đọc trong mùa Tết

 

Li Tana và Paul A. Van Dyke

Australian National University & Sun Yat Sen University, Taiwan

 

 

Quảng Châu, Hà Tiên, và Đàng Trong:

Các Dữ Liệu Mới và Phát Hiện Mới

Về Quảng Châu và Vùng Biển Phương Nam

Thế Kỷ Thứ Mười Tám

 

Đất Cancao hay Pontiamo (Phương Thành tức Hà Tiên) do Mạc Cửu chuyển cho chúa Nguyễn, trong bản đồ Nam Kỳ năm 1829 (Nguồn: Wikipedia)

 

Đại Ý: Sử dụng các dữ liệu từ các tài liệu ít được hay biết của Hòa Lan, Thụy Điển, và Đan Mạch thế kỷ thứ mười tám, bài viết này phát lộ các quan hệ thương mại quan trọng, nhưng bị che khuất trước đây giữa Quảng Châu thế kỷ thứ mười tám và các nhà sản xuất hàng hóa Đông Nam Á và Hoa kiều ở vùng Biển Phương Nam [Nanyang: Nam Dương, tức vùng Đông Nam Á, ND] vào lúc đó.  Số hàng nhập cảng của Đông Nam Á – thiếc, bột cọ (sago) và mây (rattan) – đã là một phần tích hợp cho sự tăng trưởng của mậu dịch xuất cảng chính yếu của Quảng Châu, trà, cũng như cho các sản phẩm chế tạo khác được xem là có giá bởi các người Âu Châu, người Hoa di cư, và các dân địa phương tại vùng Biển Phương Nam.  Bài viết này khảo sát các dữ liệu mới và trình bày phương cách chiếu rọi ánh sáng mới vào sự tác động hỗ tương phức hợp giữa mậu dịch, sự tăng trưởng kinh tế, và sự thay đổi kinh tế - xã hội thế kỷ thứ mười tám khi chúng xảy ra cùng lúc tại các bờ biển khác nhau của Biển Nam Trung Hoa.

 

Dẫn Nhập

       Bài khảo luận này là một nỗ lực đầu tiên khám phá một loạt các sự quan hệ ít được hay biết giữa hải cảng mậu dịch to lớn miền nam Trung Hoa tại Quảng Châu (Canton hay Guangzhou) và Đông Nam Á trong thế kỷ thứ mười tám.  Mặc dù Quảng Châu là một đối tác mậu dịch quan trọng với nhiều hải cảng Đông Nam Á lúc bấy giờ, các liên quan thương mại này chưa hề được khảo sát như các bộ phận tích hợp của một hệ thống thương mại đã nối kết các nhà sản xuất chủ yếu tại Nam Dương, hay Đông Nam Á, với đầu tàu kinh tế quan trọng của nền kinh tế xuất cảng của Trung Hoa thời đó.  Thay vào đó, trong tài liệu truyền thống, các sự liên hệ này hoặc phần lớn không được đếm xỉa tới hay bị gộp vào trong các sự nghiên cứu về các thương gia của Hong [Hong: Hãng Mậu Dịch tại Quảng Châu, ND], các công ty Đông Ấn ngoại quốc tại Trung Hoa, hay của người Bồ Đào Nha tại Macao.  Khi mà thương mại Đông Nam Á được đề cập tới, nó thường bị xem như xa xôi, rời rạc, hay chỉ có tính chất bên lề của sự thảo luận về lịch sử thương mại.  Ngược lại, khi các quan điểm Đông Nam Á chế ngự, vai trò của Quảng Châu trong lịch sử toàn vùng Biển Phương Nam phần lớn bị bao phủ trong bóng tối, với hải cảng to lớn xuất hiện không gì khác hơn từ đồng nghĩa chỉ “nơi đến: destination”.

       Nguyên do chính cho sự khinh xuất này xem ra nằm ở các nguồn tài liệu được sử dụng bởi các học giả tây phương trước đây.  Các bài viết của họ về mậu dịch thế kỷ thứ mười tám của Quảng Châu dựa chủ yếu vào các hồ sơ của Công Ty Đông Ấn của Anh Quốc (English East India Company: viết tắt là EIC).  Có một lý do tốt cho sự việc này: vào thập niên 1760, Công Ty đã là một khách hàng quan trọng của Quảng Châu.  Mậu dịch trà của nó đã gia tăng gấp bảy lần từ thập niên 1740 đến 1760, và các khoản đầu tư của nó vào trà đã được mở rộng gấp sáu lần trong cùng thời khoảng (Chandhuri 1978: 510, 539).  Tuy nhiên, cuộc nghiên cứu gần đây của Paul Van Dyke vào các nguồn văn khố của Các Công Ty Đông Ấn của Thụy Điển, Đan Mạch, và Hòa Lan cho thế kỷ thứ mười tám đã chiếu rọi một ánh sáng khác biệt rõ rệt trên bản chất của mậu dịch quốc ngoại của Quảng Châu vào lúc đó, (Van Dyke 2002a, 2005a), điều này thách đố sự hiểu biết trước đây của chúng ta về kích thước và các hoạt động của nó.  Giờ đây chúng ta có thể định lượng một cách chính xác hơn kích thước mậu dịch của Công Ty của Anh Quốc, trên đó kiến thức trước đây của chúng ta về mậu dịch tổng quát của Quảng Châu được dựa vào.  Hai sự kiện mới quan trọng đã xuất hiện từ sự định lượng này tạo thành điểm khởi đầu của khảo luận này.  Thứ nhất, mậu dịch của EIC chỉ đại diện cho 27 phần trăm thương mại của Quảng Châu; và thứ nhì, mậu dịch thuyền buồm đi biển (junk: dương thuyền) đến Đông Nam Á, điều cho tới nay phần lớn bị phớt lờ, bao gồm gần như cùng khối lượng hải vận của Công Ty Anh Quốc (Van Dyke 2005a: 147).  Nếu trị giá các hàng hóa mậu dịch tiếp tục thuận lợi cho các hãng vận chuyển Anh Quốc, kích thước đáng ngạc nhiên của mậu dịch vùng Biển Phương Nam được phát hiện bởi các dữ liệu mới đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ lại các mối dây liên kết giữa Quảng Châu thế kỷ thứ mười tám với các hải cảng của Hoa kiều di cư và của dân bản địa cùng các nhà sản xuất hàng hóa tại Đông Nam Á.

       Khảo luận này tìm cách bắt đầu rằng sự tái cứu xét bởi việc khảo sát kỹ lưỡng hơn các dữ liệu mới về mậu dịch của Quảng Châu thế kỷ thứ mười tám, và qua việc cứu xét cách tổ chức và cấu trúc của thương mại giữa Quảng Châu và Đông Nam Á.  Khi làm như thế, sẽ chú ý đặc biệt đến tác động hỗ tương giữa mậu dịch, sự tăng trưởng kinh tế và các sự thay đổi kinh tế - xã hội xảy ra cùng một lúc trên hai bờ biển này của Biển Nam Trung Hoa, giữa Hoa Kiều di cư lẫn người Đông Nam Á bản địa.  Chúng ta sẽ bắt đầu với một cái nhìn tổng quan về mậu dịch, đặt tiêu điểm đặc biệt vào trà và trình bày làm sao mà sản phẩm quan trọng nhất trong các hàng hóa xuất cảng thế kỷ thứ mười tám đã dựa nặng nề vào các nhập lượng từ Đông Nam Á.  Sau đó chúng ta sẽ trình bày rằng các nhập lượng này, và các nhập lượng thương mại then chốt khác của Đông Nam Á, phần lớn được tài trợ bởi một hỗn hợp tiền vốn từ Âu Châu và Ấn Độ.  Nếu các học giả đồng ý, một cách tổng quát, rằng các nhập lượng về tư bản, kỹ năng và dân số đã thúc đẩy nhanh chóng nhịp bước của sự thay đổi kinh tế và xã hội tại Đông Nam Á vào lúc đó, cuộc nghiên cứu của chúng tôi khiến ta suy nghĩ rằng hiện tượng này đã xâm nhập vào các vùng trước đây không được xem là quan trọng cho các sự phát triển như thế.  Đặc biệt, nó phô bày rằng có sự chặt chẽ hơn nhiều các mối liên kết “hàng ngang: horizontal” đã hiện hữu giữa mậu dịch Quảng Châu (Wong 2003; Fletcher 1995) với sự phát triển đô thị và sự căng thẳng chính trị tại vùng Hạ Lưu Sông Mekong (miền nam Việt Nam và đông nam Căm Bốt ngày nay), một nơi có sự nhập cảnh người Hoa đáng kể sau khi có sự sụp đổ của nhà Minh, nhưng dù thế không phải là một khu vực thường được xem là quan trọng trong khía cạnh này như các khu vực hướng đến xuất cảng khác kiểu Xiêm La hay vùng Đông Nam Á Hải Đảo.

 

Các Nhập Lượng và Các Xuất Lượng:

Các Hàng Hóa Đông Nam Á và

Các Hàng Xuất Cảng Của Trung Hoa

       Trong đoạn này, chúng tôi sẽ phác họa một cách sơ lược vai trò của các phần nhập lượng từ Đông Nam Á trong một số các hàng hóa xuất cảng quan trọng nhất của Trung Hoa.  Món hàng xuất cảng hàng đầu trong thế kỷ thứ mười tám của Trung Hoa là trà.  Tính đến giữa thế kỷ số tiêu thụ trên đầu người Anh Quốc về trà Trung Hoa là 1.1 cân Anh (pounds) (gồm cả mậu dịch hợp pháp và bất hợp pháp).  Thế nhưng khi chính phủ nước Anh xóa bỏ phần lớn thuế trên trà hồi năm 1784, số tiêu thụ thực sự tăng gấp đôi, lên tới 2 cân Anh mỗi đầu người (Walvin 1997: 18).  Số thiếc Đông Nam Á nhập cảng đã đóng một vai trò then chốt trong việc phục vụ nhu cầu gia tăng này qua việc giúp thực hiện sự xuất cảng các số lượng gia tăng của một món hàng vốn rất mong manh khi chuyển vận.  Thiếc và chì là các chất cách ly thực tiễn và hữu hiệu nhất khả cung để bảo vệ lá trà trong khi vận chuyển khỏi việc hấp thụ sự ẩm ướt, thu nhận các mùi thơm kỳ lạ, và mất đi hương vị bởi sự thoáng khí.  Hai kim loại này chính vì thế là các nhập lượng thiết yếu tạo thuận tiện cho mậu dịch trà tăng trưởng của Trung Hoa.  Mọi loại hạng trà cần phải được đóng trong các hộp có lóp thiếc hay chì để bảo tồn phẩm chất của chúng.  Trong khi trà dành cho xuất cảng được đóng trong các thùng gỗ lót chì, với một số chì được nhập cảng từ Đông Nam Á, các thùng như thế thì quá nặng nề và cồng kềnh cho sự chuyển vận trên đất liền.  Mặt khác, các hộp bằng thiếc thì nhẹ và dề dàng hơn nhiều khi di chuyển qua các ngọn đèo vùng núi và được chở bằng tàu trên các con sông của Trung Hoa.  Do đó, các nhà sản xuất tại các vùng đất trồng trà đã tiêu thụ hàng năm các khối lượng thiếc lớn lao dưới hình thức các hộp nhỏ (canisters) cho phép sản phẩm của họ đi tới Quảng Châu một cách an toàn và không có rủi ro bị ô nhiễm (Hanson 1876: 70-76; Fortune 1852: 197-207; Wirgin 1998: 290).

       Nhưng thiếc không chỉ hữu dụng trong việc chế tạo thành các hộp đựng trà.  Bởi có một nhu cầu mạnh mẽ cho kim loại này tại Âu Châu vào lúc đó, các nhà mậu dịch Anh Quốc về trà cũng đã xuất cảng nhiều thiếc Á Châu sang Âu Châu dưới hình thức bì dằn tàu (ballast).  Thiếc bì dằn có thể được nung chảy lại một cách dễ dàng sau khi đến nơi để loại bỏ bất kỳ sự oxít-hóa nào đã xảy ra trong chuyến du hành, và sau đó đem bán thu lợi nhuận.  Các thỏi thiếc tạo thành một nền chắc chắn và mạnh mẽ cho các hòm đựng đồ sứ, trong khi độ dày đặc của nó kháng cự lại sự tổn hại gây ra của nước, và tính khả dĩ buôn bán được tại Âu Châu, khiến cho thiếc trở thành một sự lựa chọn tốt cho mục đích này.  Tuy nhiên, thiếc được dùng vừa cho các hộp đựng trà lẫn bì dằn tàu trước tiên phải được nhập cảng từ Đông Nam Á trước khi chúng có thể được sử dụng hay tái xuất cảng trong mậu dịch trà của Trung Hoa. 1

       Như tất cả hồ sơ của các công ty thương mại Âu Châu cho thấy, đồ sứ cũng là một món hàng xuất cảng quan trọng của Quảng Châu trong thế kỷ thứ mười tám.  Một sản phẩm Đông Nam Á khác đóng giữ cùng một loại vai trò khiêm tốn nhưng thiết yếu trong việc tạo thuận tiện cho mậu dịch này như thiếc đã thực hiện cho trà.  Bột cọ (sago) Đông Nam Á đã được nhập cảng vào Quảng Châu với khối lượng lớn để sử dụng làm vất liệu chèn lấp khoảng trống cho đồ sứ xuất cảng.  Trong thế kỷ thứ mười tám, việc đóng gói đồ sứ trong chất bột cọ là một trong các phương cách được ưa chuộng nhằm ngăn cản việc bị bể vỡ và, giống như thiếc, sản phẩm này có thể được bán lại có lời tại Âu Châu. 2 Trong thực tế, nếu một nhà buôn đồ sứ bị thiếu bột cọ, ông ta có thể bị mất thương vụ bởi sự thay thế bằng các vật liệu đóng gói khác rõ ràng làm gia tăng rủi to bị bể vỡ, và kế đó, áp lực phải bồi thường cho các người nước ngoài vì các tổn hại trong khi di chuyển. Thực vậy, nếu không đủ bột cọ cung ứng, các chuyến hải vận đồ sứ có thể bị ngưng lại cho đến khi có nhiều bột cọ hơn.  Vì lý do này, các tàu Đan Mạch thường dừng chân tại Malacca để chất bột cọ trước khi đi đến Quảng Châu, bảo đảm số cung cấp cho các thùng đồ sứ của chúng.

