vào những lúc bất đồng, một ngôi làng là một thành phần của sự khích động hay cung cấp chỗ tỵ nạn cho các kẻ nổi dậy, h́nh phạt đầu tiên giáng xuống nó là h́nh phạt buộc nó phải hạ hàng rào tre xuống. Đây là một cú đánh nặng nề vào sự hănh diện của nó, một dấu đóng của sự ô nhục. Ngôi làng cảm thấy khó chịu như một con người bị lột quần áo và bắt diễn hành giữa một đám đông mặc quần áo đầy đủ.
H́nh ảnh này thích hợp một cách nổi bật. Nó giúp chúng ta nắm được xă hội được cấu thành bởi các làng xă cạnh nhau được lập ra bởi chính chúng, giống như các con người thực sự, xuyên qua cộng đồng của các cảm nhận và quy ước của họ. Trong thực tế, Việt Nam có được sự thành công xuyên suốt lịch sử của nó là nhờ sự cố kết và kinh dinh (enterprise) của các định chế này. Chúng c̣n kháng cự lại Trung Hoa trong khi hấp thụ văn hóa của nước này.
Ở đó chúng ta có khuôn khổ truyền thống. Nhưng nó đă thích nghi với vở kịch đang diễn ra ngày nay như thế nào?
Các nhà quan sát Tây Phương cũng thích đáng để quy kết một tinh thần bảo thủ đồng nhất cho các làng xă. Điều này có khuynh hướng được làm bởi các làng xă cấu thành khối dân chúng bất động (tịnh). Tinh thần truyền thống của các ngôi làng đă sẵn được tương phản với các khát vọng của “các nhà trí thức”, những người dân thành phố năng động, nóng nẩy, nhưng không quá đông đă được giáo dục xuyên qua các quan hệ của họ với người Pháp và theo các khuôn mẫu của Pháp. Liệu sự trái ngược này, điều chắc chắn là có thực trong thập niên đầu tiên của thế kỷ này [thứ 20, chú của người dịch], có c̣n bất kỳ giá trị nào hay không? Không. Và một cái nh́n không thành kiến vào t́nh h́nh hồi đầu thập niên 1950 sẽ hậu thuẫn cho ư kiến này. Bên kia chu vi pḥng thủ của người Pháp, khu vực “chống đối” đă có tiếng tăm về sự phục tùng “cách mạng”. Giờ đây khu vực này trong thực chất tạo thành một mạng lưới các làng xă đă ngả về phía kháng chiến vũ trang hay ít nhất trợ giúp vào việc nuôi ăn phe kháng chiến. Người Pháp, mặt khác, thành công hơn trong việc kiểm soát các thành phố. Các phần tử bảo thủ đă kết hợp với phía Pháp.
Liệu chủ nghĩa tiến bộ đă thay đổi các kẻ đồng thuyền và liệu hai khía cạnh này của xứ sở đă đổi chiều hay chăng? Không, nhưng đă có một sự thay đổi ngữ nghĩa học (semantic). Sự kiện của sự thay đổi nghĩa của từ ngữ này đă phải được thừa nhận khi người Pháp nhận thức sự tương phản chính trị giữa vùng nông thôn như bàn cờ với các thành phố rải rác khắp nơi. T́nh trạng thực tế không c̣n có thể được mô tả một cách thích đáng bằng các thuật ngữ chính trị trừu tượng, chẳng hạn như chủ nghĩa tiến bộ và chủ nghĩa bảo thủ, vốn có lẽ vẫn c̣n có giá trị vào lứa tuổi cha mẹ chúng ta. Với tất cả sự công bằng, chúng ta hăy trước tiên gạt sang một bên công thức dễ dăi theo đó chúng ta sẽ đối đầu với một giới nông dân vô cảm. Trong cái nh́n cổ xưa này, các nông dân chỉ quan tâm đến bát cơm hàng ngày của họ và bị khủng bố bởi một nhóm nhỏ các kẻ khích động. Thực chất của các khó khăn hiện thời có lẽ đến từ sự sai lầm nguyên thủy trong sự giải thích đó.
Sự kiện rằng nước Pháp phạm phải sai lầm này cho thấy rằng nó không nhạy cảm đối với sự tái phát dân tộc tính tại Việt Nam dưới thời chiếm đóng của Nhật Bản. Sau khi có sự đầu hàng của Nhật Bản, giữa cuộc chiến tranh Pháp-Việt, Paul Mus đă đi bộ băng qua hơn một trăm dậm đường tại Bắc Kỳ, tiến vào khu chiến đấu và sau cùng xuyên qua các pḥng tuyến để t́m Hồ Chí Minh. Ở nơi đó ông đă nh́n thấy các con người đă t́m thấy một sự quân bằng. Họ canh gác tại các tiền đồn chỉ cách Hà Nội sáu dậm, bởi khu vực chiếm đóng của Pháp bị giới hạn đến đó, và đang làm việc ở những nơi khác. Kể từ đó cuộc kháng chiến này đă không bị đổ vỡ trong bất kỳ cung cách dài hạn nào bởi hành động chính trị hay các chiến dịch quân sự lập lại nhiều lần của Pháp hay Mỹ.
Sự kháng cự này đă chứng thực cho sự cố kết dân tộc. Cắt bớt và giảm xuống tới mạng lưới các làng xă của nó, Việt Nam được giữ vững một cách dễ dàng hơn so với các dân tộc khác. Lư do cho sự bền bỉ này là cấu trúc lịch sử căn bản của nó. Sự tự thoái lui được biểu thị bởi hiện tượng rằng mọi nơi người dân đă giật sập các ngôi nhà bằng gạch, đặc biệt các ṭa nhà nhiều tầng ở các trung tâm đô thị, bề ngoài bởi v́ chúng có thể được sử dụng như các lô cốt cho quân nhảy dù Pháp. Cuộc kháng chiến dường như được cảm thấy thoải mái dưới một “túp lều tranh”. Và chính tại đây mà nước Pháp, và giờ đây nước Mỹ, đă phải t́m ra nó và t́m cách hiểu nó, bất luận là bạn muốn tái chiếm hữu nó, tước vũ khí hay cố gắng chinh phục nó./-
___
CHÚ THÍCH
1. Pierre Gourou là tác giả quyển Les paysans du delta Tonkinois: Étude de géographie humaine (Paris, 1936, phiên dịch bởi Richard R. Miller, The Peasants of the Tonkin Delta: A Study of Human Geography [New Haven: Human Relations Area Files, Inc. 1955], 2 tập; L’Utilisation du sol en Indochine Franҫaise (Paris, 1936); L’Asie (Paris, 1933); và The Tropical Lands (London, 1953).
