quân Pháp tấn công thành Bắc Ninh. (nguồn: Image d'Epinal)

 HENRY McALEAVY

 

QUÂN CỜ ĐEN,  LƯU VĨNH PHÚC &
CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG - PHÁP 1884-1885

NGÔ BẮC (dịch và chú giải 3 kỳ) 

 

 

Kỳ 1: QUÂN CỜ ĐEN

 

Kỳ 2: CƠN THỊNH NỘ CỦA LƯU VĨNH PHÚC

 

 

Kỳ 3: HẬU QỦA 

Với sự từ bỏ của Trung Hoa bá quyền cổ xưa của nó trên Việt Nam câu chuyện của chúng ta đã đến hồi kết cuộc, nhưng ngay trong Việt Nam sự chinh phục của Pháp còn lâu mới được hoàn tất.  Trong tháng Bẩy năm 1885, một tháng sau khi Lý Hồng Chương tại Thiên Tân đã ký kết hiệp ước chính thức nhìn nhận sự bảo hộ của Pháp, Triều Đình Huế, đã không làm gì cả để hợp tác với Trung Hoa khi mà hành động như thế có thể rất hữu hiệu, sau hết đã nổ tung thành một cuộc phản kháng vô vọng. Quân đồn trú của Pháp dễ dàng đẩy lui một cuộc tấn công vào Trụ Sở Sứ Đoàn, và tràn ngập Hoàng Cung, trong khi nhà vua trẻ tuổi Hàm Nghi, với một đoàn voi mang theo công khố của ngài, chạy trốn vào vùng đồi núi.  Khi nghe được tin vị quốc vương đã vũ trang chống lại quân xâm lược, cả nước lấy làm phấn khởi và nổi dậy để tự vệ.  Người Pháp đã phản ứng với sự hà khắc độc ác nhất, sẽ mãi mãi được ghi nhớ như một vết ô nhục trên danh dự dân tộc của họ, nhưng phải chờ mãi đến khi bước sang thế kỷ mới sự đàn áp bằng quân sự mới có thể được nói là đã hoàn tất.  Nhà vua Hàm Nghi bị treo giá tìm bắt vẫn còn tự do mãi cho đến tháng Mười Một năm 1888, khi ngài bị phản bội bởi một kẻ điềm chỉ, đã bị bắt và tống xuất ra nước ngoài.  Sau khi nhà vua bỏ trốn, người Pháp đã thay thế ngài trên ngôi bằng một người con nuôi của vua Tự Đức, kẻ bằng lòng phục vụ như một vị vua bù nhìn.  Có vẻ là danh xưng Việt Nam đã biến mất vĩnh viễn khỏi bề mặt của trái đất này.  Ngay chính xứ sở, trên nguyên tắc “chia để trị”, bị phân chia làm ba phần, mỗi phần được quy định với các luật lệ và định chế cách biệt, với hy vọng rằng cư dân thay vì nghĩ mình là người Việt Nam, sẽ dần quen mình là công dân của Bắc Kỳ, của An Nam (bởi danh hiệu cổ xưa đó được giữ lại cho miền trung) hay của Nam Kỳ (Cochinchina).  Tại An Nam, một chế độ quân chủ ma được duy trì như một trò múa rối tại Huế.  Cùng với Lào và Căm Bốt, xứ sở bị giết chết như thế lại được chắp vá để tạo thành một quái vật địa lý chính trị, mệnh danh Đông Dương thuộc Pháp (French Indochina).