       Một món hàng nhập cảng Đông Nam Á quan trọng khác đã đóng giữ một vai trò quý giá tại thị trường xuất cảng của Trung Hoa là mây.  Các tàu ngoại quốc mang lên tàu các khối lượng lớn của nó [mây] để dùng làm vật lấp khoảng trông (chèn lót) trong các thân tàu của chúng.  Các sợi mây thì lý tưởng cho mục đích này: mỏng manh và vững chắc, chúng không có các tính chất tạo hương thơm có thể ảnh hưởng đến trà.  Thí dụ, một chiếc tàu điển hình của Công Ty Đông Ấn của Hòa Lan có thể sử dụng 8,500 cân Anh (lbs) hay 2,000 bó mây để buộc cho chắc và làm vật chèn lót.  Giống như thiếc và bột cọ. mây cũng có thể được bán lại một cách dễ dàng tại nơi đến. (NAH: Canton 72).  Mây cũng được coi trọng không kém trong mậu dịch xuất cảng lụa.  Cả hai đều mềm mại và bền chắc, nó có thể được quấn chung quanh các bó lụa sống để bảo tồn màu sắc của chúng qua việc buộc chặt chúng, trong khi cùng lúc làm giảm thiểu tối đa sự cồng kềnh so với các thùng bằng gỗ, trong bất kỳ trường hợp nào, cũng không bảo vệ lụa được (Morse 1926: I, 205-206).  Ba sản phẩm này là các sản phẩm đáng kể nhất trong các sản phẩm của Đông Nam Á đã đóng giữ các vai trò quan trọng trong việc tạo thuận tiện cho mậu dịch xuất cảng của Trung Hoa, các vai trò mà chúng ta vừa mới bắt đầu thấu hiểu và lượng giá.

       Một trong những nơi chốn tốt nhất cung cấp tất cả các nguyên thủy quý giá này là tại Nam Kỳ (Cochinchina) (miền trung và miền nam Việt Nam ngày nay) và dọc theo bờ biển lân cận.  Sau nửa thế kỷ chiến tranh nhiều lần với miền bắc trong thế kỷ thứ mười bảy, ba phần tư đầu tiên của thế kỷ thứ mười tám thụ hưởng một sự hưu chiến giúp cho Nam Kỳ mở rộng cuộc nam tiến, và thụ hưởng một kỷ nguyên thịnh vượng dưới các nhà lãnh đạo liên tiếp trong thế kỷ thứ mười tám, đặc biệt là Minh Vương (1691-1725), Võ Vương (1738-1765) và những năm ban đầu của Định Vương (1765-1770).  Tất cả các vị Chúa này đều đã khuyến khích mậu dịch.  Ngoài bến trung chuyển quan trọng từ thế kỷ thứ mười bẩy, Hội An, một số các hải cảng mới phát đạt đã xuất hiện sau khi dân tỵ nạn nhà Minh bắt đầu định cư tại vùng viễn nam hồi cuối thế kỷ thứ mười bảy.  Hai cảng quan trọng nhất trong số này là Biên Hòa (được gọi là Đồng Nai hay Longnai trong các nguồn tài liệu Trung Hoa) và Mỹ Tho.

       Tuy thế, hải cảng quan trọng nhất trong các cảng của dân tỵ nạn thuộc nhà Minh không phải tại vùng Nam Kỳ chính danh, mà lại đi xa hơn nữa dọc bờ biển, tại Vịnh Xiêm La (Gulf of Siam) là nơi giờ đây là biên giới Việt Nam – Căm Bốt.  Đây là Cancao (được biết đến nhiều hơn là Hà Tiên), được thành lập bởi Mạc Cửu, dân Quảng Châu hồi đầu thế kỷ thứ mười tám.  Tên gọi trong tiếng Hán của Cancao [Kang Kau] cho thấy nó là một hải cảng (cảng khẩu: 港口; hay cảng khẩu quốc 港口國) tương tự như danh xưng trong tiếng Mã Lai của từ Kuala [“cửa sông”].  (Brother Julian 1770: 173).  Cancao được hay biết đối với Hòa Lan nhờ mậu dịch của nó với Vòng Cung Đảo, cung cấp cho Vòng Cung Đảo muối và gạo trong suốt mùa gió mùa tây nam để đổi lấy hạt tiêu.  Các thuyền mậu dịch được lái một cách tự nhiên đến Cancao bởi luồng nước đại dương chảy mạnh đổ xuống xuyên qua Eo Biển Đài Loan, dọc theo bờ biển phía nam của Trung Hoa, bao quanh miền trung và miền nam Việt Nam, và sau đó, đổ vào Vịnh Xiêm La (Andaya 1993: 123).  Ba mạng lưới mậu dịch đan kết vào nhau hội tụ và chồng lấn lên nhau tại hải cảng này.  Mạng lưới đầu tiên là mậu dịch của khu vực Hạ Lưu Sông Mekong và vùng nội địa Căm Bốt.  Mạng lưới thứ nhì, hướng đến phía bắc của nó, Cancao đã duy trì các liên hệ chặt chẽ với các hải cảng tại miền nam và miền trung Việt Nam.  Mạng lưới thứ ba, Cancao đã buôn bán với bờ biển phía đông của Bán Đảo Mã Lai, Vòng Cung Đảo Riau-Lingga Archipelago và đặc biệt với vùng Palembang-Bangka.  Hầu hết thiếc mà Cancao tái xuất cảng sang Quảng Châu đến từ các thợ đào mỏ gốc Trung Hoa tại Bangka, như chúng ta sẽ thảo luận chi tiết hơn sau này.  Sau một sự khởi đầu yếu ớt, từ thập niên 1740, Cancao đã tiến bước để trở thành hải cảng chính yếu của vùng Hạ Lưu sôngMekong và một quốc gia Hoa Kiều hải ngoại bán tự trị có ảnh hưởng tại miền nam Đông Dương lên tới đỉnh điểm từ cuối thập niên 1750 đến đầu thập niên 1770. (Sellers 1983, Sakurai và Kiragawa 1999, Cooke 2004a).

       Sau cùng, nằm giữa hai hải cảng đã phát triển của Biên Hòa và Cancao, đôi khi cũng có xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ mười tám một hải cảng bán tự trị khác, tại cửa nhánh sông bên dưới của sông Mekong (Sông Bassac tức Hậu Giang)\.  Nó được gọi là Bassac, hay Passiak trong Các Hồ Sơ của Quảng Châu.  Nhà truyền giáo người Pháp, Levavasseur, đã hay biết nó như một cảng của Căm Bốt trong năm 1768, khi ông du hành ngược dòng Bassac tới Cancao xuyên qua một kinh đào nối liền nhánh sông Mekong với sông Hà Tiên gần Châu Đốc ngày nay.  Khi đi ngang qua Bassac, Levavasseur đã tường thuật nhìn thấy nhiều hơn 50 thuyền buồm, lớn và nhỏ, đang chờ để chất hàng tại đó.  (Van Dyke 2004a, Trịnh Hoài Đức 1820: 146; Sakurai 2004: 42; Cooke 2004c: 153, fn 18). Các thuyền buồm lớn ông nhìn thấy nhiều phần đến từ Quảng Châu, bởi một nguồn tài liệu Việt Nam sau này hồi thế kỷ thứ mười tám tường thuật rằng chúng là các thuyền lớn nhất trong tất cả các thuyền buồm của Trung Hoa (hậu quả, đã phải trả các tiền thuế cao hơn các thuyền buồm từ Phúc Kiến, Triều Châu (Teochiu hay Chaozhou) và Hải Nam (Lê Quý Đôn 1776: 31b).

       Điều mà chúng ta hay biết giờ đây rằng đa số các thuyền buồm Quảng Châu to lớn này lái đến Đông Nam Á đã chiếu cố mạnh mẽ chuỗi các hải càng này giữa các thập niên 1760 và 1780.  Trong số 30 hay hơn các thuyền buồm đặt cơ sở tại Quảng Châu, 75 đến 80 phần trăm đã có một quyền lợi đặc biệt trong việc mậu dịch với Căm Bốt, Cancao, và Đàng Trong.  Điều đáng lưu ý rằng, một cách tổng quát, đây cũng là thời kỳ giữa kết liễu của Ayutthaya, bị triệt hủy bởi các lực lượng Miến Điện trong năm 1765, và sự thành lập trong thập niên 1780 một quốc gia Thái mới đặt cơ sở tại Bangkok.  Nhiều phần có vẻ rằng các nhà mậu dịch bằng thuyền buồm của Quảng Châu này ít bị tổn hại từ sự lu mờ của một trung tâm mậu dịch Xiêm La chính yếu so với các mạng lưới mậu dịch khác có thể phải gánh chịu vào lúc đó.  Thay vào đó, các biến cố chính trị tai hại này rõ ràng đã khai mở một không gian rộng lớn trong đó các hải cảng thứ yếu có thể cạnh tranh một cách thành công hơn cho một vai trò thương mại quan trọng.

       Nhưng còn có nhiều điều trong câu chuyện Quảng Châu-Vùng Biển Phương Nam hơn những thành tố sơ sài được phác họa bên trên.  Nhờ ở ánh sáng mạnh mẽ mà Các Hồ Sơ Quảng Châu chiếu rọi vào bức tranh mờ tối và hiểu biết nghèo nàn của mậu dịch Đông Nam Á – Quảng Châu hồi giữa thế kỷ thứ mười tám, chúng ta giờ đây có thể chắp nố lại với nhau một cách thành công hơn một khối lượng bằng chứng rải rác và biệt lập mà ý nghĩa của nó đã lẫn tránh chúng ta trước đây.  Như chúng ta sẽ thảo luận trong đoạn kế tiếp, bức tranh xuất hiện từ tiến trình này phát hiện lần đầu tiên một khu vực tương tác rộng lớn đã nối kết bờ biển Trung Hoa với vùng biển Phương Nam của Biển Nam Trung Hoa lại với nhau và với các vùng nội địa núi non liên hệ của chúng.  Lý do chúng ta có thể nhìn thấy ngày nay bức tranh to lớn hơn này là bởi chúng ta có một ánh sáng tốt hơn để soi sáng các góc cạnh quan yếu của Biển Nam Trung Hoa, nơi mà mậu dịch và sự sản xuất được kết hợp một cách đáng ngạc nhiên, ở một thời cơ gay go trong lịch sử Đông Nam Á.

