đọc trong mùa Tết

 

Joseph Zengerle

Cựu Chiến Binh Chiến Tranh Việt Nam, nguyên Phụ Tá Đặc Biệt Tướng Westmoreland

 Luật Sư, Washington D.C.

 

NHỮNG GÌ TÔI ĐÃ NHÌN THẤY

TRONG CUỘC CÔNG KÍCH TẾT

 

 

Ngô Bắc dịch

 

Joseph Zengerle bên ngoài đơn vị mà anh ta chỉ huy thuộc Sư Đoàn 1 Hoa Kỳ, bên ngoài Chu Lai, Việt Nam, cuối năm 1968.
Credit Courtesy Joseph Zengerle

 

Khi tôi đến Việt Nam vào cuối Tháng Mười Hai 1967, tôi nghĩ chúng ta có thể đang chiến thắng cuộc chiến.  Đại Tướng William Westmoreland, tư lệnh quân đôi Mỹ tại Việt Nam, vừa mới đọc một bài diễn văn tại Hoa Thịnh Đốn tuyên bố rằng sự kết thúc đang bắt đầu “hé dạng”.  Là một đại úy Lục Quân 25 tuổi được chỉ định làm phụ tá đặc biệt của Đại Tướng Westmoreland, tôi sẽ đảm nhận phần vụ tình báo mật cho ông, cũng như các sự truyền tin riêng tư nhạy cảm mà chúng tôi gọi là “bằng tần cửa hậu”.

 

Sau các tuần lễ đầu tiên của tôi, sự cảnh giác bén nhọn về hoạt động địch đã được tôi nới lỏng.  Một buổi tối đầu Tháng Một, các đồng sự trong văn phòng đã lại xe chở tôi xuống dưới phố, dọc theo các đại lộ rộng lớn trồng cây hai bên đường đóng khung cho kiến trúc thuộc địa Pháp của Sàigòn, đến Khách Sạn Continental Hotel.  Nơi đó, bên dưới các chiếc quạt quay tròn chậm chạp trên một hàng hiên thanh nhã, chúng tôi nhìn ra quảng trường lưu thông đông đảo và nhấm nháp rượu vang, bị ngắt quãng đôi khi bởi tiếng động của pháo binh từ xa nhắc nhở chúng tôi về chiến tranh đang diễn ra bên ngoài thành phố.

 

Bàu không khí tại tổng hành dinh Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự tại Việt Nam (Military Assistance Command, Vietnam hay MACV) thì căng thẳng nhưng rất trật tự.  Tôi đã trông thấy Thượng Nghị Sĩ Birch Bayh, một nghị sĩ Dân Chủ trẻ tuổi từ tiểu bang Indiana, đến gặp Tướng Westmoreland, và tôi đã thắc mắc liệu Nghị Sĩ Bayh có phải được phái đến để trắc nghiệm sự thích ứng chính trị của viên tướng hay không – sau hết, chưa đầy hai mươi năm kể từ khi Đại Tướng Eisenhower được thuyết phục để ra tranh cử chức vụ tổng thống.  Trong năm ngoái, Westmoreland đã xuất hiện trên bìa tạp chí Time lần thứ ba, trong một bức hình chụp ông đang nói chuyện trước phiên họp chung của Quốc Hội.  Một năm trước đó, ông đã được chọn làm Nhân Vật Trong Năm của tờ tạp chí này.

 

       Đột nhiên, đối với tôi, trong vòng vài ngày, sự quân bằng tương đối mà tôi tìm thấy lúc đến đây bắt đầu thay đổi.  Vào đầu Tháng Một tôi đã cố gắng gọi điện thoại cho một trong các bạn cùng phòng của tôi tại Trường Võ Bị West Point, kẻ đã chỉ huy một đại đội bộ binh ở phần bên trên của nước này.  Sau cùng, tôi đã nối chuyện được với viên hạ sĩ quan thứ nhất của bạn tôi.  Viên hạ sĩ quan đã trả lời tôi bằng một báo cáo khô khan và tàn bạo: “Thưa Ngài, ngài đã quá trễ. Vị Sĩ Quan Chỉ Huy đã trật bước sa vào một bẫy treo sáng nay khi băng qua lòng một con suối trong lúc tuần cảnh tại khu vực Đồng Bằng Bồng Sơn.  Các lời cuối cùng của ông ấy nói: “Thượng Sĩ Nhất, đến lấy xác tôi về”.

