CÁC NỖ LỰC ĐIỀU GIẢI CỦA HOA KỲ TRONG CUỘC TRANH CHẤP
PHÁP – TRUNG TẠI BẮC VIỆT
1883-1884

Lời người dịch:

Dưới đây là những trang sử quý giá bởi chúng mang lại những cái nhìn thấu suốt hiếm có ở những giây phút nói thực của các nhà ngoại giao Pháp, Hoa Kỳ và Trung Hoa tham gia vào các biến cố ảnh hưởng đến vận mệnh Việt Nam hồi cuối thế kỷ thứ mười chín.   Người dịch chỉ xin trích lại một vài đoạn đối thoại nổi bật như sau:

Trả lời câu nói của ông Young, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Trung Hoa khi đó, rằng ông không không tin một nước có lịch sử vinh quang như nước Pháp “lại sẽ tiến tới chiến tranh [tại Bắc Việt) vì vấn đề tiền bạc.  Tôi không thể nhìn thấy sự vinh quang nào trong đó.”

Ông Tricou im lặng trong chốc lát, và nói trong nụ cười nhếch mép đáng ghi nhớ, “Ông bạn đồng sự thân thiết của tôi ơi, đừng quên rằng quốc hội của chúng tôi là quốc hội của các con buôn, và ông biết rằng các con buôn thì ham tiền mà.”

Tôi cảm thấy rằng câu hỏi của tôi đã được trả lời hoàn toàn đầy đủ -- được trả lời với giọng điệu đạo mạo của Rochefoucauld hay Voltaire, và rằng chỉ một câu này đã đem lại một cái nhìn thấu triệt trung thực vào các hoạt động sâu kín bên trong của ngoại giao Pháp tại Trung Hoa …

Cuộc thất trận của Trung Hoa trong cuộc chiến tranh Pháp-Trung tại Bắc Việt cùng với sự thất trận trước Nhật Bản mười năm sau đó đã tạo ra các ảnh hưởng đưa đến cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911 lật đổ triều đình nhà Thanh tại Trung Hoa.  Nhưng nạn nhân trực tiếp của sự thất trận của Trung Hoa trong cuộc chiến tranh Pháp-Trung vì Bắc Việt chính là Khánh Thân Vương, người đứng đầu Tổng Lý Nha Môn: ông hoàn toàn bị thất sủng vì sự vụ này.  Mãi đến gần cuối đời, ông được phục chức nhưng cũng đã từ trần không lâu ngay sau đó.

Bài dịch dưới đây gồm các phần như sau:

1. Pháp và Trung Hoa: Sự Đối Đầu Gia Tăng
2. Nỗ Lực Điều Giải Lần Đầu Tiên, Tháng Bẩy - Tháng Tám 1883.
3. Các Nỗ Lực Điều Giải Lần Thứ Nhì và Lần Thứ Ba, Tháng Bẩy - Tháng Tám 1884,
4. Nỗ Lực Điều Giải Lần Thứ Tư, Tháng Chín - Tháng Mười Một, 1884

-----

1. PHÁP VÀ TRUNG HOA:
SỰ ĐỐI ĐẦU GIA TĂNG

Robert Hopkins Miller

Ngô Bắc dịch

Vào khoảng giữa thập niên 1870, các nhà ngoại giao và lãnh sự của chúng ta tại Đông Á Châu ngày càng hướng sự chú ý của họ vào sự căng thẳng gia tăng giữa Trung Hoa một bên, với các cường quốc Âu Châu và bên kia là với Nhật Bản.  Sự cảnh giác của Trung Hoa lên cao khi nó nhìn thấy các sự xâm lấn bành trướng của Nhật Bản và các cường quốc Tây Phương ngay trên đất Trung Hoa lẫn ở các quốc gia lân cận mà Trung Hoa đã từng tuyên bố có quyền chủ tể trong lịch sử. Nguyên ủy căng thẳng lớn lao nhất giữa Trung Hoa và Pháp phát sinh từ sự chinh phục của nước kể sau tại Đông Kinh (Bắc Việt Nam), nằm sát biên giới phía nam của Trung Hoa.

Các sự phiêu lưu của Pháp tại Đông Kinh (Bắc Việt Nam) có thể đã xẩy ra sớm hơn nếu nó không có chiến dịch thiếu suy xét tại Mễ Tây Cơ (Mexico) của Nã Phá Luân (Napoleon) Đệ III và sự thất trận của Pháp trong Cuộc Chiến Tranh Pháp-Phổ (Franco-Prussian War) năm 1870-71.  Theo tác giả Buttinger:

Trong khi Hợp Chúng Quốc bị tê liệt bởi cuộc Nội Chiến, và vì thế không thể thi hành được Chủ Thuyết Monroe [chủ trương Châu Mỹ của người Mỹ bởi Tổng Thống Hoa Kỳ Monroe, chú của người dịch], Napoléon đã quyết định can thiệp tại Mễ Tây Cơ, nơi mà một chế độ chống lại giới giáo sĩ dưới sự lãnh đạo của Juarez vừa lên nắm chính quyền …  Do hậu quả của cuộc mạo hiểm tại Mễ Tây Cơ, các khoản chuẩn chi theo ngân sách dành cho cuộc chiến tại Đông Dương đã bị cắt giảm lớn lao (2).

Trong mùa xuân năm 1875, Phái Bộ Hoa Kỳ tại Bắc Kinh đã bắt đầu tường thuật về các biến cố góp phần vào sự căng thẳng gia tăng giữa Trung Hoa và Pháp trên các dự tính đối với An Nam và Bắc Viêt. Ông Benjamin Avery, Sứ Thần Mỹ tại Bắc Kinh, đã viết cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Hamilton Fish vào ngày 12 tháng Năm 1875 như sau:

Với việc nước Pháp đã sẵn chiếm đóng đầu cầu cạnh biển tại Cochinchina (Nam Kỳ ngày nay) và hứa hẹn một ngày không xa sẽ chiếm đoạt trọn vẹn lãnh thổ, và với nước Anh đã thiết lập cơ sở tại Miến Điện, hiện đang đe dọa sẽ thâu tóm toàn thể vương quốc, và đang khao khát mở một con đường mậu dịch xuyên qua Vân Nam, một tỉnh xa xôi được nắm giữ bởi Trung Hoa với nhiều sự khó khăn trong việc chống lại quân nổi dậy theo đạo Hồi (Muhammedans) và các sắc dân man rợ bản địa, các đại thần Trung Hoa hẳn phải có lý do để nhìn tình hình với sự bất an tâm.  Viễn ảnh có nước Pháp và Anh như các kẻ láng giềng ở phía tây nam, trong khi nước Nga đã sẵn chiếm giữ vùng đất rộng lớn ở phía bắc của họ -- các bộ lạc Hồi Giáo đang mất dần sự kiểm soát của họ tại các tỉnh phía Tây, và Nhật Bản phóng tầm nhìn ghen tỵ trên nước Cao Ly (Corea), nơi phía đông của họ -- không trấn an họ được (3).

Điện văn của ông Avery có đính kèm nhiều bài báo từ tờ China Mail tường thuật một cách không cảm tình về những hoạt động của các lực lượng Pháp tại Bắc Việt, các hoạt động được sắp đặt dường như nhằm để chia cắt người dân miền Trung (Annamese) khỏi người dân miền Bắc (Tonkinese).  Một trong các bài báo đó kết luận với một nhận định như sau:

Giải pháp đơn giản nhất sẽ là sáp nhập toàn thể xứ sở.  Các quan hệ chặt chẽ như thế với một triều đình bán khai, như vị thế của người Pháp đang vướng mắc tại Cochinchina (Nam Kỳ), thì hoàn toàn không áp dụng được.  Chúng ta nhận thấy cùng loại khó khăn này hàng ngày tại Miến Điện, là nước ổn định hơn trong hai nước.  Và chúng ta chỉ còn cách nghĩ rằng sự mở rộng nền cai trị của cả Anh và Pháp đến biên giới Vân Nam sẽ là giải pháp đơn giản nhất và tốt đẹp nhất. (4)

Năm năm sau đó, trong tháng Chín 1880, ông John Halderman, Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Vọng Các, có chuyền về Bộ Ngoại Giao hai bài viết đanh thép từ tờ Hongkong Daily Press liên quan đến các hoạt động của Pháp trong vùng.  Khi chuyển các bài báo đi, ông Halderman đã dề cập đến “ sự chiếm đóng có vũ trang Bắc Việt dự tính bởi người Pháp.”  Một trong hai bài báo có gồm đoạn văn như sau:

“Trong ngân sách của Pháp cho năm 1881 có bao gồm một ngân khoản 15,000,000 phật lăng đài thọ cho các phí tổn của một cuộc viễn chinh có vũ trang theo đề nghị của Chính Phủ Pháp để phái quân sang Bắc Việt.  So với tầm quan trọng của dự án, một cách đáng ngạc nhiên là nó chỉ lôi cuốn ít sự chú ý.  Sự “chiếm đóng” các tỉnh bị đe dọa sẽ là mục đích tức thời của cuộc hành quân, nhưng không nỗ lực nào được thực hiện để che dấu sự kiện rằng sự sáp nhập Bắc Kỳ và có thể toàn cõi An Nam [Việt Nam] được xem bởi chính Phủ Pháp như là kết quả tối hậu khả dĩ xảy ra.  Dự tính này đáng để ý hơn nữa khi nó được hậu thuẫn nguyên vẹn bởi báo chí Pháp vốn thường có một quan điểm nghiêm ngặt về mặt kinh tế trong các vấn đề chung.  Cơ quan ngôn luận của ông Gambetta, tờ République Francaise, thí dụ, đã nhắc nhở độc giả của mình về sự “lãng quên” của Nền Quân Chủ Pháp trong thế kỷ vừa qua đã khiến nước Pháp mất đi không chỉ Gia Nã Đại, mà còn cả Đế Quốc Ấn Độ, vùng đất mà ông Duplessis đã “chinh phục” cho nước Pháp rất lâu trước khi các ông Clive và Warren Hastings đặt được nền móng cho sự thống trị của Anh Quốc.  Một cơ hôi ngày nay đã tự xuất hiện, tờ báo République Francaise thúc dục, để sửa chữa các lỗi lầm một trăm năm trước đây; …  Không cần thảo luận về tính chất đạo đức của dự án, mặc dù tại nước Pháp nó bị kết án bởi nhiều người như một ý đồ chiếm hữu lãnh thổ bằng các phương tiện bạo động.  Người Pháp lập luận rằng đó là các sự việc tự nhiên, rằng nếu họ không chiếm lấy Bắc Việt, một vài cường lực khác sẽ làm như thế (6).  

