M. COUGHLIN
VIỆT NAM
DƯỚI BÓNG
CỦA TRUNG HOA
Ngô Bắc dịch
Mặc dù nhiều sách vở đă được viết
về các quan hệ của Trung Hoa đối với các
láng giềng của nó tại phía bắc, tây và đông,
tương đối có it tài liệu nói về các quan
hệ với phương nam. Các cuộc nghiên cứu
như thế có thể mang lại nhiều sự
tương phản và so sánh quư giá và sẽ là sự trợ
giúp quan trọng trong việc xác định vai tṛ lịch
sử của Trung Hoa cũng nhu các ư định hiện
thời của nó tại Đông Nam Á.
Chính sách truyền thống của Trung Hoa đối
với các láng giềng phương bắc nằm ngoài
Vạn Lư Trường Thành nói chung là một chính sách be
bờ ngăn chặn (containment), chính sách của nó
đối với các láng giềng phương nam là một
chính sách chinh phục và sáp nhập. Việt Nam mang lại một trường hợp đáng chú ư một cách
đặc biệt. Về mặt địa lư và văn
hóa Việt Nam cống hiến một con đường
hợp lư cho sự tiến bước liên tục của
Trung Hoa xuống miền nhiệt đới và sự chinh
phục của nó đối với toàn bộ phía đông
bán đảo Đông Dương. Có một lúc
điều này xem ra như thể sẽ xảy ra.
Nhưng sự việc đă không diễn ra như thế,
và biên giới phía nam của Trung Hoa sau rốt đă
được ấn định ở phía bắc Thung
Lũng Sông Hồng. Như thế nào và tại sao mà
Trung Hoa đă bị chặn đứng trên
đường nam tiến của nó?
Các bản dịch khác của Ngô Bắc trên gio-o
© 2007 gio-o
Khi đó, một lần nữa, Việt Nam đă phải chịu nằm trong một thời kỳ kéo dài,
dưới ảnh hưởng của Ấn
Độ. Mặc dù phần c̣n lại của Đông
Nam Á đă bị khuất phục trước ảnh
hưởng đó, Việt Nam lại không bị; nó c̣n
đóng vai tṛ nới dài văn hóa Đông Á xuống tận
dưới mũi tận cùng của bán đảo, sáp nhập
Vương Quốc Chàm vốn chịu ảnh hưởng
của Ấn Độ Giáo trong tiến tŕnh này.
Tại sao Việt Nam vẫn ở trong khu vực ảnh
hưởng của Trung Hoa trong khi phần c̣n lại
của Đông Nam Á lại bị Ấn Độ hóa
Và sau hết, đường lối quan hệ của Trung
Hoa đối với Việt Nam trong quá khứ giúp chúng ta
suy nghĩ như thế nào về tương lai của hai
quốc gia này?
Các quan hệ của Trung Hoa với Việt Nam có thể
được chia gần như thành ba giai đoạn:
giai đoạn thứ nhất, trước thế kỷ
thứ ba trước Công Nguyên, khi mà các sự tiếp xúc
có tính cách ngẫu nhiên và không có các sự quy định
của chính quyền; giai đoạn thứ nh́ là từ
thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên đến
thế kỷ thứ mười sau Công Nguyên khi mà khu
vực dần dà bị thôn tính và được xem là
một phần của miền nam Trung Hoa; và giai
đoạn thứ ba, từ thế kỷ thứ
mười đến thế kỷ thứ mười
chín là thời kỳ độc lập của Việt Nam,
bị cắt ngắn trong thập niên 1880 v́ có sự sáp nhập
khu vực bởi người Pháp, là thời kỳ kết
thúc việc khảo sát bởi của cuộc nghiên cứu
này.
Trước thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên,
sự tiếp xúc chính yếu của Trung Hoa với khu
vực là xuyên qua các nhà mậu dịch và các nghệ nhân là
các kẻ đă chế tạo ra các kỹ thuật và
sản phẩm tân tiến hơn của Trung Hoa cho dân chúng
địa phương. Bằng chứng của
sự tiếp xúc như thế được rút ra từ
các khám phá hồi gần đây tại khu vực Đông
Sơn ở Bắc Việt. Sự tiếp xúc như
thế sâu xa đến đâu là điều chưa xác
quyết được.
Sau năm 200 trước Công Nguyên, các cuộc chinh phục
của nhà Tần và tiền Hán vào miền nam Trung Hoa bao
gồm cả bắc Việt Nam đă dẫn tới chính
sách thuộc địa hóa bằng quân sự, sự
khuyến khích các cuộc hôn phối dị chủng
giữa binh sĩ Trung Hoa và phụ nữ bản xứ, và
một sự kiểm soát được tŕ thủ một
cách lỏng lẻo trên khu vực xuyên qua một hệ
thống thổ tù (to ssu) cai trị với sự hợp
tác của các tù trưởng bản địa. Văn
hóa Trung Hoa bắt đầu thẩm thấu qua nhiều
mức độ.