Tại Trung Hoa, Lý Hồng Chương đắc thắng ngoi lên.  Trong mười năm kế đó ông lên đến đỉnh cao quyền lực và ảnh hưởng của mình.  Một liên minh cộng tác chặt chẽ xuất hiện giữa ông và bà Thái Hậu Từ Hy, và ông hiểu rõ cách thức hay nhất để giữ được sự ưu ái.  Sự triệt hạ hạm đội ở Phúc Châu cho thấy một cách bất khả bác bỏ nhu cầu về một sự thành lập hải quân thích đáng, và trách nhiệm để tạo dựng một lực lượng như thế đương nhiên được đặt trên vai của người xem ra có khả năng tốt nhất để hỗ trợ nó, tức chính ông Lý.  Rồi từ đó trở đi, Hải Cảng Port Arthur và Weihaiwei đã là những trung tâm không cần tranh luận của các khát vọng hải quân của Trung Hoa, và các ngân khoản dồi dào đã được dành cho chương trình xây dựng đáng nể sợ, vốn đã sẵn sàng để khởi đông.  Tuy nhiên, như mọi chuyện có thể xảy ra, Thái Hậu vẫn để tâm đến khu vực giải trí thời thanh xuân của bà, vườn Viên Minh, đã bị hỏa thiêu một cách man rợ bởi người Anh hồi năm 1860; và không gì làm bà thấy thỏa mãn ngoại trừ một Cung Điên Mùa Hè mới phải được gắng sức tìm cách xây lại trên tàn tích của cung điện cũ, vài dậm bên phía tây của Bắc Kinh.  Điều cần ghi nhận là viên Đại Thái Giám [chỉ Lý Liên Anh, thái giám được ân sủng nhất bởi Từ Hy Thái Hậu, chú của người dịch] có mối giao hảo tốt với ông Lý, đến mức độ có lần tham dự vào một cuộc thanh tra xưởng đóng tàu ở phía bắc, mặc dù ý nghĩa chân thật của tình bạn đã không được nhận thức rõ rệt sau vài năm.   Rồi thì, trong năm 1894, bá quyền của Trung Hoa trên Triều Tiên (Korea) bị đe dọa bởi sự xâm lăng của Nhật Bản, và đối diện với một sự xúc phạm như thế ngay trước ngưỡng cửa của chính mình, ngay cả Lý Hồng Chương cũng không thể giữ yên lục quân và hải quân yêu dấu của ông trong nhà kho đông lạnh được.  Khi chiến tranh bùng nổ, không ai trên thế giới, ngoại trừ chính người Nhật Bản, lại có một sự ngờ vực nhỏ nhoi nhất về sự chiến thắng vang lừng của Trung Hoa.  Sự tẩm liệm xảy ra hoàn toàn cho nước lớn hơn khi mà các chú lùn hải đảo đã quét sạch các chiến thuyền của Trung Hoa trên mặt biển, phái một đoàn quân vượt qua sông Áp Lục tiến vào Mãn Châu, đổ bộ một lực lương lục quân chiếm giữ hải cảng Port Arthur, và sau hết tràn ngập căn cứ Weihaiwei, bắt buộc tàn dư của hạm đội Trung Hoa phải đầu hàng.  Trong tháng Tư năm 1895, Lý Hồng Chương, nhà thương thuyết duy nhất mà Nhật Bản chấp nhận, đã ký kết một hòa ước nhục nhã tại Shimonoseki.  Ngoài việc phải trả một khoản bồi thường khổng lồ, chủ quyền trên bán đảo Triều Tiên bị từ bỏ, và tệ hơn nữa đảo Đài Loan và quần đảo Pescadores [nằm trong eo biển Đài Loan, chú của người dich] bị nhường cho Nhật.

Trong mười năm, các đối thủ của họ Lý bị bắt buộc kiềm chế sự bất mãn của họ, nhưng giờ đây họ có thể đưa ra sự phát biểu tự do của sự hờn oán bị giam giữ.  Hầu Tước họ Tăng [tức Tăng Kỷ Trạch, chú của người dịch] đã chết hồi năm 1890, nhưng hồn ma của ông ta hẳn phải cảm thấy khuây khỏa bởi cảnh tượng của những gì đang diễn ra.  Từ khắp chốn trong Đế Quốc, đã có một lời kêu gào dữ dội đòi hỏi trả thù.  Các quan lại khả kính đã đưa ra các bản ghi nhận đệ trình lên Ngai Vàng trong đó họ đã tuyên sự thỏa mãn nếu được ăn thịt Lý Hồng Chương; một lối nói bóng bẩy, chắc chắn như thế, nhưng là một điều không thoải mái khi phải nghe.  Nếu không phải vì sự bảo vệ cho Thái Hậu, họ Lý gần như chắc chắn là sẽ bị mất đầu.  Chính bà ta trong mọi khía cạnh không kém phần phạm tội như vị Kinh Lược Sứ của bà  -- hiện nay, điều được nói một cách công khai, mà trước đây chỉ được nói bóng gió, rằng các ngân khoản hải quân đã bị sử dụng một cách sai trái để thanh toán cho khu vườn giải trí của bà, và ngày nay các du khách đến thăm Cung Điện Mùa Hè [tức Di Hòa Viện, ngoại ô Bắc Kinh, chú của người dịch], giờ được gọi là Công Viên Nhân Dân, có trưng bày một chiếc thuyền bằng đá cẩm thạch trên hồ nước như bằng cớ của sự tham nhũng và điên khùng của chế độ quân chủ.  Như đã xảy ra, họ Lý đã không chỉ sống sót mà vẫn còn tiếp tục đóng giữ một vai trò trong sinh hoạt chính trị, mặc dù lục quân yêu dấu của ông đã bị sụp đổ và binh chủng anh em của nó là hải quân không còn hiện hữu nữa, ông chỉ còn giữ lại một hình bóng của uy quyền to lớn trước đây.  Chỉ vào ngay lúc cuối đời, ông ta mới quay trở lại ánh sáng chính trường.  Vào năm 1900, Thái Hậu và một số cận thần ngu dốt nhất đã bị dẫn dụ để chịu chung số phận với nhóm người bài ngoại cuồng tín được mệnh danh là các “Võ Sĩ” (Boxers).  Trong cuộc bùng nổ phát sinh các phái bộ truyền đạo Thiên Chúa tại các tỉnh miền bắc bị tấn công và trong vài tuần lễ các trụ sở ngoại giao tại Bắc Kinh bị bao vây.  Dĩ nhiên các biến cố này dẫn đến một sự can thiệp ồ ạt bởi các Cường Quốc và một lực lượng viễn chinh liên minh đã tiến tới Bắc Kinh để giải cứu các nhà ngoại giao và trút đổ sự trả thù trên Trung Hoa.  Triều đình bỏ trốn sâu vào trong nội địa, và với sự vắng mặt của nó, Lý Hồng Chương một lần nữa lại đăng đàn lên vũ đài quốc tế như một chính khách Trung Hoa mà thế giới bên ngoài ưa thích giao thiệp hơn.  Các điều kiện của sự dàn xếp thì nặng nề, nhưng vào lúc họ Lý chết đi, tháng Mười Một năm 1901, rõ ràng là ít ra ông đã cứu vãn cho triều đại, mặc dù sự suy vong đe đọa đã chỉ được né tránh trong mười năm.  Thái Hậu đáng nể sợ băng hà trong năm 1908, và triều đại Mãn Châu đã thoái vị vào đầu năm 1912.

