Li Tana
University of Wollongong, Australia
NGOẠI THƯƠNG CỦA VIỆT NAM
TRONG THẾ KỶ THỨ 19:
QUAN HỆ VỚI SINGAPORE
Ngô Bắc dịch
***
Dẫn Nhập
Triều đại nhà Nguyễn từ lâu bị nh́n như là “triều đại phản động duy nhất trong lịch sử Việt Nam, và thế kỷ thứ 19 như là một cơ hội bị đánh mất. Các sử gia thực dân lẫn người Việt phe dân tộc chủ nghĩa đều cho rằng Việt Nam hồi đầu thế kỷ thứ 9 đă có một chính sách đóng cửa theo Khổng họcvà rằng trừ khi bi áp lực bởi các lực lượng bên ngoài, nó vẫn c̣n bất động và không thay đổi. Hơn nữa chính sách bi cáo giác này là nguồn gốc của t́nh trạng nghèo đói của Việt Nam trong thế kỷ thứ 19. 1
Chắc chắn các quan điểm này đă được tái duyệt và đang thay đổi từ từ. 2 Trong bài viết này tôi có chủ định mang lại một số dữ liệu lúc nào cũng hiện diện nhưng bị lướt qua bởi các chuyên viên về Việt Nam, để khảo sát công cuộc mậu dịch trong thế kỷ thứ 19 giữa Singapore và Việt Nam. Trong quan điểm của tôi, nó tượng trưng cho một số chiều kích mới của kinh nghiệm Việt Nam trong nửa đầu của thế kỷ thứ 19.
Một Sự Gia Tăng Mạnh Mẽ Việc Vận Tải Bằng Tàu Biển
Khả năng xuất cảng của Việt Nam bị giới hạn trong thập niên 1810, khi nó vẫn c̣n phải phấn đấu để phục hồi từ sự tổn hại của các cuộc nội chiến hồi cuối thế kỷ thứ 18. Tổng số trọng tải hồi đầu thập niên 1820 chắc chắn ít hơn 30,000 tấn mỗi năm, phán đoán theo sự ước lượng của Crawfurd trong năm 1823. 3 Song hải vận đă gia tăng một cách rơ rệt trong các thập niên kế đó. Mậu dịch của Việt Nam với Tân Gia Ba, thí dụ, vào khoảng 4,000 tấn trong năm 1823. 4 Con số này đă tăng hơn gấp hai lần vào khoảng 10,000 tấn trong năm 1839, và vào năm 1857 nó lên tới 31,000 tấn, hay một sự tăng trưởng gấp bẩy lần, như có thể được nhận thấy nơi Biểu Đồ 1 (1000 tấn) 5:
Biểu Đồ 1: Mậu Dịch Của Việt Nam với Singapore
Sự tăng trưởng này c̣n nổi bật hơn nữa, nếu chúng ta so sánh với một chiều hướng khác của mậu dịch – số xuất cảng của Việt Nam sang Trung Hoa, trong cùng thời kỳ. Tác giả Crawfurd ước lượng trong năm 1823 rằng số xuất cảng của Việt Nam sang Trung Hoa vào khoảng 20,000 tấn mỗi năm, 6 hay khoảng gấp năm lần số mậu dịch của nó với Singapore. Tỷ lệ này ít nhiều vẫn giữ nguyên trong thế kỷ thứ 19. Gạo Việt Nam xuất cảng sang Trung Hoa/Hồng Kông, thí dụ, gấp 4.65 lần số gạo xuất sang Singapore, trong thời khoảng từ 1866 đến 1869. Trong năm 1866, gạo Việt Nam xuất cảng sang Trung Hoa/Hồng Kông là 127,000 tấn, tự nó tăng gấp 6.3 lần tổng số mậu dịch Trung Hoa – Việt Nam trong năm 1823. 7
Tất cả các con số ở trên cho thấy một sự tăng trưởng mạnh mẽ gấp 6-7 lần trong khả năng xuất cảng của Việt Nam, trong nửa đầu của thế kỷ thứ 19. Sự tăng trưởng này đă đặt Việt Nam vào vị thế hoàn toàn thuận lợi về mặt buôn bán với nước ngoài, so sánh với các láng giềng của nó tại vùng Đông Nam Á Lục Địa. Như Bảng dưới đây cho thấy, trong khi trong năm 1825, mậu dịch của Nam Kỳ với Singapore chỉ vào khoảng một phần tư số mậu dịch của Xiêm La, đến năm 1845 nó đă bắt kịp với nước kể sau. 8
Bảng 1: Mậu Dịch Của Singapore với Đông Nam Á Lục Địa, 1825-1865 9
Phần Trăm Của Tổng Số
($ theo hàng triệu)
1825 1845 1865
% % %
Miến Điện - 11 33
Căm Bốt - - 2
Nam Kỳ (Cochinchina) 21 46 23
Thái Lan 79 42 42
Tổng Số $0.7 $1.0 $8.7
Tôi sẽ không mở rộng cuộc thảo luận của ḿnh đến các căn bản kinh tế của sự tăng trưởng như thế, nhưng các con số sau đây cho chúng ta một ư tưởng đại khái về điều đó. Diện tích đất canh tác trong nước giữa năm 1820 và 1847, thí dụ, đă gia tăng hơn một phần ba, 10 và số các người thọ thuế đă gia tăng với cùng nhịp độ, từ 719,510 của năm 1820 lên 1,024,388 người trong thập niên 1840. 11 Tất cả điều này cho thấy một sự tăng trưởng lớn lao trong nền kinh tế Việt Nam trong tiền bán thế kỷ thứ 19.