Trong thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên với
sự lật đổ vương quốc Nam Việt
độc lập của viên tướng Trung Hoa, tên
Triệu Đà (Chao To), khu vực này được
nhập vào Trung Hoa và một chính quyền cứng rắn
hơn đă được thành lập với sự cai
trị trực tiếp của các tổng đốc Trung
Hoa, tương tự nbư chế độ
đương thịnh hành tại khắp miền nam Trung
Hoa. Chính vào thời điểm này mà tiến tŕnh Trung
Hóa hóa lần đầu tiên được theo đuổi
một cách chủ ư. Sau này nhà Đường tái
thiết lập chế độ thực dân nông binh
[vừa là binh sĩ, vừa canh tác nông nghiệp, chú của
người dịch], một h́nh thức thực dân hóa
đă đóng góp lớn lao vào sự truyền bá văn hóa
cho dân chúng địa phương. Xuyên qua thời
kỳ này một số lượng lớn các học
giả đă đến tỵ nạn tại đây
để tránh các xáo trộn chính trị thời nhà Hán và
nhà Đường. Sau năm 180 sau Công Nguyên, nhiều
người trong dân chúng địa phương thi
đỗ các kỳ thi tuyển làm quan đă
được phép phục vụ trong chính quyền và
một lớp các nhà hành chánh quan lại bản xứ
đă sớm được phát triển, không những
chỉ phục vụ tại miền nam mà c̣n ở
khắp nơi trong Trung Hoa.
Sau đó dưới sự cai trị trực tiếp
của Trung Hoa, tiến tŕnh Trung Hoa hóa tác động
mạnh mẽ nhất ở mức độ chính
quyền và bắt rễ trước tiên vào các tầng lớp
thượng lưu. Tuy nhiên, một vài yếu tố
đă góp phần vào sự thẩm thấu xuống lớp
nông dân:
1. Sự áp đặt cố ư
bởi các nhà cai trị Trung Hoa các tiêu chuẩn Trung Hoa
về y phục, kiểu để tóc, sự tôn trọng
các nghi thức tôn giáo, v.v…
2. Sự thịnh hành
của hôn nhân dị chủng, và chính sách thực dân bởi
người Trung Hoa trong thời kỳ ban đầu.
3. Sự kiện rằng các
tầng lớp cai trị tại Việt Nam luôn luôn gần gũi dân chúng bởi v́ đă không có các thị
trấn quan trọng ngoài kinh đô hoàng triều và do đó
họ đă phục vụ như các người
hướng dẫn và cố vấn trong sinh hoạt thôn xă.
4. Các sự tương
đồng căn bản trong nền tảng văn hóa
của Trung Hoa và Việt Nam có khuynh hướng thúc
đẩy giới nông dân này tiếp nhận các khuôn
mẫu văn hóa Trung Hoa. Cả hai đều là các
nền văn hóa vùng đồng bằng sông ng̣i trồng
lúa nước với các bằng cớ lâu đời
của tục thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng
nơi linh hồn.
5. Sự kiện rằng
hệ thống chính quyền Trung Hoa như Conrad Bekker (1)
đă nêu y kiến, không thể được du nhập từng
phần nhỏ nhặt mà, để có hiệu quả,
đ̣i hỏi sự chấp nhận toàn bộ cơ
cấu văn hóa phức tạp của Khổng học:
nền thư lại của công vụ, hệ thống giáo
dục, hệ cấp xă hội, văn tự Trung Hoa v.v…
Trong suốt thời kỳ này, đă có nhiều nỗ
lực để lật nhào sự cai trị của Trung
Hoa. Một cách đáng kể, đă có các cuộc
nổi dậy của tầng lớp thượng lưu,
được hướng dẫn bởi các địa
chủ hay thành viên của hệ cấp cai trị -- có
nghĩa, từ nhóm được Trung Hoa hóa nhiều
nhất. Nhưng các cuộc nổi dậy này chỉ
thành công trong giai đoạn ngắn, như trong năm 939
sau Công Nguyên, khi người yêu nước Ngô Quyền
đă thành công trong việc đánh đuổi Trung Hoa và
thiết lập triều đ́nh nhà Ngô.
Bởi thế, vào lúc người Việt Nam đủ
mạnh để lật đổ Trung Hoa, họ đă
trở nên Trung-Hoa -hóa một cách toàn triệt, và theo ư
kiến của học giả Pháp, Henri Maspéro, một cách
mỉa mai, người Việt Nam theo đó đă học
hỏi được những ǵ họ cần biết để
bảo vệ sự tự do của ḿnh từ nước
láng giềng và cố vấn văn hóa phương
bắc. Mặc dù ư định của Trung Hoa là tháp
nhập vào khuôn khổ của nó một tỉnh hạt khác,
tương tự như các tỉnh tại miền Nam Trung
Hoa, nó đă làm phát sinh một cách trái lại một dân
tộc mới, đă thành công trong việc thích ứng
hệ thống Trung Hoa hầu thiết lập sự
độc lập riêng cho chính nó.
Tuy nhiên, sự mất mát này không lớn lao như có thể
nh́n thấy ở ngoài mặt, bởi v́ Trung Hoa vẫn
tiếp tục hành xử sự kiểm soát lớn lao
về mặt chính trị và văn hóa trong khu vực.
Trong năm 972, người sáng lập nhà Đinh đă nh́n
ra sự khôn ngoan để gửi con trai ḿnh [tức
Đinh Liễn, chú của người dịch]
hướng dẫn một phái bộ sang Trung Hoa mang theo
tặng phẩm, đổi lại Trung Hoa đă thừa
nhận họ Đinh [tức Đinh Bộ Lĩnh, chú
của người dịch] làm Quận Vương của
Giao Chỉ (tên Trung Hoa gọi Nam Việt), và con trai ông làm
Tiết Độ Sứ An Nam Đô Hộ Phủ.