Trong khi đó, vào năm 1895 các kẻ thù của họ Lý đã quyết tâm bắt ông ta phải chịu đựng một sự sỉ nhục cùng cực.  Nhiệm vụ khả ố về việc chuyển giao Đài Loan cho Nhật Bản được giao phó cho đứa con trai cả của ông.  Kẻ đóng vai hung thần đáng thương này đã đến hải cảng Keelung ngày 1 tháng Sáu năm 1895, nhưng thẳng thừng từ chối không chịu lên bờ.  Thay vì thế, vào ngày kế tiếp anh ta đáp lên một chiến thuyền Nhật Bản và tại đó đã ký kết văn kiện đầu hàng.  Người ta không thể chỉ phiền trách anh ta không thôi: sau đây là một mẫu của loại bích chương đã được dựng lên ở mọi thị trấn trên hòn đảo:

“Chúng tôi, dân chúng đảo Đài Loan, thề sẽ không đội trời chung với Lý Hồng Chương.  Nếu chúng tôi bắt gặp ông ta, con cháu ông ta, hay bất kỳ thân thích nào của ông ta, bất luận đi ngang qua trong một chiếc xe trên đường phố, hay trong một nhà trọ hay một văn phòng chính phủ, chúng tôi sẽ hạ sát chúng ngay tại chỗ, nhân danh Trời Đất và các Tổ Tiên của chúng tôi, để trả thù sự tổn hại mà Lý Hồng Chương đã gây ra cho mồ mả cha mẹ chúng tôi và cho sinh mạng cùng tài sản của gia đình chúng tôi!”

Không lâu trước khi xảy ra chiến tranh với Nhật Bản, Đài Loan, cho đến lúc đó được quản trị như một phần của tỉnh Phúc Kiến, nằm đối diện bên kia Eo Biển, nơi mà từ đó đa số cư dân được lôi cuốn sang, đã được tạo lập thành một tỉnh riêng biệt của nó; và vị Tổng Đốc vào lúc này không ai khác hơn là người quen biết cũ của chúng ta, Đường Cảnh Tùng (T’ang Chinh-sung), viên quan lại cố vấn của Lưu Vĩnh Phúc, kẻ đã cùng vị anh hùng của ông ta bối rối quay trở về Trung Hoa từ Bắc Việt sau sự đình chiến hồi năm 1885.  Trong mười năm qua, trong khi họ Đường leo dần lên bậc thang công vụ, họ Lưu được trình diện ra trước sự ngưỡng mộ của đồng bào ông.  Được dành cho danh dự yết kiến Thái Hậu, quân hàm Tướng Quân của ông được xác nhận và ông giờ đây đang được cử giữ một chức vụ quân sự tại tỉnh Quảng Đông.

Lúc sắp diễn ra chiến tranh với Nhật Bản, họ Đường đã thực hiện việc tăng cường quân đồn trú bằng cách sắp xếp việc thuyên chuyển binh sĩ từ lục địa, và lẽ đương nhiên là họ Lưu sẽ phải là người trong số chiến sĩ đáp ứng lời kêu gọi.  Theo đó vào mùa hè năm 1895 ông đã đóng quân tại thành phố Đài Nam phía nam hòn đảo, trong khi họ Đường ở lại Đài Bắc, tỉnh lỵ nơi phía bắc. Ở đó họ Đường đã nhận các mệnh lệnh từ Bắc Kinh để chấm dứt các hoạt động của mình và trở về lục địa, và điều có thể được phỏng đoán là không còn điều nào khác mà ông ta lại thích làm hơn.  Rắc rối duy nhất là người dân Đài Loan sẽ không để ông ra đi, và khi cơn xúc động của họ lên đến cao độ, nhất định sẽ là điều liều lĩnh để đề cập một đề nghị như thế với họ.