 

       Không lâu sau cuộc gọi điện thoại đó, tôi bị đánh thức vào khoảng 3 giờ sáng bởi các tiếng nổ gần khu cư ngụ của các sĩ quan độc thân tại Khách Sạn Khải Minh.  Tôi chụp lấy khẩu .45 chạy xuống dưới lầu trong quần soóc để giúp tổ chức một tuyến phòng thủ vòng ngoài.  Các trực thăng vũ trang đang bắn các hỏa tiễn xuống một nghĩa địa cách chỗ chúng tôi vài khu phố.  Chúng tôi nối tiếp được với một chiếc xe jeep của Quân Cảnh (Quân Cảnh chịu trách nhiệm về an ninh tại Sàigòn) để thiết lập một đường dây truyền tin, nhưng một binh sĩ bị thương ở một nơi nào đó đã chụp lấy tay cầm có nút bấm để nói và không chịu rời nó, thay vào đó thỉnh cầu sự giúp đỡ cho vết thương của anh ta và mô tả các người Việt Nam vũ trang, được giả định là Việt Cộng, đang tiến tới vị trí của anh ta.  Một cuộc tấn công của địch có phối hợp, trên một quy mô rộng lớn, đã nổ ra khắp Nam Việt Nam, vào lúc bắt đầu Năm Mới của Việt Nam; cuộc công kích Tết đã bắt đầu.

 

Một đoàn xe vũ trang đã đến nơi tôi ở để đón tôi và các người khác đến trụ sở MACV.  Đã có một số lượng lớn các tài liệu tối mật tại văn phòng tôi cần phải được hủy bỏ.  Tôi bước ra bên ngoài để đốt giấy tờ trong một lò thiêu đốt đặc biệt nhưng đã phải che lại bởi các tràng đạn của địch văng trúng lò đốt, nhắm bắn vào tôi từ phía bên kia đường gần Tân Sơn Nhứt, phi trường lớn nhất của Nam Việt Nam và tổng hành dinh của Không Đoàn 7 Hoa Kỳ.

 

Dây thần kinh bị căng thẳng, ngay ở các cấp cao.  Rất sớm một buổi sáng, tôi nhận được một tin điện “tức thời” qua mạng lưới công tác tổng quát gửi cho ông Tướng Westmoreland từ Đố Đốc Hải Quân Grant Sharp, tư lệnh Bộ Chỉ Huy Thái Bình Dương và là thượng cấp trực tiếp của Tướng Westmoreland.  Tôi đã quyết định tin điện không đủ nguy cấp để đánh thức Đại Tướng Westmoreland thức dậy và thay vào đó đã đánh thức viên Thiếu Tướng chỉ huy các cuộc hành quân của ông để phụ trách vấn đề.

 

Như sau này tôi được hay biết từ chánh văn phòng của Tướng Westmoreland, Thiếu Tướng Walter Kerwin, Đô Đốc Sharp khám phá ra tôi đã không tức thời chuyển giao tin điện của ông đến Tướng Westmoreland và đã nổi giận, chỉ thị rằng tôi bị mang ra tòa quân sự.  Thiếu Tướng Kerwin đã gọi tôi vào văn phòng của ông, hỏi về những gì tôi đã làm với tin điện, báo cho tôi hay chỉ thị của Đô Đốc Sharp và giống như một người chú gốc Hòa Lan quả quyết nhưng nhân từ (Dutch uncle) (biệt danh của Kerwin là Dutch), bảo tôi phải đoan chắc sẽ tuân hành các mệnh lệnh ưu tiên của Đô Đốc Sharp trong tương lai.