Từ ngày đó trở đi, tập quán triều cống
Trung Hoa theo định kỳ đă được xác
định chắc chắn và Trung Hoa ở vào vị thế
xây dựng hay phá bỏ một triều đại hay hoàng
đế bằng việc tấn phong hay rút lại sự
thừa nhận chính thức. Như tác giả Wein
đă vạch ra, công cụ chính trị về tước
phong và thứ bậc chuẩn cấp cho một chư
hầu đổi lấy sự thừa nhận quyền
chủ tể tượng trưng đă là một công
cụ quư báu cho sự mổ rộng đế quốc mà
không cần đến sức mạnh của vũ khí,
đă được áp dụng bởi tất cả
mọi triều đại Trung Hoa, và sự thành công
của nó nhờ dựa vào văn hóa và văn minh Hán-Hoa
nhiều hơn là vào bất kỳ uy lực quân sự nào. Ước
muốn được bao gồm trong “vương quốc
văn minh” trái với “lănh địa man rợ” đă là
một yếu tố có sức thuyết phục trong
nền chính trị đế quốc Hán-Hoa.
Các lợi điểm hiển nhiên của văn hóa Trung Hoa
tiếp tục được thừa nhận và c̣n
được nhấn mạnh hơn nữa. Nếu
thời kỳ trước độc lập đă là
một thời kỳ truyền bá văn hóa và tiến hóa
đến mô thức Trung Hoa, thời kỳ từ thế
kỷ thứ mười trở đi đă là môt giai
đoạn tăng cường và bắt chước
một cách kỹ lưỡng mô thức đó. Trong
thời kỳ này, các triều đại về sau của
Việt Nam đă không khác ǵ các triều đại của
nhà Minh và nhà Thanh, đă có những nỗ lực
được tập trung vào việc bắt chước
và vĩnh cửu hóa các truyền thống quá khứ của
Trung Hoa mà chỉ có rất ít tính nguyên chất và canh
cải.
Có thể nói khá yên tâm rằng Việt Nam đă trở nên
Trung Hoa sau khi có sự ra đi của chính quyền Trung Hoa
nhiều hơn trước nữa. Chính trong thời
kỳ này mà đạo Lăo và đạo Phật cũng như
Khổng học đă được chính thức phát huy,
mỗi tư tưởng đă được nhấn
mạnh ở các thời kỳ khác nhau bởi các hoàng
đế khác nhau, và bắt đầu thẩm thấu
xuống mức làng xă. Tác giả L. Cadière (4) cho hay
rằng không phải đợi măi đến thế
kỷ thứ mười bảy mới có sự lưu tâm
đặc biệt đến việc bắt chước
một cách chính xác các nghi thức và lễ tiết Trung Hoa
tại triều đ́nh. Giáo dục được
cải thiện và khuyến khích, và hệ thống thi
cử được khai triển. Hoàng Đế Lê
Thánh Tông trong thế kỷ thứ mười lăm đă
ban hành bộ luật Hồng Đức nổi tiếng,
được soạn thảo sát với khuôn mẫu
của Trung Hoa, nhấn mạnh đến các sự giáo
huấn về đạo đức Khổng học và làm
thối chí các tập tục thờ cúng thần linh của
giới nông dân. Hoàng đế đă tán dương
hệ thống thi cử và thiết lập phong tục
cử hành lễ “vinh quy” của các sĩ tử ứng thí
thành đạt quay về làng quê của họ.
J. Przyluski (5), một học giả người Pháp,
đưa ra sự mô tả về Việt Nam trong các thế kỷ thứ mười bẩy và mười tám như
sau:
Xă hội An Nam truyền thống được
tượng trưng bởi sự đồng hiện
hữu các định chế Trung Hoa và Việt Nam. An Nam đă vay mượn từ Trung Hoa h́nh thức chính
quyền, nền thư lại hành chánh, các luật lệ
về các quan chức, và danh xưng các quận hạt hành
chánh của nó. Chỉ ở làng xă một sự tổ
chức bản gốc đă được phát triển và
duy tŕ. Hơn nữa, ảnh hưởng của Trung
Hoa đă không dừng ở làng xă, nó đă thâm nhập vào
mọi nơi: nó là một trong những yếu tố chính
yếu để xác định sự tổ chức gia
đ́nh và chức nghiệp của một cá nhân.
Ông kế đó đă tiến tới việc mô tả chính
quyền như một chế độ quân chủ theo
khuôn mẫu Việt Nam với hoàng đế như vị
chủ tể chính trị và lễ nghi, cai trị xuyên qua
một hội đồng các thượng thư và một
hệ cấp thư lại được tuyển
chọn bởi các kỳ thi chữ nghĩa như bên Trung
Hoa và gồm cả một viện giám sát (ngự sử
đài). Tầm quan trọng đặc biệt
được gắn cho tiến tŕnh giáo dục và hệ
thống thi cử nhằm cung cấp một bậc thang
cho các sĩ tử có tham vọng và khả năng, từ
trường học ở làng xă lên đến quốc
tử giám tại kinh đô.