Mặc dù là những người nhiệt thành yêu nước, người dân đảo vẫn nhận thức được rằng Trung Hoa khó có thể làm được nhiều điều để giúp họ.  Họ tìm kiếm ở một nơi nào khác, tìm bất kỳ giải pháp nào xem ra đáng lựa chọn hơn là bị nuốt gọn vào Đế Quốc Nhật Bản. Ý nghĩ đầu tiên của họ có lẽ là Anh Quốc, nước xem ra có khuynh hướng mở rộng sự kiểm soát của nó bao trùm phần mặt địa cầu càng lớn càng tốt, có thể được khuyến dụ để thu nhận Đài Loan vào sự bảo hộ của nó, trong khi Trung Hoa vẫn giữ chủ quyền địa chủ.  Khi Luân Đôn quay mặt đi trong sự e sợ, đề nghị tương tự được đưa ra với nước Pháp mà cũng không có sự thành công khá hơn.  Rồi thì, khi hết phương kế, người dân Đài Loan tự tuyên bố mình là một nước cộng hòa, và cưỡng bách vị Tổng Đốc, Đường Cảnh Tùng, đảm nhận vai trò của Tổng Thống.  Trong lời tuyên cáo của mình, vị tân Quốc Trưởng nói rõ rằng sự tách biệt phải được nhìn như một biện pháp chỉ có tính cách tạm thời, và rằng trong khi chờ đợi sự tái nhập tối hậu về đất mẹ, hòn đảo sẽ đóng vai trò một nước chư hầu của Bắc Kinh.  Một cách kín đáo, ôntg ta thông tin cho các giới chức thẩm quyền Mãn Châu rằng ông ta ở lại Đài Loan dưới sự cưỡng bách và ngụ ý rằng ông sẽ nắm lấy cơ hội đầu tiên để bỏ trốn.  Trong thực tế, ông ta không cần lo sợ.  Trong vòng mười hai ngày, “thủ đô” của ông, Đài Bắc, rơi vào tay Nhật Bản, và ông chạy sang thành phố Amoy [còn gọi là thành phố Xiamen, chú của người dịch].

Tuy nhiên, sâu xuống phía nam, cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn.  Lưu Vĩnh Phúc, người kết tội họ Đường là kẻ hèn nhát, tuyên bố rằng, đã gần sáu mươi tuổi đời, ông là một người sống đủ lâu và sẽ đối diện cái chết với sự bình thản.  Trong thực tế, trong khoảng đôi ba tháng, lời tuyên bố này có vẻ có thực chất nhiều hơn là một cử chỉ anh hùng rơm.  Quân Cờ Đen đã thực hiện các kỳ công trong việc cầm cự cuộc kháng chiến, mãi cho tới khi ưu thế về quân trang và quân số của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực.  Ngay trong tháng Chín họ Lưu đã có ý định đầu hàng, nhưng bị bóp chết bởi binh sĩ của ông.  Vào giữa tháng Mười vị thế trở nên tuyệt vọng đến nỗi ông tìm đương quay trở về lục địa và để các thuộc hạ tự xoay sở việc vận chuyển.  Vào cuối tháng, người Nhật Bản đã có thể báo cáo rằng “công cuộc bình định” đảo Đài Loan được hoàn tất.

Điều không phải lúc nào cũng được nghĩ là cần thiết, ở Trung Hoa hay ở nơi nào khác, rằng một vị tướng phải ở lại với binh sĩ của mình, và chỉ trong thời đại hiện nay của chúng ta và bởi các sử gia Cộng Sản, sự bỏ chạy của họ Lưu mới được trình bày dưới một lối nhìn bất tín nhiệm.  Ngay dù thế, phe Cộng Sản cũng không quá nghiêm khắc đối với ông: họ có khuynh hướng tảng lờ hành vi không mấy vinh dự độc nhất này khi xét đến thành tích của ông mặt khác không có gì đáng chê trách.  Vào thời buổi đó, sự trốn thoát của ông được xem là một cuộc phiêu lưu ly kỳ, và trong suốt quãng đời còn lại ông nhận được sự mến chuộng gia tăng nhờ các chiến tích ở Đài Loan của ông. Ông tiếp tục được tuyển dụng cho đến những năm cuối cùng của triều đại bởi chính quyền tỉnh Quảng Đông, và được nói là một người đánh dẹp nổi tiếng quân thổ phỉ ăn cướp và một kẻ hòa giải được sự thù nghịch giữa các bộ lạc, hai tai họa song sinh của vùng thôn quê miền nam Trung Hoa.  Sự trổi dậy của nền Cộng Hòa hồi năm 1912 diễn ra khi ông đã về hưu, quan tâm nghe ngóng các tin tức về sự vụ công cộng khi người khác đọc cho ông từ báo chí, bởi bản thân ông chưa bao giờ học đọc chữ.  Dù thế, ông vẫn sống nhiều với quá khứ trong phần lớn thời gian.  Ông sẽ lấy ra xem chiếc đồng hồ đeo tay của [Francis] Garnier và chỉ cho thấy tấm hình của người vợ trẻ của anh ta bên trong lớp vỏ bọc ngoài. Ông sẽ kể cho nghe sự thách thức của ông đối với [Henri] Rivière và mô tả trận đánh ở ô Cầu Giấy (Paper Bridge).  Nhưng ông sớm chán ngấy chuyện về các ngoại nhân ma quỷ không thể hiểu được, và thay vào đó hướng vào chuyện mà đối với ông vượt quá mọi sự so sánh, chuyện nghiêm chỉnh nhất trong cuộc đời của ông.  Câu chuyện khi đó hoàn toàn hướng về các nhóm quân Cờ Đen và Cờ Vàng, và những năm dài của các mối tử thù và căm ghét trong vùng rừng núi phủ đầy bệnh sốt rét và trên các phụ lưu im lặng của dòng sông lớn.  Quyển hồi ký được ấn hành của ông, nhờ các tưởng nhớ của ông đã được trang trọng viết xuống thành văn bản, có chủ đề chính là câu chuyện của mối tử thù truyền kiếp không dứt giữa các người Trung Hoa ở hải ngoại.  Nhưng khi ông từ trần, trong tháng Giêng 1917, do sự áp chế của một nước ngoài thù địch, vị anh hùng mà những thành tích bị phủ nhận bởi sự hèn nhát của chính phủ của chính ông, đã được để tang bởi các đồng bào ông, và đó là cách mà họ vẫn còn tưởng nhớ đến ông.