Điều tôi muốn cứu xét trong bài viết này như thế này: đâu là sự mới lạ trong sự tăng trưởng trong thế kỷ thứ 19 này?
Một Chiều Hướng Mậu Dịch Mới
Rơ ràng rằng Trung Hoa đă là một thị trường quan trọng cho sự xuất cảng của Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Ngay sự phát triển mới tại vùng châu thổ sông Mekong trong các thế kỷ thứ 18 và 19 đă không phá vỡ khuôn mẫu cổ truyền này. Thí dụ, trong năm 1809, một chiếc thuyền buồm từ Amoy được ghi chép là có mua bán với khu vực Đồng Nai (Gia Định), nh́ều phần là về gạo. Kích thước của chiếc thuyền buồm này hoàn toàn to lớn, với 561 người trên tàu. 12 Một khối lượng mậu dịch và tương tác thương mại đáng kể hẳn đă phải hiện hữu giữa Trung Hoa và Việt Nam vào lúc này; một thí dụ là bản báo cáo của Tổng Đốc Quảng Đông và QuảngTây của Trung Hoa trong năm 1828. Theo ông ta, một tỷ lệ nổi bật 60-70% tiền đồng lưu hành tại Quảng Đông được đúc tại Việt Nam. 13
Chắc chắn đă có các sự biến đổi của khuôn mẫu mậu dịch trong lịch sử lâu dài của Việt Nam, Đàng Trong (Cochinchina) dưới thời các chúa Nguyễn đă có mua bán khá thường xuyên với các hải cảng Đông Nam Á khác trong các thế kỷ thứ 17 và 18. 14 Song phải chờ măi đến khi có sự thiết lập của Singapore, khi đó Việt Nam mới bắt đầu mua bán thường lệ, liên tục và gia tăng với bất kỳ các hải cảng Đông Nam Á nào. Điều ǵ đă tạo ra sự thay đổi này?
Tất cả điều này khởi sinh từ một điều ǵ mới có tại châu thổ sông Mekong thế kỷ thứ 18, được xác định bởi Giáo Sư Nguyễn Đ́nh Đầu. Ông vạch ra rằng mặc dù lúa gạo luôn luôn được sản xuất thực sự tại mọi vùng có người Việt cư ngụ, trước khi người Việt có được châu thổ sông Cửu Long, nó chưa từng được sản xuất trên một quy mô rộng lớn như một sản vật mậu dịch. 15 Sự thụ đắc châu thổ sông Mekong để sản xuất gạo cho các mục đích thương mại chắc chắn đă là một trong các t́nh tiết quan yếu tại Đàng Trong thế kỷ thứ 18, và là một biến cố trọng đại của lịch sử Việt Nam. Có được loại lương thực này từ trong vùng mang tính cách sinh tử cho sự phát triển của châu thổ sông Mekong. Chính trên sự sản xuất lúa gạo và mậu dịch lúa gạo mà Sàig̣n mới được thành lập và Nguyễn Ánh đă dành đạt được sự chiến thắng trên quân Tây Sơn. 16 Song nó đă phải gánh chịu khổ sở trong thời nhà Tây Sơn, và chỉ bắt đầu vươn lên lại trong thập niên 1810.
Thời biểu này gần như trùng hợp với sự thành lập của Singapore trong năm 1819, nơi mà một số lượng to lớn về gạo ngày càng cần hơn để nuôi ăn các di dân của nó và vùng Quần Đảo. Việt Nam đă đáp ứng một cách thuận lợi trước t́nh h́nh mới này và sớm tự biến ḿnh thành quan trọng trong mậu dịch với Singapore. Như Crawfurd đă quan sát trong năm 1822, đối tác mậu dịch số 1 của Singapore là Xiêm La, và kế đó là Sàig̣n. 17 Khi đó, hàng hóa vận tải từ Sàig̣n là những ǵ?