 

Tết đã đặt mọi người vào vị thế chiến tranh gay gắt, nhưng tôi nhận thấy rằng nó cũng nới lỏng các nghi thức chính thức.  Tôi đã trình bày với Tướng Westmoreland một tin điện loại mật liên can đến hỏa tiễn địa đối không Talos, vốn thường được dùng để bắn rơi máy bay của địch.  Ông đã viết một đoạn trên tin điện, giải thích cho tôi ý nghĩa của nó và nói tôi đi gặp vị tướng chỉ huy Không Đoàn 7 tại Tân Sơn Nhứt để phối hợp các quy luật giao tranh – một nhiệm vụ một cách khác thuộc tầm mức cao hơn cấp bậc của tôi.

 

Cũng có một loại tình chiến hữu được phát triển dưới áp lực của vụ công kích Tết và hậu quả của nó.  Tôi lấy làm ấn tượng về mối quan hệ giữa Tướng Westmoreland và phụ tá của ông (sớm trở thành người kế nhiệm), Tướng Creighton Abrams.  Cả hai đều tốt nghiệp cùng năm từ Trường Võ Bị West Point, năm 1936.  Cả hai đều chứng tỏ xuất sắc trong chiến đấu trong Thế Chiến II, Westmoreland dưới trưoớng Tướng Maxwell Taylor và Abrams dưới trướng Tướng George Patton.  Tôi không thấy gì ngoài sự tương kính giữa hai người, nhận thấy những dịp khi Westmoreland hỏi điều gì đó về “Abe”, kẻ sẽ đáp lại bằng giọng lúng túng của mình, với sự thân thuộc nhưng kính trọng để mọi người nhìn thấy được: “Yes, sahr: Vâng, thưa ngài”.

 

Tôi nhớ lại một cuộc đàm thoại riêng tư đặc biệt mà tôi có được với Tướng Abrams.  Không lâu sau Tết, các lực lượng Mỹ đã phải gánh chịu một sự lùi bước chiến đấu gần một vùng có biệt hiệu là Mỏ Vẹt, một mũi dất của Căm Bốt thọc vào Nam Việt Nam hướng tới Sàigòn.  Sau khi tôi hỏi về sự giao tranh trong một cuộc thuyết trình hàng ngày thường lệ mà tôi vẫn trình bày với ông, ông Tướng Abrams đã đứng dậy từ chiếc bàn bằng sắt đơn giản của ông, cầm một điếu xì gà luôn luôn hiện diện, kéo cây gậy thuyết trình dài ra, ngồi xổm trước một bảng treo bản đồ trong văn phòng của ông, trình bày sự bố trí các lực lượng phe ta và phe địch, và giải thích lý do tại sao ông nghĩ sự việc đã không diễn tiến tốt đẹp – một loại phúc đáp thấu suốt, lỹ lưỡng  mà một viên tướng sẽ trả lời cho một đồng sự, ngang cấp, hay một vị quan khách đến thăm, chứ không phải cho một sĩ quan cấp thấp như tôi.  Tôi đã lấy làm bối rối để đặt câu hỏi, và ngạc nhiên sâu xa về sự trả lời của ông; bằng thái độ tao nhã như thế, lòng trung thành được thắt chặt.