Bởi chúng ta không nên bị ngạc nhiên thấy rằng Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Đen của ông lại xuất hiện với một sự khẩn cấp khác thường trong đầu óc của Trung Hoa ngày nay [bài viết này được ấn hành vào khoảng cuối thập niên 1960, khi sự tham chiến của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam lên đến cực điểm, chú của người dịch], khi mà một lần nữa các địa danh như Hà Nội, cùng Bắc Ninh và Nam Định lại trội bật trong các tin tức, và tiếng bom rơi nghe vang vọng trong tầm tai tại vùng biên giới tỉnh Quảng Tây.  Nó làm hồi nhớ rằng sự chinh phục của Pháp tại Việt Nam đã khởi sự, trong năm 1858, như là một phân cảnh của một cuộc chiến tranh của Anh và Pháp chống lại ngay chính Trung Hoa và rằng mục đích của cuộc chinh phục có hai mặt.  Bên trên và bao trùm lên sự khai thác thuộc địa tại ngay chính Việt Nam, nước Pháp nhắm đến việc sử dụng lãnh thổ như một căn cứ để xâm nhập về thương mại vào vùng nam và tây Trung Hoa. Điều này trở nên hoàn toàn rõ ràng khi chúng ta nhớ đến cơ sở đầu tiên ở Sàigòn, và giấc mơ khai mở một thủy lộ đi ngược sông Cửu Long lên tới Vân Nam.  Ngay khi dự án này được chứng minh là không thực tế, sự chú tâm đã được nhắm tới con sông Hồng, và số phận của Bắc Kỳ đã bị kết liễu.

Trong nhiều thế kỷ Trung Hoa đòi hỏi can thiệp vào mọi vấn đề của Việt Nam, và hài lòng với một sự nhìn nhận tượng trưng cho chủ quyền của nó.  Hành động của nó chống lại Tây Sơn vào năm 1788, trên bề mặt là một ngoại lệ, trong thực tế là một bằng cứ vững mạnh để chứng minh cho một quy luật, theo đó một sự thất trận quân sự nhục nhã đã tức thời đuợc bỏ qua, một khi kẻ địch đưa ra một sự thần phục trên lý thuyết.  Chỉ khi điều này trở nên minh bạch, trong thập niên 1870, các dự án của Anh và Pháp về Miến Điện và Việt Nam được nhắm tối hậu vào chính nó mới làm cho Trung Hoa bắt đầu lo sợ, và ngay khi đó, nếu không phải vì sẵn có sự hiện diện tình cờ của quân Cờ Đen tại Bắc Kỳ và vì các chiến thắng của họ đối với Garnier và Rivière thu hút được sự tưởng tượng của quần chúng, điều mà ta phải ngờ vực là một chính sách can thiệp sẽ có thể được đẩy xa đến đâu, ngược với các ý muốn của Lý Hồng Chương.  Về những tình huống của sự đối đầu trực tiếp giữa Trung Hoa và Pháp trong các năm 1884-85, thật không thể nào hòa hợp được các báo cáo được đưa ra bởi hai phía.  Chắc chắn là người Trung Hoa có khuynh hướng phóng đại các sự thành công của họ, nhưng rồi thì chỉ có một kẻ cực kỳ ngu ngốc mới chấp nhận được các lời trần thuật của Pháp theo y như sự trình bày của chúng.  Ít nhất có một điều chắc chắn.  Phe chủ chiến của Trung Hoa thường nhiều ý kiến lộn xộn và ngu ngơ, và không giỏi giang trong sự lập luận để chống lại một Lý Hồng Chương cẩn trọng, bình tĩnh.  Song họ có lý khi tin rằng bởi một cuộc kháng chiến kéo dài, Trung Hoa có thể đòi một giá mà không một chính phủ Pháp nào có thể yêu cầu dân của nó trả được.   Ngay lúc ở trên đỉnh cao của các sự chiến thắng của Pháp hồi tháng Hai năm 1885, tình trạng nội bộ rơi vào hoàn cảnh đến nỗi Jules Ferry [Thủ Tướng Pháp lúc bấy giờ, chú của người dịch] đã phải sửa đổi lớn lao các điều kiện hòa bình nguyên thủy của ông ta.  Chúng ta có thể không hoàn toàn tin tưởng các câu chuyện của Trung Hoa về các sự thoái lui của Pháp tại Lạng Sơn, nhưng có sự kiện rằng các báo cáo đầu tiên của viên chỉ huy quân sự của Pháp từ chiến trường đã là điều kéo sập chính phủ của Jules Ferry. Điều hoàn toàn khó tưởng tượng được là sau sự sụp đổ của Ferry, bất kỳ chính phủ nào của Pháp lại sẽ được bỏ phiếu cấp cho một sự gia tăng khổng lồ trong kinh phí được xem là cần thiết cho một cuộc chiến tranh toàn diện với Trung Hoa.  Về khía cạnh nào, ở bất kỳ mức độ nào, Halliday Macartney và Hầu Tước họ Tăng đã phô bày một sự sáng suốt nhưng bất hạnh thay lại bị vứt bỏ trong hoạt động của Triều Đình tại Bắc Kinh.  Liên quan đến các điều kiện hòa bình, điều được vạch ra bởi các người chống đối họ Lý khi đó, cũng như bởi các sử gia cộng sản ngày nay, rằng các nhà thương thảo Anh Quốc hành động nhân danh Trung Hoa đã không lợi dụng bất kỳ điều gì của tình thế thay đổi, nhưng đã thỏa mãn với cùng các điều khoản mà Ferry đã đề nghị vào lúc đang thắng thế của ông ta.  Thực ra, Lý Hồng Chương không phải là không có những người ngưỡng mộ, phần lớn, như có thể ước định, đang lưu vong ngày nay tại đảo Đài Loan, nhưng khó mà đồng ý được với sự phán đoán của cộng sản cho rằng ông là một kẻ phá hoại các quyền lợi quốc gia Trung Hoa.