Một Danh Sách Hàng Vận Tải Mới: Đường, Muối và Gạo
Nếu sự thịnh vượng của Hội An được đặt trên mậu dịch tam giác giữa Trung Hoa, Nhật Bản và trung phần Việt Nam, được biểu trưng bởi các hàng vận tải xa xỉ chẳng hạn như gỗ trầm hương (calambac), lụa và da nai, trong khi đó Sàig̣n đă được xây dựng nhiều hơn trên các quan hệ mậu dịch của nó với các láng giềng Đông Nam Á, với các hàng hóa vận tải mậu dịch khối lượng lớn chẳng hạn như gạo, đường và muối.
T́nh trạng này có thể góp phần vào bản chất biến đổi của mậu dịch với khối lượng lớn trong ṿng các nước Đông Nam Á, khởi sự trong thế kỷ thứ 18. 18 Nó đă đặt người Việt Nam vào một vị thế nơi họ có thể đáp ứng với việc mua bán gạo, đường và muối với các nước láng giềng Đông Nam Á của nó. Biểu Đồ 2 nhắm vào số xuất cảng của Việt Nam sang Singapore theo các món hàng chính:
Biểu Đồ 2: Mậu Dịch Của Việt Nam
Như có thể được nhận thấy từ biểu đồ trên, đường là khoản xuất khẩu chính của Việt Nam sang Singapore hồi đầu thế kỷ thứ 19. Từ 1841 đến 1845, tuy nhiên, các số xuất cảng gạo đă gia tăng gấp mười lần và trong năm 1848 con số này lại gấp đôi. Sự gia tăng này là yếu tố góp phần chính lên đến cực điểm được chỉ trong Biểu Đồ 1. Các số xuất cảng gạo tiếp tục gia tăng lên đến một trị giá là 300,448 đô- la Tây Ban Nham trong khi đường không bao giờ vượt lên trên mức trị giá là 146,396.
Một đặc điểm nổi bật của mậu dịch Việt Nam trong thời kỳ này rằng hàng hóa vận tải chính – gạo, đường và muối – gần như chỉ từ Đàng Trong trước đây (former Cochinchina). Đông Kinh hay miền bắc được biết nhờ các sản phẩm quan trọng của nó như tơ lụa sống và quế, nhưng cả hai đều không đáng kể trên danh sách mậu dịch Việt Nam – Singapore. Mậu dịch của Việt Nam với Singapore với gạo là khoản trọng tải tối cao, đă là một sự bức phá quan trọng khỏi trật tự kinh tế của Việt Nam và khuôn mẫu mậu dịch của nó. Đó cũng là một cửa sổ mới phơi bày một thế giới khác biệt với các quan chức nhà Nguyễn, điều mà chúng ta sẽ thảo luận dưới đây.
Một Tác Nhân Mới Trong Công Cuộc Mậu Dịch
Báo cáo của Crawfurd năm 1823 nêu ư kiến về một bên đối tác nổi bật nhất trong mậu dịch Việt Nam – Singapore:
Riêng về các thuyền buồm, tôi phải lưu ư rằng đă có các sự cập bến hàng năm, trong ba năm qua, từ kinh đô của Nam Kỳ, một tàu-thương mại và vận tải thuộc Nhà Vua Nam Kỳ (Cochinchinese), là kẻ, bất kể các thành kiến về Trung Hoa của ông, sau này đă trở nên hài ḷng với các [báo cáo?] chi tiết và các lợi nhuận của mậu dịch. 19
Trong khi báo cáo này chứng tỏ rằng triều đ́nh nhà Nguyễn đă mua bản với Singapore hàng năm hồi đầu thập niên 1820, bằng chứng nhiều hơn được t́m thấy trong Châu Bản, sách màu Son Đỏ chứa các tài liệu nguyên bản của triều Nguyễn, về việc vận tải bằng tàu của hoàng gia. Một chiếc tàu hoàng triều được ghi chép đă đi mua bán tại Hạ [hay Hà?] Châu 20 trong năm 1824, 21 và bốn chiếc khác trong năm 1825, đi Batavia và Singapore. 22 Mậu dịch của hoàng triều này xem ra đă được thực hiện hoàn toàn thường xuyên cho đến thập niên 1840, như được tŕnh bày bởi một bản báo cáo chính thức của Singapore trong năm 1846: “Giữa Nam Kỳ (Conchinchina) và Singapore, biểu lộ một khía cạnh vô cùng thuận lợi trong niên khóa 1845-46 ... trong năm, năm chiếc tàu, tương đương với 2,400 tấn, thuộc nhà vua Nam Kỳ, đă đến đây với đầy hàng hóa…” 23
Hàng hóa chính của mậu dịch hoàng triều này có vẻ là đường mía, ít nhất như thế trong thập niên 1820. Theo một tài liệu trong Châu Bản năm 1824, đă có 536 tạ [Trung Hoa: piculs] (32,216 kg) đường chưa bán được trong chuyền tàu hoàng triều trở về từ Hạ [hay Hà?] Châu. 24 Sản phẩm này, cũng theo Châu Bản, được ứng mua trước bởi các viên chức nhà Nguyễn từ các dân làng ở Quảng Ngăi và Quảng Nam với một số lượng lên tới 3400 tạ mỗi năm. 25 Điều cũng hợp lư để giả định rằng ít nhất một ngh́n tạ mỗi năm đă được mang đến Singapore bởi chiếc tàu hoàng triều, nếu 536 tạ tại c̣n lại trên tàu ở vào trường hợp kể trên. Số đường của Việt Nam trao đổi với Singapore trong [các] năm 1830 ở mức độ 1300 tạ mỗi năm . 26 Việc này biến triều đ́nh nhà Nguyễn thành kẻ đóng góp quan trọng, nếu không phải là chính yếu, trong mậu dịch về đường với Singapore trong các thập niên 1820 và 1830. Nói cách khác, triều đ́nh nhà Nguyễn là một tác nhân tích cực trong mậu dịch về đường, thu mua nguyên liệu từ trong nước và trao đổi nó ở hải ngoại.