Làng xă Việt Nam được nh́n bởi các học
giả Pháp là có tính chất độc đáo. Tuy nó có
vẻ có khác biệt trong chi tiết, nhưng không cách
biệt quá lớn về tinh thần so với khuôn mẫu
của đối nhân Trung Hoa. Nó luôn luôn được
hưởng một sự tự trị rộng răi, có
quyền tự quản theo các truyền thống đă
được phát triển trong nhiều thế kỷ và
thường có thể khác biệt với các truyền
thống của ngay cả các làng xă gần cận. Nó
có tính cách thống nhất không chỉ về địa bàn
mà cả về thành phần của nó bao gồm cả các
tổ tiên của các thế hệ đă qua và những
vị thần linh khác bảo hộ cho làng xă. Tác
giả Nguyễn Văn Thái (6) có nói rằng khi một
người đề cập đến nguyên quán của
ḿnh tại Việt Nam, ông ta không nhất thiết nói
đến nơi sinh ra của ông ta, mà là sinh quán của ông
cố nội ông ta.
Gia đ́nh Việt Nam có vẻ trong phần lớn khía
cạnh giống như gia đ́nh Trung Hoa. Nó
được tổ chức theo chế độ tộc
trưởng và phụ hệ với nam nhân lớn tuổi
nhất đứng đầu hệ cấp. Tuổi
tác có tầm quan trọng lớn lao, cũng như ḷng
hiếu thảo và sự thờ cúng tổ tiên,
được tin đă khai sinh trước khi
người Trung Hoa đến. Hôn nhân được
sắp xếp, chế độ thê thiếp
được chấp nhận và tài sản
được phân chia đồng đều giữa các
con trai. Nguyên tắc của Khổng học về ḷng
hiếu thảo mạnh đến nỗi ngay trong thế
kỷ thứ mười chín Hoàng Đế Tự
Đức đă vâng lời mẹ ngài trong mọi
điều nhỏ nhặt và không bao giờ dám nói cho
mẹ biết về việc thua mất xứ Nam Kỳ.
Nghệ thuật truyền thống của Việt Nam có nguồn gốc, sự hứng khởi và thường cả
sự thực hành từ Trung Hoa. Các hoàng đế
thường dùng các nghệ nhân từ Trung Hoa để
sản xuất các công tŕnh cho triều đ́nh nếu các
nghệ nhân địa phương bị xem là không
đủ tinh thông trong các kỹ thuật của Trung
Hoa. Những người khác được mang sang
để dạy các kỹ thuật như thế cho
nghệ nhân Việt Nam. Các nghệ nhân này đă trung
thành với các kiểu mẫu Trung Hoa của họ,
đến nỗi người ta nh́n trông thấy cây cỏ
Trung Hoa, không được hay biết là có tại Việt
Nam, đă được tŕnh bày một cách kỹ
lưỡng trong các tranh vẽ của Việt Nam.
Đồ sứ men xanh da trời của Huế nổi
tiếng ở triều đ́nh không phải phát sinh từ
Huế mà là từ Trung Hoa -- loại men được
gọi là Men Xanh thời Nhà Minh. Tác giả Maspero (7) có
viết: Không giống như Khmer, chúng ta không t́m thấy
tại Việt Nam đền đài đáng gọi là
thực sự cổ xưa, và việc vay mượn
từ Trung Hoa quá nhiều đến nỗi gần như
không thể xác định được đâu là
nguồn cảm hứng nguyên thủy.” Nghệ
thuật trung-hoa-hóa này vươn tới đỉnh cao
nơi các lăng tẩm của các vị hoàng đế
thế kỷ thứ mười tám và mười chín
tại Huế, đă sao chép một cách tuyệt vời các
kiểu mẫu Trung Hoa. Tuy nhiên, tính nguyên thủy
của Việt Nam, theo lời tác giả Maspero, tự nó
được biểu lộ nơi khung cảnh và sự
sắp đặt các lăng tẩm này, đă mang lại
cho chúng một bàu không khí khó tả của sự huyền
bí, cái đẹp và sự tĩnh lặng.
Kịch nghệ dân gian cũng được dập khuôn
một cách mật thiết theo Trung Hoa với các đề
tài Trung Hoa cổ truyền cùng sự đối xử
với ngành hát tuồng. Giống như bên Trung Hoa,
nghề diễn tuồng kịch bị khinh khi và khó có thể
tuyển mộ các người đóng tuồng từ các
gia đ́nh lương hảo.
Trong lănh vực tôn giáo, Việt Nam đă noi theo chủ nghĩa
chiết trung trong tôn giáo của Trung Hoa, với Khổng
học, Phật Giáo, Lăo (Đạo) Giáo và các sự thờ
cúng thần linh đều chia sẻ sự tôn trọng
ở các mức độ biến đổi. Không có
cuộc nghiên cứu toàn diện nào được thực
hiện về các sự hành đạo và các bài viết gần
đây nhất dựa trên các bài viết của các học
giả ban đầu của Pháp vốn có khuynh
hướng nhấn mạnh đến các khía cạnh
thờ thần linh của tôn giáo dân gian và đánh giá
thấp ảnh hưởng của Trung Hoa. Nhưng các
tục lệ thờ cúng thần linh bản xứ hiện
hữu có chia sẻ nhiều đặc tính chung với các
tục thờ cúng khắp miền Hoa Nam. Khổng
học, cũng như ở Trung Hoa, thấm nhập
mọi mối quan hệ xă hội, và cung cấp một
khuôn khổ cho tục thờ cúng tổ tiên. Nội
dung triết lư và ư nghĩa sâu xa hơn của nó đều
được hiểu rơ bởi giới văn nhân trí
thức (literati) Việt Nam, nhiều người trong
họ đă là các triết gia quan trọng của Trung
Hoa. Như tại Trung Hoa, Phật Giáo và Lăo
(Đạo) Giáo được nẩy nở và
được chính thức cổ vũ ở các thời
kỳ khác nhau, phần lớn đă thoái hóa thành ma thuật
và phép phù thủy với các tăng, đạo sĩ ít
được kính trọng trong cộng đồng.