Cũng là điều đáng học hỏi nếu chúng ta nhìn phớt qua trong chốc lát ảnh hưởng của sự hiện diện của Pháp tại Bắc Kỳ đối với Trung Hoa.  Trước tiên và trên hết là một sự xâm lăng về kinh tế của Pháp vào tỉnh Quảng Tây và đặc biệt đối với Vân Nam qua sự xây dựng đường xe hỏa Côn Minh – Hà Nội.  Khi triều đại Mãn Châu sụp đổ, và nền Cộng Hòa Trung Hoa sinh ra từ đó rơi vào một thời kỳ chiến tranh giữa các sứ quân, ảnh hưởng này có nghĩa là Pháp có thể mang đến sự hậu thuẫn cho các chế độ quân sự địa phương độc lập với Bắc Kinh, giống y như sự quan tâm của Anh Quốc đối với Hồng Kông đưa đến việc Luân Đôn hỗ trợ cho một chính quyền ly khai tương tự tại thành phố Quảng Châu.  Trong trường kỳ các mưu kế của đế quốc này có một hậu quả không đáng kể.  Trong năm 1917, Tôn Dật Tiên, cha đẻ Chủ Nghĩa Quốc Dân Trung Hoa, chán ghét sự phản bội các nguyên tắc của ông tại Bắc Kinh, ẩn náu tại thành phố Quảng Châu với một số các thuộc hạ mà ông đã tổ chức thành một cơ quan tuyên xưng là chính quyền chính đáng hợp pháp của Trung Hoa.  Nó kích thích sự ngông cuồng của viên lãnh chúa quân phiệt địa phương muốn đặt phong trào như thế dưới sự kiểm soát của ông ta, mặc dù sự bảo trợ của ông ta thì cực kỳ bấp bênh, và ông Tôn đáng thương thường phải ôm hành lý đi sang Hồng Kông và Thượng Hải.  Tuy nhiên, khi vào năm 1923 Liên Bang Nga Sô Viết đã quyết định ủng hộ họ Tôn, và một liên minh đã được thành lập giữa phe Cộng Sản và phe Quốc Dân Trung Hoa, tình hình đã thay đổi một cách quyết liệt.  Vào năm 1924, một sự liên kết mới nắm quyền kiểm soát tại thành phố Quảng Châu, và quân đội của nó, được huấn luyện bởi Tưởng Giới Thạch, tiến hành việc áp dụng ưu thế quân sự của nó để đặt các sứ quân tỉnh Quảng Tây vào khuôn khổ.  Trong năm 1926, một năm sau ngày từ trần của họ Tôn, một lực lượng vĩ đại bao gồm tất cả những phần tử này đã lên đường bắc tiến để thực hiện cuộc Cách Mạng Trung Hoa.  Chế độ quân phiệt tại Bắc Kinh bị lật đổ và một Chính Phủ Quốc Gia được thành lập tại Nam Kinh, nhưng trong diễn tiến của các sự việc này mặt trận thống nhất đã bị tan vỡ, phe Cộng Sản bị đánh đuổi về nơi hoang dã, và giới quân phiệt tại Quảng Tây với sự cổ võ của Pháp và Nhật Bản một lần nữa quay lại chống họ Tưởng.  Trong mùa hè năm 1936, một cuộc chiến tranh của miền nam chống lại trung ương chỉ được tránh khỏi trong gang tấc.  Rồi đến cuộc xâm lăng của Nhật Bản năm 1937, đưa đến một sự hưu chiến tạm thời giữa các phe phái Trung Hoa, mang lại cho Việt Nam một tầm quan trọng mới và hung hiểm.  Sau khi có sự đầu hàng của Pháp năm 1940, chính phủ Vichy đã đồng ý cho phép Nhật Bản được sử dụng các phi trường ở Bắc Kỳ để dội bom các thành phố Trung Hoa.