35,000 tạ đường mía và 40,000 tạ hạt tiêu được thu gom trong năm 1822 như các thị trường độc quyền của hoàng gia tại Thái Lan. (Crawfurd, trang 381). [? có thể c̣n thiếu một câu ở đây để đoạn văn trở nên mạch lạc hơn, chú của người dịch]
Số lượng đường mà triều đ́nh đă mua bán với Singapore có vẻ như làm liên tưởng đến một thị trường độc quyền của hoàng triều về mua bán đường mía. Sự việc này khiến cho triều đ́nh nhà Nguyễn có chung các đặc tính với các nhà vua Xiêm La tại Vọng Các, nhưng khác xa với phương cách của các hoàng đế Trung Hoa ở Bắc Kinh. Nhiều báo cáo hơn về mậu dịch hoàng triều nhà Nguyễn với các hải cảng khác tại Á Châu hỗ trợ cho giả thuyết này. Chúng làm liên tưởng rằng “nhà vua Nam Kỳ đă mua sản phẩm của xứ sở ông từ các thần dân với các giá cả tài định, và gửi chúng sang Quảng Châu, Batavia và Singapore trong năm chiếc thuyền có cánh buồm h́nh vuông và tàu chạy bằng hơi nước”. 27
Triều đ́nh nhà Nguyễn đă mua những ǵ tại Singapore, với đường là nguồn tiền mặt chính của họ? Tôi vẫn chưa t́m thấy các hàng hóa trở về trong công cuộc mậu dịch của hoàng triều từ các Châu Bản, nhưng các tài liệu của Singapore có chiều hướng làm liên tưởng rằng vải bông là hàng hóa chủ yếu cho số xuất cảng của nó sang Việt Nam. Bông vải trung b́nh chiếm 22% hàng hóa mang về của Việt Nam trong các năm 1840-44, lớn thứ nh́ sau thuốc phiện, chiếm tới khoảng 59%. 28 Một phần lớn của món hàng nhập cảng này bởi các tàu của hoàng triều, tôi ngờ là để dành cho quần áo của quân đội hoàng triều. Đây là những ǵ mà Crawfurd nhận xét trong năm 1822: “Quân đội bao gồm khoảng 40,000 người mặc đồng phục bằng vải khổ rộng của Anh Quốc, được chỉ huy theo cung cách Âu Châu”. 29 Và điều nhận xét này bởi Wade, một sĩ quan Anh Quốc được phái sang Việt Nam trong năm 1855: “Binh sĩ và các sĩ quan cấp thấp mặc quần áo bằng vải thô hoặc của Nga hay Anh Quốc”. 30 Tuy nhiên vải của Anh Quốc có thể đến từ hai ngả: trong thập niên 1820 nó có thể đến chính yếu từ Quảng Châu (Canton), 31 trong khi vào thập niên 1840 nhiều phần nó đến từ Singapore.
Một lần nữa đây là một cái ǵ mới trong việc cho quân đội hoàng triều mặc quần áo bằng vải của Anh Quốc. Không giống như các nước Đông Nam Á khác, Việt Nam chưa bao giờ là một thị trường to lớn cho vải từ Ấn Độ, trong “Kỷ Nguyên Thương Mại (Age of Commerce)”. Lụa rơ ràng được dùng để trang phục quân đội của các chúa Nguyễn trong các thế kỷ thứ 17 và 18. 32 Có lẽ thể thức dùng sản phẩm của Anh để trang phục quân đội của ông đă khởi sự từ Nguyễn Ánh hồi đầu thế kỷ thứ 19 hay sớm hơn, nhưng những ǵ chúng ta có thể nhận thấy ở đây rằng trong hầu hết nửa đầu thế kỷ thứ 19 binh sĩ Việt Nam được trang phục bằng vải của Anh Quốc, điều ǵ đó không hoàn toàn phụ hợp với h́nh ảnh “bế quan” của triều đ́nh nhà Nguyễn.