Vào năm 1882, các Sứ Thần Hoa Kỳ tại Trung Hoa đã bắt đầu báo cáo một cách thẳng thừng và quả quyết về ảnh hưởng tại Á Châu do sự chinh phục của Pháp tại Bắc Việt.  Trong tháng Năm 1882, Phó Sứ Thần Hoa Kỳ tại Bắc Kinh, ông Chester Holcombe, khi chuyển về Bộ Ngoại Giao một bài báo về người Pháp tại Bắc Việt, đã đưa ra các lời bình luận như sau:

Điều được tin tưởng một cách tổng quát nơi đây rằng đây là bước sơ bộ cho sự chiếm giữ của người Pháp toàn bộ nước Căm Bốt và xứ Cochinchina, và rằng hành động này đã được xác quyết, không phải vì sự sở hữu các xứ sở này có một giá trị thực tiễn nào, mà bởi vì sự tiếp cận của chúng với biên giới phía nam của các tỉnh thuộc Trung Hoa, vùng mà hoạt động mậu dịch có thể sẽ được chuyển hướng, từ các tuyền đường hiện tại và tự nhiên của nó đến thành phố Quảng Châu (Canton), xuyên qua lãnh thổ bị chế ngự đến cửa thông ra biển tại Sàigòn.

Chính Phủ Trung Hoa, vốn hành sử quyền chủ tể trên các xứ sở được nêu danh, rất lấy làm lo ngại về hành động thực hiện bởi Chính Phủ Pháp.  Các Sứ Thần tại Văn Phòng Ngoai Giao thông báo cho tôi ngày hôm nay rằng họ đã đòi hỏi một sự giải thích từ Sứ Thần Pháp, ông Borée [đúng ra là Bourée, chú của người dịch], kẻ đã phản đối rằng ông ta hoàn toàn không hay biết gì về dự án, nhưng hứa hẹn sẽ hỏi lại tin tức từ Chính Phủ của ông ta (7).

Trong tháng Ba 1883, Lãnh Sự Halderman tại Vọng Các đã chuyển về cho Bộ Ngoại Giao một bài báo khác từ tờ Hong-Kong Press về các hoạt động Pháp tại Bắc Việt.  Bài báo, đề ngày 21 tháng Hai năm 1883, báo cáo rằng 500 quân Pháp đã đến Hải Phòng và 750 người nữa được ước định sắp tới, mang tổng số binh sĩ Pháp tại Bắc Việt lên tới khoảng 3,000 người.  Bài báo tiếp tục nói rằng hy vọng sẽ không có đổ máu bởi cả người Việt Nam lẫn Trung Hoa có vẻ đã đạt được một sự thỏa thuận với người Pháp. Ông Halderman đã bình luận rằng có vẻ “mọi khó khăn nghiêm trọng trong phương cách chiếm đóng của người Pháp tại Bắc Việt thực sự được gỡ bỏ …  Sự bảo hộ của người Pháp tại Bắc Việt, cũng có thể có nghĩa, sự sáp nhập, đã đến lúc xảy ra (8).”

Gần như cùng một lúc, ông John Russell Young, Sứ Thần Hoa Kỳ tại Bắc Kinh, báo cáo rằng người Trung Hoa rất lấy làm bối rối bởi các hoạt động của Pháp tại Bắc Việt. Ông ghi nhận rằng tin tức vừa nhận được về việc bỏ phiếu bởi Viên Dân Biểu Pháp để cung cấp một khoản tiền cho một cuộc viễn chinh sang An Nam “nhằm gia tăng các lãnh thổ thuộc địa của Pháp.” Điện văn của ông có đính kèm một bản ghi nhớ cuộc đàm thoại về đề tài giữa viên phụ tá của ông, ông Chester Holcombe, với vị Phó Vương Trung Hoa [chỉ Lý Hồng Chương, chú của người dịch] tại Thiên Tân trong tháng Một trước đây.  Ông Young đã bình luận rằng theo các lời phát biểu của vị Kinh Lược Sứ như sau:

Chúng ta phải suy ra rằng người Pháp có ý định thương thảo với An Nam theo cách riêng của mình, và không đếm xỉa đến các lời xác nhận của Chính Phủ Trung Hoa.  Cho đến giờ nội các không có thề có được một sự giải đáp thỏa đáng nào từ phía Pháp, dù là xuyên qua Phái Bộ Pháp tại Bắc Kinh hay Phái Bộ Trung Hoa tại Paris.

Quý ông sẽ quan tâm đến lời tuyên bố của vị Phó Vương rằng ông ta có ý định nếu cần sẽ gửi một lực lượng sang An Nam, để bảo vệ người dân An Nam, và duy trì quyền bá chủ của Hoàng Đế trên tỉnh hạt đó.  Mục đích này có thể xô đẩy đến một sự đụng độ với nước Pháp.  Trong khi rất khó để nhìn ra là làm sao mà bất kỳ rắc rối loại này lại không có thể can thiệp một cách nghiêm trọng vào công cuộc mua bán thuốc phiện, Anh Quốc có lẽ sẽ đưa ra ý kiến về sự khôn ngoan của một giải pháp (9).”

Ba tháng sau đó, trong tháng Sáu năm 1883, Lãnh Sự Halderman đệ trình một báo cáo bi quan hơn lên Bộ Trưởng Ngoại Giao Frelinghuysen báo cáo ông đã viết hồi tháng Ba:

Trong một trận đánh để phá vòng vây hôm 19 tháng Năm từ thành Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt, quân đội Pháp đã bị đẩy lui, với số tổn thất gồm tám mươi sĩ quan và binh sĩ.

Viên Chỉ Huy tên Rivière thuộc Hải Quân nằm trong số bị hạ sát.

Có vẻ rằng lục lượng của Pháp tại Bắc Việt thì hoàn toàn không đủ, và rằng, trừ khi một đội quân đông đảo có mặt ở đó, trong một nhật kỳ sớm sủa, vị thế của họ trong thực tế có thể trở nên nguy kịch (10).

Vào gần như cùng lúc đó, Sứ Thần Young tại Bắc Kinh đã báo cáo một tình trạng suy sụp về an ninh trật tự tại Trung Hoa và một sự thù nghịch gia tăng đối với người ngoại quốc bị khích động bởi các hành động của Pháp tại Bắc Việt:

Sứ Đoàn nhìn với nhiều sự lo ngại tái diễn gia tăng các sự biểu lộ lòng thù nghịch đối với ngoại kiều như được nhìn thấy trong các tờ yết thị xúi dục và các hành vi bạo động công khai.  Phần lớn sự việc này là vì, như đã được trình bày trong điện văn số 213 của tôi, có sự khích động lớn lao hiện nay về phía người Trung Hoa dối với các biến cố gần đây tại An Nam, và sự gián đoán có thể xẩy ra trong mối giao hảo giữa Pháp và Trung Hoa. Đối với một xứ sở quá thiếu thốn mọi phương tiện tân tiến cho sự truyền tin nội bộ, các tin tức lại được truyền đi với sự nhanh lẹ đáng phục, và từng biến cố mới tại An Nam, bất luận là có lợi hay không lợi cho Trung Hoa, đã khơi động các viên chức cấp dưới và các thường dân các sự biểu lộ mới lòng thù nghịch đối với các ngoại kiều thuộc mọi quốc tịch …

Quý Bộ sẽ sẵn nhìn thấy rằng, với một Chính Quyền Trung Ương khiến không thể thực thi các nghĩa vụ theo hiệp ước dưới bất kỳ cung cách hữu hiệu hay trôi chảy nào được, và với các giới chức thẩm quyền địa phương không có khả năng hay tích cực thù nghịch, tình trạng hiện thời của Trung Hoa thì cực kỳ nghiêm trọng (11).

Ba ngày sau đó, Lãnh Sự Halderman báo cáo về Bộ Ngoại Giao về khả tính gia tăng của chiến tranh và các hàm ý của nó đặc biệt đối với Trung Hoa:

Khó có thể nhận ra giờ đây là có cách nào để né tranh cuộc chiến tranh giữa hai nước, trừ khi Trung Hoa lùi bước trong vị thế của mình.

Pháp đã khởi động bộ máy chiến tranh, và không thể dễ dàng quay ngược lại.

Lại nữa, với uy tín bị tổn hại bởi các việc trái khoáy (contretemps) tại Ai Cập của mình, đó là chưa nói đến những sự việc tại Tunis, Madagascar, và Congo, nước Pháp không thể chấp nhận “hòa bình vớI bất cứ giá nào”, mà chỉ “với danh dự”.

Chính người dân và Các Quan Chức của Vương Quốc Văn Hoa [Flowery Kingdom, chỉ nước Pháp, chú của người dịch] có thể nói, nếu nó từ bỏ sự xác nhận của mình trên Bắc Việt, rằng “nó đã bị đẩy lui ra khỏi đó bới sự phỉnh gạt của Trung Hoa,” -- rằng “nó đã triệt thoái dưới hỏa lực,” – và hậu quả tư thế của nó tại các vùng chiếm đóng ở Cochinchina và những nơi khác có thể bị thương tổn một cách nghiêm trọng.

Các toán tăng phái đã khởi hành từ Marseilles và Sàigòn, và các tin đồn cho hay, rằng Lý Hồng Chương, Phó Vương - Tổng Đốc nổi danh của vùng Chihli [tức Trực Lệ, bao gồm kinh đô Bắc Kinh, chú của người dịch], đã khởi động ở vùng biên giới phía Nam, đã phái đi trước một đoàn quân gồm 20,000 binh sĩ …

Trong trường hợp có sự rối loạn, Ngai Rồng [chỉ Từ Hy Thái Hậu, chú của người dịch] có thể sẽ phải đối phó với các cuộc khởi nghĩa và nổi loạn trong nước, cũng như phải đương đầu với sự đối nghịch của các láng giềng hùng mạnh.

Nga, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Xiêm La và các nước khác đều có những sự vụ cũ phải giải quyết hay các vấn đề mới mở ra.

Mặc dù nó đã có một sự kháng cự lâu dài và đáng nể chống lại nước Nga, điều xem ra cực kỳ điên rồ cho Trung Hoa giờ đây lại chỉ dựa vào gươm giáo để chống lại bất kỳ cường quốc Âu Châu hùng mạnh hàng đầu nào.

Nhưng – “lực dự trữ” của nó thì bao la, và với sự lãnh đạo của các cấp chỉ huy tài giỏi, nó có thể đạt được trong Chiến Tranh những gì nó đã không đánh mất trong nền Ngoại Giao (12).