*****
Chương 3
Thiên Mệnh:
Chính Trị Như Được Nh́n
Từ Làng Xă Việt Nam
Ẩn náu đàng sau các ao nước và hàng rào tre bất khả xuyên thủng, vươn thẳng lên, giống như các vách đá màu xanh lá cây và màu nâu có thực, giữa các cánh đồng lúa, những ngôi làng Việt Nam quen với việc tự quản, với một nền tự trị bắt rễ sâu xa được bảo đảm bởi các pháp chế. Theo một ngạn ngữ cổ xưa của Việt Nam, “Phép Vua Thua Lệ Làng: the law of the Emperor yields to the custom of the village”. Nhưng một sự bảo đảm chế độ tự trị làng xă có nhiều thực chất hơn câu tục ngữ này là sự thiếu vắng một sự đăng kư bắt buộc các vụ khai sinh và từ trần bởi một chính quyền trung ương của nhà nước truyền thống. Khi cần thiết để ấn định các nghĩa vụ tập thể của mỗi làng trong việc nạp các tiền thuế, trưng tập dân công hay cung câp một toán binh sĩ cho quân đội quốc gia, nhà nước đă phải lệ thuộc vào các sổ sách đăng kư làng xă không đầy đủ. Các sổ đăng bạ hộ tịch này rơ ràng không hoàn chỉnh, và mặc dù chúng được giả định sẽ được kiểu chính năm năm một lần, đối với nhà chức trách trung ương, chúng vẫn c̣n là một ngưồn tin tức có tính cách dối gạt về dân số trong làng. Hậu quả, chúng đă là một sự kiềm chế hữu hiệu trên quyền lực của chính quyền trung ương đối với các công việc của làng xă.
Một hội đồng thân hào, nhân sĩ cùng chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tập thể của ngôi làng. Hội đồng được tuyển mộ từ một chế độ quả đầu (oligarchy) nhỏ bé của ngôi làng và liên kết với nó là các cố vấn từ giới học thức và các quan chức hồi hưu. Một khi các nghĩa vụ tập thể được hoàn thành, hội đồng các kỳ mục không c̣n phải chịu trách nhiệm ǵ khác với chính quyền trung ương ngoại trừ các vấn đề h́nh sự. Các chức năng của nó bao gồm việc tuyển chọn các viên chức làng xă cũng như giám sát hoạt động thường lệ của chính quyền làng xă. Tổng quát, các quan hệ thế tục với nhà nước chưa bao giờ nhiều hơn công việc có tính cách thống kê, trong khi các sự đối đăi với người dân nằm dưới thẩm quyền quản hạt của nó, ngược lại, có tính cách cá nhân và trực tiếp. Hội đồng biết rơ danh tính của mọi cư dân trong làng và theo dơi các công việc của họ, nhưng không bao giờ phổ biến các danh tính đó. V́ thế, quyền lực của nhà nước chỉ vươn tới sự áp đặt một sắc thuế hay nghĩa vụ khác trên ngôi làng như một tổng thể; nó không đối phó với cá nhân, người dân [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], ngoại trừ khi các cáo buộc h́nh sự có liên can đến. Và bất kể nhiều sự thay đổi trong các triều đại cai trị, nền tự trị này của làng xă vẫn được duy tŕ, không có bất kỳ sự thay đổi lớn lao nào, cho đến lúc khởi đầu thế kỷ thứ hai mươi.
Giờ đây đă trở thành chuyện b́nh thường để nói về một cuộc xung đột thường trực, mặc dù được che đậy, giữa hai thành tố cực đoan của chính trị Việt Nam truyền thống: một bên là Hoàng Đế, triều đ́nh và hệ thống quan lại của chính quyền thư lại; mặt kia, các giới chức trách làng xă được củng cố về mặt tinh thần và ngay cả về mặt vật chất bên trong hàng rào của làng xă của họ. Tuy nhiên, cứu xét kỹ càng hơn nữa, người ta có cảm tưởng về một sự phân công khéo léo. Nhà nước – từ quan điểm quân sự, pháp lư, và tôn giáo – được tập trung hóa và có tính chất độc đoán. Không làng xă nào có thể thách thức nó mà không có sự trừng phạt. Nhưng bởi có sự phân phối các nhiệm vụ hành chính giữa nó và các làng xă, đặc biệt trong các vấn đề kinh tế, nhà nước bị xem nhẹ kư. Mọi sự giao dịch và công việc có bản chất công cộng đă được tản quyền ở mức độ nhiều nhất và được đặt vào tay các giới chức trách cấp huyện và làng xă. Cũng đă có sự tản quyền hóa về việc trả thù lao thực tế của các bộ phận hành chính, bởi họ được trả hầu hết bằng hiện vật – có nghĩa, bằng gạo – bởi chính các người dân làng. Nh́n tổng thể, hệ thống này đưa đến việc nhà nước chỉ có một ngân sách bằng tiền tệ rất nhỏ.
Đi ngược với truyền thống nhiều thế kỷ này, nước Pháp đă để ḿnh bị dẫn dắt tiếp đó bởi hai chiều hướng đôi khi mâu thuẫn: một ước muốn để hiện đại hóa và phát huy sự đồng hóa văn hóa với Tây Phương, chính yếu do áp lực từ trong nước; và trên b́nh diện địa phương, một mức độ không tin tưởng nào đó trong giới bảo thủ Việt Nam về các hiệu quả của một sự tiến hóa dựng đứng hướng đến sự hiện đại. Các chuyên viên thực dân đă có đầy các lập luận chống lại giới bảo thủ, nhưng tuy thế họ chọn lựa việc đặt sự tin cậy của họ nơi các định chế Việt Nam truyền thống. Trong năm mươi năm vừa qua của sự cai trị của Pháp, khuynh hướng hiện đại hóa đă thắng trên tổng thể, nhưng khôngbpohải là không có một ít sự thất bại nghiêm trọng và một số điều đáng tiếc. Chiều hướng này được biểu lộ trong ba loại hành vi:
1. Sự tạo lập một hệ thống thích đáng cho việc đăng kư các sự khai sinh và từ trần tại các làng xă. Hành động này nhắm tới việc chỉnh đốn các danh sách thọ thuế.
2. Sự kiểm soát gia tăng trên hội đồng các thân hào nhân sĩ bởi các nhà hành chính Pháp liên quan đến việc sắp xếp ngân sách làng xă và thực thi ngân sách.
3. Một nỗ lực để thay thế cho sự kết nạp bằng việc bầu cử, như một phương thức để tuyển mộ hội đồng các nhân sĩ.
Chủ định của các “cải cách” này là nhằm mang các định chế Việt Nam vào hàng ngũ sự tổ chức công xă của Pháp. Hiển nhiên, các sự canh cải như thế nhất thiết sẽ gây ra các sự xáo trộn sâu xa trong sinh hoạt địa phương.