Chắc chắn đă có một số xa xỉ phẩm được du nhập bởi các chiếc tàu hoàng triều. Trong tác phẩm Vietnam and the Chinese Model của ḿnh, tác giả Woodside đă thảo luận về cách thức vun trồng một khiếu vị cho các sản phẩm Tây Phường được phổ biến “một cách chậm chạp xuống xuyên qua xă hội nhà Nguyễn, phát sinh từ chính ngai vàng” ra sao. Ông vạch ra rằng trong khi trong thập niên 1820 các sản phẩm Trung Hoa đă chế ngự trong số “các tặng phẩm” mà triều đ́nh Huế dành cho các thân chủ của nó, trong thập niên 1830 các sản phẩm Tây Phương gia tăng hơn. 33
Chiều hướng của Việt Nam trong mậu dịch chính thức với Singapore cũng có thể phát sinh từ các sự thất vọng của ttriều đ́nh nhà Nguyễn với thái độ nghiêm khắc của triều đ́nh Trung Hoa, về lộ tŕnh mà Việt Nam sang triều cống. Triều cống được hay biết rất rơ như một hinh thức ngụy trang của mậu dịch giữa các nước Đông Nam Á với Trung Hoa, và trong trường hợp của Việt Nam, nó vẫn luôn luôn được thực hiện bằng đường bộ. Tuy nhiên, trong năm 1829 sứ giả nhà Nguyễn đă yêu cầu được gửi cống phẩm bằng đường biển thay v́ đường bộ, một sự thay đổi trong đường lối cổ truyền. Hiển nhiên đó là một con đường dễ dàng và hiệu quả hơn nhiều để thực hiện h́nh thức mậu dịch này cho triều đ́nh nhà Nguyễn, tọa lạc tại Huế, chứ không phải tại Hà Nội như các triều đại trước nó. Tuy thế lời yêu cầu đă bị bác bỏ một cách lạnh lùng bởi triều đ́nh nhà Thanh, nhấn mạnh rằng các sứ giả Việt Nam phải theo đường bộ gian khổ và dài để đến nơi từ biên giới ở Quảng Tây. 34 [Nhiều phần có thể v́ khi đó hải quân nhà Thanh rất yêu trước nạn hải tặc hoành hành dọc duyên hải đông nam Trung Hoa, và do đó không thể bảo đảm an toàn cho các sư bộ đi bằng đường thủy. Xin xem các bài về hải tặc Trung Hoa đă được dịch và đăng tải trên Gió O trước đây, chú của người dịch]
Sự việc này chắc chắn sẽ khích lệ nhà Nguyễn phát triển các quan hệ của nó với các chiều hướng khác. Một đoạn viết về Việt Nam, được thảo bởi viên Cố Vấn Thường Trú cho Thống Đốc Đảo Prince of Wales [nguyên là đảo Penang, thuộc bang Penang, Mă Lai, bị đặt tên trong năm 1786 là Prince of Wales Island khi bị Anh Quốc chiếm đóng, chú của người dịch] năm 1845 có cho hay:
Các quan lại hàng năm đến thăm viếng Singapore trên chiếc tàu của nhà vua, đă dần trở nên quen thuộc với chúng tôi, họ trở về xứ sở với tin tức thực dụng được tính toán để phổ biến sự tin tưởng … Tôi sẽ ghi chép rằng một vài thông dịch viên có mặt trên các chiếc thuyền của nhà vua là các thanh niên được hướng dẫn và học tập tiếng Anh tại Học Viện Singapore, hiện nay có 3 người đóng tiền học phí. 35
Mặc dù vẫn c̣n là một câu hỏi về tầm mức mà mọi yếu tố trên đă góp phần vào việc thay đổi thế giới quan cổ truyền xem Trung Hoa là trung tâm điểm của Việt Nam, 36 sự liên hệ của Việt Nam với Singapore chắc chắn bao hàm một điều ǵ mới mẻ. Tôi sẽ kết luận bài viết này bằng việc khảo sát ngắn gọn các thành tố mới này cùng các ám chỉ của chúng.