Trong khi đó, Levi Morton, Sứ Thần Hoa Kỳ tại Paris, đã đánh điện cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Frelinghuysen rằng các báo chí Pháp có đăng tải các tin tức cho hay Bộ Hải Quân Hoa Kỳ đã loan báo rằng các sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ được phép nghỉ nếu họ muốn gia nhập quân đôi Trung Hoa.  Bộ Trưởng Frelinghuysen đã đánh điện trả lời trong cùng ngày, cho biết các tin tức trên là vô căn cứ.  Sứ Thần Morton đã chuyển sự phủ nhận tức thời này đến Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp, Challemel Lacour, là người đã bày tỏ sự tán thưởng của mình (13)./-


----


CHÚ THÍCH:

1. Một nguồn tài liệu Việt Nam tuyên bố rằng nỗ lực tái tục của Pháp tại Bắc Việt hồi đầu thập niên 1870 đã dẫn đến một nỗ lực ngoại giao đầu tiên đáng chú ý, mặc dù ngắn ngủi và không thành công, của Việt Nam với Hoa Kỳ.  Tôi đã không thể tìm thấy tài liệu nào về việc này từ các nguồn tư liệu nghiên cứu hay chính thức của Hoa Kỳ.  Dưới đây là bản dịch của một tư liệu duy nhất có được, của tác giả Thái Văn Kiểm, op. cit : sách đã dẫn [nhưng không có nhan đề đã trích dẫn, chú của người dịch], trong tập Nouvelle série – tome xxxvii, Année 1962, numero 3 – 3e trimestre 1962:

Trong năm 1873, Việt Nam gặp khó khăn với Pháp, nước muốn mở rộng lãnh địa thống trị của nó, vượt quá miền Nam Kỳ (Cochinchina) hiện nay để bao gồm toàn thể lãnh thổ của Việt Nam.  Triều đình trong cơn rối loạn, đã quyết định phái ông Bùi Viện ra hải ngoại, với sứ mệnh tìm cách tiếp xúc với một nước ngoài hùng manh, không phải là thực dân, có khả năng cung cấp viện trợ và sự giúp đỡ cho Việt Nam, trong giờ phút nguy khốn của nó.

Ông này đã tìm mọi cách để liên hệ với các nhân vật nổi tiếng của Trung Hoa tại đảo (Hồng Kông), trong khi đó ông ta có làm quen một cách bất ngờ với lãnh sự Hoa Kỳ tại Hồng Kông.

Ngay vào lúc đó, Bùi Viện đã nghĩ rằng ngoài các nước Âu Châu, điều đáng lưu tâm là việc thiết lập các quan hệ với Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ.

Chính vì thế, ông đã có lòng tin tưởng nơi viên Lãnh Sự Hoa Kỳ, và đã thông báo cho viên Lãnh Sự về tình hình trong xứ sở và mục tiêu chuyến du hành của mình.

Chính viên Lãnh Sự Hoa Kỳ quan tâm đến dự án của nhân vật Việt Nam yêu nước, và thông báo với ông ấy về lịch sử Hoa Kỳ, về cuộc đấu tranh can đảm được thực hiện bởi người dân Hoa Kỳ để dành độc lập. Ông cũng tin tưởng nơi sự liên đới tinh thần của hai xứ sổ, của một nước đã từng trải qua những gì mà nước kia đang phải chịu đựng.

Phấn khởi bởi tư cách của Tổng Thống Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ, Simpson Grant, người cổ động cho một chương trình vĩ đại để canh tân hóa, Bùi Viện bày tỏ ước muốn đi sang Hoa Kỳ, bởi vì sau hết, viện trợ mà ông ta tìm kiếm có thể sẽ không đến từ một nước Trung Hoa kiệt quệ khi mà chính vị Bộ Trưởng Ngoại Giao, Lý Hồng Chương, nghĩ rằng xứ sở của ông đã sẵn có quá đủ các khó khăn nội bộ khiến cho nó không thể nào quan tâm đến số phận của một quốc gia khác được.

Mùa đông cùng năm đó, ông đi thuyền sang Nhật Bản.  Sau khi ghé hải cảng Yokohama một cách mau chóng, nơi ông tạm trú tại nhà viên lãnh sự Hoa Kỳ, qua sự giới thiệu của người bạn đồng sự tại Hồng Kông, ông ra đi để tới San Francisco.  Lên bờ tại San Francisco, ông Bùi Viện lưu ở đó vài hôm để thực hiện các cuộc thăm viếng theo lời khuyên của người bạn Hoa Kỳ, sau đó tiếp tục lên đường đến thủ đô Hoa Thịnh Đốn….

Sau các sự vận động khó nhọc được thực hiện hết sức khéo léo, cuối cùng ngày trọng đại mà ông tìm kiếm đã đến khi ông được tiếp kiến một cách trọng thể bởi Tổng Thống Simpson Grant.

Có vẻ là ông đã nhận được từ Tổng Thống Hợp Chúng Quốc một sự hứa hẹn viện trợ và liên minh, tuy nhiên chỉ có việc trình ủy nhiệm thư mới cho phép Tổng Thống Grant chứng minh được sự can thiệp của ông với Quốc Hôi.

Chính vì thế mà ông Bùi Viện quyết định quay trở về Việt Nam để thỉnh cầu vua Tự Đức cấp phát cho ông các văn kiện ngoại giao cần thiết.  Nhưng, sau đó, ông hay biết trên đường trở về rằng các biến cố chính trị mới sẽ không cho phép Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ giữ được lời hứa của mình, và ông Bùi Viện, với nỗI đau lòng, nhìn thấy giấc mơ của mình bị tan võ trên bước đường hồi hương.

2. Joseph Buttinger, trang 411, các chú thích 80 và 81.
3. Foreign Relations of the United States, 1875, vol. I, Peking Legation Despatch no. 52, 12 May 1875, các trang 319-320.
4. Cùng nơi dẫn trên, trang 328.
5. Văn Khố Bộ Ngoại Giao, Văn Khố Quốc Gia, Washington D.C., Bangkok Consular Despatches, no. 9, 10 September 1880.
6. Cùng nơi dẫn trên, được in lại từ Pall Mall Gazette, 26 August 1880.
7. Cùng nơi dẫn trên, Peking Legation Despatch no. 101, 9 May 1882.  Các ý kiến này hiển nhiên bị xem là quá nhậy cảm để được ấn hành công khai trong các tập tài liệu Quan hệ Ngoại Giao thường lệ nên chúng chỉ xuất hiện trong các bản sao của Văn Khố với dấu khoanh vòng quanh chúng và với một ghi chú bên lề: “omit to end: gạch bỏ đến cuối”.
8. Cùng nơi dẫn trên, Bangkok Consular Letter, no. 27, 15 March 1883.
9. Cùng nơi dẫn trên, Peking Legation Despatch no. 159, 20 March 1883.
10. Cùng nơi dẫn trên, Bangkok Consular Despatch no. 39, 8 June 1883.
11. Cùng nơi dẫn trên, Peking Legation Despatch no. 214, 13 June 1883.
12. Cùng nơi dẫn trên, Bangkok Consular Despatch no. 42, 16 June 1883.
13. Cùng nơi dẫn trên, Paris Legation Despatch no. 359, 22 June 1883.  Nguyên bản bức điện văn đề ngày 12 June 1883.
 
-----

Nguồn: Robert Hopkins Miller, The United States and Vietnam, 1787-1941, National Defense University Press, Fort Lesley McNair, Washington D.C., 1990, các trang 80-85.

 

 

2. NỖ LỰC ĐIỀU GIẢI LẦN ĐẦU TIÊN
Tháng Bẩy – Tháng Tám 1883

Robert Hopkins Miller

Ngô Bắc dịch


Sự căng thẳng gia tăng giữa Pháp và Trung Hoa về Bắc Việt đã đem nỗ lực ngoại giao Hoa Kỳ đầu tiên bị thất bại lên một bình diện quốc tế -- bị thất bại bởi vì, trong khi Trung Hoa tìm kiếm sự giúp đỡ điều giải của Hoa Kỳ ba lần, nước Pháp đã cự tuyệt sự giúp đỡ ấy cũng bằng ngần ấy lần.  Lần thứ tư, khi người Pháp – sau khi pháo kích Phúc Châu – ngỏ ý với Hoa Kỳ rằng họ có thể xét đến việc nhờ đến các sự trợ giúp của Hoa Kỳ nhân danh họ, đến lượt Trung Hoa từ khước.  Tuy nhiên, các hành động của Hoa Kỳ không phát sinh từ bất kỳ sự nhận thức nào của Hoa Kỳ về quyền lợi của chính Đông Dương, mà đúng hơn từ một nghĩa vụ theo hiệp ước với Trung Hoa và từ một lịch sử lâu dài của tình hữu nghị với nước Pháp.

Trong cốt lõi, sự tranh chấp Pháp-Trung về Bắc Việt xoay quanh tham vọng thực dân của Pháp nhằm thống trị toàn cõi Đông Dương và sự bất lực của Trung Hoa trong việc ngăn chặn người Pháp hoàn thành tham vọng này.  Tình trạng bị làm trầm trọng hơn bởi các sự ham muốn của các cường quốc Âu Châu khác và Nhật Bản nhằm khai thác vị thế yếu kém của Trung Hoa trong cuộc tranh chấp này bằng cách đẩy mạnh các quyền lợi riêng cùng các dự tính về đất đai của họ chống lại Trung Hoa.  Hoa Kỳ cũng thế, nó có các dự tính của mình đối với Trung Hoa, và điều này đã mang lại cho nó một cảm giác liên đới với các cường lực Tây phương đồng hành.  Nó cũng chia sẻ thái độ đương thời của Âu Châu đối với điều mà nó xem là tình trạng sơ khai và lạc hậu của nền văn minh Trung Hoa, nhưng đặc biệt là về các xứ sở nhỏ hơn ở Đông Á.  Tuy nhiên, các dự tính của Hoa Kỳ đối với Trung Hoa hoàn toàn có tinh cách thương mại; chúng không liên can đến sự thèm muốn chinh phục lãnh thổ.  Hợp Chúng Quốc cảm thấy không cần cạnh tranh với Pháp và Anh – hay Nhật Bản và Nga – để dành giựt các lợi lộc thuộc địa trong khu vực.  Sự quan tâm chính yếu của Hoa Kỳ là nếu chiến tranh bùng nổ giữa Trung Hoa và Pháp quốc, các viễn ảnh thương mại của Hoa Kỳ có thể bị suy giảm và nhân mạng người Hoa Kỳ có thể bị nguy hiểm.

Hoạt động ngoại giao của Pháp trong tình trạng này dựa chủ yếu trên sự bí mật, thay đổi các mục tiêu, và tránh né.  Nền ngọai giao Trung Hoa phát nguyên từ các sự yếu kém nôi tại cộng với việc nương dựa không thực tế và lỗi thời trên các sự nhận thức cổ truyền về các mối quan hệ Á Châu cho rằng Trung Hoa là “Vương Quốc Trung Tâm” quanh nó là các xứ sở nhỏ hơn tuyên hứa trung thành và triều cống nó.  Nền ngoại giao Hoa Kỳ thì mang tính cách tiêu biểu của người Hoa Kỳ; nó tin tưởng những gì nó được bảo cho biết, bởi cả Trung Hoa lẫn Pháp; nó sẵn sàng tôn trọng các nghĩa vụ theo hiệp ước của nó; và mối quan tâm chính yếu của nó trong cuộc khủng hoảng là sự bảo toàn vị thế thương mại của nó tại Trung Hoa.