Hiệu Quả Của “Các Cải Cách” Của Thực Dân
Hệ thống truyền thống đă được chống đỡ trong nhiều thế kỷ nhờ các tài nguyên được che dấu trước các giới chức trách trung ương bởi sự thiếu vắng một thủ tục trách nhiệm cho việc đăng kư dân số trong làng. Số người đăng kư ấn định tổng số các sự áp đặt – các sắc thuế và sưu dịch [corvées, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch] – mà làng xă nợ nhà nước. Nhưng con số thực sự dân làng, được che dấu một cách cần mẫn trước các giới chức trách trung ương, thường cao hơn nhiều con số đăng kư. Số sai biệt này giữa số thuế sẽ phải nạp một cách tập thể bởi làng với tổng số những ǵ thực sự phải chịu thuế đă tạo ra một quỹ dự pḥng tài chính vẫn nằm dưới quyền quyết định của giới chức trách làng xă và được sử dụng cho sự an lạc của làng xă và các t́nh trạng khẩn cấp. Khi việc giữ sổ sách đăng kư trở nên đáng tin cậy hơn xuyên qua sự quy định của Pháp, khoản biên tế có thể khai dụng này đương nhiên bị cắt giảm. Sự kiểm soát của chính quyền thực dân t́m cách ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn và nhằm cắt giảm, hay ít nhất tạo ra sự khó khăn, cho sự khai thác các khoản dự trữ tài chính của làng bởi các hội đồng địa phương.
Loại biện pháp thứ ba đề cập ở trên có tính chất chính trị trong bản chất. Chúng được giả định để thúc đẩy các người thọ thuế trông chừng sắc bén hơn các công việc làng xă bởi họ đă trở thành các cử tri. Trong năm 1921 tại Bắc Kỳ người Pháp đă lót đường cho một sự tiên hóa theo chiều hướng đó. Khi làm như thế, chính quyền Pháp đă dự liệu rằng sự bàu cử hàng loạt các cựu nhân sĩ sẽ xảy ra bởi sự hiểu biết của họ về các quyền lợi địa phương, cũng như v́ uy tín và kinh nghiệm truyền thống của họ. Sự liên tục này được ước định nhằm tạo dễ dàng cho sự thay đổi sang hệ thống mới, nhưng sự việc đă không phải như thế.
Các kết quả tuyển cử th́ hỗn loạn và gây thất vọng. Tại một số làng, một số nào đó người Việt Nam do Pháp đào tạo có thể bị lôi cuốn để ra tranh cử các chức vụ trong các hội đồng mới, nhưng thông thường các người như thế không có mấy kinh nghiệm về các sự vụ địa phương. Các điều kiện của họ khơi dậy nhiều sự ghen tỵ hay không tin tưởng hơn là sự đua tranh. Trật tự mới mà họ đại diện đă cắt đứt một cách quá đột ngột với các thành phần vốn được thừa nhận của xă hội. Làng xă đă không bày tỏ sự sẵn ḷng để du nhập các giá trị mới, cùng với những người đại diện cho chúng, vào các sự vụ riêng của nó. Đối với các thân hào nhân sĩ, những kẻ vốn thường là các nhà lănh đạo theo tập quán dân chúng nông thôn, họ có quá nhiều điều để bị mất đi về mặt tài chính bởi sự thay đổi. V́ thế, họ đă rút lui khỏi sự tham dự và đă nh́n thấy rằng thay vào đó các người không có tính đại diện đă được tuyển cử. Không tự ḿnh ra mặt, các nhân sĩ t́m cách vận động các người khác vào chức vụ và sau đó điều khiển một sự chống đối được che dấu đối với mọi biện pháp được đề nghị bởi chính quyền thực dân.
Chính v́ thế, xem ra các nỗ lực của Pháp để hiện đại hóa ở tầm mức làng xă đă là một sự thất bại. Một cách từ từ, điều trở nên rơ ràng rằng các sự thay đổi này đă không được đón nhận ǵ cả tại nông thôn, và với sự pḥng thủ dễ hiểu. Các người Pháp đă xem sự vắng bóng hoàn toàn nhiệt t́nh dành cho các sự canh tân này là một hậu quả của sự chưa trưởng thành về chính trị và tư cách công dân của người Việt Nam. Những người khác nh́n sự việc như bằng chứng của sức sống phát sinh bởi các giá trị truyền thống và được điều hướng chống lại chủ thuyết hiện đại hóa quá độ của người Pháp. Bất kể sự bất đồng này về các nguyên do cho sự thất nhân tâm của các hội đồng, đă không có sự tranh luận về hiệu năng của chúng. Các hội đồng được tuyển cử, được thiết chế tại Bắc Kỳ trong năm 1921, sau cùng đă bị băi bỏ bởi một sắc dụ của Bảo Đại năm 1941, đă tái lập các đặc ưu và các quyền lực trước đây cho các hội đồng nhân sĩ truyền thống. Nhưng trong năm 1945, các hội đồng làng xă theo tục lệ này vốn mới được tái lập gần đó đă bị quét sạch ở nhiều nơi của Việt Nam cùng với chế độ quân chủ truyền thống tiếp theo sau sự xuất hiện của chế độ cách mạng. Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa do Cộng Sản cầm đầu sau đó đă t́m cách xây dựng lại xă hội nông dân quanh các hội đồng với một bản chất khác biệt có các nền tảng chính trị đoạn tuyệt với quá khứ. Tại nhiều nơi, đó là một sự dứt bỏ bạo động. Song có “các chuyên viên” về xă hội Việt Nam phán đoán rằng mọi điều cần làm để mang ḥa b́nh trở lại cho xứ sở tan nát đó chính là sự tái thiết lập dần dần mạng lưới theo tục lệ các hội đồng làng xă cùng với các giá trị xă hội truyền thống của chúng.
Toàn thể vấn đề Việt Nam nằm ở đó, không c̣n có tính chất lư thuyết, mà trên b́nh diện các định chế cụ thể.
Khi chế độ thực dân bị triệt hủy bởi sự chiếm đóng của Nhật Bản tại Đông Dương, và có cuộc kháng chiến bản xử vũ trang năm 1945, một quyết định đă phải đưa ra bởi phe cách mang về quy chế tương lai của các hội đồng làng xă. Sự lựa chọn phát sinh là loại bỏ chúng, và điều này có nghĩa là các hội đồng kỳ mục đă bị giải tán và đôi khi bị diệt trừ tại các khu vực nơi Việt Minh có sức mạnh. Biện pháp này đă là một hành vị quan trọng trong lịch sử đối nội của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoa bởi chắc chắn đó là hành vi đă ấn định nhiều nhất tương lai của nó. Quyết định xem ra đă bị khiến dẫn bởi hai sự cứu xét. Trước tiên, một chính sách quốc gia có hệ thống và bao quát đă t́m thấy sự biểu lộ trong việc thay thế tức thời các hội đồng theo tục lệ bởi một loại ủy ban làng xă kiểu mới. Thứ nh́, để ủng hộ cho các ủy ban mới này, đă có một sự tái kết hợp xă làng xă Việt Nam trong một khuôn mẫu khác biệt triệt để với cấu trúc truyền thống của nó. Đă có các hội công nhân và nông dân cũng như các ủy ban được cấu thành bởi phụ nữ, người lớn tuổi, và ngay cả các thiếu nhi, cùng với các nhóm người buôn bán, các cựu chiến binh, và những người khác có tư thế xă hội khác biệt.