 

Cường độ của sự giao tranh trong cuộc công kích Tết cũng tập trung hệ thống chỉ huy.  Tình báo dấu hiệu cho thấy một sự di chuyển đáng chú ý của Quân Đội Bắc Việt tại Quân Đoàn I vùng chiến thuật nằm ngay dưới khu phi quân sự bao gồm cả Huế, kinh thành cố đô của Việt Nam bị chiếm đóng phần lớn bởi các lực lượng của địch trong dịp Tết.  Tướng Westmoreland đi vắng, vì thế tôi đã đánh thức Tướng Abrams và trình bày với ông tin tức.  Mắt nhắm mắt mở, ông đòi đưa cho ông cây bút chì và tờ giấy.  Ngồi trên cạnh chiếc giường ngủ, ông đã cân nhắc viết ra một lệnh hành quân mạch lạc mà tôi đã gửi đến viên tướng chỉ huy Thủy Quân Lục Chiến tại khu vực, di chuyển các đơn vị pháo binh, thiết giáp, nhảy dù và bộ binh để đối phó với sự đe dọa, nói rằng ông sẽ thiết lập một trạm chỉ huy nhảy vào khu vực và sẽ đến vào ngày hôm sau.  Sự chiếm đóng Huế sau rốt đã được gỡ bỏ.

 

Một sự phô diễn mạnh mẽ uy thế quân sự của chúng ta thường phát sinh từ Trung Tâm Tình Báo Kết Hợp tại tầng hầm của bộ chỉ huy MACV (văn phòng của tôi nằm tại một khu vực được bảo vệ an toàn bổ túc phía sau trung tâm).  Các tướng Westmoreland và Abrams sẽ được thuyết trình, trên các bản đồ to lớn trình bày mọi tin tức đã thu thập được, bởi các sĩ quan cao cấp như các chuẩn tướng phụ trách tình báo và Trung Tâm Các Hoạt Động Chiến Đấu.  Mục đích là để xác định các mục tiêu cho các phóng pháo cơ B-52 bay từ Guam đến để yểm trợ cho các cuộc hành quân trên đất liền.  Có ba B-52, hay “các tổ”, trong mỗi vụ không kích, trong chiến dịch được đặt tên là Cuộc Hành Quân Vòng Cung Ánh Sáng (Operation Arc Light).  Một chiếc B-52 dội bom một khu vực rộng nửa cây số và dài một cây số; mỗi chiếc mang một khối lượng gồm 80 hay nhiều hơn trái bom nặng 500 cân Anh (pounds), đến khu rừng trong im lặng từ độ cao 33,000 bộ Anh (feet).  Quan sát tiến trình cấu tạo quyết định và có mặt ở trung tâm “đầu não” chỉ huy hỏa lực như thế trên khắp các không gian bao la như thế là một kinh nghiệm để thấy mình thật nhỏ bé (humbling experience); nó giống như ngắm nhìn một vị Thần Sấm Sét tung ra các tiếng sét.

 

Một biến cố nổi bật diễn ra vài tuần sau Tết.  Westmoreland cho gọi tôi lên văn phòng của ông.  Tôi đã sẵn gặp ông hôm đó; một lời gọi như thế từ ý kiến của ông thì bất thường.  Tôi đóng cửa phòng ông lại và ông đưa cho tôi một điện thư yêu cầu 200,000 hay hơn nữa binh sĩ (đã có vào khoảng 500,000 binh sĩ trong nước [Việt Nam] khi đó).  Ông nói với tôi: “Gửi nó bằng lối cửa hậu” đến Tướng Earl Wheeler, Chủ Tịch Tham Mưu Liên Quân.  “Đừng cho một người nào khác nhìn thấy nó.”  Tôi đã gửi điện thư đến Tướng Wheeler.  Sau khi duyệt xét ở các cấp cao nhất, lời yêu cầu bị từ chối.