Nước Pháp cố giữ các hoạt động quân sự của nó tại Bắc Việt trong âm thầm càng nhiều càng tốt.  Khi các giới chức thẩm quyền Trung Hoa yêu cầu tin tức và sự giải thích về các sự di chuyển của Pháp, các nhà ngoai giao Pháp thú nhận sự mù tịt và yêu cầu để họ tìm hiểu quan điểm của chính phủ mình -- điều mà hiếm khi họ nhận được.  Một khi người Pháp đạt được các mục tiêu quân sự trước mắt, nó lại sẽ tố cáo Trung Hoa là cản trở sự theo đuổi các quyền lợi chính đáng của Pháp, là đã khuyến khích người dân Bắc Việt nổi loạn ra tay hạ sát các binh sĩ Pháp, và đã phản đối một cách chậm trễ các hiệp ước của Pháp với An Nam mà người Pháp tuyên bố rằng Trung Hoa đã được thông báo một cách hợo thức và đúng lúc.  Về mặt hiệp ước, ông Levi Morton, Sứ Thần Hoa Kỳ tại Paris, đã bình luận trong văn thư trao đổi giữa Chính Phủ Pháp và Hầu Tước họ Tăng [tức Tăng Kỷ Trạch, chú của người dịch], sứ giả của Trung Hoa tại Paris, mới được công bố hồi gần đó:   

Sự công bố này đã thu hút được nhiều điều chú ý tại đây.  Nó cho thấy sự nhất quán của hai chính phủ trong quan điểm mà họ đã có, nước Pháp nhất quyết cho rằng Hiệp Ước năm 1874, theo đó Cộng Hòa [Pháp] đảm nhận vai trò Bảo Hộ An nam, đã được thông báo cho Chính Phủ ở Bắc Kinh, vốn đã không phản đối, trong khi Hầu Tước họ Tăng xác nhận một cách quả quyết rằng chính phủ của ông đã phản đối chống lại bản Hiệp Ước và đã không thể thừa nhận hiệu lực của nó.  Tuy nhiên, điều đáng để ý là sự phản đối này của Chính Phủ Bắc Kinh đã không thấy có trong số các tài liệu được thông tin bởi vị Sứ Thần Trung Hoa với tờ báo Times (1).

Về phần mình, Trung Hoa đã tỉnh giấc hơi muộn về các dự định của Pháp tại miền nam biên giới của nó; sau đó, nhận thức được sự bất lực về mặt quân sự của mình, nó đã tìm cách thương thuyết và tìm sự trợ giúp của các xứ sở thân hữu kể cả Hoa Kỳ.  Sứ thần Hoa Kỳ tại Bắc Kinh đã thành thực thúc dục người Trung Hoa hãy cố tránh chiến tranh bằng mọi giá, cảnh cáo rằng nó sẽ là tai họa cho Trung Hoa; ông cũng thúc dục Hoa Thịnh Đốn hãy làm công việc điều giải giữa Pháp và Trung Hoa, như phía Trung Hoa đã yêu cầu nhiều lần.  Hoa Thịnh Đốn thì sẵn lòng, nhưng sẽ không áp lực chống lại sự cự tuyệt của Pháp nếu không muốn hợp tác.  Như lịch sử phơi bày, hậu quả đích thực của tất cả sự việc này là sự chinh phục của Pháp trên toàn thể Bắc Việt và sự hoàn tất công cuộc chinh phục Đông Dương.

Vào ngày 5 tháng Bẩy 1883, John Russell Young, Sứ Thần Hoa Kỳ tại Trung Hoa, đã đánh điện về Bộ Ngoại Giao từ Bắc Kinh, chuyển lời yêu cầu đầu tiên của Trung Hoa mời Hoa Kỳ đứng làm trung gian điều đình:

Các cuộc thương thuyết giữa ông Lý [chỉ Lý Hồng Chương, người phụ trách Bộ Ngoại Vụ Trung Hoa khi đó, chú của người dịch] [và} Tricou [chỉ Đại Sứ Pháp tại Trung Hoa, chú của người dịch] đã tan vỡ.  Ông Lý quay trở về Thiên Tân tối nay. Sự việc nguy kịch.  Có cuộc nói chuyện lâu dài, ông Lý yêu cầu Chính Phủ [Hoa Kỳ] đứng ra làm trung gian điều giải để khuyến dụ Pháp giữ hòa bình. Ông Lý nói Anh, Nga đều đồng ý, nhưng đặc biệt lo ngại về phía Hoa Kỳ.  Có nói Hoa Kỳ chỉ đưa ra lời cố vấn thân thiện, nhưng nêu ý kiến Trung Hoa đề nghị với Pháp một sự trọng tài, như trường hợp Alabama. Ông Lý chấp nhận.  Pháp nhấn mạnh đến sự nhượng bộ tuyệt đối mọi yêu cầu, đe dọa đòi bốn mươi triệu đô la chi phí của cuộc viễn chinh.(2)

Bộ Ngoại Giao tức thời chuyển lời yêu cầu của Trung Hoa cho Pháp xuyên qua Sứ Thần Morton tại Paris bằng điện tín đánh theo mật mã:

Chính Phủ này không có ý muốn tự mình tiến hành công việc một cách tích cực trừ khi lấy làm hài lòng rằng sự giúp đỡ điều đình của nó được đón nhận. Ông sẽ thăm dò ông Bộ Trưởng Ngoại Giao về việc liệu Pháp Quốc sẽ nhìn nhận nhờ cậy đến nỗ lực điều giải vô tư của chúng ta để tìm kiếm một giải pháp hòa bình khả dĩ được tôn trọng bởi cả hai bên, và sẽ đồng ý sự trọng tài, nếu cần thiết, có lẽ tương tự, như Tòa Trọng Tài ở Geneva hay khộng”

Vào ngày 16 tháng Bẩy, ông Brulatour, Xử Lý Đại Biện Hoa Kỳ tại Paris, đánh điện cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Frelinghuysen rằng Pháp có vẻ đồng ý để cứu xét lời đề nghị của Hoa Kỳ (4).  Tuy nhiên, Brulatour đã gủi một điện tín đánh bằng mật mã ít khích lệ hơn trong ngày hôm sau:

“Chính Phủ Pháp cảm ơn về thiện chí của ông [Bộ Trưởng].  Sẽ là điều vui mừng nếu nó có thể mang lại sự giải quyết khó khăn với Trung Hoa, nhưng trước khi chấp nhận cách thức dàn xếp theo đề nghị, muốn biết một cách chính xác các điểm sẽ được giải quyết.  Trung Hoa không hề cung cấp tin tức về khía cạnh này.  Pháp sẽ không đồng ý đưa ra thảo luận những lợi thế đã được bảo đảm cho nó qua các hiệp ước và quyền hạn của nó để theo đuổi hành động hiện đang diễn tiến tại An Nam.  Vì thế Bộ Trưởng Ngoại Giao [Pháp] không thể hình dung được một ý tưởng chính xác về những vấn đề mà Hợp Chúng Quốc sẽ gắng sức giải quyết và hỏi là liệu ông có thể cung cấp cho ông ta bất kỳ thông tin nào về khía cạnh này hay không (5).

Ông Bộ Trưởng Frelinghuysen đã đánh điện câu trả lời của ông bằng mật mã hôm 20 tháng Bẩy:

Hiển nhiên là thế giới nói chung đều mong muốn một sự giải quyết giữa Pháp và Trung Hoa về vấn đề Bắc Việt mà không có các sự giao chiến nữa.  Chúng tôi không giả vờ là hiểu biết các vấn đề được nêu ra cho bằng các đôi bên liên hệ.  Chúng tôi trong trường hợp được yêu cầu bởi cả hai bên sẽ hành động cùng với các nước khác hướng đến việc duy trì hòa bình và điều chỉnh các sự khác biêt (6).”

Bộ Ngoại Giao sau đó có chuyển đến ông Young ước muốn của Pháp có nhiều tin tức hơn về các sự khiếu nại của Trung Hoa (7). Ông Morton đã đánh điện lại câu trả lời của Pháp đối với lời nhắn của ông Bộ Trưởng Frelinghuysen vào ngày 24 tháng Bẩy:

Tôi đã gặp gỡ Tổng Thống và Bộ Trưởng Ngoại Giao về vấn đề lời yêu cầu điều giải của Trung Hoa.  Ông Bộ Trưởng tuyên bố một cách nhấn mạnh, rằng ông không hay biết về bất kỳ sự khó khăn nào giữa Pháp và Trung Hoa.  Chắc chắn là phía Trung Hoa không hài lòng nhưng ông không hiểu một cách chắc chắn lý do tại sao họ không bao giờ lên tiếng về nguyên do của sự bất mãn của họ, cũng như không đưa ra bất kỳ sự đòi hỏi hay bày tỏ bất kỳ sự phiền trách nào.  Có thể là một tình trạng khó khăn, nếu Trung Hoa gửi các lực lượng xuống Bắc Việt hay tán trợ cho các nhóm vũ trang trong tỉnh hạt đó, nhưng điều này Trung Hoa đã phủ nhận. Ông Bộ Trưởng vì thế không hay biết gì về các mục tiêu của họ, và đây là lý do mà ông ta yêu cầu rằng nếu chúng ta có bất kỳ tin tức nào giúp ông ta hiểu được những gì họ [Trung Hoa] đang nhắm tới.  Rõ ràng là Pháp muốn đẩy hoàn toàn cho Trung Hoa gánh nặng phát biểu rằng đâu là sự khó khăn và những gì cần làm để gỡ bỏ tình trạng khó khăn đó … (8).

Trong khi đó, Sứ Thần Hoa Kỳ tại Vọng Các báo cáo các tin tức nhận được từ vị sứ giá mới của Pháp tại Huế, Bá Tước Kergaradec:

Ông ta thông báo cho tôi rằng Pháp hiện có 4,000 lục quân tại Bắc Việt, và một hạm đội gồm 20 chiến thuyền tại các hải phận kề cận.  Ông ta không che dấu mục đích của nước Pháp là nhằm thiết lập một Chế Độ Bảo Hộ khắt khe trên Bắc Việt và An Nam [ở đây chỉ Trung Việt, chú của người dịch].  Phần đất trên như quý ông đã biết, là một bộ phận của lãnh địa sau, không khác gì Scotland là một phần của England, [so sánh này không xác thực, vì dân chúng ở Scotland có gốc chủng tộc và tôn giáo khác với người dân England, chú của người dịch] mặc dù nó có triều cống cho An Nam, giống như An Nam triều cống Trung Hoa vậy…  Điều nói chung không được tin tưởng tại Kinh Đô này [chỉ Vọng Các, chú của người dịch] rằng Trung Hoa sẽ thử thời vận của mình bằng cuộc chiến tranh với Pháp … (9).