Quảng Châu, Trung Tâm Tài Chính

Của Á Châu Thế Kỷ Thứ Mười Tám

       Giờ đây chúng ta hãy huớng tiêu điểm đến Quảng Châu.  Trái với nhận thức từ lâu rằng hệ thống Quảng Châu thì tham nhũng, cứng ngắc và gây trở ngại cho thương mại, như tác giả Van Dyke cho thấy gần đây, nó trong thực tế là trung tâm thương mại khả dĩ dễ tiếp cận nhất tại Á Châu thế kỷ thứ mười tám, và chắc chắn là nơi duy nhất tại vùng Đông Á có một thị trường “mở ngỏ”.  Chính quyền Trung Hoa đã không kỳ thị vì yếu tố chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo, hay bất kỳ yếu tố nào khác, mà đã chấp nhận mọi người và bất kỳ ai muốn thực hiện việc mậu dịch ở đó.  Tất cả các sản phẩm của Trung Hoa được cung ứng cho bất kỳ kẻ nào muốn mua hay bán chúng, một chính sách mà chính quyền nhà Thanh đã nhấn mạnh đến việc duy trì qua thời gian.  Quảng Châu trong những năm đầu tiên của thế kỷ thứ mười tám đã mau chóng xuất hiện “như một trong những nơi linh động nhất để thương thảo sự kinh doanh”. (Van Dyke 2005a: 5)

       Một khía cạnh quan trọng của sự thịnh vượng của Quảng Châu, trọng tâm của sự tăng trưởng của nó, là khả năng đáng kinh ngạc của hải cảng trong việc thu hút tư bản ngoại quốc.  Điều này xảy ra là nhờ các sự phát triển trong thế kỷ thứ mười bảy tại những nơi cách xa Trung Hoa.  Tại Âu Châu, các lãi suất rõ ràng có khuynh hướng đi xuống vào cuối thế kỷ thứ mười bảy.  Tại Anh Quốc và tại Cộng Hòa Hòa Lan, hai nước phát triển thương mại nhất về mậu dịch hàng hải tại Âu Châu, các lãi suất trên khoản nợ công khố phiếu tụt xuống vào thập niên 1710 đến mức 4% và 3% (lần lượt) là chuyện thông thường.  (Chaudhuri 1978: 445; Tracy 1991: 293-4). Hậu quả, một sự mất cân bằng đã nảy nở giữa các thị trường cho vay nặng lãi tại Âu Châu (và các thuộc địa của Âu Châu tại Mỹ Châu) và Á Châu, khiến cho một số lượng khổng lồ đồng tiền bằng bạc di chuyển từ Âu Châu sang Á Châu.  Nhập lượng của bạc của Tân Thế Giới [tức Mỹ Châu, ND] vào Ấn Độ, thí dụ, đã đẩy lãi suất ở đó xuống tới 7 cho đến 8 phần trăm vào cuối thế kỷ thứ mười bảy.  Á Châu đã trở thành một nơi có sự hấp dẫn tư bản đầu tư của Âu Châu và Tân Thế Giới vào thời điểm này, đến nỗi tác giả Chandhuri đã nhấn mạnh rằng “không thể có bất kỳ nghi vấn nào rằng bạc nhập cảng bởi Các Công Ty Âu Châu đã đóng giữ một vai trò tích cực, chứ không phải thụ động” tại các thị trường tài chính Á Châu. (Chandhuri 1978: 159).

       Trong khi lãi suất tại Á Châu thế kỷ thứ mười tám đã biến đổi một cách đáng kể qua thời gian, sự việc vẫn luôn luôn xảy ra là các thương nhân Trung Hoa tại Quảng Châu đã trả các lãi suất cao hơn cho tư bản khi so sánh với lãi suất cung ứng tại Âu Châu và tại các hải cảng Á Châu kiểm soát bởi người Âu Châu.  Bởi vì về mặt chính thức, việc vay mượn các người ngoại quốc là bất hợp pháp, tiền lãi được tính trên tư bản ngoại quốc không được quy định tại Trung Hoa.  Tuy nhiên, mậu dịch về trà đã không thể tăng trưởng nếu không có tư bản đầu tư như thế, trong thực tế, các viên chức Trung Hoa đã làm ngơ đối với các sự giao dịch này.  Và bất kể tính bất hợp pháp trong ý niệm của chúng, các vụ đầu tư nước ngoài như thế thì an toàn một cách đáng ngạc nhiên: nếu một thương nhân Trung Hoa bị thất bại, tòa án nhà Thanh khẳng quyết rằng bất kỳ món nợ nước ngoài nào phải được tôn trọng bằng cách cưỡng bách các thương nhân cùa Hãng khác (other Hong merchants) gánh chịu trách vụ.  Bồi hoàn các nhà đầu tư ngoại quốc theo cách này bảo đảm rằng họ không bị nản lòng khi quay lại Trung Hoa. (Ch’en 1990) Hậu quả, phần lớn tư bản ngoại quốc tiếp tục đổ vào Quảng Châu để tài trợ cho mọi khía cạnh của thương mại quốc ngoại của nó.

       Điều mà Các Hồ Sơ Quảng Châu cho thấy rằng phần lớn khối tiền nước ngoài này được đổ vào việc tài trợ mậu dịch bằng thuyền buồm với Đông Nam Á.  Các nhà thương nhân Trung Hoa tại Quảng Châu thì thường trực cần đến vốn hoạt động, để mua trà, đồ sứ, và lụa tại Trung Hoa, và để tài trợ cho mậu dịch với Đông Nam Á.  Nguồn tốt nhất, và đôi khi là duy nhất, của vốn hoạt động đến từ các người ngoại quốc.  Các nhà đầu tư này bao gồm người Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Armenians, người dân các nước Hồi Giáo, các người Parsees [dân theo đạo độc thần của giáo phái Zoroastrianism, chủ yếu tại Bombay, Ấn Độ, và một số tại Pakistan, ND], người Pháp, Đan Mạch, Hòa Lan, và Anh Quốc, trong số các dân khác.  Các ngoại kiều này có thể vay mượn ngân khoản tại Macao, Quảng Châu, hay những nơi khác tại Á Châu với lãi suất hàng năm từ 10 đến 15 phần trăm và cho người Trung Hoa vay lại với lãi suất hàng năm từ 15 đến 20 phần trăm.

       Các khoản đầu tư được thực hiện hoặc dưới hình thức các khoản cho vay trực tiếp, hay như các khoản ký quỹ được gọi là các khế ước đáy thuyền (tàu) [bottomry contracts: khoản vay có bản chất như một vụ để đương, theo đó chủ tàu vay mượn tiền để làm một chuyến đi buôn, cầm thế chiếc tàu là vật bảo đảm, ND].  Một khế ước đáy tàu là một loại khế ước bảo hiểm tổng hợp và khoản vay kinh doanh nhỏ có tính chất đầu cơ đảm trách mọi rủi ro của sự nguy hiểm trên biển cho chiếc tàu và hàng hóa vận chuyển.  Các rủi ro cao tạo ra các lãi suất cao: lãi suất thông thường tại Quảng Châu cho khế ước đáy thuyền buồm, đến mọi nơi ngoại trừ Manila, là 40 phầm trăm mỗi năm cho thời khoảng của chuyến di hành.  Các khế ước đáy thuyền giúp cho các nhà đầu tư và các thương nhân chia sẻ các rủi ro của các chuyến di hành đến Đông Nam Á.  Dưới đây là một thí dụ của một khế ước đáy thuyền được lập giữa một đại diện quản lý hàng hóa vận tại trên thuyền gốc Thụy Điển, Jean Abraham Grill, và một thuyền trưởng Trung Hoa trong năm 1765:

Wu Heguan, thuyền trưởng dương thuyền Hingtay, có vay mượn 500 lạng bạc từ [Đại Diện Quản Lý Hàng Hóa Hải Vận] Jean Abraham Grill để lái thuyền sang Đàng Trong, với lãi suất là 40 phần trăm.  Tiền gốc và tiền lãi sẽ được hoàn trả trong vòng hai tháng sau khi chiếc thuyền quay trở lại hải cảng [Quảng Châu].  Nếu gió và dòng nước không suông sẻ (thí dụ, một sự không may xảy ra), mỗi bên sẽ chấp nhận vận mệnh và không được phép làm khó khăn cho bên kia. (Van Dyke 2004b).

       Mặc dù bạc liên tục được đổ vào Quảng Châu, nhu cầu của nó quá mạnh đến nỗi các lãi suất vẫn giữ vững ở mức cao. Thị trường vốn tạo lợi nhuận nhiều đến mức các nhà đầu tư thường đã có thể kiếm nhiều tiền hơn, ít rủi ro hơn, bằng việc tài trợ cho mậu dịch Trung Hoa thay vì tự mình làm việc buôn bán.  Sự bất cân bằng trong các lãi suất này giữa Quảng Châu và các thị trường bên ngoài mang lại cho Trung Hoa các sự khích lệ cần thiết để thu hút một nguồn cung xem ra vô tận của tư bản ngoại quốc.  Hậu quả, một phần lớn vốn lưu hành tại thị trường Quuảng Châu không hề đến một cách trực tiếp từ túi người dân Trung Hoa là từ các cá nhân thực sự cách xa Quảng Châu hàng nghìn dặm.  Một số các nhà mậu dịch tiếp tục đầu tư vào mậu dịch thuyền buồm Quảng Châu dù sau khi họ quay về nhà tại Âu Châu hay Ấn Độ, trong khi các nhà đầu tư khác chưa từng đặt chân lên đất Trung Hoa.  Họ tùy thuộc vào các bạn hữu và các đại diện riêng tư tại Quảng Châu để đầu tư các ngân khoản cho họ, trả một lệ phí cho các dịch vụ khác.  Hiển nhiên đây là đồng tiền sạch được tạo lập bằng việc đầu tư vào các hoạt động kinh doanh nhộn nhịp tại Á Châu, về trà, đồ sứ và lụa một bên, bên kia là về thiếc và sự sản xuất số thu hoạch nông nghiệp bán lấy tiền (cash-crop). (Van Dyke 2004b, 2005a).

       Một gia đình thương nhân người Hokkien hoạt động tại Quảng Châu trong thời kỳ này cung cấp một manh mối tuyệt hảo về cách thức dòng tiền ngoại quốc đã tài trợ phần lớn mậu dịch Trung Hoa tại Đông Nam Á ra sao.  Gia đình họ Yan : Nhan, quản trị cả một xí nghiệp ngoại quốc tên gọi là Taihe Hang    Thái Hòa Hãng, lẫn hãng dương thuyền của chính họ, Taishun Hang Thái Thuận Hãng.  Họ điều hành sáu thuyền buồm từ Thái Thuận Hãng trong thập niên 1760, phần lớn đi đến Đàng Trong, Bassac, và Palembang.  Các thương nhân Hãng khác, chẳng hạn như họ Ye Diệp, họ Pan Phan và họ Chen Trần, cũng làm phần lớn công việc như thế. (Van Dyke 2004b, 2005).

       Như Bảng 1 bên dưới cho thấy, mậu dịch của gia đình họ Yan thường xuyên được tài trợ bởi vốn nước ngoài.  Khi khảo sát các con số, cần phải ghi nhớ rằng chúng chỉ tượng trưng cho một phần của các khoản vay mượn mà gia đình họ Yan đã vay từ các ngoại kiều mỗi năm.  Và các con số trong Bảng 1 không bao gồm nhiều khế ước đáy thuyền mà họ Yan đã vay mượn từ các người nước ngoài để tài trợ cho các chuyến di hành bằng thuyền buồm, với lãi suất cao hơn nhiều tới 40 phần trăm.  Các giao dịch tư nhân này đã bị thể hiện ít ỏi một cách lớn lao trong văn liệu lịch sử, về mặt tầm quan trọng kinh tế của chúng.  Thí dụ, trong Tháng Bảy 1724, khi các đại diện quản lý hàng hóa vận tải của Anh Quốc đến Quảng Châu, họ khám phá rằng tất cả các thương nhân trong Hãng ngoại trừ “Suqua” (Chen Shouguan   Trần Thọ Quán) đều bị mắc nợ rất nhiều “một số người Armania nào đó”.  Quang cảnh không có gì khác biệt hồi cuối thế kỷ thứ mười tám khi một người Armania khác, có tên gọi là Matheus Joannes, chiếm giữ quá nhiều thị trường vốn tại Quảng Đông, bao gồm cả việc tài trợ mậu dịch với Đông Nam Á và Ấn Độ, đến nỗi khi ông từ trần trong năm 1794, các kẻ nắm quyền tại Macao đã từ chối không cho phép tài sản của ông ta rời đi.  Họ sợ rằng nếu tất cả các ngân khoản được rút ra khỏi công quỹ của thành phố cùng một lúc, nền kinh tế sẽ sụp đổ. (Smith 2003, Smith và Van Dyke 2003).

 

Bảng 1: Các khoản vay ngắn hạn và dài hạn dành cho các thương nhân họ Nhan tại Quảng Châu bởi các đại diện quản lý hàng hóa vận tải trên thuyền người Thụy Điển để tài trợ cho mậu dịch của gia đình này (Mọi con số tính bằng lạng Trung Hoa, được chiết tính bởi Van Dyke).

 



 

Đây chỉ là một vài thí dụ của nhiều khoản vay thương mại được thực hiện mỗi năm.  Chúng ta hay biết được các thí dụ này bởi một số hồ sơ cá nhân tồn tại; nhưng chúng chỉ là một phân số của tổng số các vụ giao dịch như thế xảy ra mỗi năm tại Quảng Châu.  Nếu chúng ta có được nhiều tin tức đầy đủ hơn liên quan đến tất cả các sự giao dịch riêng tư như thế, điều đó chắc chắn phát hiện một nhập lượng khổng lồ của tư bản vào Trung Hoa thế kỷ thứ mười tám.  Các ngân khoản sau đó bị phân tán trong nhiều hướng, nhiều phần trong chúng nhằm tài trợ cho mậu dịch thuyền buồm bởi đó là chỗ mà tiền bạc có thể được tạo ra nhiều nhất.  Chừng nào mà các nhà tài trợ vẫn còn rải các khoản đầu tư của họ trên các thuyền buồm, ngay dù một hay hai thuyền buồm bị đắm chìm, họ vẫn còn có thể kiêm được nhiều tới 37 phần trăm số tiền của họ mỗi năm.  Nếu sự may mắn của họ được bảo toàn và các thuyền buồm không chịu tổn thất gì, các nhà đầu tư có thể kiếm được lợi nhuận đến 40 phần trăm, mà không hề phải đụng tay đến ngay cả một thùng đựng trà hay bất kỳ sản phẩm nào khác.