Vào cuối cuộc Chiến Tranh Thái Bình Dương, linh hồn của Lưu Vĩnh Phúc và của Hầu Tước họ Tăng phải lấy làm khuây khỏa khi nhìn thấy quân sĩ Trung Hoa một lần nữa nhập đất Việt, bởi theo một thỏa ước của đồng minh các lực lượng của Tưởng Giới Thạch được giao cho nhiệm vụ chấp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản tại miền bắc đất nước này.  Chỉ khi đó, vào năm 1945, như một phần của chiến dịch này, chính phủ trung ương Trung Hoa mới áp đặt sự kiểm soát của nó trên các sứ quân địa phương của tỉnh Vân Nam.  Trong khi đó, tập đoàn tỉnh Quảng Tây, mặc dù là một phần tử cấu thành của Quân Đội Quốc Gia, hãy còn giữ lại nhiều ác cảm xa xưa, như được phơi bày trong năm 1966 khi mà nhân vật còn sống sót then chốt của họ, Tướng Li Tsung-jen, Phó Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc, sau khi trải qua nhiều năm lưu vong tại Hoa Kỳ thay vì sống tại đảo Đài Loan với Tưởng Giới Thạch, đã làm hòa với Cộng Sản và đi về Bắc Kinh.

Nếu có một bài học cho Trung Hoa để rút ra từ những biến cố của một thế kỷ cộng một phần tư thế kỷ vừa qua, đó là sự yếu kém quân sự về phía nó sẽ tạo ra một lời mời gọi không thể ngăn cản được cho sự xâm lược từ bên ngoài, và rằng Việt Nam, dưới sự kiểm soát của một kẻ thù tiềm ẩn, nhất định bao giờ cũng cấu thành một mối đe dọa sinh tử kỳ lạ cho nền an ninh quốc gia của nó./-

-----

Phụ Chú của người dịch:

Quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc là một tác nhân trong một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn được sử sách Tây Phương gọi là Cuộc Chiến Tranh Trung-Pháp 1884-1885. Để độc giả tiện tham khảo và tìm hiểu toàn cảnh của vấn đề, người dịch có bổ túc các phụ lục như sau:

Phụ Lục 1: Sơ Lược Quan hệ Trung Pháp giai đoạn 1856-1885, Nguyên Nhân, Diễn Tiến và Hậu Quả Cuộc Chiến Tranh Trung Pháp.

Phụ Lục 2: Lưu Vĩnh Phúc trong sử liệu Việt Nam.

Phụ Lục 3: các nhân vật chính trị Trung Hoa và các quan điểm liên quan đến cuộc Chiến Tranh Trung Pháp, theo sử liệu của Trung Hoa.


***

Phụ Lục 1:

Sơ Lược Quan hệ Trung Pháp trong giai đoạn 1856-1885 – Nguyên Nhân, Diễn Tiến và Hậu Quả của Cuộc Chiến Tranh Trung Pháp năm 1884-1885.

Vai trò của Pháp trong Cuộc Chiến Tranh Mũi Tên (Arrow War): Ngay sau cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (Opium War), Pháp đã dành được nhiều thành quả qua việc ký kết một hiệp ước với Trung Hoa nhằm mở rộng các hoạt động mâu dịch của nó tại Trung Hoa.  Pháp cũng đã đồng lòng với Anh trong việc đòi hỏi một sự tái duyệt hiệp ước với Trung Hoa từ nằm 1852.  Pháp đã phóng ra chính sách lấn tới trước với Trung Hoa qua việc phát động một cuộc chiến tranh đánh Trung Hoa vào năm 1856.  Sự gia nhập của Pháp vào cuộc tranh chấp với Trung Hoa được kết tụ từ vụ linh mục Chapdelaine.  Vụ này xảy ra khi một vị linh mục Công Giáo người Pháp, linh mục Chapdelaine, đi giảng đạo tại tỉnh Quảng Tây năm 1853.  Hoạt động như thế là vi phạm các sự quy định của hiệp ước giữa hai nước.  Tổng Đốc tỉnh Quảng Đông Yeh Ming-chen khi đó đã yêu cầu lãnh sự Pháp đình chỉ các hoạt động của Chapdelaine.  Lời yêu cầu này bị từ chối, và Chapdelaine tức thời bị hành quyết bởi quan án sát tỉnh Quảng Tây vào năm 1856.  Lãnh sự Pháp đòi hỏi sự trừng phạt nghiêm khắc về vụ hành quyết nhưng bị bác bỏ bởi Tổng Đốc Yeh Ming-chen.  Phản ứng tức thời của Pháp là cử Nam Tước Gros sang Trung Hoa để trợ giúp người Anh phát động một cuộc chiến tranh chống lại Trung Hoa. Ý định của Napoleon III khi hành động như thế là nhằm dành được một uy tín tinh thần to lớn cho chế độ của ông khi can thiệp nhân danh các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa La Mã. Ông ta cũng hăng hái tiếp tục sự hợp tác Pháp-Anh tại Trung Hoa.  Hai nước đồng ý thống nhất trong việc đòi hỏi một sự bồi thường cho sự hạ sát Chapdelaine, cho việc giải quyết thỏa đáng các hành vi thù nghịch thực hiện bởi dân Trung Hoa tại thành phố Quảng Châu (Canton) và những nơi khác, và cho sự tu chỉnh các hiệp ước được yêu cầu trước đây.