Vào ngày 7 tháng Tám năm 1883, Xử Lý Đại Biện Brulatour tại Paris báo cáo lên Bộ Trưởng Ngoại Giao Frelinghuysen rằng Sứ Thần tại Pháp có thông báo cho ông ta về các điều kiện của Trung Hoa cho một sự thỏa thuận với Pháp. Ông Brulatour nói rằng người bạn đồng sự Trung Hoa của ông muốn ông chuyển điều kiện này đến Bộ Trưởng Ngoai Giao Pháp:
 
1. Pháp không được sáp nhập thêm lãnh thổ nào khác.
2. Các quan hệ chư hầu giữa An Nam và Trung Hoa vẫn giữ nguyên không thay đổi.
3. Các lực lượng Pháp triệt thoái ra khỏi vùng đất hiện đang chiếm đóng, một số thành phố nào đó sẽ được mở cửa cho việc mua bán với nước ngoài.
4. Sông Hồng sẽ được mở cửa cho thương mại ngoại quốc đến Toung Ho Kouan [Quận Đông Hưng?, chú của người dịch].
5. Trung Hoa sẽ sử dụng ảnh hưởng của mình để tạo sự dễ dàng cho công cuộc thương mại và sẽ tránh dùng võ lực để chống lại quân Cờ Đen,
6. Các quy ước trong tương lai giữa Pháp và An Nam sẽ phải có sự thỏa thuận với Trung Hoa (10).

Vào ngày 11 tháng Tám, Bộ Trưởng Frulinghuysen chấp thuận cho ông Brulatour chuyển các đề nghị của Trung Hoa cho Pháp:

Ông có thể bố túc rằng Chính Phủ này [Hoa Kỳ] thông hiểu sự bất bình của Trung Hoa sẽ có bởi việc mở rộng đất đai chiếm hữu của Pháp tại An Nam, lãnh địa của Pháp và Trung Hoa sẽ có biên giới chung trên đó Trung Hoa sẽ phản đối.  Điều được hiểu là Trung Hoa không chống đối sự cai trị của Pháp tại Bắc Việt nhưng không muốn nhìn thấy nó được nới rộng tới sát các biên giới của chính nó. Điều này có thể khiến cho một sự thỏa hiệp có thể đạt được nhằm bảo đảm tính trung lập hay tự trị trong thực tế cho phần lãnh thổ An Nam nằm ngoài khu định cư của người Pháp.  Hãy nói rằng sự xuất trình của chúng ta các đề nghị của Trung Hoa nên được xem việc biểu lộ đơn giản ước muốn vô tư của chúng ta trong việc trợ giúp để mang lại một sự hiểu biết chính xác giữa Pháp và Trung Hoa (11).

Hai ngày sau đó, Brulatour báo cáo rằng Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp tỏ vẻ ngạc nhiên rằng tại sao Sứ Thần Trung Hoa đã không chuyển các điều kiện của Trung Hoa trực tiếp đến ông ta, “khi mà các quan hệ ngoại giao không hề bị gián đoạn giữa hai xứ sở.”  Bản báo cáo của Brulatour viết tiếp:

Để tránh bất kỳ sự hiểu lầm khả hữu về hành động của Bộ Ngoại Giao [chúng ta] tôi đã nêu ra với Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp về bức thư của ông đề ngày 17 tháng Bẩy yêu cầu tôi nói rằng ông ta sẽ biết ơn ông Bộ Trưởng về nhiều tin tức liên quan đến các yêu sách của Trung Hoa. Ông Bộ Trưởng Ngoai Giao Pháp có vẻ không nhớ về bức thư này, mà tôi đã vội vã gửi đến ông ta một bản sao, [bởi] không có bản nào được lưu trữ tại Bộ sở quan của ông ta.  Theo lời yêu cầu của Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp tôi đã thông báo cho Sứ Thần Trung Hoa rằng ông Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp mong muốn hội họp với ông ấy.  Sứ thần Trung Hoa sẽ làm điều đó ngày hôm nay (12).

Toàn thể bức điện văn của Sứ Thần Morton được gửi chín ngày sau đó (xem chú thích 11) cho thấy rõ là phía Pháp, trong thực tế, đã tứ khước đề nghị của Hoa Kỳ đứng làm trung gian điều giải giữa Pháp và Trung Hoa và lời yêu cầu của Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp Challemel Lacour muốn có nhiều thông tin hơn về các sự khiếu nại của Trung Hoa chỉ là một cách nói lịch sự để gạt bỏ đề nghị đó.  Trở về sau khi “tắm biển” tại La Bourboule, Sứ Thần Morton đã gọi cho Bộ Trưởng Challemel Lacour để làm sáng tỏ tình hình.  Challemel Lacour đã làm sáng tỏ, nói rằng ông không cảm thấy mình có thể bác bỏ ý kiến của Hoa Kỳ một cách thẳng thừng, nhưng bởi ông không nhìn thấy mối liên hệ của nó với tình hình.  Vì lý do này, ông nói ông có nhu cầu cần có thêm tin tức: [in đậm để nhấn mạnh bởi người dịch]

Đôi  lúc sau cuộc trao đổi sự thông đạt đầu tiên này, ông Challemel Lacour nói tiếp, Hầu Tước họ Tăng là kẻ hầu như đã đình chỉ sự liên lạc với tôi đột nhiên tái lập quan hệ; và trong các cuộc thăm viếng của ông ta với Văn Phòng Bộ Ngoại Giao trở nên thường xuyên hơn, không chỉ một lần, ông ta đã nhấn mạnh nhiều lần về quan điểm thân hữu của chính phủ ông ta đối với Pháp, và tuyên bố rằng ông ta không nhận được chỉ thị nào để đưa ra bất kỳ sự khiếu nại nào hay đề trình bày hoặc đề xuất các đề nghị liên quan đến tình trạng khó khăn của chúng tôi tại Bắc Việt. Ông ta còn nói nhiều hơn để giải thích sự thiếu sót tin tức này về phía ông ta bằng cách cho hay rằng các đường dây Điện Tín Trung Hoa hiện thời đang ở trong tình trạng hư hỏng đến nỗi ngay cả các điện tín mà ông nhận được xuyên qua đường dây này đã đến nơi với một hình dạng xô lệch đến nỗi không thể nào hiểu được ý nghĩa của chúng nữa.

Vì thế ông có thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của tôi, ngay sau lúc một lời phát biểu như thế được đưa ra nơi đây, khi ông Brulatour trao cho tôi một loại văn thư đến từ viên Sứ Thần Trung Hoa này là người mà tôi vốn có sự truyền thông thân thiện hàng ngày, liệt kệ các điều kiện chướng tai cho một sự giải quyết mà theo ông ta đã được xếp đặt theo các chỉ thị của chính Chính Phủ ông ta, của những người mà ông ta làm ra vẻ bị phớt lờ và là các quan chức mà ông ta còn phàn nàn là không thể thông tin được.  Tôi không thể đồng ý trong tức thời để cứu xét một văn bản như thế và tôi phải nói với tất cả sự thẳng thắn rằng Hoa Kỳ, nước mà lập trường thân thiện và vô tư đã quá quen thuộc với tôi, lại bị lợi dụng để làm kẻ mang các đề nghị quá lố đến nỗi chúng không thể nào được tiếp đón hay cứu xét mà không phản dội cảm thức của chúng tôi về danh dự và phẩm giá …

Ông Morton tiếp tục nêu ý kiến với Bộ Trưởng Ngoại Giao Frelinghuysen “rằng sẽ không có dịp để tái lập công việc trung gian điều giải của chúng ta nữa, trừ khi điều này phải được yêu cầu bởi Chính Phủ Pháp (13)”.  Vào cuối tháng Chín, Sứ Thần Young tại Bắc Kinh báo cáo rằng ông đã đọc bản tường trình của ông Morton “với sự quan tâm sâu xa” (14).

Làm hậu cảnh cho các diễn tiến ngoại giao này, Sứ Thần Hoa Kỳ tại Bắc Kinh, ông John Russell Young, trong mùa hè năm 1883 đã gửi về quê nhà một số điện văn đáng để ý bởi sự nắm vững các lực lượng tác động trong Sự Vụ Bắc Kỳ như được quan sát từ Bắc Kinh, sự hiểu biết về các nhân vật dính líu ở đó, và sự sáng suốt trong các điện văn cùng sự chú ý đến chi tiết quan trọng.

Điện văn đầu tiên trong số các điện văn này kể lại các cuộc đàm thoại mà Sứ Thần Young đã có với Đại Thần Trung Hoa Lý Hồng Chương, với cựu Sứ Thần Pháp Bourée, và Sứ Thần Pháp đương nhiệm Tricou (15).  Ông Young cho hay rằng trong mùa đông năm trước, theo các chỉ thị của Chính Phủ ông ta, Sứ Thần Pháp Bourée đã thương thảo được một sự thỏa thuận với Trung Hoa, theo đó “nước Pháp nhìn nhận các quyền chủ tể của Trung Hoa trên An Nam trong khi Trung Hoa không phản đối nước Pháp chiếm hữu thực tế xứ sở này và mở cửa cho sự buôn bán.” Ông Young viết tiếp:

Hai sự việc đã đột nhiên làm thay đổi tình hình.  Trước tiên là cái chết của viên sĩ quan Pháp tên Rivière, dưới tay người An nam, chuyện thứ nhì là sự lên nắm quyền của ông Challemel Lacour làm Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp.  Ông Bourée bị phủ nhận và triêu hồi, dưới những hoàn cảnh mà ông xem như một sự sỉ nhục. Ông Tricou nhận được lệnh từ Nhật Bản sang Trung Hoa để trao một tối hậu thư, một bản tuyên bố rằng Trung Hoa không có quyền gì tại An Nam, rằng bất kỳ sự xác quyết quyền hạn nào cũng sẽ bị xem là một hành vi chiến tranh chống lại nước Pháp và rằng tất cả những người Trung Hoa được tìm thấy có trang bị tại An nam chống lai Pháp sẽ bị bắn chết như quân thổ phỉ.  Chính Phủ Trung Hoa tức thời triêu hồi Lý Hồng Chương đang trong thời kỳ cư tang và ra lệnh ông ta đến Thượng Hải…(14)

Tại thời điểm này, ông Lý yêu cầu gặp mặt Sứ Thần Young, là người đang ở Thượng Hải vì chuyện riêng.  Bản báo cáo của ông Young tiếp tục:

Ông ta cảm thấy bối rối về sự vụ.  Có vẻ như sẽ có một âm mưu chống lại Trung Hoa từ các nước Tây Phương, đặc biệt là các nước Âu Châu.  “Trung Hoa,” theo lời vị thượng quan Trung Hoa, “đã phải đối diện để nhìn thẳng vào sự kiện, rằng nó không có bè bạn.  Này là Nga đang đe dọa nó ở phương Bắc.  Nước Đức đã xâm lăng lãnh thổ của nó tại Swatow [tức Shantou: Sơn Đầu (?), hải cảng ven biển, gần cửa sông Hán Giang, thuộc tỉnh Quảng Đông chú của người dịch].  Nhật Bản đã chiếm các đảo Lưu Cầu (Loo-Chow).  Người Anh nắm giữ Hồng Kông, và cưỡng bách nó cho bán thuốc phiện là điều đồng nghĩa với sự thống khổ và hủy diệt dân tộc của nó.  Nước Pháp đang gửi một đoàn viễn chinh để xé nát đế quốc của nó.  Hoa Kỳ đã thông qua một đạo luật trục xuất người Trung Hoa ra khỏi phần đất của nó, chỉ riêng người Trung Hoa, trong tất cả các chủng tộc trên thế giới”

Sau khi ông Young bác bỏ lời tuyên bố của ông Lý về Đạo Luật Nhập Cảnh của Hoa Kỳ, ông đã nêu câu hỏi: “Tại sao Trung Hoa không xác định ranh giới lãnh thổ của mình?”