Thiên Mệnh và Khái Niệm Về Cách Mạng
Cuộc cách mạng chính trị và xă hội này không chỉ được áp đặt từ trên xuống dưới mà c̣n các tiền lệ địa phương mang lại cho nó các gốc rễ thực sự tại vùng nông thôn. Thí dụ, trong những thập niên cuối của thời kỳ thực dân, người Pháp đă khiến cho các làng xă tự xem ḿnh là các kẻ chống đối với chế độ quân chủ truyền thống mà Pháp đứng ra “bảo hộ”. Trong cách nh́n của địa phương về sự việc, các làng xă được gán cho là có một “lẽ chính đáng: virtue” – có nghĩa, một hệ thống xă hội và chính trị --- đối kháng với chế độ quân chủ cầm quyền, và trong truyền thống Khổng học này, vốn vẫn c̣n đâm rễ sâu xa tại nông thôn, đă không có chỗ cho một sự thỏa hiệp. Hoặc là đồng nhất chặt chẽ hay đối kháng. Hơn nữa, bởi việc nh́n lịch sử như liên can đến một sự thay đổi hoàn toàn, truyền thống cũng bao hàm một khái niệm cách mạng có thể được gọi là có tinh chất vũ trụ (cosmic) hay theo thời khí (climatic); trong thực tế, điều đó được biểu lộ một cách bất biến trong sách vở Trung Hoa. Theo các văn bản này, tại những thời điểm trọng yếu, các định chế, các học thuyết và các nhân sự nắm quyền thay đổi hoàn toàn, như một tổng thể thống nhất, giống như mùa này thay thế mùa kia.
Toàn bộ guồng máy trấn áp như nó đă có, được tổ chức tại Việt Nam nhân danh chế độ quân chủ truyền thống, nhưng trong thực tế được thực hành bởi các giới chức trách thực dân Pháp, đă chuẩn bị đầu óc của người dân cho chính các ư tưởng như thế. Hậu quả, từ chính thời điểm năm 1945 mà các kẻ ủng hộ cho phe cách mạng đă thay đổi từ vị thế bất đồng thành một kẻ làm chủ t́nh h́nh, họ được ước định sẽ loại trừ mọi thành phần của hệ thống cũ; sự thỏa hiệp đă không được dự liệu. Mặc dù học thuyết của phe Việt Minh đă không được hay biết về chi tiết, nó khó trở thành vấn đề, bởi học thuyết đă chỉ tạo ra một cảm tưởng tổng quát trên đầu óc người dân, các kẻ sau đó sẽ có lập trường theo hay chống nó. Về mặt truyền thống, điều hoàn toàn đặc trưng của chính trị làng xă Việt Nam rằng tập đoàn đang lên và sắp đến đă t́m thấy một cách dễ dàng các kẻ đồng hành tách biệt khỏi bất kỳ các sự ưu đăi ư thức hệ nào, bởi môi trường khép kín của làng xă, trong đó các các sự xung đội tái diễn không ngừng và được che đậy, đă nhường lại các kẻ ủng hộ một chế độ mới từ trong số các đối thủ thông thường của các nhân sĩ. Hơn nữa, các nhân sĩ thường bị rúng động bởi sự sụp đổ của trật tự cũ, và đối với quần chúng, họ đồng hành với trật tự mới nếu nó tồn tại.
Đàng sau sự dễ dàng để chấp nhận một chế độ mới như thế có thể được nh́n như sự khôn ngoan của một dân tộc đă học được xuyên qua kinh nghiệm rằng các sự thay đổi chính phủ trên hết có tính chất h́nh thức và không có thực chất. Nhưng cùng với các sự cứu xét như thế về h́nh thức, vốn thật quan trọng tại vùng Đông Á, cũng có một số ư niệm đạo lư không thể bị xem nhẹ. Mọi hệ thống đều có các khuyết điểm của nó và tất cả đều rơi vào sự lạm quyền; song một khuynh hướng tự nhiên của quần chúng đồng nhất với văn minh Trung Hoa là chịu đựng các sự lạm quyền trong các thời kỳ b́nh thường bởi không có khả năng để làm bất kỳ điều ǵ về chúng. Bất kể ước ao một sự chấm dứt các sự lạm quyền, ước muốn ổn định nằm ở hàng đầu trong đầu óc của họ; hậu quả, họ đă đi t́m một hệ thống chính trị có khả năng chống đỡ bản thân, một điều kiện mà họ gọi là “lẽ chính đáng” của triều đại.
Nhưng động thái của cùng khối đại chúng rất dễ bảo đó trong thực tế lại là một cái ǵ khác biệt khi một cuộc cách mạng được tuyên cáo, và Tây Phương bao giờ cũng bị ngạc nhiên bởi nó. Khoảng khắc một “lẽ chính đáng” (tại khối Tây người ta sẽ nói một hệ thống chính trị) có vẻ sắp tàn tạ và một lẽ chính đáng khác nh́n thấy sẵn sàng thay chỗ cho cái lẽ chính đáng cũ, các sự lạm dụng trước đây – vốn được chịu đựng cho đên khi đó – được nh́n trong một ánh sáng mới. Khi đó, và chỉ khi đó, chúng mới phải được kiểu chính với sự trợ lực của một nguyên tắc mới. Sự kiên nhẫn cực kỳ chính v́ thế được thay thế bởi sự bất khả dung thứ. Trước tiên, dân chúng dung chấp mọi điều. Sau đó họ từ chối không chịu đựng bất kỳ điều ǵ. Nói cách khác, những giá trị cũ không c̣n đáng giá ǵ nữa.
Đây là điều cho thấy làm sao tinh thần công dân của Đông Á Châu, vốn thường hay bị cáo giác là quá lỏng lẻo hơn tinh thần của Tây Phương về các sai lầm của các quyền lực sẽ có, về các đ̣i hỏi của họ, về các sự thâm lạm ngân quỹ, v.v…, đột nhiên trở nên không khoan nhượng. Đây không phải là cơ hội chủ nghĩa, nhưng đúng hơn một nhịp điệu tri thức khác, một tiết điệu khác với nhịp điệu của Tây Phương. Nó không có bất kỳ ǵ liên hệ với các duyên cớ chính trị. Điều liên can ở đây là các giá trị đạo lư khả sánh với các giá trị cao nhất tại Tây Phương, nhưng chúng chỉ được thực hiện khi các t́nh huống rơ ràng thích hợp. Động thái như thế phát sinh từ một sự khôn ngoan hàng nhiều thế kỷ dẫn dắt đến các phản ứng công dân không cách nào tương tự như các phản ứng của chúng ta. Thay v́ đồng hành với một nhịp bước ôn ḥa nhưng liên tục và hữu hiệu một cách từ từ, đời sống đạo lư Han-Việt nhảy, một cách thất thường, từ khủng hoảng này sang khủng hoảng khác nhiều hơn đời sống tinh thần của Tây Phương.