       Các doanh nghiệp của các thương gia Trung Hoa và các nhà quản lý hàng hóa mậu dịch tại Quảng Châu đan kết với các nhà đầu tư hải ngoại đến nỗi, trong năm 1779, các chủ nợ người Anh tại Quảng Châu nhận thấy 32 phần trăm số nợ của Trung Hoa là nợ các nhà kẻ ký thác hàng hóa, những người cư trú tại các khu định cư người Ấn Độ và đã đầu tư xuyên qua các nhà quản lý hàng hóa mậu dịch tại Quảng Châu.  (Morse 1926: 46) Trong năm này, khoản nợ của Yan Ingsia không thôi lên tới một con số khổng lồ 1.5 triệu đô la Tây Ban Nha, hầu hết trong đó (92 phần trăm) là nợ các trái chủ chính yếu của các nhà mậu dịch tư nhân Anh Quốc.  Sự may mắn của ông ta tại Quảng Đông và mậu dịch Đông Nam Á đã bị chấm dứt trong cùng năm đó với sự cập bến của một chiếc tàu Anh Quốc, chiếc HMS Seahorse, từ Ấn Độ.  Chiếc tàu mang theo “một đơn khiếu nại, được đưa ra bởi các nhà mậu dịch Anh Quốc bị thiệt hại chống lại Yngshaw [Ingsia] và một thương gia thất bại khác khiến các viên chức không còn lựa chọn nào khác hơn là báo cáo lên Bắc Kinh rằng hãy để chiến thuyền mang đơn khiếu nại lên Thiên Tân”. (Cheong 1997: 152-153).

       Điều chúng ta đang đi đến, và là điều được cho thấy tràn đầy trong Các Hồ Sơ Quảng Châu, rằng sự sản xuất thiếc và nhiều loại nông sản thu hoạch để thương mại, phần lớn được thực hiện bởi các lao động Trung Hoa tại Đông Nam Á hồi cuối thế kỷ thứ mười tám, trong thực tế được tài trợ bởi vốn không phải của Trung Hoa, mà đặc biệt bởi các nhà đầu tư Âu Châu và Ấn Độ.  Những gì tác giả Jackson nhận thấy được về tư bản “Trung Hoa” tại Singapore hồi đầu thế kỷ thứ mười chín cũng có thể áp dụng một cách hoàn hảo cho các thuộc địa người lao động thời sau này của thế kỷ thứ mười tám tại Đông Nam Á: rằng “không có một hệ thống tài trợ thuộc loại này, việc thực dân hóa nông nghiêp sâu rộng có thể đã không bao giờ xảy ra tại Singapore hồi đầu thế kỷ thứ mười chín”. (Jackson 1968: 13)

       Điều giờ đây rõ ràng rằng sự can dự gia tăng của tư bản ngoại quốc, các nhà kinh doanh và các công nhân lao động, vốn luôn luôn được xem là một nét đặc thù của thời kỳ thuộc địa tại Đông Nam Á, đã bắt đầu khoảng một thế kỷ trước đó.  Khi các thương nhân ngoại quốc chiếm giữ một cổ phần lớn lao trong thương mại nội vi Á Châu với tư cách các nhà mậu dịch tư nhân, các nhà kinh doanh Á Châu có thể thủ lợi từ tình trạng này, đã tìm kiếm các phương cách để thích ứng hay hợp tác với họ. (Blussé và Gaastra 1998: 9) Nhờ Các Hồ Sơ Quảng Châu, chúng ta không còn chắc chắn có thể vạch một vạch phân chia giữa các nhà mậu dịch Á Châu và Âu Châu.  Các thương nhân Hòa Lan, thí dụ, thuê mướn chỗ chứa hàng hóa trên các chiếc tàu của Bồ Đào Nha, và chúng thường xuyên chuyên chở hàng hóa đến Batavia trên vài thuyền buồm Quảng Châu, một số trong chúng còn trương cả quốc kỳ của Hòa Lan.  Các hồ sơ của Hòa Lan và Thụy Điển đều cho thấy rằng một số thương nhân của Hãng (Hong), các kẻ sở hữu và điều hành các thuyền buồm tại Quảng Châu, cũng thường xuyên lập ra các khế ước đáy thuyền với các tàu ngoại quốc đi Âu Châu.  Các người gốc Armenia, các người theo Hồi Giáo và Đạo Parsi tại Ấn Độ, tất cả đều dính líu một cách chằng chịt trong các sự giao dịch này ở trên nhiều mức độ. (Van Dyke 2005a)

       Chúng ta giờ đây hướng đến một sự điều tra sâu xa hơn về sự can dự gia tăng của số vốn hỗn hợp này, các nhà kinh doanh và lao động từ một đầu mút cuối thuộc Đông Nam Á  của Biển Nam Trung Hoa, và các hàm ý của nó cho sự phát triển kinh tế và các sự căng thẳng chính trị hồi cuối thế kỷ thứ mười tám.  Chúng ta bắt đầu với Cancao (Hà Tiên) và thị trường thiếc tại Trung Hoa.

 

Hà Tiên

Như Một Thị Trường Thiếc Cho Quảng Châu

      

Các Hồ Sơ Quảng Châu cung cấp các dữ liệu trọng yếu về Hà Tiên trong thập niên 1760, cho thấy vào lúc đó, nó đã xuất hiện như một hải cảng trưởng thành quan trọng trong thế giới mậu dịch của Biển Nam Trung Hoa.  Sự thịnh vượng của Hà Tiên đã bộc phát giữa thập niên 1740 và cuối thập niên 1760, nhờ ở các sự kém may mắn của các cảng cạnh tranh, đặc biệt sự tàn sát người Trung Hoa bởi người Đan Mạch tại Batavia năm 1740 và sự phá hủy của Miến Điện vùng Ayutthaya năm 1767.  Yếu tố thứ nhất hiển hiện trong một báo cáo bởi Li Qingfang, một viên chức Quảng Đông, lên triều đình nhà Thanh hồi Tháng chín 1741:

Bởi các sự hỗn loạn và biến cố tại Batavia hồi năm ngoái [tức vụ tàn sát năm 1740] phần lớn các thuyền buồm ở Amoy [Hạ Môn, thành phố ven biển phía đông nam tỉnh Phúc Kiến, ND] chuyển hướng để mậu dịch tại Pontiemas [Phương Thành, ND] [tức Cancao] [Cảng Khẩu, ND], Songkla, Johore và Nakon, và đã trở về với các lợi nhuận khổng lồ.  Con số các thuyền buồm đi Batavia đã giảm sút.  Hơn nữa, các thuyền buồm thực hiện chuyến đi đến Batavia đã không phái đi bởi các thương nhân Trung Hoa giàu có và tháo vát. (Văn Khố Nhà Thanh thuộc Đại Hội Đồng, quyển 7790, số 9)

       Trong thập niên 1740, Cancao được nổi tiếng tại Trung Hoa như một trung tâm mậu dịch gạo, với tên gọi của nó được xuất hiện nhiều lần trong các báo cáo lên Hoàng Đế Càn Long (Văn Khố Nhà Thanh, quyển 342).  Tọa lạc giữa hai khu vực thặng dư lúa gạo, Châu Thổ sông Mekong và lưu vực sông Chaophraya, Cancao đã có thể dễ dàng thu mua gạo với giá rẻ và bán nó cho các hải cảng gần cận. 4 Tuy nhiên, vào thập niên 1750, thông tin từ Các Hồ Sơ Quảng Châu cho thấy Cancao mở rộng các đặc sản thương mại của nó để trở thành một trung tâm cho mậu dịch thiếc với Trung Hoa.  Các con số trong Bảng 2, mặc dù chỉ thu thập các dữ liệu rải rác, song cũng ám thị một cách rõ ràng tầm quan trọng của Cancao trong mậu dịch về thiếc vào thời điểm đó.

Bảng 2: Các Số Nhập Cảng Thiếc Của Quảng Châu Từ Một Số Hải Cảng Tuyển Chọn Ở Đông Nam Á 1758-1774 (theo tạ: piculs) 5       

 

 

       Một điểm nổi bật xuất hiện từ các con số này rằng Cancao đã cung cấp cho Quảng Châu một số lượng lớn lao về thiếc ngay dù sau khi có sự thành lập Bangkok, nơi mà sự kiểm soát sản phẩm sinh lợi này còn khá bị hạn chế.  Xiêm La phần lớn đánh mất các năm sản xuất nhiều nhất của Palembang, tức giữa 1760 và 1780, bởi có các cuộc xâm lăng của Miến Điện và cuộc nội chiến tiếp theo sau sự phá hủy của Miến Điện tại Ayutthaya vào năm 1767.  Sự vắng mặt của một đối thủ đã tạo ra một cơ hội cho Cancao.  Mặc dù không có các con số đáng tin cậy hiện diện trong các số xuất cảng thiếc từ Đàng Trong, điều xem ra hiển nhiên rằng nó cũng đã tích cực tận dụng cơ hội này để mở rộng mậu dịch với Vòng Cung Đảo (xem bên dưới).

       Xiêm La đã cần một thời gian đáng kể để khôi phục vị thế của nó trong mậu dịch về thiếc.  Trong năm 1781, thí dụ, tàu “triều cống” của vua Xiêm La đã đến Quảng Châu với 10,000 tạ gỗ đỏ (redwood), 3,000 tạ hạt tiêu, 100 tạ ngà voi, 3 con voi, các con công v.v…, nhưng chỉ có 300 tạ thiếc.  (Morse 1926: 72-73) Ngược lại, Cancao đã cung cấp không ít hơn 2,000 tạ thiếc trong vài năm cho đến ít nhất năm 1770.  Cancao cũng là thị trường thiếc cho Amoy (Hạ Môn) và Limpho [Ningbo: Ninh Ba]. (NAH: Canton 79) Thiếc được chở tới từ Cancao nổi bật về số lượng và phẩm chất nhất quán đến nỗi ngay cả tin đồn về các thuyền buồm sắp đến từ Cancao có thể kéo giá thiếc xuống thấp.  Thí dụ, trong năm 1772, giá thiếc đã sụt giảm trong sự kỳ vọng một khối lượng lớn lao sắp được chở tới bởi sáu hay bảy chiếc thuyền buồm từ Cancao và bởi các tàu ngoại quốc khác nhau. (NAH: Canton 81)

       Mối liên kết giữa thế kỷ thứ mười tám của Cancao với Palembang thì quan trọng, bởi Palembang, “một trong các vương quốc Indonesia giàu có nhât’, kiểm soát vững chắc các mỏ thiếc tại Bangka. (Andaya 1993: 185).  Nối kết Cancao-Palembang xuất hiện một cách vững chắc và rõ ràng trong Các Hồ Sơ Quảng Châu.  Thí dụ, trong năm 1779, các nhà quản lý hàng hóa mậu dịch người Hòa Lan tại Quảng Châu hay biết từ các thương nhân Trung Hoa của họ “rằng hai thuyền buồm từ Cancao đã cập bến Palembang, và điều được nói rằng mỗi chiếc thuyền sẽ có 3,000 tạ thiếc”.  (NAH: Canton 88).  Mối liên kết Palembang-Bangka đã cung cấp một nguồn tài nguyên then chốt cho sự xuất hiện đáng ngạc nhiên của Cancao như trung tâm mậu dịch thiếc.  Mặc dù tỷ lệ lớn nhất về thiếc sản xuất tại Bangka được bán cho Hòa Lan, một thành phần đáng kể rõ ràng hoặc được bán cho Cancao với sự cho phép của Lãnh Chúa vùng Palembang, hay được buôn lậu bởi các thợ mỏ Trung Hoa tại Bangka.  Số thiếc này đã đến Quảng Châu xuyên qua Cancao. (Heidhues 1992: 20)

       Thiếc tiếp tục đổ vào Quảng Châu từ các địa điểm khác nhau.  Nhiều tàu khác nhau từ Đàng Trong và các hải cảng Đông Nam Á khác đã bổ sung số cung về thiếc tại Quảng Châu theo một cung cách thường xuyên như thế, đến nỗi các thương nhân của Hãng (Hong) đã có thể vận dụng tình trạng một cách hữu hiệu để giữ giá thiếc thấp xuống. 6 Bảng 3 bên dưới cho thấy rằng, bất kể các sự trồi sụt, các con số phát hiện số cung nói chung theo nhịp với số cầu.