Vị Phó Vương [chỉ Lý Hồng Chương, chú của người dịch] có nói “ rằng các cương giới của đế quốc đã được xác định một cách rất rõ ràng.  Có nước Trung Hoa, và có các nước triều cống Trung Hoa.  Các nước triều cống này đều tự quản, ngoại trừ sự kiện rằng họ tuyên hứa trung thành với hoàng đế; điều này được thể hiện một cách thỏa đáng qua các hành động triều cống và [có tính cách] nghi lễ.  Một khi các công việc này được làm xong, vị hoàng đế không bao giờ can thiệp vào chuyện nội bộ.  Đồng thời, sự độc lập của chúng làm Trung Hoa quan ngại, và ông không thể vô tâm trước bất kỳ sự tấn công vào Trung Hoa.”

Tôi đã trả lời, “rằng trong thời đại hiện đại và dưới những hình thức văn minh đang thịnh hành, đã không còn các định chế kiểu các quốc gia triều cống như thế.  Một thuộc địa cũng là một phần của đế quốc được xem như thủ đô.  Tại Hợp Chúng Quốc chúng tôi có nhiều tiểu bang và các lãnh địa xa xôi, [như] một vùng xa xăm tận phương bắc, đứng biệt lập – Alaska --  Nhưng nếu bất kỳ một cường quốc ngoại lai nào đặt chỉ một người lính tại Alaska với một mục đích bất thân thiện, nó sẽ được xem là một hành vi chiến tranh y như là đã đổ bộ mười nghìn quân lên Nữu Ước, và sẽ bị nhìn như thế. Đây là quy luật của các dân tộc văn minh.  Trung Hoa phải tuân theo quy luật đó, và để tránh các sự bối rối cho mình, hãy củng cố đế quốc của mình, và thông báo cho thế giớI hay biết các biên giới chính xác lãnh thổ của mình.”

Vị thượng quan có nói, “rằng ông ta không nhìn thấy lý do tại sao các dân tộc bên ngoài lại phá hủy các quan hệ đã hiện hữu giữa Trung Hoa và các dân tộc xa xôi từ bao lâu nay.  Họ đã tiến bước tốt đẹp cùng nhau, đã làm tốt cho nhau, và tại sao người Pháp lại đến và làm xáo trộn họ? Đó là một hành vi xâm lược, và chỉ càng làm cho ông tin rằng Trung Hoa không có bè bạn trong các dân tộc khác.”

Trong cùng điện văn, Sứ Thần Young đã báo cáo một cuộc nói chuyện với ông Tricou, tân Sứ Thần Pháp, người đã nêu ra lập trường của Pháp:

Nhà Vua nước An Nam, trong năm 1874 đã ký kết một hiệp ước [chỉ Hiệp Ước được ký kết giữa Phó Đô Đốc Dupré của Pháp và các ông Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường phía An Nam, thay thế cho Hiệp Ước 1862, chú của người dịch] với nước Pháp, trong đó nước Pháp đã xem ông là một vị chủ tể độc lập, độc lập y như các nhà cai trị của Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha. Đã không hề có câu hỏi gì, ý kiến gì về bất cứ loại quyền bá chủ nào của Trung Hoa.  Đã xem vua An Nam như một quyền lực độc lập, nước Pháp đã đề nghị thương thảo với ông ấy trong tư thế như vậy, và Trung Hoa đã không phải là vấn đề để cứu xét.

Trả lời sự dò hỏi của Sứ Thần Young về nhiệm vụ sau đó Tricou có thể phải thi hành tại Trung Hoa, Sứ Thần Tricou đã trả lời:

Tôi đến … để tuyên bố với Trung Hoa lập trường thực sự của chúng tôi, để cảnh cáo họ, có nghĩa tôi sẽ nói với vị Phó Vương [chỉ Lý Hồng Chương, chú của người dịch], rằng bất kỳ sự chống đối nào đối với Quyền Lực của Pháp tại An nam hay Bắc Việt, mà có thể truy tìm ra dấu vết của sự trợ giúp hay ảnh hưởng của Trung Hoa, nước Pháp sẽ nhìn đó là một hành vi chiến tranh về phía Trung Hoa.  Chúng tôi đã sẵn cảm thấy rằng chúng tôi có một yêu sách đòi bồi thường.

Trả lời các câu hỏi khác của ông Young, ông Tricou đã giải thích sự xác định một yêu sách được dựa trên “phí tổn của các cuộc viễn chinh và các quân dụng đang được chuyển chở đến Trung Hoa,”  vốn đã chỉ cần thiết bởi vì Trung Hoa đã đưa ra sự khích lệ cho An Nam – “một hành vi chiến tranh tinh thần chống nước Pháp” do đó Trung Hoa phải hoàn trả. Ông Tricou cho thấy nước Pháp sẽ ước định “Có lẽ nhiều đến bốn mươi triệu đô la.”

Ông Young đã nói với Sứ Thần Tricou rằng ông không nhận được chỉ thị để bước vào sự thảo luận về các quan hệ Pháp-Trung, “nhưng như một sứ giả của một nước thân thiện đang nói chuyện với một sứ giả khác, đã có một số nhận xét đáng để trình bày.  Nếu Trung Hoa đã phạm một lỗi lầm trong việc xác định các chủ quyền trên An Nam, không phải chính nước Pháp cũng đáng trách y như là Trung Hoa hay sao?”  Sứ Thần Young đã vạch ra rằng Trung Hoa đã thương thảo với người tiền nhiệm của Tricou bằng thiện chí trên ngay chính vấn đề chủ quyền trên An Nam này.  Ông nói, “Nếu Nhà Vua An Nam tìm thấy sự khích lệ trong tiến trình đó, tôi không nhìn thấy tại sao mà [chỉ riêng] Trung Hoa lại đặc biệt phải chịu sự quy lỗi …”  Ông Tricou đáp lại rằng nước Pháp thì nhất thống [quan điểm] trong vấn đề này, và ông có ý định sẽ nói với ông Lý Hồng Chương “rằng bất kỳ hành vi nào về phía Trung Hoa nhằm cổ võ An Nam sẽ bị xem là chiến tranh, và nếu bất kỳ người lính Trung Hoa nào được tìm thấy ở An Nam, họ sẽ bị bắn chết.”  Sứ thần Young nêu ý kiến rằng với Trung Hoa chiến tranh có nghĩa là cách mạng:

“Và còn có gì tốt hơn thế nữa?”, đó là câu trả lời.  “Thế chẳng phải là mọi cuộc chiến tranh với Trung Hoa đã lại không mang lại việc cải thiện các quan hệ với các nước ngoài hay sao? Ông không thể triệt hạ bức trường thành này, đó là một hàng rào ngăn cản giữa Trung Hoa và thế giới bên ngoài, ngoại trừ bằng trọng pháo, và nếu nước Pháp làm điều đó, như nước Pháp đề nghị thực hiện, nước Pháp phải nhận được sự đồng tình và sự kính trọng của mọi dân tộc văn minh chứ. Điều này ông sẽ nhận thấy trong cảm nghĩ phổ quát của mọi ngoại kiều tại Á Châu.”

Tôi đã trả lời, “rằng cảm nghĩ của các ngoai kiều tại Á Châu được khuấy động bởi một động lực, có nghĩa làm sao kiếm được nhiều tiền nhất trong một thời gian ngắn nhất, và nếu các quan hệ ngoại giao của chúng ta bị chi phối bởi công luận tại Thượng Hải và Hồng Kông, các dân tộc Tây Phương sẽ pháo kích vào một thành phố Trung Hoa bất cứ khi nào công cuộc mậu dịch bị ế ẩm … Tôi quá lo âu cho nước Pháp để tin rằng xứ sở đã thắng trận tại Austerlitz [thuộc Moravia, miền Nam nước Tiệp Khắc trước đây, nơi mà Napoléon I đã đánh thắng vào ngày 2 tháng 12, 1805, một trận lừng danh nhất của ông chống lại quân đội của Nga và Áo, buộc Áo phải ký hòa ước Treaty of Pressburg với Pháp và giữ nước Phổ tạm thời không được tham gia liên minh chống Pháp, chú của người dịch] và Wagram [thị  trấn gần thủ  đô  Vienna của nước Áo , nơi mà  Napoléon I, vào ngày 5-6 tháng Bẩy, 1809 đã  đánh thắng quân Áo  và  buộc nước này phải  ký  hòa  ước chấm dứt sự  tranh chấp với Pháp về sự  kiểm soát  nước Đức, chú  của người dịch] lại sẽ tiến tới chiến tranh vì vấn đề tiền bạc.  Tôi không thể nhìn thấy sự vinh quang nào trong đó.”

Ông Tricou im lặng trong chốc lát, và nói trong nụ cười nhếch mép đáng ghi nhớ, “Ông bạn đồng sự thân thiết của tôi ơi, đừng quên rằng quốc hội của chúng tôi là quốc hội của các con buôn, và ông biết rằng các con buôn thì ham tiền mà.”