Về y khoa, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng mạnh
mẽ bởi Trung Hoa. Ngày nay, y thuật của Trung Hoa
và bản xứ lẫn lộn vào nhau đến nỗi
không thể nào tách biệt được chúng, và từ
ngữ y dược Hoa Việt được dung để
chỉ tất cả các y dược thuật trước
thời tây phương du nhập. Một bác sĩ
Việt Nam hàng đầu tại Hà Nội có mô tả
hồi gần đây sự huấn luyện y khoa của
ông như sau: “Giống như phần lớn các
đồng nghiệp của tôi, tôi sinh ra từ một gia đ́nh
học thức thuộc văn hóa cổ điển.
Gia đ́nh chúng tôi đă hành nghề đông y qua tám
đời. Đó là một trong những nét đặc thù
trong nghề nghiệp chúng tôi. Đông y bao gồm các công
thức được truyền từ cha đến con …
trong 12 năm tôi đă học chữ Trung Hoa, sau đó trong
tám năm cha tôi đă dạy cho tôi về y học cổ
truyền … Chúng tôi đă bổ sung vào kiến thức
thực nghiệm được để lại bởi
tiền nhân bằng sự học hỏi các tài liệu
khảo luận y học cổ xưa được
viết bằng Hoa ngữ.” (8)
Chỉ ỏ trong ngôn ngữ, tài năng bản xứ
của Việt Nam mới tự chứng thực. Ảnh
hưởng của Trung Hoa chế ngự trong chữ
viết và tiếng nói ở b́nh diện chính thức, kéo dài
cho măi đến khi độc lập, tiếng Việt
mới dần dà chiếm ngôi vị chủ yếu. Tác
giả Paul Benedict đă gọi một cách hợp lư
rằng Hoa ngữ là tiếng La Tinh và Hy Lạp của
Viễn Đông, nơi mà tiếng Nhật, tiếng Hàn
quốc, và tiếng An Nam đă trở nên trung-hoa-hóa y
như các ngôn ngữ Âu Châu được la tinh hóa.
Chính v́ thế, mặc dù được tin là một
giọng Á-Úc (Austro-Asiatic) và không thuộc gia đ́nh ngữ
hệ Hoa-Tạng (sino-Tibetan) , ngôn ngữ Việt Nam bao
gồm nhiều từ được vay mượn
từ Hoa ngữ. Cho đến thế kỷ thứ
mười ba, mọi văn bản đều
được viết bằng Hoa ngữ, nhưng vào
thời điểm này một loại chữ viết
mới, chữ nôm [bằng Việt ngữ trong nguyên
bản, chú của người dịch], đă xuất
hiện với sự kết hợp tài t́nh các chữ
viết trong Hoa ngữ, gồm một thành tố
tượng trưng cho ư nghĩa và thành tố kia cho sự
phát âm theo cách thức mà phần lớn các chữ trong Hoa
ngữ đă được chế tác, để viết
thành các từ trong tiếng Viết. Một nền
văn học bản xứ bằng ngôn ngữ này đă
dần dà được phát triển, thí dụ nổi
tiếng nhất là quyển Kim Vân Kiều, một thi
phẩm được dựa trên một câu chuyện
của Trung Hoa mà tác giả, Nguyễn Du, đă mang trở
về từ Trung Hoa năm 1812 khi vói tư cách một
vị quan cao cấp, ông được hoàng đế phái mang
cống vật truyền thống đến triều
đ́nh Trung Hoa.
Trong thế kỷ thứ mười bẩy, các giáo sĩ
truyền đạo Âu Châu đă phát triển một văn
tự dùng mẫu tự La Mă gọi là quốc ngữ
[tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người
dịch], đă mau chóng nhận được sự
hưởng ứng và được dùng hầu như
độc quyền ngày nay, mặc dù các người
thuộc thế hệ lớn tuổi hơn hăy có thể
c̣n viết bằng hán tự.
Tuy nhiên, Hoa ngữ vẫn tiếp tục là ngôn ngữ
viết của triều đ́nh cho măi đến khi có
sự chinh phục của Pháp, và các tác phẩm
được viết cả bằng chữ nôm và quốc
ngữ đều hoàn toàn không được
đếm xỉa tới, đến mức bản
tiểu sử chính thức của Nguyễn Du chỉ
đề cập phớt qua tác phẩm Kim Vân Kiều
của ông.