Khi một cuộc khủng hoảng xảy đến, đầu óc của người dân đột nhiên trở nên mẫn cảm với các giá trị đạo lư và chú ư hơn đến các lỗi lầm đă phạm phải. Họ phán đoán các sai lầm này nằm ở các gốc rễ của cách mạng, và, v́ thế, động thái của các kẻ chủ động đă có một ảnh hưởng xác định trên các biến cố. Điều không phải ngẫu nhiên mà vùng Đông Á Châu ưa thích sử dụng từ ngữ “lẽ chính đáng” cho điều mà khối Tây sẽ gọi là một “hệ thống”. Cũng vậy, vùng Đông Á th́ dễ dàng lui bước hơn khối Tây Phương trước sự vắng bóng các sự đổ vỡ tinh thần hàng ngày từ một chế độ đă thiết định. Mặt khác, phản ứng thông thường của dân chúng, đặc biệt các đám đông, trước một sự thay đổi chế độ là tiến tới gần một kẻ chủ động và lựa chọn theo đó bằng việc lượng giá các lẽ chính đáng đối chọi hay các điều sẽ có vẻ như thế. Liệu chúng ta đă điều tra đủ thâm sâu vào tinh thần khác thường này và am hiểu từ các chiều rất sâu thẩm của nông thôn Việt Nam ảnh hưởng mà nó có được và các yều cầu thực tiễn mà nó đưa ra hay chưa? Một ít sự minh họa nữa sẽ giúp chúng ta tiến tới sự hiểu biết đó.
Các Biểu Tượng Truyền Thống
Của Chính Trị Việt Nam
Ở các thời đại b́nh thường, có một giá trị tuyên truyền vững chắc nhưng hạn chế trong việc kêu gọi các dân làng làm nghề nông với các biểu tượng của sự nghèo đói được phô bày ra và một lối sống khổ hạnh. Loại lư lẽ chính đáng này, mà tâm hồn b́nh dân so sánh với chu kỳ của thiêu đốt, sự sám hối, và sự tẩy uế, sau đó có thể thu gặt được các lời hứa hẹn của hệ thống khác phản ảnh sự phong phú. Mặc dù các biểu tượng như thế có thể xem ra lạ lùng, chúng là các phương cách trực tiếp và quan trọng để truyền thông với một thế giới làng xă. Với mọi người tại Việt Nam, và đặc biết đối với các tầng lớp cầm quyền và có tài sản, h́nh dáng của quyền lực có một bản chất biểu tượng. Chữ Hán yuan [viên?, chỉ có kư âm nhưng không có chữ viết trong nguyên bản, người dịch ức đoán âm Hán-Việt là viên, chú của người dịch], có nghĩa là “tṛn” và gợi lên sự tṛn đầy của một ṿng tṛn, là một từ ngữ phân loại được dùng để chỉ các sự việc được kính trọng, đặc biệt thẩm quyền của các quan viên. Ngược lại, trong thời cách mạng, các biểu tượng đối nghịch đă được sử dụng bởi các kẻ tranh giành quyền lực. H́nh ảnh như thế không phải là không có ư nghĩa chính trị tiềm ẩn. Trong thực tế, đầu óc người dân Đông Á được chứng tỏ đă được thẩm nhập quá sâu xa bởi nó đến nỗi không có hành động nào ở đó sẽ đi được rất xa nếu không lưu tâm đến nó.
Như một toan tính trong chiều hướng này, người Pháp trong sự tuyên truyền của họ đă sử dụng một h́nh ảnh liên tưởng và quá đơn giản, cắt giảm các sự xung đột xă hội với “cuộc đấu tranh của kẻ gầy với người béo mập:”. Á Châu, với các phản đề chính trị của nó, thừa nhận một tính nhị nguyên (hay đối ngẫu) của cùng một loại nhưng là loại sâu xa hơn nhiều. Trong sự thích ứng của Á Châu với các phần tử hiện đại của chính trị quốc tế, cần làm sáng tỏ các lối nh́n và nói truyền thống này. Điều cũng quan trọng để nhận thức rằng sự giáo dục công dân và chính trị của người Việt Nam, mặc dù được cứu xét gần đây bởi các tiêu chuẩn Tây Phương, trong thực tế có một căn bản của một đên hai ngh́n năm. Điều này bao gồm một sự hiểu biết về các chủ đề xem ra trừu tượng có các hàm ư thực tiễn, sẽ rất sai lạc nếu xem nhẹ chúng.
Ngay trong một dân tộc mà khoa địa lư phong thủy (geomancy) và chiêm tinh có ảnh hưởng lớn lao, tầm quan trọng của các biểu tượng địa dư sẽ không chỉ một ḿnh giải thích cho một sự lựa chọn giữa hai hệ thống chính trị, hay giữa hai “lẽ chính đáng”. Nhưng nội dung của các điều tin tưởng, các trực giác, và cảm thức mà chúng truyền đạt chứng tỏ sẽ có tầm quan trọng lớn nhất khi sự lựa chọn được thực hiện. Nhiều xoáy lốc trong ư thức của người dân, vốn không thể giải mă đối với người Tây Phương, -- những kẻ khi đó nói về sự phản bội hay vô ơn – có thể được giải thích trong cách này.
Những người khống chế chính trị tại các làng xă và nông thôn chưa bao giờ thiếu mất các tiềm lực tinh thần để theo dơi, theo một kiểu nông dân thông suốt, sự tiến hóa của một t́nh trạng chính trị. Đời sống công hiện diện đàng sau b́nh phong của các hàng rao bằng tre và có một nhịp điệu riêng của nó. Nó có thể được nh́n thấy từ điều được nói nằm bên trên cách thức và phạm vi những ǵ giới hạn sự thành công chính trị chứng tỏ đă được dự liệu. Điều cũng có thể được nh́n thấy lư do tại sao người dân kỳ vọng mộ cách thuận ứng rằng một đảng nắm giữ quyền hành nhân danh một nguyên lư triệt để mới mẻ của nhà nước sẽ không tiến tới sự thỏa hiệp với bất kỳ điều ǵ hiện diện trước nó. Các giá trị ấn định bị lật đổ và xóa sách; nhà nước thay đổi không chỉ trong dáng vẻ bề ngoài mà c̣n cả trong thực chất.