Trược tiên, việc liên hệ của Việt Nam với Tân Gia Ba làm liên tưởng đến một sự chú ư mới nghiêm chỉnh đến một chiều hướng mới. Chúng ta chưa hề thấy trước đây một nỗ lực có hệ thống như thế được thực hiện bởi triều đ́nh Việt Nam để duy tŕ các quan hệ mậu dịch của nó với bất kỳ nước Đông Nam Á nào, trong hàng ngh́n năm lịch sử của nó. Nó diễn ra song hành với sự giao lưu với Trung Hoa, nhưng chiều hướng chắc chắn là mới mẻ. Thứ nh́, nhận thức về các chiều hướng mới này bắt nguồn từ cảm nhận của nhà Nguyễn về vị trí địa lư mới của một nước Việt Nam thống nhất, chưa từng có trong lịch sử Việt Nam,với ranh giới giờ đây nằm giữa Trung Hoa và Vịnh Xiêm La. Cuộc bành trướng nam tiến của Việt Nam hoàn thành lănh thổ của nó với h́nh dạng chữ S ngày nay, và đánh dấu sự đến nơi sau cùng của nó vào một thế giới to lớn hơn của Đông Nam Á. Việc này gần như biến Việt Nam thành một thực thể mới, hẳn nhiên mang lại cho nó một cách nh́n mới. Tuy nhiên lối nh́n mới này có thể không nhất thiết tượng trưng cho một đầu óc cởi mở cấp tiến hơn từ các nhà cai trị triều Nguyễn. Nó có thể một phần phát sinh từ một sự cứu xét nghiêm chỉnh về sự cạnh tranh Việt Nam – Xiêm La gay gắt trong vùng, bản thân là một hậu quả của địa thế mới của Việt Nam. 37 Thứ ba, và có lẽ quan trọng hơn, tôi không nêu ư kiến về một cái quan điểm toàn Việt Nam (pan-Vietnamese) ở đây. 38 Địa h́nh, vị trí địa điểm các sản phẩm trong vùng và mức độ phong phú của các sản phẩm này, tất cả đều tạo ra các sự khác biệt trong khung cảnh này, như chúng ta đă nh́n thấy với danh sách mậu dịch giữa Việt Nam – Singapore thảo luận ở trên. Trong khi đọc Châu Bản, người ta có thể nhận thấy rằng rơ ràng đă có nhiều tiếng nói tượng trưng cho các thế giới quan khác nhau ở các thời điểm khác nhau, phức tạp hơn một lập luận duy nhất về chính sách “mở cửa hay bế quan”. Khi suy nghĩ theo các đường hướng này, tôi dần cảm thấy rằng nhiều sự chú ư hơn cần phải được dành cho các chủ đề của thời gian và không gian, để xem xét cách thức mà vị trí địa dư mới của Việt Nam và t́nh trạng ngày càng cấp bach hơn trong nửa đầu thế kỷ thứ 19, đă kết hợp để định h́nh các đường lối triều đ́nh Việt nam hoạt động ra sao. Liên hệ với Singapore, tôi hy vọng, là một góc cạnh hữu ích cho một nỗ lực như thế./-
___
CHÚ THÍCH
1. Muốn có một sự tranh luận có hệ thống chống lại quan điểm quy ước và một sự giải thích mới về các quốc gia của Đông Nam Á thời tiền thuộc địa, xem Anthony Reid và Carl Trocki, “The Last Stand of Autonomous States in Southeast Asia and Korea, 1750-1870: Problems, Possibilities, and a Project”, Asian Studies Review, tập 17, số 2, November 1993.
2. Thí dụ, một nỗ lực bởi Viện Khoa Học Xă Hội của Thành Phố Hồ Chí Minh trong quyển Những Vấn Đề Văn Hóa Xă Hội Thời Nguyễn, Thành Phố Hồ Chí Minh: HCM City Press, 1992).
3. Crawfurd, Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochinchina, Oxford University Press, 1987, trang 513.
4. Crawfurd, Journal, trang 513.
5. Wong Linken, “Singapore: Its Growth as an Entrepot Port, 1819-1941, Journal of Southeast Asian Studies, no. 9, 1978, trang 61.
6. Crawfurd, Journal, trang 513.
7. Norman Owen, “The Rice Industry of Mainland Southeast Asia 1850-1914”, Journal of Siam Society, vol. 59, pt. 2, trang 102.
8. Tác giả Anthony Reid vạch ra rằng tác giả Wong Lin Ken có thể đă ước lượng thấp mậu dịch của Xiêm La với Singapore trong thời kỳ này. Xem Anthony Reid, “A New Phase of Commercial Expansion”, trong sách biên tập bởi Anthony Reid, The Last Stand of Asian Autonomies: Responses to Modernity in the Diverse States of Southeast Asia and Korea, 1750-1900, (New York: MacMillan Press, 1997), trang 69.
9. Wong Lin Ken, “Singapore: Its Growth”, trang 55.
10. Huỳnh Lua [?], “Nh́n Lại Thực Trạng Kinh Tế Nước Ta Trong Nửa Đầu Thế Kỷ 19”, trong quyển Những Vấn Đề Văn Hóa Xă Hội Thời Nguyễn, trang 118.