Mặc dù Việt Nam trong nhiều cung cách là một mô h́nh
sao chép thu nhỏ của Trung Hoa và vẫn tiếp tục
bị ảnh hưởng bởi Trung Hoa hơn là Nhật
Bản và Hàn quốc, nó không có cách nào là một bản sao
nguyên văn Vương Quốc Trung Tâm [tức Trung Hoa, chú
của người dịch]. Mỗi một hạng
mục hay tập hợp các mục khoản
được chấp nhận, đă được
sửa đổi hay tái giải thích theo các nhu cầu
hiện tại và quá khứ độc đáo của
Việt Nam. Chính v́ thế, mặc dù Việt Nam có
vẻ đă vay mượn trong luật pháp hệ thống
gia đ́nh theo Khổng học của Trung Hoa, tôn trọng
nghiêm ngặt hệ thống theo đẳng cấp về
ḷng trung thành, địa vị của phụ nữ
Việt Nam th́ rơ ràng cao hơn địa vị của
người phụ nữ trong truyền thống Trung Hoa
đối chiếu. Về vấn đề y
phục, người Việt Nam đă đưa ra một
số sự thích nghi. Mũ giống như băng
quấn đầu của người miền bắc
hất về phía sau, có lẽ là khăn đóng mà Maspero cho
hay đă được mang sớm nhất bởi các
cư dân trong khu vực, khi có sự tiếp xúc đầu
tiên với Trung Hoa. Áo dài hay áo ngắn của quan lại
trông rất giống như của Trung Hoa, nhưng váy
xẻ vạt dài tung bay của phụ nữ với
chiếc quần bên trong có lẽ cho thấy một số
ảnh hưởng của Ấn Độ hay Hồi
Quốc.
Mặc dù các thang thuốc chữa trị của Việt
Nam phần lớn có nguồn gốc từ Trung Hoa,
người Việt Nam có khuynh hướng chuyên dùng
thảo mộc trong khi người Trung Hoa dùng nhiều
vật liệu pha chế động vật và khoáng
sản. Trong lănh vực nấu nướng cũng
thế, mặc dù người Việt Nam ăn bằng
đũa và thức ăn của họ th́ khó phân biệt
được với đồ ăn của Trung Hoa
đối với một người tây phương b́nh
thường, đă có nhiều sự khác biệt và các
sự biến cải theo khẩu vị địa
phương. Nước chấm căn bản – nước
mắm [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của
người dịch] món gia vị trong mọi bữa ăn
th́ đặc biệt của Việt Nam và hoàn toàn khác
với nước tương, nước chấm gia
vị tiêu chuẩn của Trung Hoa.
Bất hạnh thay, không cuộc nghiên cứu
được tổ chức nào để t́m hiểu
về bản chất và sự xuất hiện của
nhiều phần tử Trung Hoa khác nhau trong văn hóa
Việt Nam và v́ thế hầu như không thể truy t́m
lịch sử các sự phát triển này như các học
giả đă từng làm đối với Nhật Bản
và Hàn Quốc. Tuy nhiên, điều rơ rệt từ
bằng cớ được cung cấp rằng lịch
sử Việt Nam trong khía cạnh này th́ hoàn toàn khác biệt
với Nhật Bản, nơi mà văn hóa nhà
Đường đă được chấp nhận
thực sự trong toàn thể [in toto, tiếng La
Tinh trong nguyên bản, chú của người dịch], và
được uốn nắn bởi kinh nghiệm phong
kiến của nó và từ đó trở đi đă
tiến hóa thành một cái ǵ độc đáo và riêng
biệt của Nhật Bản. Ảnh hưởng
kế tiếp của Trung Hoa trên Nhật Bản th́ rời
rạc và sự chấp nhận của Nhật Bản các
yếu tố văn hóa Trung Hoa sau thời nhà
Đường th́ có tính chất tuyển chọn cao
độ và không có cách nào làm thay đổi được
nền văn hóa đă tiến hóa.
Sự tiếp xúc của Việt Nam với Trung Hoa tuy
thế có tính cách liên tục. Chính v́ thế, sự
tiến hóa văn hóa của nó song hành một cách chặt
chẽ với văn hóa của chính Trung Hoa với các sự
thay đổi trong chi tiết giấy tờ hành chánh,
sự giải thích tôn giáo, phương pháp đánh thuế,
và với một khuynh hướng tiệm tiến
đến chủ nghĩa bảo thủ và truyền
thống mạnh như, nếu không phải c̣n mạnh
hơn, của Trung Hoa. Điều này được tiêu
biểu một cách mạnh mẽ trong phản ứng
của Hoàng Đế Minh Mạng đối với
phương Tây hồi cuối thế kỷ thứ
mười chín. Là một đệ tử nghiêm
nghị của Khổng học và một kẻ
ngưỡng mộ văn hóa Trung Hoa, ông đă ngược
đăi các giáo sĩ truyền đạo tây phương và
các tín đồ Thiên Chúa Giáo một cách tàn nhẫn và đă
từ chối kư kết một hiệp ước
thương mại với Pháp. Trong nhiều khía
cạnh, ông c̣n mang vẻ Măn Châu hơn người Măn Châu
và chắc chắn sự đáp ứng của hai
đế quốc này trước sự tiếp xúc với
Tây phương th́ tương đồng một cách
nổi bật.
Giáo Sư Mus (10) đă tổng kết về vai tṛ của
nhà nước Việt Nam trong sự mô tả như sau:
Nhà nước là kẻ phối hợp. Mục
tiêu của nó là ngăn cản không cho các cộng
đồng nhỏ hơn lạc hướng, và các
“đại thần thượng thư ” (từ này không
mang nghĩa nó có ở Âu Châu, chỉ các bộ
trưởng) chính yếu là một loại pháp đ́nh cao
cấp ngồi phán xử về các sự xa rời mô
thức Khổng học. Do đó nhà nước
tuyển mộ tất cả nhân viên của nó trừ các
chức vụ thấp nhất từ giới văn nhân trí
thức, là những người có sự học tập
hoàn toàn theo Khổng học, theo kinh thư và các lời b́nh
giảng của chúng.