       Lượng thiếc lớn lao được sản xuất trong thời kỳ này giúp giải thích một hiện tượng được quan sát bởi tác giả Leonard Blussé trong số người Hòa Lan tại Batavia, rằng trong khi người Trung Hoa và người Bồ Đào Nha trước đây đã mua thiếc từ Hòa Lan như sản vật làm bì dằn cho chuyến du hành của họ sang Trung Hoa, tình trạng đã thay đổi sau năm 1740.  “Thay vì mua, họ đã bán các số lượng gia tăng cho các nhà chức trách Hòa Lan.  Đây là một sự phát triển gây ngạc nhiên bởi sự xuất cảng đồng và thiếc bị ngăn cấm nghiêm ngặt tại Trung Hoa”. (Blussé 1991: 240) Thiếc được gửi đến Batavia thừa mứa đến nỗi trong năm 1763, Công Ty VOC, vốn luôn luôn bảo vệ, một cách lo ngại, thiếc khỏi việc bị buôn bán (hay trong mắt nhìn của nó, “bị buôn lậu”) đến bất kỳ nơi nào khác ngoài Batavia, đã phải ấn định giới hạn 30,000 tạ trong số đặt mua của nó từ Palembang. (Somers Heidhues 1992: 8) Cùng sự việc đã xảy ra tại Quảng Châu trong thập niên 1760, như có thể được nhìn thấy trong lời phát biểu kể sau từ 1766 “là một năm vô cùng khó khăn cho loại hàng đó [thiếc], khi toàn thể lãnh thổ [Trung Hoa] tràn đầy nó”. (NAH: Canton 29) Điều rõ ràng rằng sự sản xuất thiếc của Palembang đã được đan kết vào các thị trường ở cả hai đầu cực của Biển Nam Trung Hoa, đặc biệt xuyên qua mậu dịch thuyền buồm Can Cao.  Như thí dụ này phô bày, Biển Nam Trung Hoa có thể thực sự được xem như một khu thương mại và kinh tế tương tác vào thời điểm này.  Nhưng không chỉ có mỗi một mình thiếc biểu lộ cho sự nôi kết tương liên này.  Gạo cũng đóng vai trò của nó, như sẽ được thảo luận ở đoạn kế tiếp.

Bảng 3: Giá Thiếc Tại Trung Hoa, 1751-1782 7

(mọi con số được tính theo lạng Trung Hoa)

 

Các Nối Kết Giữa Thiếc và Gạo

       Mặc dù đã có một lịch sử mậu dịch lâu đời giữa gạo từ đất liền và tiêu cùng thiếc từ Vòng Cung Đảo, vào thế kỷ thứ mười tám nhu cầu về mậu dịch giữa hai bên trở nên căng thẳng và gay gắt hơn.  Tính chất quyết đoán của các cộng đồng người Trung Hoa hải ngoại này đã đóng giữ một vai trò quan trọng trong việc xiết chặt các sự liên kết kinh tế giữa khu vực sản xuất thiếc tại Palembang với các khu vực sản xuất lúa gạo của Vùng Hải Cương của Đông Nam Á lục địa.  Khác với các người Hoa nhập cư sớm hơn, những kẻ đã định cư tại Đông Nam Á trong một thời kỳ tương đối dài và đã thích ứng hơn với các xã hội địa phương, (Reid 1996: 15-50), người Hoa của thế kỷ thứ mười tám đã đến trong một thời khoảng tương đối ngắn và hiêm khi tìm cách hội nhập sâu xa vào địa phương.  Trong bất kỳ trường hợp nào, các sản phẩm của họ không có chủ định dành cho các thị trường địa phương. (Trocki 1997: 86-89) Thí dụ, tất cả 73,000 tạ thiếc Bangka được sản xuất hàng năm từ hơn mười bảy khu định cư đào mỏ thiếc của người Hoa đã được xuất cảng. (Andaya 1993: 190).  Bởi vì các khu định cư sản xuất người Hoa chưa bao giờ trở nên các thực thể kinh tế tự sinh tự dưỡng, chúng cần có các hàng hóa thiết yếu, đặc biệt là gạo, được mang đến họ từ nơi khác.

       Sự sản xuất đồ sộ như của Bangka chỉ có thể khả dĩ nếu một khuôn mẫu cung cấp thực phẩm được thiết lập một cách vững chắc.  Một thợ đào mỏ thiếc cần nửa tạ (30 kilo) gạo mỗi tháng (Heidhues 1992: 35) và trong năm 1757 con số các lao động Trung Hoa tại Bangka được ước lượng vào khoảng 25,000 người (Andaya 1993: 218).  Điều này có nghĩa rằng các cộng đồng đào mỏ đã phải nhập cảng 150,000 tạ gạo mỗi năm để duy trì sự sản xuất thiếc, cùng với muối, cá khô, và rau (Cooke 2004b).  Đây là nơi mà Cancao (và Căm Bốt ở một tầm mức thấp hơn) đã tìm được thị trường thích hợp của nó.  Cancao không bao giờ có thể trở thành trung tâm thiếc phát đạt phục vụ Quảng Châu nếu không có sự tiếp cận dễ dàng với số thặng dự lúa gạo ở quy mô to lớn của Châu Thổ sông Mekong, một trung tâm chính yếu của sự sản xuất lúa gạo kể từ thập niên 1740 (Li 1995), đúng vào thời điểm mà sự sản xuất thiếc thiếc tại Bangka cất cánh.

       Điều thú vị rằng ba hiện tượng này, sự sản xuất lúa gạo tại Châu Thổ sông Mekong, sự sản xuất thiếc tại Palembang/Bangka, và mậu dích thiếc giữa Cancao và Quảng Châu, đã ăn khớp thật chặt chẽ với nhau và đã diễn ra gần như trong cùng thời kỳ.  Theo tác giả Thomas Horsfiled, sự sản xuất thiếc tại Palembang đã vươn đến đỉnh điểm của nó giữa các năm 1760 và 1780, “và các cư dân của Bangka sau này đã hồi tưởng thời trị vì của Lãnh Chúa Ahmad Najamudin (trị vì 1757-74) của Palembang như một thời vàng son.” (Được trích dẫn từ Heidhues 1992: 17).  Những năm này cũng là thời hoàng kim của Cancao và Đàng Trong.  Điều thật bất thường để nghĩ rằng Palembang, một nơi cách xa Cancao và Đàng Trong hàng nghìn dặm lại có thể phục vụ như một động cơ quan trọng cho sự tăng trưởng của chúng trong thập niên 1760, nhưng đây xem ra là trường hợp đã xảy ra.  Khối lượng và tần số thường xuyên của mậu dịch gạo/thiếc giữa hai bờ biển hẳn phải là đáng kể.  Đàng Trong đã là một kẻ cạnh tranh đáng kể trong mậu dịch thiếc vào thời điểm này, và các thuyền buồm của Đàng Trong thường chở thiếc đến cả Hạ Môn lẫn Quảng Châu.  (NAH: Canton 74).  Hải cảng chính của nó, Hội An, đã đặt ra một thuế suất đặc biệt dành cho Palembang và Cancao trong thập niên 1760, (Lê Quý Đôn 1776: 116), khiến nghĩ đến một hoạt động mậu dịch khá thường xuyên và đều đặn giữa Cancao, Palembang và Đàng Trong vào thời điểm này.  Trong thực tế, rất nhiều thiếc được đổ vào Đàng Trong ở thời điểm đó đến nỗi một vài nguồn tài liệu cho thấy các tàu của Macao và các tàu khác đã bốc dỡ các khối lượng thiếc từ Đàng Trong và cũng chở nó đến Trung Hoa. (Huangchao jingshi wenbian 1826: tập 83; Dalrymple 1808: tập 1, 289).

       Giá gạo từ Đàng Trong phải thấp đáng kể so với giá biểu được đưa ra bởi Lãnh Chúa Palembang cho các thợ mỏ Trung Hoa tại Bangka, song giá biểu kể sau còn thấp hơn giá gạo của Đàng Trong trong những năm bết bát của nó. (Andaya 1993: 219; Lê Quý Đôn 1776: 101, 105, 138) 8 Khoảng cách giữa Châu Thổ sông Mekong với miền bắc của nó, Huế, vào khoảng 10 ngày đi đường, chỉ ngắn hơn một chút so với cuộc di hành sang Palembang.  Dù thế, giá gạo được ấn định bởi Lãnh Chúa Palembang cũng không phải là vô lý, bởi nó còn thấp hơn giá gạo tại Đàng Trong trong những năm bết bát của nó. 9 Số gạo cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau san bằng sự biến động đối với sự sản xuất tại các địa phương cá biệt và đã bảo đảm rằng các công nhân tại Palembang được nuôi ăn tốt và yên ổn sản xuất.

 

Sự Tăng Trưởng Của Đô Thị Và Sự Tiêu Thụ

       Tất cả thông tin và cuộc thảo luận bên trên về mậu dịch và sự sản xuất ở hai cực của Biển Nam Trung Hoa thế kỷ thứ mười tám đều đưa đến câu hỏi căn bản; tác động của các hoạt động kinh tế như thế tại Đông Nam Á quan trọng ra sao, và đâu là những hiệu ứng mà chúng tạo ra trên các xã hội địa phương và đời sống người dân?  Toàn thể điều đó có tượng trưng cho “sự tăng trưởng mà không gây ra sự thay đổi cơ cấu” hay không, trong đó trong khi mậu dịch nước ngoài đã mang lại nhiều hoạt động kinh tế hơn được thấm nhập vào các mối quan hệ và các định chế hiện hữu mà không thực sự thay đổi chúng và rằng các sự thay đổi quan trọng đã phải chờ đợi cho đến khi có các sự thay đổi tiêu mốc được trui rèn bởi chủ nghĩa thực dẩn.  Thí dụ, thương mại đã ảnh hưởng ra sao đến các điều kiện sinh sống và tiền công của các công nhân Trung Hoa và họ đã được so sánh ra sao với các cu-li của thời kỳ thực dân cao độ? Chúng tôi đặt ra câu hỏi này bởi, từ những gì chúng tôi có thể thu thập được từ các dữ liệu gần đây, các sự trao đổi thường xuyên của thiếc, trà và các sản phẩm khác đã kích thích một sự gia tăng đáng kể các số nhập cảng các sản phẩm tiêu thụ tại các khu vực duyên hải của Đông Nam Á nơi đã có mậu dịch thường xuyên với Quảng Châu.  Điều này hiển nhiên nhất trong số cầu về trà Trung Hoa.  Song hành với nhập lượng ồ ạt của thiếc đã nói ở trên, thị trường Quảng Châu nhận thấy các giá cả trà gia tăng gây ra bởi số cầu từ các thuyền buồm từ Đàng Trong và Batavia, như các bút toán sau đây minh chứng:

1763: Gia trà tăng hàng ngày bởi người từ thuyền buồm của Đàng Trong đã chọn lựa và mua sạch quá nhiều các loại hàng tốt nhất.

1764: ngày 23 Tháng Một: Chúng ta hay biết rằng các người từ các thuyền buồm Đàng Trong và Batavia đã khởi sự kết ước với Congo [? một thuộc địa của Âu Châu tại Phi Châu vào cùng thời gian, ND] với giá 17 lạng và trà Souchon thông thường với giá 21 lạng, và trước khi họ có những gì họ cần, chúng ta (người Hòa Lan) không thể làm được gì nhiều cho việc đó.

1764, ngày 10-18 Tháng Hai: Phần lớn trà hạng tốt được gửi đi Đàng Trong và Batavia, và bởi cả các thuyền buồm của Batavia đã rời đi ngày hôm nay … và các người Đàng Trong đã chở đi tất cả những gì họ cần, chúng ta giờ đây có niềm vui thích để mua số trà tốt còn lại. 

1765, ngày 22-27 Tháng Một; dân thuyền buồm đã sẵn được chiết tính các giá rất cao cho các hàng hóa chuyển vận đến Batavia và Đàng Trong.

1771, ngày 21 Tháng Mười Hai: Trà này [Congo?] cấu thành phần khống chế trong số trà của thuyền buồm Đàng Trong.  Họ đã mua sạch một khối lượng đáng kể để xuất cảng đến đó. (NAH Canton 35: 71-74)

       Một số lượng lớn về trà hẳn đã được bán tại các khu vực nằm giữa Đàng Trong và Batavia, và các khu định cư công nhân Trung Hoa có thể đã tạo thành một thị trường với sức mua đáng kể.  Trong sự thiếu vắng các mức lương cụ thể của các công nhân Trung Hoa tại Dàng Trong và Cancao vào thời điểm đó, một vài con số từ các hồ sơ Kong Koan của Trung Hoa tại Batavia trong năm 1790 có thể dùng làm một điểm tham chiếu.  Trong Tháng Bảy năm đó, 47 công nhân nông nghiệp Trung Hoa đã khiếu nại với Kong Koan rằng một chủ nhân nhà máy đường đã không trả lương cho họ, việc mà họ lo lắng muốn nhận được để gửi tiền về quê nhà khi các thuyền buồm khởi hành đi Trung Hoa.  Tiền công còn nợ 47 công nhân tổng cộng là 1,938 rixdollars [tiền đồng của các nước Hòa Lan, Đức, các nước Bắc Âu thời thực dân, ND], cho ta một tiền công trung bình là 41 rixdollars (vào khoảng 22 lượng). (Blussé & Chen 2003: 21) So sánh, tại tỉnh Quảng Đông trong năm 1795, tiền công cho các công nhân ép mía làm đường từ 500 đến 700 đồng tiền mặt mỗi tháng (5 đến 7 lạng). (Mazumdar 1998: 283) Nếu các con số này đáng tin cậy và tượng trưng cho tình trạng thực sự vào lúc đó, khi đó tiền công cho các công nhân thông thường tại Batavia cao gấp bốn lần tiền công tại Quảng Đông.  Sự so sánh này cũng được xác nhận bởi cuộc nghiên cứu của tác giả Robert Allen về các tiền công thấp của Trung Hoa trong các thế kỷ thứ mười bảy và mười tám, và giải thích lý do tại sao Trung Hoa có khả năng cạnh tranh trong sự sản xuất các chế tạo phẩm. (Allen 2005)

       Tình trạng các công nhân Trung Hoa tại vùng Đông Nam Á lục địa cũng sẽ tương tự.  Tại Bangkok hồi đầu thập niên 1820, theo tác giả Crawfurd, tiền công trả mỗi ngày cho một công nhân thông thường là 11 pence [xu, 1/100 đồng bảng Anh, ND]. Áp dụng tỷ số hối đoái một lượng bằng với 43.2 xu mang lại một tiền công mỗi ngày là 0.25 lạng.  Các công nhân làm việc ban ngày thông thường tại các cơ xưởng ngoại quốc ở Quảng Châu vào thời điểm này chỉ kiếm được 0.15 lạng mỗi ngày và, như đã ghi nhận ở trên, các công nhân thông thường khác tại Trung Hoa còn nhận tiền công thấp hơn nhiều, bởi thể, các tiền công này xem ra chắc chắn sẽ rất hấp dẫn đối với họ.