Các cuộc cách mạng duy nhất mà sự thông thái chính trị Vệt Nam xem là đích thực là những cuộc cách mạng thi hành sự thay đổi hoàn toàn. Bằng chứng chính yếu về quyền hạn của một phe phái nắm giữ quyền hành là một chương tŕnh mang lại các giải pháp mới cho mọi sự việc, và tại vùng Đông Á, khái niệm này măi măi quen thuộc đối với người dân nông thôn đơn giản nhất. Nhưng liệu ông ta có sửa soạn để nghe ngôn ngữ đương thời của cuộc cách mạng chính trị và xă hội đang được loan truyền trong chiều hướng cuả ông từ trung tâm của nó tại vùng đông bắc Âu Châu, nói rằng “ Ngay chính nền tảng của thế giới đang thay đổi …” hay không. Để trả lời câu hỏi này, người ta phải nhớ lại rằng có một sự khác biệt quan trọng trong khái niệm của Á Châu về cách mạng; người Á Châu không tin tưởng rằng cuộc đấu tranh sẽ có một cứu cánh tối hậu. Đầu óc Á Châu chỉ tin tưởng nơi các sự đột biến nằm trong các giới hạn chính xác chống lại một căn bản thường trực.
Trong các năm 1945-46, các nhân sĩ kỳ mục làng xă Việt Nam phải gánh chịu các giá của một trong các sự đột biến này. Mặc dù các biến cố th́ bi thảm và khác biệt toàn bộ với diễn tiến thông thường của đời sống nông dân, họ bị thúc đẩy bởi một tinh thần rằng có tính chất cổ truyền trong một số khía cạnh nào đó. Không có ngay cả việc suy nghĩ về sự phối hợp và tổ chức được thiết lập trong trường hợp này bởi một đảng cực đoan, Việt Minh và mạng lưới cách mạng trải rộng của nó, mỗi nông dân đă được chuẩn bị về mặt lịch sử để hiểu được khúc ngoặt đột ngột của các biến cố và để chấp nhận nó với một đáng có tính chất định mệnh. Số phận ác nghiệt của các chức trách địa phương vốn là các kẻ chịu trách nhiêm cho hệ thống sắp bị lật đổ đă là bằng chứng cụ thể về những ǵ mà phe cách mạng đă tŕnh bày như một “sự đổi mới của nhà nước”.
Bởi v́ tiềm năng của nó cho một sự thông thái như thế, thật là một lỗi lầm kỳ quặc để tin rằng người thường dân Việt Nam không quan tâm đến điều ǵ khác ngoài bát cơm của ḿnh. Dĩ nhiên, đó là một trong các sự bận tâm chính của anh ta. Nhưng anh ta có các ư tưởng xác định về kẻ có thể đoan chắc với anh ta về bát cơm hay lấy nó ra khỏi anh ta, và các ư tưởng này tiếp nối lâu dài. Trong nhiều thế kỷ, ngay tại những ngôi làng nghèo nhất, vẫn có một ít nhà trí thức địa phương phổ biến không ngừng ư thức dân tộc với các nguyên tắc của tư tưởng chính trị Trung Hoa. Mặc dù tư tưởng này làm chưng hủng người Tây Phương trong các sự phát biểu và h́nh ảnh của nó, nó đă được thích ứng tốt đẹp với khu vực làng xă. V́ thế, các biến cố lịch sử lớn lao không để người dân lănh đạm, đặc biệt khi họ có liên can một cách trực tiếp và sẽ bị ảnh hưởng bởi chúng ngay dù tại các nơi thôn quê ẩn dật của họ. Một bản năng không sai chạy bảo đảm cho họ rằng trong các thời điểm trọng yếu, phản ứng của chính họ là điều trong phương sách cuối cùng, xác định vận mệnh của dân tộc. Họ đă học được nguyên tắc này từ các đệ tử của Khổng Tử và Mạnh Tử. Dĩ nhiên, người dân [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] không xây dựng, nhưng người dân lựa chọn giữa các hệ thống và chính v́ thế với sức mạnh tập thể quyết định giữa các “lẽ chính đáng” xảy ra xung đột trước mặt anh ta và về anh ta. Tùy ở anh ta, xuyên qua sự lụa chọn đó để chuẩn nhận hệ thống, hay “lẽ chính đáng”, có nghĩa trong sự ḥa hợp với vân mệnh; các người Tây Phương có một thành ngữ thích hợp cho sự lựa chọn này: thời khắc lịch sử. Trong mắt nh́n của người Việt Nam, các thời khắc như thế được đánh dấu bởi lực bất khả kháng cự mà với nó các biến cố được xô đẩy tới.
Dấu Hiệu Của Một Cuộc Cách Mạng Đích Thực
Xuất hiện trước quần chúng, vị phán quan tối cao, với bất kỳ cơ may thành công nào như một sứ giả của vận mệnh, một đảng cách mạng phải phô bày cho họ mọi dấu hiệu của sứ mệnh của nó. Trong trường hợp này, quân chúng kỳ vọng dấu hiệu của các dâu hiệu: sự dễ dàng và trôi chảy của sự thành công. Đảng cách mạng phải thành công trong mọi việc một cách như thể kỳ diệu. Các phương tiện quân sự và tài chính, trong ư kiến của quần chúng, nếu không phải là trong thực tế, là các sự cứu xét thứ yếu và ư muốn về sự thỏa thuận của chính họ đặt bản thân họ trong tay của đảng đă nhận được “mệnh trời: mandate of heaven”. Dưới ánh sáng này, điều có lợi để cứu xét kịch bản gây kinh ngạc được đưa ra bởi sự xuất hiện của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa tại Hà Nội hồi Tháng Tám 1945, và ảnh hưởng nó phải có trên khối đại chúng Việt Nam.
Sự đấu thầu giành quyền lực cách mạng đă xảy ra giữa một cơn lốc xoáy quét sạch mọi thứ -- các lực lượng chiếm đóng Nhật Bản, mọi loại người ngoại quốc, và triều đại dân tộc. Gần như không có một phát súng, các kẻ bị đặt ra ngoài ṿng pháp luật khi xưa đă trở thành trên khung cảnh quốc tế các nhà lănh đạo của xứ sở và tự tuyên bố được gửi từ trên trời xuống trong cung cách cổ điển nhất của các truyền thống. Sự thành công của họ không được nh́n như được trợ giúp bởi sự vắng bóng phản ứng từ các lực lượng chiếm đóng Nhật Bản. V́ thé, trạng thái tinh thần, đúng như thế, của toàn thể Việt Nam không thể nào đă không được truyền tải sự choáng váng lớn lao suốt hết con đường đến tận các làng xă xa xôi nhất. Mọi điều đều khả dĩ, trong thực tế, có tính chất tất yếu, tại vùng nông thôn vào giây phút mà quyết định của ông trời được biểu lộ trong một cách không thể bắt bẻ được như thế tại thủ đô.