Trung Hoa cung cấp một sự mô tả loại hệ thống
này trong một sưu tập phong phú các văn phẩm và
lời chú thích. Xă hội là nội dung của văn
học của chính nó và đó là những ǵ được
kỳ vọng của chính nó.
Nói rằng sự giáo dục các quan chức có tính cách
văn chương tức là nói rằng nó có tính cách xă
hội trong một số ư nghĩa, nhưng nó không
được hướng vào tương lai, như các
khoa học xă hôi Tây phương đă làm. Đă có
sự quan tâm trong việc cải thiện hiện tại,
chắc chắn là như thế, nhưng lư tưởng
sẽ đạt được lại nằm trong quá
khứ. Bởi v́ các sự xấu xa hiện tại
phát sinh do sự lơ là khỏi mô thức Khổng
học, sự chữa trị của chúng không nằm
ở sự canh cải mà là ở sự quay về.
Kiến thức như một kỹ thuật xă hội hoàn
toàn là chủ nghĩa thủ cựu.
T́nh trạng và lịch sử Hàn Quốc mang lại
nhiều sự tương đồng với Việt Nam hơn là với Nhật Bản. Cả hai đều là
những khu vực nằm giáp ranh mà trong nhiều thời
kỳ nằm dưới sự đô hộ về chính
trị của Trung Hoa và măi đến thế kỷ
mười chín vẫn chấp nhận quyền chủ
tể tượng trưng của Trung Hoa. Cả hai
nước đều bị ảnh hưởng nặng
nề về mặt văn hóa từ thời tiền
sử cho đến hiện tại bởi văn hóa và các
định chế Trung Hoa và các chính quyền của chúng
đều hoạt động trong khuôn khổ thư
lại Khổng học. Tuy nhiên, đă có các sự khác
biệt nổi bật trong diễn tiến của sự
tiến hóa này: Hàn Quốc không có vẻ tiến sát gần
khuôn mẫu Trung Hoa là v́ có một vài yếu tố: sự
tản quyền nhiều hơn trong các thời kỳ kéo
dài, một số xu hướng phong kiến nào đó trong
quyền sở hữu của giới địa chủ,
một cơ cấu giai cấp thế tập, một ư
niệm khác biệt của người nông dân và sự quan
hệ của giới này với đất đai, cũng
như các sự khác biệt về tôn giáo.
Các tác giả Fairbank và Reischauer (11) phát biểu rằng
mặc dù Hàn Quốc tuân hành nghiêm ngặt các h́nh thức
nghi lễ của Khổng học, cùng lúc nó vẫn duy tŕ
sự phân cách xă hội chặt chẽ vốn là những
phản đề của học thuyết Khổng
học. Họ bổ túc rằng sự nhấn
mạnh trên truyền thống gắn liền với sức
mạnh chính trị tại Trung Hoa không được t́m
thấy ở Hàn Quốc, nơi mà sự tŕ trệ kinh
tế, sự tham nhũng về chính trị, và sự khô
cằn về văn hóa đă nảy sinh. Khuyết
điểm này có lẽ là hậu quả của một
sự liên hợp không toàn diện của các đặc
tính [ethos, tiếng Hy Lạp trong nguyên bản, chú
của người dịch] Khổng học với văn
hóa Hàn Quốc. Sự giải thích về sức linh
hoạt liên tục của Việt Nam là nằm ở sự
liên hợp toàn triệt Khổng học với phức
hợp văn hóa nơi mà, như Paul Mus (12) đă nói,
sự cân bằng Khổng học giữa nhà nước
trên h́nh thức và làng xă tự trị đă được
duy tŕ một cách thành công cho đến khi có sự xuất
hiện của người Pháp.
Rồi th́ tại sao sự việc lại xẩy ra như
thế, khi mà những ǵ diễn ra tại Việt Nam đă
không xảy ra tại Hàn Quốc, là nước có lịch
sử tiếp xúc có thể được xem là diễn ra
liên tục giống nhau? Một phần của sự
giải thích có thể nằm nơi các chủ định
lịch sử của Trung Hoa đối với hai khu
vực này. Với sự quấy rối liên tục
của các bộ lạc ưa can thiệp và rào cản
vật thể và tâm lư của bức Vạn Lư
Trường Thành với phương bắc của nó,
điều khó tin rằng Trung Hoa, có một thời kỳ
kéo dài nào đó lại xem Hàn Quốc như một phần
của Trung Hoa và đă hài ḷng để chấp nhận nó
như một chư hầu và nước lệ thuộc
về văn hóa. Nhưng Việt Nam, ít nhất cho
đến thế kỷ thứ mười, đă là
một phần liên hợp của Trung Hoa, nước có
chiều hướng nhắm đến khu vực này
tương tự như chiều hướng của nó
đối với Quảng Đông, Vân Nam hay Phúc Kiến.
Ở nơi đây các bộ lạc xa lạ phải
được lôi cuốn, khích lệ hay cưỡng bách
chấp nhận sự sáp nhập, và phương pháp quan trọng
nhất để đạt được điều
này, như Trung Hoa nh́n nó, là làm cho họ trở thành
người Trung Hoa. Điều này họ đă làm với
sự thành công vĩ đại tại Hoa Nam, nhưng tại sao lại không thành công tại Việt Nam?