       So sánh với Trung Hoa và Ấn Độ cùng thời, các tiền công tại Đông Nam Á nhiều phần cao hơn trong thế kỷ thứ mười tám.  Crawfurd tường thuật rằng một người thợ làm nhà thông thường kiếm được 1 hào 3 xu [shilling: một hào, tương đương 1/20 bảng Anh (pound) hay 12 xu (pence), ND] mỗi ngày tại Đông Nam Á, khoản tiền mà ông nghĩ là “khác thường”. Lao động tại Đàng Trong cũng được nói là khá đắt, và được ước lượng cao gấp đôi tiền công tại Calcutta [một thành phố tại Ấn Độ, ND]. (Crawfurd 1828: 453, 522). Như là trường hợp thường lệ tại Đông Nam Á, tiền công trả các công nhân Trung Hoa luôn luôn cao hơn tiền công trả cho công nhân bản xứ.  Cứu xét tổng hợp các khía cạnh này, tiền công của các thợ mỏ Trung Hoa tại Bangka thế kỷ thứ mười tám cũng thế, rất nhiều phần cao hơn tiền công của thế kỷ thứ mười chín.  Các báo cáo của Hòa Lan về Bangka thế kỷ thứ mười chín xem ra xác nhận điều này: “nhiều người thợ mỏ đã đạt được mục đích của họ quay trở về Trung Hoa trong các thập niên thịnh vượng hơn của thế kỷ thứ mười tám,” và những người Trung Hoa đó “đã đoạt được một sự thù đáp cho lao động của họ nhiều hơn nhiều so với các thời kỳ sau này”. (Heidhues 1992: 17)

       Với tư thế làm ăn tương đối khấm khá và các phí tổn ăn uống thấp tại Đông Nam Á, các công nhân Trung Hoa hẳn đã tạo thành một khối kết hợp đáng kể các người tiêu thụ, như đã được phản ảnh trong khả năng mua sạch trà ngon và các sản phẩm Trung Hoa khác tại thị trường Quảng Châu.  Một điểm quan trọng ở đây là một sự phát triển như thế không nên được nhìn như ở ngoài sự tăng trưởng đô thị trọng thương của các khu vực thuộc Đông Nam Á chẳng hạn như Đàng Trong, Cancao, hay Palembang.  Như tác giả Carl Trocki vạch ra, các khu định cư người Trung Hoa phải được xem như các chồi nhánh chuyên biệt hóa của sự tăng trưởng đô thị tại Đông Nam Á. (Trocki 1997: 89) Trong khi chính sách đô thị hóa chưa bao giờ là một sự áp đặt xa lạ mà là “một lối sống’’ tại Đông Nam Á, sự tăng trưởng của các khu định cư người Trung Hoa và các thành phố-hải cảng đã tham gia vào tiến trình của sự xây dựng bản xứ các thành phố thời ban sơ hiện đại. (O’Connor 1995: 30-31). Đặc tính này đặc biệt quan trọng đối với vùng Biên Cương Trên Sông Nước, bởi vì vùng đa chủng tộc này vào lúc đó chưa bao giờ chủ yếu là một khu sinh tồn bằng nông nghiệp.  Chính trên căn bản này mà chúng ta nhìn thấy các thị trấn-hải cảng đặc sắc, với sự thịnh vượng mà chỉ giờ đây, với cái nhìn đầy đủ hơn về bức tranh to lớn hơn, chúng ta mới có thể bắt đầu thông hiểu và tán thưởng.  Dưới đây là sự mô tả thị trường của Đồng Nai (hay Lonay) tại Biên Hòa hồi thập niên 1760 và 1770:

Các ngôi nhà được xây bằng gạch và các bức tường được sơn quét.  Từng dẫy các ngôi nhà với các cửa hiệu khác nhau chiếu sáng dọc dòng sông và in hình lên bàu trời.  Các ngôi nhà trải dài năm (một lí = 500 mét) và tỏa rộng trên ba con đường chính.  Các đường phố chính chạy theo trục bắc nam được lát bằng đá trắng và các đường phố theo trục đông tây được lát bằng đá ong [chữ Việt trong nguyên bản, ND].  Trong khi các đường nhỏ hơn được lát bằng gạch màu hơi xanh, toàn thể thị trấn có lề đường xây bằng đá.  Các thương gia và các nhà mậu dịch tụ tập ở đây, các thuyền buồm đi biển và các thuyền chạy đường sông thả neo và xế hàng nối đuôi nhau ở đây.  Như một đô thị to lớn như thế, địa điểm này đã chứng kiến sự tập trung các thương nhân giàu có, và tình trạng như thế không được nhìn thấy ở bất kỳ nơi nào khác [trong đất nước?]. Trịnh Hoài Đức 1810: 24)

       Mức độ giàu có trong xã hội Đàng Trong đã được mô tả một cách sống động, có lẽ có một số sự thậm xưng với căn bản uyên bác của tác giả gốc miền bắc bị chấn động, trong đoạn tường thuật dưới đây hồi đầu thập niên 1770:

Các quan chức, bất luận chức vụ cao thấp ra sao, đều sống trong các tòa nhà trang trí, với các màn cửa bằng vải lưới mỏng và vải sa-tanh, và màn ngăn muỗi.  Các chiếc bình của họ làm bằng đồng, bàn ghế làm bằng gỗ quý.  Cốc uống nước và khay là đồ sứ Trung Hoa, và các yên ngựa bằng vàng và bạc.  Quần áo may bằng gấm và lụa màu, và các chiếc chiếu làm bằng loại mây có phẩm chất rất tốt.  Họ phô bày và cạnh tranh nhau về sự giàu có và sự đặc sắc.  Người dân thường cũng mặc áo bằng satin in hoa và các chiếc quần hoa văn tỉ mỉ như y phục hàng ngày của họ.  Mang y phục bằng vải trơn bị xem là một sự đáng hổ thẹn.  Các binh lính đều thích thú ngồi trên các chiếc chiếu, với lư hương trong tay, uống trà ngon bằng các cốc bằng bạc hay đồ sứ tàu.  Mọi thứ đều đến từ Trung Hoa, từ ống nhổ cho đến đĩa bát, ngay cả đồ ăn.  Mọi bữa ăn, họ đều ăn ba bát cơm to.  Các phụ nữ đều mặc đồ bằng hàng lưới mỏng, gai và lụa, với các hoa thêu quanh cổ áo vòng tròn.  Dân chúng ở đây nhìn vàng và bạc như thể là cát, hạt kê và gạo như bùn; cuộc sống của họ không thể nào xa hoa hơn. (Lê Quý Đôn 1776, ta6p. 6: 227b)

 

Các Liên Hệ Ràng Buộc

       Điều rõ ràng từ sự thảo luận bên trên rằng đã có một chiều hướng gia tăng hướng đến một sự hội nhập kinh tế chặt chẽ hơn của các khu định cư phần lớn người Trung Hoa sản xuất thiếc, hạt tiêu và gạo khi Đông Nam Á tiến vào thập niên 1760.  Đây là thời điểm khi các mỏ thiếc dưới sự kiểm soát của Palembang tiến tới giai đoạn trưởng thành và bắt đầu sản xuất các khối lượng đồ sộ về thiếc; khi sự sản xuất hạt tiêu được phục sinh và vươn đến các cao điểm chưa từng có (Bulbeck, Reid và các tác giả khác 1998: 64, 74-75); và khi Châu Thổ sông Mekong trở nên đông dân và sản xuất lúa gạo thừa thãi và giá rẻ cho thị trường.  Nhu cầu các nhà mậu dịch và các sự giao thương liên lạc giữa vùng Đông Nam Á Hải Đảo và Lục Địa trở nên quá cấp bách, chưa bao giờ thấy trước đây.  Nhưng đây cũng là thời điểm mà Xiêm La rơi vào các sự hỗn loạn ngày càng gia tăng khi Ayutthaya bị tấn công và sau cùng bị triệt hủy.  Thập niên 1760 chính vì thế đã mang lại cơ hội bằng vàng cho Cancao và Đàng Trong, cả hai đã đáp ứng một cách mau lẹ và phát đạt một cách lớn lao.  Hậu quả, chúng trở thành các tác nhân quan trọng trong mậu dịch Đông Nam Á.  Nhưng không một trong các hoạt động thương mại này lại có thể hiện hữu hay phát triển tự bản thân chúng nếu không có yếu tố Quảng Châu, một tình trạng xem ra khác biệt với mậu dịch liên-Đông Nam Á (inter-Southeast Asia) được thực hiện trong Kỷ Nguyên Thương Mại (1450-1680) (Reid 1988, 1993).  Trong thực tế, Quảng Châu thế kỷ thứ mười tám xem ra đã đóng một vai trò tương tự trong việc tài trợ sự sản xuất và sau đó mậu dịch giữa Đông Nam Á và Trung Hoa, y như Singapore, Melaka, và Penang sẽ đóng trong thế kỷ thứ mười chín.  Cũng giống như các tác nhân kinh tế thế kỷ thứ mười chin nặng ký đó, điều rõ ràng là một số các thương nhân Quảng Châu đã có “các đại lý tại Palembang” quanh năm mua sạch thiếc, hay trong một số phương cách kiểm soát được số cung. (NAH: Canton 73) Các phí tổn giao dịch chính vì thế được giảm thiểu lớn lao, khi cùng nhóm các người Trung Hoa và các phụ tá của họ quản trị cả việc mậu dịch lẫn sản xuất.

       Các học giả từ lâu đã ghi nhận rằng tính chất đặc thù của sự kinh doanh nông nghiệp Trung Hoa tại Mã Lai hồi thế kỷ thứ mười chín rằng nó bị kiểm soát bởi các nhà tài trợ đặt trụ sở tại đô thị.  Thí dụ, thị trấn Malacca đã là tiêu điểm cho kỹ nghệ bột sắn hột (tapioca) (hay sago: bột cọ) Trung Hoa trong khi Singapore phục vụ cùng chức năng cho các nhà trồng hạt tiều hay cây gambier [loại cây cho mủ dùng trong y dược, ngành nhuộm vải, thuộc da, ND]. (Jackson 1968: 38).  Các đồn điền trồng hạt tiêu và cây gambier tại Riau và Singapore trong các thập niên 1830-40 mang lại cho chúng ta một số ý tưởng về cách thức điều hành kỹ nghệ ra sao, với sự hỗ trợ tài chính từ các chủ cửa hàng và các thương nhân Trung Hoa tại Singapore, những kẻ thường nhận lãnh một bách phân trên số sản xuất vị lai và mậu dịch dưới các điều kiện có lợi nhiều cho các nhà tư bản.  Chính vì thế, điều được nhận thấy trong năm 1841 rằng “hầu hết toàn thể các đồn điền hạt tiêu và gambier được thành lập, và giờ đây được tin được chống đỡ bởi số vốn vay mượn – đến mức các nhà trồng trọt thực sự gần như tùy thuộc vào lòng nhân từ của các thương nhân Trung Hoa trong Thị Trấn.” (Singapore Free Press 1841: tập 6, số 46)

       Các học giả nêu ý kiến rằng, tại Đông Nam Á, các người Âu Châu đã đầu tư chính yếu vào mậu dịch trước thập niên 1870, và rằng ngành khai mỏ và sản xuất nông sản để bán vốn là các kỹ nghệ căn bản của Trung Hoa.  Một cách gián tiếp, như tác giả Drabble đã vạch ra, sự can dự của Âu Châu trong việc tài trợ các cuộc kinh doanh hầm mỏ và nông nghiệp thì đáng kể.  (Drabble 2000: 55) Thí dụ, mặc dù trong năm 1864 các thương nhân Trung Hoa tại Singapore có tuyên bố rằng họ đã ứng trước hơn một triệu đô la để phát triển các đồn điền tại Johore, phần lớn số tiền trong thực tế nguyên thủy được vay mượn từ các thương nhân Âu Châu.  Thật kỳ thú để nhận thức rằng mậu dịch và sản xuất đã ràng buộc chặt chẽ lẫn nhau ra sao vào thời điểm này.  Điều được tường thuật rằng trong thập niên 1830 “có 100 cửa hiệu gambier và hơn 200 cửa hàng thực phẩm tại Singapore dựa gần như hoàn toàn vào mậu dịch Johore”, (Turnbull 1959: 44) vốn chỉ là một điểm tí hon trong bức tranh mậu dịch Á Châu bao la hồi đầu thế kỷ thứ mười chín.  Tác giả Wyatt chắc chắn đã đúng, khi ông than vãn rằng “quá nhiều, hàng trăm nghìn, hay ngay cả hàng triệu, các nhà mậu dịch Á Châu đã can dự --đặc biệt người Trung Hoa – và các hoạt động thương mại của các nhà mậu dịch này đã không được tính toán, ít nhất không có trong bất kỳ hồ sơ nào được hay biết còn tồn tại”. (Wyatt 2003: 51) Tuy nhiên, đó là một khoảng trống mà chúng ta giờ đây ngày càng hy vọng có thể được khởi sự san lấp, mặc dù nhẹ nhàng, với các tài liệu như Các Hồ Sơ Quảng Đông.