11. Nguyễn Thế Anh, Kinh Tế và Xă Hội Dưới Các Vua Triều Nguyễn, (Sàig̣n: Lửa Thiêng, 1971), trang 26.
12. Chiếc thuyền buồm này bị vỡ ch́m gần quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands) và được cứu vớt bởi một chiếc thuyền Anh Quốc. Public Report Office, F. O. 233/189, số 220, được trích dẫn từ “Qing dai zhong yie xia men de hai shang mao yi, 1727-1833” (Mậu dịch hải ngoại trong thời giữa nhà Thanh, 1727-1833), trong Zhong guo hai yang fa zhan shi lun ven ji (Các Tài Liệu về Lịch Sử Hàng Hải Trung Hoa), tập 4 (Taipei: Academic Sinica, 1991), trang 90.
13. Ming Qing Shi Liao. Geng Bian (Sử Liệu Thời Minh-Thanh: Series G), (Taipei: Academic Sinica, 1960), vol. 3.
14. Xem Li Tana, The Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the 17th and 18th Centuries, (Ithaca: Cornell SEAP, 1997), Chương 4; về mậu dịch của Đàng Trong và Hà Tiên với Melaka hồi cuối thế kỷ thứ 18, xem Anthony Reidm “A New Phase of Commercial Expansion”, trong sách biên tập bởi Anthony Reid, The Last Stand of Asian Autonomies, trang 64.
15. Nguyễn Đ́nh Đầu, “Địa Lư Lịch Sử Thành Phố Hồ Chí Minh”, trong sách biên tập bởi Trần Văn Giàu và các đồng biên tập khác, Địa Chí Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh (HCM City: HCM City Press, 1987), các trang 160-161.
16. Li Tana, “Rice Trade in the 18th and 19th century Mekong Delta and its Implications”, Biên Bản Cuộc Hội Thảo Quốc Tế về Thái Lan và Các Láng Giềng của nó: Việt Nam, Căm Bốt và Lào, International Seminar in Bangkok, 12 December 1994. Ấn hành bởi Thammasat University Press, 1995.
17. Crawfurd, Journal, trang 542.
18. Victor Lieberman, “Local Integration and Eurasian Analogies: Structuring Southeast Asian History, c. 1350 – 1830”, Modern Asian Studies, vol. 27, no. 3, 1993, trang 491.
19. Crawfurd, Journal, các trang 541-542.
20. Một từ ngữ trong tiếng Phúc Kiến để chỉ Quần Đảo (Archipelago), nhà Nguyễn dùng từ ngữ này để chỉ riêng Batavia và Singapore.
21. Châu Bản Triều Nguyễn, Minh Mạng Năm Thứ 5 (1824), Chu Bo Nha tau chiet [?] (các báo cáo của các bộ), Tháng Tám đến Tháng Mười Hai. Vi phim được lữu trữ tại ANU Library (Thư Viện Đại Học Quốc Gia Úc Đại Lợi).
22. Châu Bản Triều Nguyễn, Minh Mạng Năm thứ 6, (Chu Bo Nha tau chiet [?] (các báo cáo của các bộ), Tháng Một đến Tháng Năm. Các con số này có thể được bổ túc vào danh sách của Giáo Sư Trần Kính Ḥa về 17 chuyến tàu hoàng gia đến thăm viếng Batavia và Singapore giữa các năm 1791 và 1847. Xem Chen Chingho, “On the Ha-Châu” Missions conducted during the Early Period of the Nguyễn Dynasty”, Journal of the Institute of Asian Studies (Soka University), Tokyo, March no. 11, được trích dẫn từ Phan Huy Lê, Claudine Salmon & Tạ Trọng Hiệp, phiên dịch và giới thiệu, Hải Tŕnh Chí Lược: Recit sommoaire d’un voyage en mur [?mer] (1833), (Paris: Cahier d’Archipel 25, 1994), trang 127.
23. “Letter of Resident Councilor, 30th June 1846”, Tabulated Statements of the Commerce and Shipping, 1846, trang 70.
24. Châu Bản Triều Nguyễn, Minh Mạng Năm Thứ 5 (1824), ngày 28 Tháng Tám.
25. Châu Bản Triều Nguyễn, Minh Mạng Năm Thứ 1 (1820) đến năm thứ 6 (1825). Giá đường trong năm 1820 là 12 quan một tạ, giảm xuống c̣n 7-8 quan một tạ trong năm 1824.