 

Các sự căng thẳng vẫn ở cao độ.  Vào cuối Tháng Ba, tôi nhận được từ Tòa Bạch Ốc gửi trước một bản sao bài diễn văn mà Tổng Thống Lyndon Johnson dự trù gửi đến quốc dân vào ngày 31 Tháng Ba.  Nó không bao gồm đoạn văn trong đó ông tuyên bố sẽ không tranh cử một nhiệm kỳ nữa; đoạn văn đó ông đã thêm vào, một cách bí mật, gần như ở phút chót.  Tôi đã in ra nhiều bản và đi đến phòng họp của Tướng Westmoreland, nơi ông đang hội họp với Đại Sứ Ellsworth Bunker, Tướng Abrams và các nhân vật khác.  Tướng Westmoreland hỏi khi nào bài diễn văn sẽ được đọc.  Tôi trả lời tròng vòng hơn một tiếng đồng hồ, theo giờ Sàigòn.  Abrams quát lại, “Làm sao mà anh lại luôn luôn quả quyết một cách chân thành đến thế?”

 

Ít ngày sau đó, Mục Sư Tiến Sĩ Martin Luther King Jr. bị ám sát.  Vợ tôi, Lynda, đang làm việc tại Bộ Ngoại Giao, và tôi hay biết rằng Hoa Thịnh Đốn được đặt trong tình trạng giới nghiêm.  Tôi đứng chờ trong một hàng dài để gọi cho cô ấy qua Hệ thống Vô Tuyến Phụ Trợ Quân Sự (Military Auxiliary Radio System: MARS.  Các cuộc gọi của hệ thống MARS dựa vào các kẻ điều hành các đài vô tuyến nghiệp dư dân sự truyền các cuộc gọi theo đường thẳng ngang qua Thái Bình Dương, từ trạm này đến trạm kia.  Lynda nói với tôi cô ấy nhìn thấy trung tâm Hoa Thịnh Đốn trong biển lửa từ trên cùng của tòa cao ốc căn hộ của chúng tôi trên đường Connecticut.  Tôi đã hỏi từ thủ đô của khu chiến tranh là liệu có bất kỳ điều gì tôi có thể làm cho cô ấy tại thủ đô của đất nước chúng ta. Cô ấy nói, “Có.  Hãy trở về nhà.”  Chúng tôi nghe thấy các kẻ điều hành đài vô tuyến nghiệp dư cười khúc khích.

 

Tháng kế đó, Tổng Thống Johnson đã thăng chức Westmoreland lên làm Tham Mưu Trưởng Lục Quân và bổ nhiệm Abrams lên thay ông.  Không lâu sau đó, tôi đã đến Tân Sơn Nhứt để bắt một chuyến bay quân sự ra Đà Nẵng đề chỉ huy một đơn vị nhỏ tại Quân Đoàn I, thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh, được gọi là Americal, có khu vực hoạt động bao gồm Mỹ Lai, nơi Trung Úy Calley và trung đội của anh ta đã tàn sát các thường dân Nam Việt Nam hai tháng trước đó.  Đang rảo bước trong phòng đợi ở phi trường, tôi đi ngang qua một máy phát thanh vô tuyến của một thủy thủ đang dựa người vào thành một cửa sở mở rộng và nghe thấy lời loan báo rằng Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy đã bị bắn.

Không lâu sau khi tôi đến Việt Nam, sáu tháng trước đây, Lục Quân có đề nghị gửi tôi đi học bậc cao học khi trở về để giảng dậy tại Trường West Point.  Sau vụ ám sát Mục Sư King, tôi đã yêu cầu xin chấp thuận sự từ nhiệm cấp bậc sĩ quan.  Trong năm 1968, trung bình có 45 người Mỹ bị chết tại Việt Nam mỗi ngày.  Với bất kỳ sự may mắn nào, trong sáu tháng nữa, tôi sẽ về lại quê nhà./-

 

-----

Joseph Zingerle là một cựu chiến binh Việt Nam và luật sư tại Hoa Thịnh Đốn.  Ông và vợ ông, Lynda, có tặng dữ quỹ Gia Đình Zengerle cho  Khóa Giảng Khoa Học Nhân Văn và Nghệ Thuật tại Trường Võ Bị West Point.

 

Ngô Bắc dịch và phụ chú

10.02.2018

 

http://www.gio-o.com/NgoBac.html

 

© gio-o.com 2018