Câu trả lời phải được t́m trong nguồn
gốc của dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam phát sinh từ một giống dân vùng đồng bằng sông ng̣i
có sức sống cực kỳ mănh liệt mà môi
trường địa lư rất tương tự như
các điều kiện tại Thung Lũng Sông Hoàng Hà.
Họ có một ngôn ngữ riêng của họ, không liên
hệ với các ngôn ngữ Trung Hoa. Họ mau chóng xác
định với một khu vực – Nam Việt hay Nan Yueh
– phát triển một khuôn mẫu xă thôn tự. trị và
một nền văn minh đầy sinh khí. Các sự
khám phá về khảo cổ học cho thấy bằng
cớ về tục thờ cúng tổ tiên, bao hàm các quan hệ
gia đ́nh và ngay cả thị tộc mạnh mẽ và
một hệ cấp xă hội tương tự như các
đặc tính đó của Trung Hoa, và đă cung cấp
một vùng đất ph́ nhiêu cho sự tăng
trưởng của hệ thống Khổng học Trung
Hoa. Căn bản văn hóa của Việt Nam th́ thích hợp cho một khuôn khổ truyền bá văn hóa
của chính loại văn hóa mà Trung Hoa phải mang
đến. Hệ thống hành chính Khổng học và
triết lư Khổng học đă được dùng
để hợp thức hóa và khởi thảo các khuôn
mẫu và các định chế Việt Nam. Điều này sẽ giải thích lư do tại sao văn hóa Trung
Hoa đă được thừa nhận trong toàn thể
của nó chứ không bất toàn như ở Hàn Quốc hay
Nhật Bản, nơi nó mâu thuẫn với các yếu
tố bất khả tương thích trong căn bản
văn hóa hiện hữu .
Mặc dù người Việt Nam đă trở nên Trung Hoa
hóa triệt để, liên hợp thành công tổng thể
phức tạp của Khổng học và xác định
với văn hóa siêu đẳng của Trung Hoa, nhưng
họ đă giữ lại cảm quan về tính
độc đáo của họ và phát triển thành một
sự thúc dục mănh liệt cho sự độc lập
và một lư lịch chính trị của riêng họ.
Cảm thức về dân tộc chủ nghĩa này vẫn
c̣n tiếp tục tác động một ảnh
hưởng sâu xa cho đến ngay thời điểm
hiện tại. Việt Nam trong quá khứ đă t́m kiếm
sự trợ giúp của Trung Hoa trong sự theo đuổi
các mục tiêu quốc gia của nó như trong cuộc
chiến tranh với xứ Chàm, nhưng nó đă kháng cự
mọi mưu toan của Trung Hoa nhằm lợi dụng các
vị thế như thế và không có điều ǵ
khiến chúng ta tin rằng nó lại sẽ không kháng cự
một lần nữa các mưu toan như thế.
Lịch sử kháng chiến của Việt Nam chống
lại người Pháp rất nổi danh và và có vẻ là
các bằng chứng gần đây về sự bất măn
ở địa phương đối với sự
kiểm soát của Hoa Kỳ là một phần của
một khuôn mẫu tuơng tự.
Nếu có bất kỳ một chủ điểm nào
trội bật hơn cả nơi dân tộc nhỏ bé
nằm ở chóp mũi của tiểu lục địa Á
Châu này, đó chính là các nỗ lực của nó để
duy tŕ sự toàn vẹn quốc gia khi đối diện
với sự chênh lệch gần như áp đảo.
Lịch sử phát sinh được đọc một
cách hào hứng và các học giả cho đến nay mới
chỉ đào bới một cách hời hợt ngoài
mặt./-
-----
CHÚ THÍCH:
1. Conrad Bekker, “Historical patterns of
cultural contact in Southeast Asia,” Far Eastern Quarterly, XI,
(November 1951), trang 9.
2. Harold C. Hinton, China’s relations with Burma and Vietnam, a brief survey, New York, 1958, trang 2.
3. Harold J. Wiens, China’s march into the tropics, Washington D.C., 1962 [?], các trang 75-76.
4. L. Cadière, “Religion annamite et
non-annamite,” trong quyển Un empire colonial francaise, l’Indochine,
do Georges Maspero làm chủ biên, Paris, 1929, trang 279.
5. Cùng nơi dẫn trên,
trang 205 (bản dịch từ tiếng Pháp của tác
giả).
6. Nguyễn Văn Thái, A short
history of Vietnam, 1958, trang 218.
7. Georges Maspero, chủ biên, Un
empire colonial francaise, l’Indochine, Paris, 1929, trang 291.
8. Trích theo Mai Hoa, “Meet a practitioner
of eastern medicine”, trong Vietnam Advance, 8 August 1963, trang 25.
9. Paul E. Benedict, “Languages and
literature of Indochina”, Far Eastern Quarterly, VI, trang 383.
10. Paul Mus, “Vietnam: a nation off balance”, Yale Review,
XLI, 1952, các trang 526-527.
11. John E. Fairbank and Edwin O. Reischauer, East Asia: the
great tradition, Boston, 1958, trang 449.
12. Mus, đă dẫn trên, trang 531.
____
Nguồn: M. Coughlin, Vietnam: In China’s Shadow, Journal of Southeast
Asian Histories, Volume 8, No. 2, September 1967.
Ngô Bắc dịch và chú giải