Trong các t́nh huống cách mạng này, điều hữu ích để suy tưởng về tầm quan trọng của kẻ đứng đầu đại diện cho đảng cách mạng. Bởi v́ mọi việc th́ tương quan và mọi điều là dấu hiệu của sự lựa chọn của ông trời, không có năng lực chính trị nào tốt đẹp hơn việc phán đoán bởi tư cách của nhân vật qua những ǵ mà ông ta sẽ mang theo bên ḿnh. Truyền thống Trung Hoa đă mang ư nghĩa của tính toàn thể này đến một mức cực đoan rằng với sự xuất hiện của một triều đại mới đă có các sự thay đổi sâu rộng. Các tâp quán, y phục, và một số chữ viết nào đó được điều chỉnh theo các đường nét cá nhân của vị tân Hoàng Đế. Thí dụ, các số đo trên đường lộ vốn được đánh dấu bởi các cột cây số đă được tính toán lại bằng việc điều chỉnh đơn vị cubit [đơn vị đo chiều dài ngày xưa tại Âu Châu tương đương với 45cm72, chú của người dịch] bằng số đo thực sự của cẳng tay [forearm, từ khuỷu đến cổ tay, chú của người dịch] của vị Hoàng Đế.
Mọi điều đều được cứu xét, báo chí quốc tế và dư luận thế giới đă không sai khi họ cố gắng lập lược đồ cho cuộc xung đột Việt Nam bằng việc đối chiếu hai nhân vật, mỗi người trong họ đại diện cho các nguyên tắc chính trị đối chọi. Một mặt có một kẻ ngoài ṿng pháp luật trước đây, Nguyễn the Patriot (Nguyễn Ái Quốc) -- -- một tên khác của biệt hiệu ban đầu của Hồ Chí Minh [sic, nhiều học giả cho biết Nguyễn Ái Quốc là bút danh chung của một nhóm các nhân vật đấu tranh Việt Nam ở Pháp hồi đầu thế kỷ thứ 20, chứ không phải của riêng Hồ Chí Minh, chú của người dịch], chuyên chở cảm xúc thuận lợi nó có trong tiếng Việt – kẻ đă trở thành Chủ Tịch của một chính phủ. Đối diện với ông ta là người đứng đầu triều đại nhà Nguyễn mang dấu tích xa xưa, Hoàng Đế Bảo Đại, kẻ đă được chỉ định bởi các t́nh hướng thắng thế làm đối tác khác duy nhất trong trận đấu vận mệnh này. Nhưng nếu chúng ta trộn lẫn các ư tưởng Tây Phương với trận đấu mà các đấu thủ này đang tranh đua, ư nghĩa của nó sẽ bị mất đi. Khuynh hướng Tây Phương là nhằm lượng giá từng một trong hai đấu thủ về mặt những ǵ mà người đó thực sự đại diện: các sự lượng định được thực hiện về sức mạnh và sự ủng hộ của người đó. Con số các người ủng hộ liên hệ của người đó, có tuyên bố và không tuyên bố, được tính toán cùng với con số các kẻ biện hộ cho một chính sách chờ-xem (wait-and-see) ở mỗi bên. Có lẽ các trí thức và các chính trị gia Việt Nam theo học trong truyền thống của Pháp bắt chước người Pháp trong việc đưa ra một sự tính toán như thế. Chắc chắn rằng đó là lư do tại sao họ đă phạm vào cùng các sai lầm như người Pháp.
Bản thân dân chúng không có vẻ có cùng một quan điểm như thế về sự việc. Trong thực tế, chính sự ngu dốt của họ về các thành phần có thể tính toán và lư luận của họ không có sự chú ư về chúng đă thúc đẩy quá nhiều chuyên viên ‘thực dân” giỏi giang đến việc phủ nhận quần chúng ra khỏi bất kỳ hoạt động hay sự trưởng thành chính trị nào. Nhưng trong sự phân tích cuối cùng, sự dè dặt của họ và các phản ứng theo bản năng của họ có lẽ quan trọng hơn các sự phê b́nh sẽ mang lại cho họ sự tán thưởng. Thay v́ so sánh tổng số sức mạnh bằng việc cộng số người và số vũ khí, vốn là các phần tử hoàn toàn cụ thể, nông dân Việt Nam, các kẻ vẫn c̣n ở lại trong phạm vi các ranh giới của chân trời truyền thống của ḿnh sẽ có khuynh hướng tra vấn vận mệnh và sự thích nghi của con người với vận mệnh đó. Anh ta thắc mắc liệu một nhà lănh đạo như thế, một loại người hành động như thế, có phù hợp với điều ǵ đó không thể mô tả được, vốn không có tên gọi trong ngôn ngữ chúng ta nhưng trong tiếng Việt được gọi là Thiên mệnh [trong nguyên bản viết sai chính tả là Thiên mịnh, chú của người dịch]. Một sự phiên dịch không sát nghĩa của các từ ngữ này sẽ là “the will of heaven: ư trời” hay “the heavenly mandate: sự ủy nhiệm của trời”.
Yếu tố thực sự trong các làn sóng ư kiến như thế là trong các thời điểm trọng yếu, người dân Việt Nam, giống như người Tây Phương, có niềm tin tưởng thâm sâu và gần như tôn giáo của việc mang trong chính bản thân họ tiếng nói của ông trời. Tại khoảnh khắc đặc biệt đó, tiếng nói của ông trời là tiếng nói của họ. Tại sao họ lại phải làm mọi nỗ lực để cộng thêm vào số người ủng hộ bên này hay bên kia hầu diễn đạt một ư kiến cá nhân? Khi thời cơ đến, sự thống hợp sự ủng hộ của đại chúng sẽ mang lại một sự thành công dễ dàng cho phe đảng có sự lựa chọn của ông trời. Sau khi biến cố xảy ra, sự thành công này chứng tỏ rằng sự lựa chọn của họ là một sự lựa chọn đúng.
Không bao giờ quá dễ dàng để đùa nghịch với các lực tiềm tàng này của ư kiến, điều, khi chúng tự giải phóng tại Á Châu, th́ không thể cưỡng lại được. Nhưng làm sao có thể tránh việc bước vào lối đi sai lạc khi tự đưa ḿnh chống lại các lực lượng này mà không biết ǵ về chúng? Người dân Việt Nam đă không lạc lối trong đám mây mù ngay dù chúng che giấu đường hướng của chúng với họ. Sau hết, họ sẽ biết cách đếm số các tiểu đoàn và phán đoán các phần tử cụ thể của một t́nh trạng. Trong thực tế, khuynh hướng tự nhiên của ho sẽ phóng đại các sự tính toán như thế, nhưng trong mắt nh́n của họ, các sự tính toán này không đủ để cảm thấy thực sự được thuyết phục, họ trông chờ các biến cố thu tóm được một động năng mạnh mẽ phù hợp với các cảm giác nội tâm của họ và các sự kỳ vọng của họ; chỉ khi đó họ mới bị thuyết phục rằng lực lớn hơn mà họ đang trông chờ đă thực sự bước vào hành động. Dĩ nhiên, lực đó được nối kết với các phần tử cụ thể của nó, nhưng các phần tử này chỉ hữu dụng đối với nó như một dấu hiệu của sự hiện diện của nó – như một phương tiện để đạt được mục đích của nó.