Tôi cảm thấy rằng câu hỏi của tôi đã được trả lời hoàn toàn đầy đủ -- được trả lời với giọng điệu đạo mạo của Rochefoucauld hay Voltaire, và rằng chỉ một câu này đã đem lại một cái nhìn thấu triệt trung thực vào các hoạt động sâu kín bên trong của ngoại giao Pháp tại Trung Hoa … (in đậm để nhấn mạnh bởi người dịch]

Trong cùng điện văn dài này ông Young đã mô tả ảnh hưởng mà hoạt động của Pháp tại Bắc Việt đã tác động vào nội bộ của Trung Hoa:

Vượt quá điều này ta thấy thấp thoáng một mối hiểm nguy lớn lao hơn, ngay trong chính nước Trung Hoa – Phe nhóm, sự phân tranh, sự thiếu vắng một chính phủ, các âm mưu chống lại Khánh Vương [Prince Kung, có sách dịch là Cung Thân Vương, chú của người dịch] và vị Phó Vương [chỉ Lý Hồng Chương, lúc đó cùng vơi Khánh Vương bị xem là Nhị Hổ, cộng với vua Quang Tự, được gọi là Nhất Long, là bộ ba bi xem là phe chủ hòa, chú của người dịch], tất cả dâng cao trong một ước muốn giao chiến … “Tại sao,” họ nói, “Trung Hoa lại không có thể đánh nhau với Pháp?  Tất cả tiền của mà chúng ta đã chi tiêu trong nhiều năm, cho các thành lũy, và các thuyền có vũ trang, và các thủy lôi, và các khẩu súng trường, nay chúng nằm ở đâu.  Nếu Lý Hồng Chương không thể dùng các vũ khí này và đè bẹp quân Pháp, tại sao ông lại đã mua sắm chúng?  Và [nếu] Nhà Cai Trị Tháng Tám của Địa Cầu có nhiệm vụ cai trị nhân loại này đã bị lạm dụng đến như thế, và [nếu] nước Pháp không thể bị đả bại, chỉ có một chiếu chỉ mới làm vừa lòng các thần thánh và con người, có nghĩa vị chính khách giả dối này [chỉ Lý Hồng Chương, chú của người dịch] sẽ bị bay đầu, và nước Trung Hoa sẽ có hòa bình …”

Sứ Thần Young cũng báo cáo rằng ông nhìn thấy được nhiều điều nơi vị Phó Vương:

Và tôi tin tưởng rằng ông ta cho tôi thấy sự tin cậy hoàn toàn của ông. Ông đến Thượng Hải để giải quyết chiến tranh, và lấy làm tức giận đối với tôi, sau khi đã bày tỏ sự quyết tâm này, tôi lại giải bầy với ông, một cách quả quyết, không tình cảm ủy mị, nhũng gì mà tôi cảm thấy trong lương tâm mình bằng tất cả tình thân hữu và sự chân thành với Trung Hoa, toàn thể những gì mà chiến tranh sẽ mang tới.  Nhiều lần tôi đã nhấn mạnh với ông ấy chân lý, “rằng thời điểm để chiến đấu là khi ông đã sẵn sàng, chứ không phải khi mà đối thủ đã sẵn sàng.”  Khi mà sự thực trong các lập luận của tôi đã được chấp nhận bởi họ Lý, luôn luôn có bóng dáng ở Bắc Kinh [chỉ Từ Hy Thái Hậu?, chú của người dịch], đám thái giám trộm cắp, sẵn sàng chờ trực với một thanh gươm hay một cây cung.  “Tôi có thể ăn nói ra sao với Nha Môn [Yamen, chỉ Bộ Ngoại Giao, chú của người dịch]?  Làm sao tôi có thể nhìn mặt được chính phủ của tôi?  Họ kỳ vọng tôi đánh nhau với người Pháp, và làm sao tôi có thể thỏa mãn họ? Điều tốt cho tôi nhiều hơn là tiến bước cùng với một đội quân sang An Nam và chết như một chiến sĩ, hơn là bị đối xử như một Chung How đã bị đối xử.”  Tôi luôn luôn đáp lại các suy nghĩ buồn bã này bằng cách nói rằng “trong khi chết cho một đất nước là một điều cao cả, đôi khi sống cho xứ sở còn cao cả hơn, và rằng ông ta quá mạnh để phải khiếp sợ bất kỳ âm mưu ám hai. nào, rằng ông đủ mạnh để làm những gì tốt đẹp nhất cho Trung Hoa.”

Theo Sứ Thần Young, ông Lý đã chấp nhuận nhận một chính sách kháng cự thụ động trong các cuộc nói chuyện của ông với Sứ Thần Tricou, đối xử với ông ấy với đầy đủ phép lịch sự, nhưng nhấn mạnh rằng mọi vấn đề mà ông Tricou nêu ra sẽ phải được trình lên chính phủ của ông tại Bắc Kinh.  Rồi thì đột nhiên, ông Lý đã rời Thượng Hải để về Thiên Tân, bỏ lửng các cuộc thảo luận với Sứ Thần Pháp Tricou.  Sứ Thần Young đã xem sự ra đi đột ngột của họ Lý là một “bước ngoặt chính.”  Trong sự phán đoán của ông Young, họ Lý phải cảm thấy sự an toàn thể chất của ông có thể sẽ an toàn hơn tại địa bàn của chính ông một khi bất kỳ đối thủ nào của ông khởi động đánh ông ta.

Trong một cuộc đàm thoại vài ngày trước khi rời đi về kinh đô, họ Lý đã trả lời sự dò hỏi của Sứ Thần Young về việc liệu ông ta có quyết tâm trong việc tán thành cuộc giao chiến hay không qua câu nói, “Dưới một số điều kiện nào đó – đúng như thế!” Được hỏi đó là những điều kiện gì, ông Lý đáp, “Nếu nước Pháp nhất quyết đòi hỏi các điều kiện phủ nhận đế quốc [Trung Hoa].”  Sau khi thảo luận về sự thiếu chuẩn bị của Trung Hoa để giao chiến với Pháp, “cường quốc quân sự thứ nhì trên thế giới,” Sứ Thần Young có hỏi ông Lý là liệu đã có bất kỳ đội quân Trung Hoa nào đang tiến sang An Nam hay không. Ông Lý trả lời các đoàn quân vẫn chưa chuyển động. Ông nói rằng ông Challemel Lacour, Bộ Trưởng Ngoại Giao mới của Pháp, đã thông báo cho sứ thần Trung Hoa tại Paris rằng bất kỳ sự chuyển quân nào như thế sẽ bị xem là một hành vi chiến tranh.  Nếu nước Pháp nghiêm chỉnh, ông Lý nói tiếp, họ sẽ tiến tới Bắc Kinh trong khi ông ta tiến sang An Nam. Ông Young nói ông nghĩ ông Lý đã hành động một cách khôn ngoan khi biểu lộ một sự dè dặt như thế.

Sau đó trong cùng cuộc đàm thoại, ông Young nhận xét rằng họ Lý hiện đã có 25,000 quân tại các tỉnh miền bắc Trung Hoa, “được trang bị với vũ khí của Hoa kỳ và được huấn luyện bởi binh sĩ người Đức.”  Ông tiếp tục vạch ra rằng nếu các đội quân này có thể được di chuyển cho chiến trận tại An Nam trong vòng mười ngày, chỉ nội sự kiện đó thôi sẽ ảnh hưởng lớn lao đến các lời cố vấn cho bất kỳ nội các Âu Châu nào đang dự định chiến tranh.  Như sự việc hiện xảy ra, các đội quân này thì vô dụng ngoại trừ dùng cho việc phòng thủ Bắc Kinh.  Sẽ cần đến sáu tháng để chúng đến được An Nam, ngay dù các pháo thuyền của Pháp không ngăn cản chúng tại một trong các con sông lớn.  Họ không thể đi bằng đường biển, bởi vì hải quân Pháp, hiện đang đổ nhiều tàu đến đó …

Trong cùng bức điện văn, Sứ Thần Young thuật lại một cuộc đàm thoại với ông Bourée, cựu Sứ Thần Pháp đã bị phủ nhận bởi chính phủ của ông ta. Ộng Bourée đã nói với ông Young rằng ông đã đưa ra những điều kiện tốt đẹp nhất với Trung Hoa “vì nền hòa bình và vì những quyền lợi của nước Pháp.  Các cuộc điều đình của ông được hay biết rất rõ bởi Chính Phủ của ông.  Hai bộ đã chấp nhận các cuộc thương thuyết, và giờ đây chúng đột nhiên bị phủ nhận chỉ bởi nội các mới, nhưng một viên đại sứ mới được phái sang với các thông điệp thực sự là mộtt tối hậu thư, một sự tuyên chiến.”  Hơn thế nữa,

Ông Bourée đã thông báo với tôi rằng bước đầu tiên của ông là thừa nhận lời tuyên xác cổ xưa về quyền chủ tể của Trung Hoa.  Các lời tuyên xác này thì hão huyền và nhiều nhất chỉ có tính cách biểu kiến bên ngoài, và trong khi nó là một vấn đề dễ gây xúc động tại Trung Hoa, chúng không đáng cho một cuộc cãi cọ, chừng nào mà các kết quả thực tiễn của hoạt động ngoại giao vẫn nằm trong tay người Pháp. Đề dành đạt được các kết quả thực tiễn này đã là mục tiêu của các cuộc thương thảo của ông với họ Lý.  Các đề xuất của ông thực sự là các điều này.  Người Trung Hoa ở An Nam phải trở về xứ sở của chính họ.  Nước Pháp sẽ tuyên bố nó không có ý định gây xáo trộn cho sự tự trị của An Nam.  Pao-chen [để chỉ Bảo Thắng (?), căn cứ địa của Lưu Vĩnh Phúc; có lẽ có sự nhầm lẫn của tác giả ở đây để vì đúng ra phải là Lào Kay, theo bản dự thảo thỏa ước, sẽ thuộc vào lãnh thổ Trung Hoa, chú của người dịch], sẽ được chỉ định thành một hải cảng theo hiệp ước – quan thuế sẽ được thiết lập ở đó, và sự mậu dịch sẽ được mời gọi.  Trung Hoa và Pháp sẽ thỏa thuận để bảo vệ phần phía bắc của Yuchuan [? theo dự thảo thỏa ước, Trung Hoa sẽ sáp nhập phần lơn phía bắc sông Hồng, trong khi Pháp sẽ chiếm phía nam sông Hồng, và như thế chỉ có Việt Nam là thiệt thòi vì lãnh thổ bị chia xé cho các nước lớn, chú của người dịch].  Để làm cho sự bảo vệ này được hữu hiệu, sẽ có một khu vực trung lập, thí dụ, nếu tôi nhớ đúng, có chiều ngang hai mươi dậm, để làm thành một [vành đai] biên giới phòng vệ an toàn, nằm giữa giới tuyến do bên nước Pháp xác định, và ranh giới được thừa nhận như lãnh thổ hợp pháp của Trung Hoa.