26. Một số lượng đường trị giá $8,500 đô la Tây Ban Nha được nhập nội từ Nam Kỳ trong năm 1830/1831. Xem Singapore Chronicle: Thursday July 21, 1831, no. 29. Con số này có nghĩa hơn 1,300 tạ đường, với giá 6.50 đô la một tạ với phẩm chất tốt nhất. Xem, Crawfurd, Journal, trang 544.
27. Letter of Resident Councilor to the Governor of the Straits Settlement, 19 November, 1844; 15 September 1852; 24 February 1855. Được trích dẫn từ Wong Lin Ken, “The Trade of Singaore, 1819 – 69”, Journal of Malayan Branch of the Royal Asiatic Society, vol. 33 , pt. 4, 1960, trang 156.
28. Tabulated Statement of the Commerce and Shipping of Singapore during the years 1840-1844, trang 71.
29. “Crawfurd’s Narrative”, trong sách của Lamb, The Mandarin Road to Old Huế, (London: Archon, 1970), trang 251.
30. ‘Wade’s Narrative”, trong Lamb, The Mandarin Road to Old Huế, trang 326.
31. Wong Lin Ken, “The Trade of Singapore, 1819-69”, trang 155.
32. Xem “Description of Cochinchina, 1749-50”, Southern Vietnam under the Nguyễn: Documents on the Economic History of Cochinchina (Đàng Trong ), 1602 – 1777, đồng biên tập bởi Li Tana và Anthony Reid, Economic History of Southeast Asia Project, ANU/Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, 1993, trang 70. Và Li Tana, Nguyễn Cochinchina, chương 2.
33. Trong năm 1833, thí dụ, “vua Minh Mạng được biết đă ban tặng các bát, đĩa và ly, tách “Tây Phương” cho một số sứ giả Căm Bốt đến Huế. Trong năm 1834, các thầy pháp của dân Jarai đă nhận được các đĩa đựng trà bằng sứ Tây Phương, và trong năm 1849 vua Thiệu Trị ban cho họ các chiếc áo ngoài với cánh tay áo hẹp bằng vải bông màu đỏ và trắng “Tây Phương.” Alexander Woodside, Vietnam and the Chinese Model, (Massachusetts: Council on East Asian Studies, Harvard University, 1988), các trang 267-268).
34. Qing Xuan Zong Shi Lu (Niên Sử về Hoàng Đế Đạo Quang), tập 156, từ tập Gu Dai Zhong Yue Guan Xi Shi Zi Liao Xuan Bian (Trích Lục các nguồn tài liệu về lịch sử quan hệ Trung Hoa – Việt Nam), (Beijing: Zhong guo shehui ke xue Press, 1982), các trang 613-614.
35. “Letter of Resident Councilor to the Governor of Prince of Wales Island, 1845”, Tabulated statement of the commerce and shipping, 1845, trang 117.
36. Một trường hợp nghiên cứu tôt là quyển Hải Tŕnh Chí Lược năm 1833 của Phan Huy Chú. Xem Recit sommaire d’un voyage en mer (Hải Tŕnh Chí Lược) của Phan Huy Chú, phiên dịch và giới thiệu bởi Phan Huy Lê, Claudine Salmon & Tạ Trọng Hiệp, (Paris: Cahier d’Archipel 25, 1994). Cũng xem phần điểm sách của Li Tana, On Hải Tŕnh Chí Lược: Recit Sommaire d’un voyage en mer (1833), trong tạp chí Review of Indonesian and Malaysian Affairs, vol. 31, no. 1, June 1997, các trang 256-268.
37. Thí dụ, trong năm 1841 thương gia Anh Quốc hàng đầu tại Bangkok đe dọa sẽ bán một chiếc tàu chạy bằng hơi nước được đặt hàng bởi Xiêm La cho Việt Nam thay vào đó, v́ có các sự kỳ kèo giá cả. Vua Rama III nổi giận đến nỗi ông đă trục xuất thương nhân, do đó làm cho mậu dịch Bangkok – Singapore phải chịu một sự sụt giảm lớn lao. Đây hẳn phải là một trong các màn kịch trong khung cảnh cạnh tranh Việt Nam – Xiêm La về mậu dịch trong thế kỷ thứ 19. Xem Anthony Reid, “A New Phase of Commercial Expansion”, đă dẫn trên, trang 70.
38. Xem Keith Taylor, “Regional Conflicts among the Viet Peoples between the 13th and 19th centuries”, tham luận được tŕnh bày tại hội thảo “La Conduite Des Relations Entre Socíeties et États: Guerre et Paix en Asie du Sud-Est”, Paris, July 1996, trang 23./-
_____
Nguồn: Li Tana, Vietnam’s Overseas Trade in the 19th Century: The Singapore Connection, tại địa chỉ: http://www.VietnamJournal.Org/article.php?sid=68
Ngô Bắc dịch và phụ chú
22/03/2010
http://www.gio-o.com/NgoBac.html
© gio-o.com 2010