       Cùng với sự can dự gia tăng của tư bản hỗn hợp đã diễn ra các hậu quả xã hội và chính trị trong giới doanh nhân và công nhân tại hai đầu cực của Biển Nam Trung Hoa.  Các điều kiện kinh tế và xã hội đã thay đổi mau chóng tại Đông Nam Á thế kỷ thứ mười tám và đặt nhiều áp lực trên các mối quan hệ hiện hữu.  Thí dụ, các sắc thuế đánh trên sợi mây đã gia tăng mạnh mẽ tại Đàng Trong hồi giữa thế kỷ thứ mười tám.  Các khối lượng khổng lồ cần thiết cho việc đóng gói trà xem ra đã trở thành một yếu tố thúc đẩy triều đình nhà Nguyễn gia tăng các sắc thuế của nó trên các nhà cung cấp vùng cao nguyên.  Cho đến năm 1769, một người thọ thuế bậc một (tráng) chỉ phải trả 1000 sợi mây mỗi năm để trả thuế, nhưng sau năm 1769 anh ta đã phải nạp 3920 sợi.  Có nghĩa các sắc thuế tăng gần gấp bốn lần.  (Lê Quý Đôn 1776: tập 4, 11a-11b) Có thể không phải thái quá để nói rằng trong khía cạnh này triều đình nhà Nguyễn đã hành xử như một đại lý của các thuyền buồm Quảng Châu, thu thập và đôi khi tổ chức sự sản xuất cho Quảng Châu và các thị trường hải ngoại khác, đã đem lại cho chúng sự giàu có khổng lồ.  Một lời phát biểu của một hải tặc Trung Hoa bị bắt giữ được tìm thấy trong văn khố nhà Thanh cho thấy tầm mức lớn lao.  Theo anh ta, trong năm 1744, chúng đánh cướp tàu của vị chúa Đàng Trong và gia đình chúa, chạy trốn xuống phía nam, sau sự thành công ban đầu của cuộc nổi dậy của Tây Sơn.  Chiến lợi phẩm bao gồm vài trăm lạng vàng và bạc, nhưng cho đến giờ phần đáng kể nhất của kho báu, cân nặng 27,190 lạng, là các đồng tiền bằng bạc của tây phương. (Văn Khố nhà Thanh Của Đại Hội Đồng: hô sơ 7777, số 15)

       Mậu dịch Quảng Châu cũng đã thắt chặt sợi dây nối kết giữa triều đình và các thương nhân Trung Hoa địa phương ở Đàng Trong.  Thế kỷ thứ mười tám chứng kiến sự xuất hiện của một nhóm người Hoa địa phương uy thế tại Hội An.  Tác giả Trần Kính Hòa có lần đã vạch ra rằng nếu người Trung Hoa tích cực tại Hội An trong mậu dịch hải ngoại hồi đầu thế kỷ thứ mười bảy chính yếu là các thương nhân và chỉ có sự móc nối với triều đình, các kẻ khác sẽ trở thành các viên chức chính quyền vào cuối thế kỷ thứ mười bảy. (Chen 1973: 50-51; Li và Reid 1993: 31) Các sự liên kết mạnh nhất xem ra là các sự nối kết được xây dựng trong thế kỷ thứ mười tám, giữa các thương nhân các Hãng (Hong) và các thương nhân tại Đàng Trong, khi họ không chỉ dính líu đến mậu dịch mà còn cả việc sản xuất.  Các thương nhân này kế đó đã củng cố cho vị thế của nhau.  Có thể không phải sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng Thái Hòa Hãng tại Quảng Châu  được nói tới ở trên đã sụp đổ trong năm 1780, chỉ ít năm sau khi cuộc nổi dậy của Tây Sơn bùng nổ tại Đàng Trong (Van Dyke 2004b, 2005d).

       Cũng có các thí dụ khác.  Các giai đình họ Cai và Qiu và các thương nhân họ Ye tại Quảng Châu thường xuyên mậu dịch với Đàng Trong, Căm Bốt, và Passiack, và họ đều mắc nợ sâu xa hay phá sản vào giữa thập niên 1770.  Hai (trong ba hay bốn) nhà buôn họ Chen tại Quảng Châu và các thương nhân họ Ni () cũng đã thất bại trong thập niên 1770, và tất cả họ đều dính líu sâu xa đến mậu dịch Đông Nam Á.  Một nhà buôn họ Trần dính líu đến mậu dịch vùng Biển Phương Nam đã tìm cách sống sót qua cuộc khủng hoảng thời thập niên 1770, nhưng đã sụp đổ vào cuối thập niên 1780.  Không một trong các vấn đề và các sự căng thẳng tại Đông Nam Á xảy ra cùng thời với các sự thất bại của các thương nhân thuộc các hãng lại được cứu xét đầy đủ hay ngay cả thường được thảo luận đến trong các cuộc nghiên cứu trước đây về mậu dịch Quảng Châu.  Dĩ nhiên, nhiều thành tố khác chắc chắn góp phần vào các sự sụp đổ này nhưng, như chúng tôi hy vọng đã chứng minh, cho đến giờ các yếu tố Đông Nam Á vốn không được nhìn nhận, chắc chắn có ảnh hưởng quan trọng và đã định hình các hậu quả. (Ch’en 1990; Van Dyke 2005a-c và 2006 10)

       Các biến cố này ở hai phần cách xa nhau của thế giới mậu dịch Quảng Châu gợi ý rằng chúng ta không còn có thể nghĩ về ý nghĩa của mậu dịch xuất cảng nước ngoài của Quảng Châu chỉ đơn giản trong phạm vi riêng của nó, mà cần cứu xét đến ảnh hưởng của mậu dịch bằng thuyền buồm và các thị trường Đông Nam Á của nó, và các phương cách trong đó chúng đã trợ lực vào việc vươn cao và sụp đổ của nhau.  Như tác giả James Warren để chứng tỏ trong trường hợp Sulu [Vòng cung đảo Sulu, gồm phần Mindanao Hồi Giáo thuộc Phi Luật Tân ngày nay, ND], nơi mà giá của sự phát triển mậu dịch toàn cầu tại miền đông Á Châu làm gia tăng tình trạng nô lệ tại khu vực Sulu như một phần của sự phân chia mới mẻ trong lao động quốc tế, các sự thay đổi nội bộ của Đàng Trong cũng có thể được thông hiểu đúng nhất như một chuỗi các sự giao thoa, các sự đụng chạm hay “các tai nạn lịch sử thường xảy ra do sự tiếp xúc với các hệ thống tổ chức nước ngoài” (Warren 1988: 15).

       Các câu hỏi lớn hơn nhiều vẫn còn cần khai phá.  Thí dụ, ở tầm mức cấp vùng, các yếu tố này có gợi ý rằng đã có các sự thay đổi phẩm chất (qualitative) vào giữa thế kỷ thứ mười tám tại các khu vực duyên hải của Đông Nam Á nơi mà mạng lưới mậu dịch, các thuộc địa công nhân, và các doanh nghiệp sản xuất Trung Hoa tập trung hay khổng.  Hay, từ một quan điểm toàn cầu, chúng ta có thể thắc mắc rằng đến tầm mức nào, khối lượng tăng cao của thanh khoản tài chính tại Âu Châu đã kích thích sự sản xuất kinh tế tại Á Châu, và do đó sự xuất cảnh công nhân Trung Hoa đến vùng Biển Phương Nam? Hiển nhiên các câu hỏi như thế nằm ngoài phạm vi của sự lượng định dẫn nhập này.  Nhưng chúng tôi hy vọng rằng các dữ liệu mới và ánh sáng mới được thảo luận ở đây sẽ khuyến khích các người khác chấp nhận một khảo hướng hàng ngang tương tự trong các cuộc nghiên cứu tương lai về các sự tương tác và các sự nối kết tương liên giữa hai bờ biển này của Biển Nam Trung Hoa./-

___

CHÚ THÍCH

1.      Trong khi hạt ngũ cốc và đường có thể được dùng làm bì dằn (ballast) khi lái thuyền, chúng hiếm khi có mặt trong Các Hồ Sơ Quảng Châu như bất kỳ loại đồ gì ngoài phần hàng hóa vận tải.  Đồ sứ (trong các thùng hay các bó) đôi khi được dùng là bì dằn, nhưng nước có thể gây tổn hai cho nó và nó vẫn cần phải có một thứ gì bên dưới nó để tạo thành một sàn phẳng và chắc chắn.

 

2.      Dùng rơm hay trấu trong các thùng đựng đồ sứ có thể đưa đến sự bể vỡ thái quá và có ít nhu cầu về chúng tại Âu Châu, nơi chúng thường có.

 

3.      Nếu bột cọ không được giữ khô, nó bị nở và cũng đem lại các sự tổn hại. [Jorg 1982: 51, 86, 129] Dù thế, nó vẫn là vật liệu đóng gói cung ứng tốt nhất vào thời điểm đó và đã có mặt một cách nhất quán trong các hồ sơ của tất cả Các Công Ty Đông Ấn từ thế kỷ thứ mười tám.

 

4.      Căm Bốt cũng được biết từ lâu có cung cấp gạo cho Palembang.  Trong năm 1768, một nhà truyền giáo có nhìn thấy các thuyền buồm từ Palembang mua gạo trực tiếp từ Căm Bốt.  Nhật ký của Levavasseur, ngày 17 Tháng Một 1769, được trưng dẫn trong sách của Cooke 2004b.

 

5.      Các số năm 1767 cho vùng Passiak và Cancao là từ Alexander Dalrymple, Oriental Repertory, (London: East India Company, 1808), tập 1, các trang 281-283.

 

6.      Không thấy chú thích số 6 này trong nguyên bản, chú của người dịch.

 

7.      Các giá này đến từ các nguồn tài liệu Hòa Lan và Trung Hoa.  Đối với một số vật phẩm, giá ngoại quốc có thể cao hơn giá Trung Hoa 20 phần trăm, bởi vì giá ngoại quốc bao gồm tất cả các phí tổn chuyên chở, chi phí xưởng chế tạo, các lệ phí bốc dỡ, và các thuế quan.  Mặt khác, các nhà mậu dịch trung Hoa đã phải tự mình trả các phí tổn đó, do đó chúng không được gồm vào trong giá của Trung Hoa.  Phần lớn các giá được ghi nơi cột “Quảng Châu” trong Bảng 2 là giá ngoại quốc, trong khi cột Hạ Môn chỉ các giá của Trung Hoa.  Cách thức mà Quảng Châu và Hạ Môn định giá của chúng cũng biến đổi tùy theo các phí tổn và các thuế quan được gồm vào các giá cả và các trọng lượng khác nhau được sử dụng tại mỗi hải cảng.  Bởi có các biến số này, các giá cả trong Bảng 2 không nên được xem là xác thực, mà chỉ nên sử dụng như một sự hướng dẫn đại cương.

 

8.      Được chiết tính một giá nhất định là 100 rials/koyan [đơn vị tiền tệ / trọng lượng cho hàng hóa nặng ký của Mã Lai, ND] bất luận là năm được mùa hay mất mùa thu hoạch lúa gạo.  Gạo được chở từ Châu Thổ sông Mekong đến kinh đô Đàng Trong, Huế, rẻ vào khoảng sáu lần so với giá gạo của Palembang.  Giá gạo thông thường của Đàng Trong ở Huế trong thập niên 1770 là 0.3 quan

 

9.      Giá gạo thường cao gấp mười lần giá bình thường của nó trong các năm thất bát. Li và Reid, đồng biên tập, Southern Vietnam under the Nguyen, trang138.

 

10.  Một vài chương trong bản thảo này thảo luận về các sự sụp đổ này.  Đó là các chương: “Tan Suqua and Family: Merchants of Canton 1716-1778”, 15-16, 20; “Mandarin Quiqua and Family: Merchants of Canton, 1724-1794”, 6-7, và “Tan Hunqua and Company: Merchants of Canton 1723-1781”, 12-14.