Để trả lời sự dò hỏi của Sứ Thần Young rằng tại sao Chính Phủ của ông ta lại phủ nhận các sự dàn xếp này, ông Bourée đã đáp lại một cách sôi nổi:

Bởi vì … tất cả sự việc là một chiến dịch khai mỏ.  Chính Phủ nằm trong quyền định đoạt của các kẻ đầu cơ.  Tất cả có nghĩa là một sự điều hành tại Thị Trường Chứng Khoán [Bourse, tiếng Pháp trong nguyên văn, chú của người dịch].  Có nhiều mỏ tốt tại xứ sở này, và các ảnh hưởng được đại diện bởi ông Tricou và ông Challemel Lacour là nhóm đầu cơ mua bán.  Họ muốn đẩy nước Pháp vào một chiến tranh để kiếm tiền. [in đậm để nhấn mạnh bởi người dịch]

Ông Young đã kết luận bản báo cáo dài của ông bằng một sự giải thích sự lý luận của ông đàng sau lời cố vấn cho vị Phó Vương Trung Hoa:

Điều thật rõ ràng, và tôi nghĩ nó sẽ rõ ràng như thế từ việc đọc các lời đàm thoại của vị Phó Vương, như tôi đã tường thuật lại một cách sơ sài, trong điện văn này, rằng tư tưởng của vị thượng quan này, nói theo một văn từ khoa học, thì đang trong tiến trình tiến hóa. Ông ta đến Thượng Hải với tư tưởng nghiêng về phía chủ chiến. Ông đã sẵn sàng tự mình đảm nhận chiến trường.  Sự bổ nhiệm của ông đã giao cho ông quyền chỉ huy quân sự của bốn tỉnh miền nam {Lý Hồng Chương theo cac sử liệu, đã điều động 150,000 quân để đối đầu với quân Pháp đang xâm lăng Bắc Việt khi đó, chú của người dịch].  Nhưng càng khảo sát vấn đề, ông càng trở nên hòa hoãn hơn.  Nhiệm vụ của tôi phải trình với Bộ, rằng hội kiến với vị Phó Vương như tôi đã làm hàng ngày, chia sẻ đến mức mà tôi có thể phán đoán được lòng tín nhiệm hoàn toàn của ông ta để cố vấn ông trong mọi giai đoạn của các sự thương thảo, tôi đã thúc dục ông ấy hãy giải quyết sự khó khăn và đừng có giao chiến.  Không có lời cố vấn nào lại có thể khó chịu hơn, và nhiệm vụ này là một công việc nhức nhối.  Vị Phó Vương là một người có tính khí cao ngạo, với sự hãnh diện và ngu dốt của một người mọi rợ, bất kể ông ta có quyền cao chức trọng đến đâu ở Trung Hoa, từ nhãn quan của chúng ta, và [điều] đã được nói đi nói lại nhiều lần, như tôi bị bắt buộc phải nói với ông ta, trong lời nói dịu dàng nhất và hay ho nhất mà tôi có thể thốt ra, rằng chiến tranh với Pháp có nghĩa là sự tự vẫn của Trung Hoa, đó không phải là một điều có thể chịu đựng được một cách dễ dàng.  Điều cưỡng bách tôi làm bổn phận này là sự kiện, rằng nếu có một Chính Phủ duy nhất có đại diện ở Trung Hoa có thể đưa ra lời cố vấn này cho vị Phó Vương, đó là Chính Phủ của Hợp Chúng Quốc.  Tôi đã cố tránh suy nghĩ như thế, nhưng tôi bị bó buộc phải chấp nhận thực tế, rằng chính sách ngoại giao của Trung Hoa có phần tán trợ cho chiến tranh.  Đây là đường nét ngấm ngầm của hoạt động ngoại giao của Bắc Kinh.  “Chiến tranh, -- chiến tranh từ bất kỳ nguồn gốc nào, cho đến khi nó phá vỡ bức Vạn Lý Trường Thành xuống.” … Chiến tranh có nghĩa là cách mạng, là sự tiêu hủy, Nga tiến xuống sông Dương Tử, Pháp ép lên từ phía Nam – Anh Quốc đang ngắm nhìn bất kỳ điều gì sẽ xẩy ra, các quyền lợi của họ thì an toàn.  Có thể hồi kết cuộc sẽ là một điều tốt không chừng.  Nhưng tôi không thể nào nhìn thấy rằng nó sẽ tốt cho Hợp Chúng Quốc. Đối với chúng ta, như một láng giềng sát cạnh bên cửa nhà của Trung Hoa, sự quan tâm đâu tiên của chúng ta là sự độc lập của nó. Để trợ giúp và khuyến khích nó, để hướng dẫn nó trong những cung cách an toàn và kiên nhẫn của chính nó đến điều tốt đẹp sẽ phải đến từ một chính sách tiến bộ.  Phô bày rằng không có lợi lộc gì có thể thu đạt được từ chiến tranh, điều đó có thể không xuyên qua các công tác điều giải hòa bình chính trực (13).

Bức điện văn mật của Sứ Thần Young mang số 232 ngày 16 tháng Tám năm 1883 đã phân tích nhiều hơn về bối cảnh của sự đàm thoại của ông với Đại Thần họ Lý, kể cả lời yêu cầu của họ Lý muốn Hoa Kỳ làm trung gian điều đình. Ông Young có giải thích cho Bộ Ngoại Giao rằng sau khi ông đã có thể thuyết phục ông Lý Hồng Chương từ bỏ điều mà Sứ Thần Young xem là một quyết định mang tai họa cho Trung Hoa nếu tiến tới giao chiến với nước Pháp, ông Lý “đã không nhìn thấy tạI sao Trung Hoa như một thành viên trong gia đình các dân tộc lại không đi tìm kiếm thiện chí giúp đỡ của một số các cường quốc thân hữu. Ông ta sẵn lòng đề cập đến mọi sự khác biệt giữa Pháp với bất kỳ dân tộc nào khác, và trên hết, là với Hoa Kỳ.  Ông ta đã hỏi tôi rằng liệu Chính Phủ tôi sẽ đảm nhận công việc trung gian điều đình như là một sự đối đãi tử tế với Trung Hoa hay không.”

Sứ Thần Young đã nói với ông Lý rằng ông sẽ “vui vẻ để chuyển bất kỳ sự truyền thông nào về Bộ Ngoại Giao, việc có thể dẫn đến Hòa Bình.” Ông viết tiếp, “Trong bất kỳ trường hợp nào, một đề nghị trọng tài, trong thiện chí, về phía Trung Hoa, mà lại bị từ chối bởi nước Pháp nhưng không nêu ra đủ nguyên do hợo lý, sẽ giúp cho chính nghĩa của Trung Hoa trở nên mạnh mẽ hơn trong nhãn quan của nhân loại.”

Ông Young có nhận xét gửi về Bộ trong cùng bức điện văn rằng ông miễn cưỡng đồng ý chuyển lời yêu cầu của họ Lý bởi vì ông “cảm thấy chắc chắn rằng nước Pháp, với những gì tôi biết được về các chỉ thị cho Sứ Thần Tricou từ viên Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp Challemel Lacour, sẽ có một lập trường khiến cho sự trọng tài không thể nào xẩy ra đưo.c.  Nhưng sự ưng thuận của tôi xem ra mang lại một sự nhẹ nhõm cho vị Thượng Quan rằng vì quyền lợi của sự giao hảo, tôi đà tức thời chấp nhận lời yêu cầu của ông ta (16)”./-

 ---

Phụ Chú của người dịch:

Vài nét về Đại Sứ John Russell Young: (sinh ngày 20 tháng Mười Một, 1840- mất ngày 17 tháng Một năm 1899), là một ký giả, tác giả, và nhà ngoại giao Hoa Kỳ và là Quản Thủ Thư Viện thứ bẩy của Quốc Hội Hoa Kỳ, từ năm 1897 đến 1899.

Ông Young sinh tại Quận Tyrone, Ái Nhĩ Lan, là một thiếu nhi khi gia đình ông di dân sang thành phố Philadelphia, Hoa Kỳ.  Năm 15 tuổi, ông bước vào nghề báo chí bằng việc làm đọc bản vỗ trước khi in. Ông đã nổi danh với bài tường thuật về Trận Đánh Bull Run khi làm thông tín viên cho tờ Philadelphia Press.  Vào năm 1862, ông trở thành chủ biên - quản lý cho tờ báo này cùng một tờ báo khác.

Vào năm 1865, ông di chuyển đến Nữu Ước và bắt đầu viết cho tờ New York Tribune rồi trở thành chủ biên - quản lý cho tờ báo đó.  Ông cũng bắt đầu làm việc cho chính phủ, đảm nhận các công tác tại Âu Châu cho Bộ Ngoại Giao và Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ.  Năm 1872, ông gia nhập tờ New York Herald và tường thuật cho tờ báo này từ Âu Châu.

Ông Young được mời tháp tùng Tổng Thống Hoa Kỳ Ulysses S. Grant trong chuyến đi vòng quanh thế giới nổi tiếng của Tổng Thống trong các năm 1877-1879, và ông đã ghi chép lại trong tác phẩm Vòng Quanh Thế Giới với Tướng Grant. Ông Young đã gây được cảm tưởng tốt nơi Tổng Thống Grant, đặc biệt tại Trung Hoa, nơi mà ông Young có tạo được một tình bạn với Lý Hồng Chương, một nhân vật quyền uy trong chính phủ Trung Hoa lúc bấy giờ.  Chính Tướng Grant đã thuyết phục tân Tổng Thống Chester A. Arthur bổ nhiệm ông Young làm Sứ Thần Hoa Kỳ tại Trung Hoa vào năm 1882.  Trong vị thế này, ông đã xuất sắc trong việc hòa giải và giải quyết các sự tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa và giữa Trung Hoa với Pháp.

Năm 1885, ông trở lại làm việc cho tờ New York Herald tại Âu Châu.  Năm 1890, ông trở về thành phố Philadelphia.  Năm 1897, Tổng Thống William McKinley đã bổ nhiệm ông làm Quản Thủ Thư Viện Quốc Hội, quản thủ thư viện đầu tiên được tấn phong bởi Quốc Hội. Ông đã giữ chức này cho đến khi từ trần vào năm 1899.

-----

CHÚ THÍCH:

Tất cả các chú thích đều chỉ các tài liệu được tìm thấy tại Văn Khố Bộ Ngoại Giao, Phòng Đọc Vi Phim, Văn Khố Quốc Gia, Hoa Thịnh Đốn.

1. Paris Legation Despatch no. 359, 22 June 1883.
2. Peking Legation Despatches, Telegram, 5 July 1883.
3. Department Instructions, France, trang 587, Điện Tín Bằng Mật Mã, 11 July 1883; China, trang 456, Điện Tin Bằng Mật Mã, 12 July 1883.
4. Paris Legation Despatches, Telegram, 16 July 1883.
5. Cùng nơi dẫn trên, Telegram, 17 July 1883.  Về nhiều chi tiết hơn, xem Paris Legation Despatches no. 372, 18 July 1883.
6. Paris Legation Despatch no. 374, 26 July 1883.
7. Department Instructions, trang 482, Chỉ Thị số 155.
8. Paris Legation Despatch no. 374.  Về báo cáo chi tiết của ông Morton liên quan đến sự trao đổi này, xem Paris Legation Separate Despatch, 24 July 1883.
9. Bangkok Legation Despatch no. 49, 23 July 1883.
10. Paris Legation Despatch no. 391, 9 August 1883.  Bản sao bức điện tín, đề ngày 7 August 1883.
11. Paris Legation Despatch no. 397, 22 August 1883.  Bản sao bức điện tín, đề ngày 11 August 1883.
12. Bản sao bức điện tín, đề ngày 13 August 1883.
13. Paris Despatch no. 397.
14. Peking Despatch no. 259, 28 September 1883.
15. Peking Despatch no. 230 (Confidential: Điện Văn Mật), 8 August 1883.
16. Peking Despatch no. 232, 16 August 1883.


----

Nguồn: Robert Hopkins Miller, The United States and Vietnam, 1787-1941, National Defense University Press, Fort Lesley McNair, Washington D.C., 1990, các trang 89-101  

Ngô Bắc dịch và chú giải

© 2007 gio-o

đọc các bản dịch khác của Ngô Bắc trên gio-o