Sự thông thái này của người Việt Nam, trong đó họ tự gắn vận mệnh ḿnh với một kẻ thắng cuộc, là một sự khôn ngoan thực dụng thông thường đối với mọi người. Nó không lan tràn nhưng được dịch chuyển, từ lục địa này sang lục địa khác, có trong mỗi lúc một thực chất nhân bản và các châm ngôn hành động thực tiễn có thể gây bối rối. Sự trùng hợp của các công thức của nó chiếu rọi ánh sáng vào câu hỏi tổng thể về chính trị văn hóa lai tạp. Tại phương Tây, thí dụ, người ta nói về “việc phô bày sức mạnh của chúng ta để né tránh việc sử dụng nó”. Điều nguy hiểm duy nhất là sẽ tin tưởng rằng các lời lẽ này có cùng ư nghĩa tại Đông Nam Á như chúng có tại Phương Tây. Thực sự, tại Đông Nam Á, chúng chuyên chở thực chất của truyền thống Trung Hoa và một triết lư tổng thể về thế giới, nhưng trong một sự chuyển dịch vị trí quan trọng. Trong cách hiểu của họ, sức mạnh không bao giờ đúng, trái với cách ngôn của các kẻ vị kỷ Tây Phương. Tuy nhiên, c̣n lâu nó mới bị phủ nhận hay lăng quên; sức mạnh th́ được lo sợ, lẩn tránh, xa lánh, sử dụng, nhưng nó bị xem thường. Phải đưa ra một dấu hiệu khác: một sự ra dấu cá biệt của việc sẽ không được sử dụng. Khi đó nó trở thành không chỉ một sự kiện tích cực, xây dựng mà c̣n là một dấu hiệu. Dấu hiệu duy nhất trên đó một chính quyền có thể thiết định bản thân trong công luận là dấu hiệu được thừa nhận như một chỉ dụ, một sự ủy nhiệm từ trời. Trong truyền thống Hán-Việt, tính siêu việt thần thánh này được gọi là chính quyền với đôi tay giang ngang mở rộng, hay hai bàn tay giương cao mở rộng. Ngược lại, ngay với bản thân h́nh ảnh, của một Faustrecht [tiếng Đức trong nguyên bản, có nghĩa luật rừng, chú của người dịch] Tây Phương nào đó, hay vũ lực áp đảo (mailed fist: nắm đấm).
Để có thể hiểu được diễn tiến của cách mạng Việt Nam, các điềm báo hiệu lớn lao th́ hiển hiện năm 1945 chưa bao giờ có thể được nhấn mạnh đúng mức. Sự vươn nắm quyền lực mau chóng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa đă đạt được bởi một nhóm nhỏ các kẻ đă lợi dụng các thái độ phổ biến này, các thái độ đă khoác cho phe nhóm này và các nỗ lực thực sự của nó một tính chính đáng vượt quá khu vực mà họ kiểm soát được về mặt quân sự. Đừng quên rằng từ cái nh́n của người thường dân tại cánh đồng lúa, sự thoái vị của Hoàng Đế Bảo Đại năm 1945 là một biến cố biểu tượng quan trọng. Điều này đặc biệt đúng khi ôntg tuyên bố rằng ông muốn đứng vào hàng ngũ khối dân chúng mới được cấu thành này như một cá nhân b́nh thường. Đâu là một sự đột biến cho các người theo Khổng học suy ngẫm? Thật dễ dàng ra sao cho họ để tưởng tượng rằng trong các biến cố này một sự biểu lộ quyền lực của một hệ thống mới, một “lẽ chính đáng” cách mạng được ủng hộ bởi một thế giới mới trong sự xung đột với trật tự cũ. Đây là một “lẽ chính đáng” đă chín muồi trong sự chống đối và lưu vong để đơm hoa kết trái trong giờ khắc định mệnh này.
Xin chắc rằng, những ǵ tiếp theo sau những ngày đầu tiên của cách mạng đă không hoàn toàn phù hợp với những ǵ mà sự khởi đầu sáng chói dường như hứa hẹn. Phe Việt Minh đă không có khả năng để củng cố quyền lực khắp Việt Nam ngay dù chế độ quân chủ, về mặt lịch sử bị nối kết với nước Pháp như một chế độ được bảo hộ, đă nhượng bộ mà không có một sự đấu tranh nào với chính quyền cách mạng. Trong việc tuân hành theo phe cách mạng, chế độ quân chủ đă tuyên bố công khai rằng sự liên minh của nó với nước Pháp đă là ngutyên do cho sự sụp đổ của nó, nhưng sự thoái vị này được nghĩ bởi người dân là một dâu hệu của quyết định từ ông trời, sẽ đưa đến việc nước Pháp bị trục xuất ra khỏi Việt Nam. Trong một ư nghĩa đặc biệt, đây là một dâu hiệu sai lạc dựa trên sự kiện rằng Phe Đồng Minh đă loại bỏ nước Pháp ra khỏi các hội đồng của họ, và không có sự tham dự của Pháp, điều đă quyết định bởi Phe Đồng Minyh rằng Đông Dương sẽ bị chiếm đóng bởi quân đội Trung Hoa [Dân Quốc] ở phía bắc vĩ tuyến thứ mười sáu và bởi các binh sĩ Anh Quốc ở phía nam. Công tác của Phe Đồng Minh là tiếp nhận sự đầu hàng của các lực lượng Nhật Bản trên lănh thổ, và đă không có ư nghĩ nào về việc sử dụng các lực lượng Pháp cho nhiệm vụ này. Trên đất liền, trên biển cả, và trên không trung, lá cờ Pháp xem ra đă biến mất. Từ một quan điểm địa phương, người Anh và người Mỹ rơ ràng đă gạt bỏ nước Pháp ra khỏi bản đồ của Á Châu như một cường quốc thực dân./-
_____
Nguồn: John T. McAlister, Jr. và Paul Mus, The Vietnamese and Their Revolution, New York, Evanston and London: Harper Torchbooks, Harper & Row, Publishers, 1970, các Chương 1: Viet Nam: A Nation Off Balance, các trang 29-43; Chương 2: The Sources of The Vietnamese Political Tradition, các trang 44-54; Chương 3: The Mandate of Heaven: Politics as Seen from the Vietnamese Village, các trang 55-69.
Ngô Bắc dịch và phụ chú
14.10.2013
http://www.gio-o.com/NgoBac.html
© gio-o.com 2013