 

 

Danh Xưng Các Gia Tộc và Hãng Mậu Dịch Trung Hoa

Taihe Hang ( ) Thái Hòa Hãng

Taishun Hang ( ) Thái Thuận Hãng

Yan () Nhan

Ye ( ) Diệp

Pan () Phan

 

Chen () Trần

Cai () Thái

Qiu () Khâu hay Khưu

Ni () Nghê

Chen Shouguan Trần Th Quán

Wu Heguan Ngũ Hòa Quán, thuyền trưởng thuyền buồm Hingtay ( Hằng Thái)

 

 

Tài liệu Tham Khảo

 

 

Allen, Robert C. 2005. "Real Wages in Europe and Asia: A First Look at the Long-term Patterns." Trong quyển Living Standards in the Past: New Perspectives on Well-being in Asia and Europe,

đồng biên tập bởi Robert Allen, Tommy Bengtson, và Martin Dribe. Oxford: Oxford University Press.  

 

Andaya, Barbara. 1993.  To Live as Brothers: Southeast Sumatra in the 17th and 18th centuries. Honolulu: University of Hawaii Press.

 

Blussé, Leonard. 1991. "Chinese trade with Batavia." Trong quyển Asian Trade Routes, biên tập bởi Karl Reinhold Haellquist.  London: Curzon.

 

Blusse, Leonard & Gaastra, Femme. 1998. Đồng biên tập. On the Eighteenth Century as a Category of Asian History: Van Leur in Retrospect. Brookfield, Vt.: Ashgate.

 

Blussé, Leonard & Chen, Menghong. 2003.  The Archives of the Kong Koan of Batavia.  Leiden: Brill.

 

Chaudhuri, K.N. 1978. The Trading World of Asia, Cambridge: Cambridge University Press.

 

Cheong, Weng Eang. 1997.  The Hong Merchants of Canton. Copenhagen: NIAS-Curzon Press.

 

Ch'en, Kuo-tung, Anthony. 1990. The Insolvency of the Chinese Hong Merchants, 1760-1843. Taipei: The Institute of Economic, Academia Sinica.

 

Cooke, Nola. 2004a. "Hatien." In Southeast Asia: A Historical Encyclopaedia From Angkor Wat to East Timor. Santa Barbara, Denver, Oxford: ABC-CLIO, vol.1: 566.

 

Cooke, Nola. 2004b. "The Junk Trade and Commodity Production in Eastern Cambodia, c. 1820s-1862"  Tham luận trình bày tại Hội Nghị Hai Năm Một Lần Kỳ Thứ 15 của Hội Nghiên Cứu Á Châu của Úc Đại Lợi, (Asian Studies Association of Australia), tại Canberra, 29 Tháng Sáu–1 Tháng Bảy.

 

Cooke, Nola, 2004c. "Water World: Chinese and Vietnamese on the Riverine Water Frontier, from Ca Mau to Tonle Sap (c. 1950-1884)", trong sách đồng biên tập bởi Cooke, Nola & Li, Tana. 2004:  Water Frontier: Commerce and Chinese in the Lower Mekong Region: 1750-1880. New York: Rowman and Littlefield.

 

Cooke, Nola. & Li, Tana. 2004. đồng biên tập. Water Frontier: Commerce and Chinese in the Lower Mekong Region: 1750-1880. New York: Rowman and Littlefield.

 

Crawfurd, John. 1828.  Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochin China, ấn bản lần thứ nhất năm 1828, in lại bởi Oxford University Press, 1968.

 

Dalrymple, Alexander. 1808.  Oriental Repertory, vol. 1, London: EIC.

 

Dermingny, Louis. 1964.  La Chine et l’Occident. Le Commerce à Canton au XVIII Siècle 1719–1833. 3 Vols. and Album. Paris: S.E.V.P.E.N.

 

Drabble, John H. 2000.  An Economic History of Malaysia, c.1800-1990: The Transition to Modern Economic Growth, London and New York: MacMilan.

 

Fletcher, Joseph, JR. 1995. "Integrative History: Parallels and Interconnections in the Early Modern Period, 1500-1800." Trong quyển Studies on Chinese and Islamic Inner Asia.  Brookfield, Vt: Varioum.

 

Fortune, Robert.  A Journey to the Tea Countries of China; including Sung-lo and the Bohea Hills; with a Short Notice of the East India Company's Tea Plantations in the Himalaya Mountains.  London: John Murray, 1852.

 

Hanson, Reginald.  A Short Account of Tea and the Tea Trade.  London: Whitehead, Morris & Lowe, 1876.

 

Heidhues, Mary Somers. 1992.  Bangka Tin and Mentok Pepper. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.

 

Huangchao jingshi wenbian, (ấn bản lần thứ nhất năm 1826), vol. 83.

 

Jackson, James. 1968.  Planters and speculators: Chinese and European agricultural enterprise in Malaya, 1786-1921. Kuala Lumpur: University of Malaya Press.

 

Jörg C.J.A.1982.  Porcelain and the Dutch China Trade. The Hague: Martinus Nijhoff.

 

Lê Quý Ðôn. 1776. Lê Quý Ðôn, Phủ Biên tạp lục, trong sách đồng biên tập bởi Li Tana và Anthony Reid, Southern Vietnam under the Nguyen, (Canberra and Singapore: EHSEA/ISEAS, 1993).

Li, Tana. 1995. "Rice trade in the 18th and 19th century Mekong Delta and its implications." Trong sách biên tập bởi Thanet Aphornsuvan, Thailand and her Neighbours II. Bangkok:  Thammasat University Press: 198-214.

 

----, 2006. "The late eighteenth century Mekong Delta and the world of the Water Frontier." Trong sách đồng biên tập bởi Nhung Tuyet Tran và Anthony Reid, Viet Nam Beyond Borders.

 

Mazumdar, Sucheta. 1998.  Sugar and Society in China: Peasants, Technology, and the World Market.  Cambridge, Mass & London: Harvard University Asia Center, 1998.

 

Morse, Hosea Ballou. 1926.  The Chronicles of the East India Company Trading to China, 1635–1834.5 vols. Cambridge: Harvard University Press; sách in lại, Taipei: Cheng-wen Publishing Co., 1966.

 

NAH: National Archives, The Hague. Canton Archive.

 

O'Connor, Richard. 1995. "Indigenous Urbanism: Class, City and Society in Southeast Asia." Journal of Southeast Asian Studies, 26,1 (March 1995): 30-45.

 

“Pepper”, trong sách đồng biên tập bởi David Bulbeck, Anthony Reid, Lay Cheng Tan và Yiqi Wu, Southeast Asian Exports since the 14th Century: Cloves, Pepper, Coffee, and Sugar, (Singapore: KITLV Press and ISEAS, 1998), các trang 64, 74-75.

 

Qing Archives: Zhupi waijiao lei (Reports with vermilion comments [made by the emperors]: diplomacy), vol. 342, no. 3, year 1742, National Archives No.1, Beijing.

 

Reid, Anthony. 1988, 1993.  Southeast Asia in the Age of Commerce, 2 vols. New Haven: Yale University Press.

 

----. 1996. "Flows and Seepages in the Long-term Chinese Interaction with Southeast Asia." Trong sách biên tập bởi Anthony Reid, Sojourners and Settlers: Histories of Southeast Asia and the Chinese.  Sydney: Allen and Unwin: 15-50.

 

Brother Julian, "Relation des missions franciscains deschaussés de la province de S. Gregoire des îles philippines, dans les Royaumes de cochinchine, du cyampa, et du camboge: ecrit par le p. fr. julien de la Ste Vierge de la colonne, né a salamanque, predicateur et Mre aplique des dittes missions et ex vicaire en la province de Cancao en 1770". Chúng tôi xin cám ơn Nola Cooke về việc phiên sang dịch tiếng Pháp tài liệu (nguyên bản bằng tiếng Tây Ban Nha): Archives of the Missions-Étrangères de Paris, Cochinchine Vol. 745, các trang 161-181 cho bản dịch sang tiếng Pháp từ nguyên bản ở các trang 143-157.  National Archive, The Hague (NAH): Canton 72, 79, 81, và 88.

 

Sakurai, Yumio và Takako Kiragawa. 1999. "Ha Tien or Banteay Meas in the Time of the Fall of Ayutthaya." Trong quyển From Japan to Arabia: Ayutthaya ́s Maritime Relations with Asia, biên tập bởi Kennon Breazeale. Bangkok: Foundation for the Promotion of Social Sciences and Humanities.

Sakurai, Yumio. 2004."Eighteenth-Century Chinese Pioneers on the Water Frontier of Indochina." Trong sách đồng biên tập bởi Cooke, Nola. & Li Tana. 2004. Water Frontier: Commerce and Chinese in the Lower Mekong Region: 1750-1880. New York: Rowman and Littlefield: 35-52.

 

Sarasin, Viraphol. 1977.  Tribute and Profit: Sino-Siamese Trade, 1652-1853. Mass.: Council on East Asian Studies, Harvard University.

 

Sellers, Nicholas. 1983.  The Princes of Ha-tien 1682-1867. Thanh-Long: Etudes Orientales No. 11.

 

Smith, Carl T. 2003. "An Eighteenth-Century Macao Armenian Merchant Prince", Review of Culture International Edition No. 6 (April): 120-9.

 

Smith Carl T. và Van Dyke, Paul A. 2003. "Armenian Footprints in Macao", Review of Culture, International Edition No. 8 (October): 29.

 

Tracy, James. 1991. biên tập. The Political Economy of Merchant Empires. Cambridge: Cambridge University Press.

 

Trịnh, Hoài Ðức.1810. "Gia định thống chí", Gia Ðịnh thống chí.  Trong sách của Chen Chingho, "Annotations on the Chapter “The Cities”."  Nanyang xuebao, vol.12, no.2 (1956).

 

Trocki, Carl. 1997. "Chinese Pioneering in Eighteenth–Century Southeast Asia." Trong sách biên tập bởi Anthony Reid, The Last Stand of Asian Autonomies, 1750-1900.  London and New York: McMillan: 83-102.

 

Van Dyke, Paul A. 1999. “The Canton–Vietnam Junk Trade in the 1760s and 1770s: Some Preliminary Observations from the Dutch, Danish, and Swedish Records”, tham luận trình bày tại Hội Thảo Quốc Tế về chủ đề “Commercial Vietnam: Trade and the Chinese in the 19th Century South”, Hochiminh City.

 

----, 2002.  “Port Canton and the Pearl River Delta, 1690-1845”. Luận án Tiến Sĩ, University of Southern California.

 

----, 2004a. "A Reassessment of the China Trade: The Canton Junk Trade as Revealed in Dutch and Swedish Records of the 1750s to the 1770s." Trong quyển Maritime China in Transition, đồng biên tập bởi Wang Gungwu và Ng Chin-keong, Wiesbaden: Harrassowitz Verlag: 151-167.

 

----, 2004b. “The Yan Family: Merchants of Canton, 1734-1780s.”  Review of Culture, International Edition 9: 30-85.

 

----, 2005a.  The Canton Trade: Life and Enterprise on the China Coast, 1700-1845. Hong Kong: Hong Kong University Press.

 

----, 2005b. “The Ye Merchants of Canton, 1720-1804”.  Review of Culture, International Edition No. 13 (January 2005): 6-47.

 

----, 2005c. "Cai and Qiu Enterprises: Merchants of Canton 1730-1784."  Review of Culture, International Edition 15: 60-101.

 

Culture, Chinese Edition No. 57 (Winter 2005): 1-52.

 

----, 2006. "Merchants of Canton: Tea Dealers, Porcelain Brokers and Silk Weavers of 18th Century China", bản thảo chưa được ấn hành, nhiều chương.

 

----, and Cynthia Viallé. Forthcoming.  The Canton–Macao Dagregisters, 1762. Macao: Cultural Institute.

 

Walvin, James. 1997.  Fruits of Empire: exotic produce and British Taste, 1660-1800, London: McMillian.

 

Warren, James. 1998.  The Sulu Zone: The World Capitalist Economy and the Historical Imagination.  Amsterdam: VU University Press.

 

Wirgin, Jan.  Från Kina till Europa. Kinesiska konstföremål från ostindiska kompaniernas tid.  Stockholm: Östasiatiska Museet, 1998.

 

Wyatt, David. 1998. "The Eighteenth Century in Southeast Asia", trong sách của Blussé và Gaastra, On the Eighteenth Century as a Category of Asian History: Van Leur in Retrospect, Brookfield, Vt.: Ashgate

.

Wong, Bin. 1997. China Transformed: Historical Change and the Limits of European Experience. Ithaca: Cornell University.

_____

Nguồn: Li Tana và Paul A. Van Dyke, Cantan, Cancao, and Cochinchina: New Data and New Light on Eighteenth-Century Canton and the Nanyang, Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 1, 2007 南方華裔研究雜誌, 第一卷, 2007, các trang 10-28.

 

Ngô Bắc dịch

2019

 

http://www.gio-o.com/NgoBac.html

  

©gio-o.com 2019