Hiệp Ước Thiên Tân (1858) và Quy Ước Bắc Kinh (1860) – Liên quân Anh-Pháp hoàn toàn đả bại Trung Hoa.  Tương tự như Anh Quốc, nước Pháp thu đạt được từ Hiệp Ước Thiên Tân một khoản bồi thường, một sự mở rộng các cơ sở mậu dịch tại nhiều hải cảng hơn theo hiệp ước, và một sự thỏa thuận quan thuế biểu ưu đãi hơn.  Ngoài ra, chiến thuyền của Pháp được phép thả neo tại các hải cảng ghi trong hiệp ước để bảo vệ các thương nhân và các nhà truyền giáo.  Các giáo sĩ Pháp cũng được quyền truyền đạo trong nội địa Trung Hoa.

Sau một sự tái diễn chiến tranh ngắn ngủi với việc đốt cháy Viên Minh Viện (Yuan Ming Yuan), một Quy Ước Bắc Kinh mới được ký kết để xác nhận những điều khoản của Hiệp Ước Thiên Tân.  Ngoài ra, Thiên Tân cũng được mở cửa như một hải cảng mới được ghi trong hiệp ước.  Sau hết, các nhà truyền giáo người Pháp được phép mua đất đai cho mục đích xây dựng trong nội địa nước Pháp.

Tác động hỗn hợp của hai bản quy ước đã mở cửa Trung Hoa rộng hơn nữa cho sự xâm nhập để truyền giáo.  Các sự tiếp xúc tiếp diễn và lan rộng giữa người Trung Hoa và các giáo sĩ người Pháp đã làm gia tăng các sự tranh chấp giữa hai nước.  Nhưng trong một lúc quan hệ giữa Trung Hoa và Pháp được xoa dịu với việc đưa ra chính sách hợp tác tại Trung Hoa trong thập kỷ 1860.  Phái bộ Burlingame năm 1867 đã là cực điểm cho sự tình thân thiện giữa Trung Hoa với các nước ngoài.

Cuộc Tàn Sát tại Thiên Tân năm 1870 -- Với sự ký kết Quy Ước Bắc Kinh, các hoạt động truyền giáo ngoại quốc bắt đầu tăng trưởng và mở rộng tại Trung Hoa.  Vào năm 1870, ước lượng đã có 400,000 người Trung Hoa cải đạo tại nước này.  Nhưng quảng đại quần chúng nhìn một sự xâm nhập tôn giáo như thế bằng một cung cách thù nghịch.  Người ta kết án các linh mục ngoại quốc loan truyền tà đạo và làm xáo trộn cuộc sống và địa lý phong thủy của Trung Hoa.  Các cảm tính chống lại giáo sĩ truyền đạo như thế đã vươn lên đến cực điểm trong Cuộc Tàn Sát tại Thiên Tân năm 1870.  Các nạn nhân chính yếu là các linh mục người Pháp.

Ngoài sự thù nghịch đối với các nhà truyền giáo, chủ nghĩa bài ngoại của Trung Hoa cũng đóng một vai trò trong sự bùng nổ cuộc tàn sát.  Thiên Tân đã trải qua hai lần từng bị chiếm đóng bởi quân đội ngoại quốc và một bộ phận của liên quân Anh-Pháp vẫn còn trú đóng tại Taku cho mãi đến năm 1865.  Sự hiện diện của họ thường là nguồn gốc của sự bất hòa cho cả hai bên.  Ngoài nguyên nhân đó, sự điều hành một cô nhi viện của người Pháp đàng sau các bức tường rào xây cao vây quanh cũng gây ra sự nghi ngờ của người Trung Hoa.  Dân chúng ở Thiên Tân tin rằng các nữ tu người Pháp tại cô nhi viện đã móc mắt trẻ em để làm thuốc.

Vào ngày 21 tháng Sáu năm 1870, một đám đông dân chúng nổi giận vây quanh cô nhi viện yêu cầu một cuộc tổng lục soát và công bố sự thực.  Lãnh sự Pháp Henri Fontanier và viên phụ tá M. Simon, không giữ được bình tĩnh trong cơn lo sợ, đã nổ súng vào đám đông.  Hành vi này đã khơi ngòi cho sự kháng cự toàn diện và cô nhi viện bị thiêu hủy trọn vẹn.  Người Trung Hoa đã hạ sát viên lãnh sự, 12 nhà truyền giáo và một số người ngoại quốc.  Cuộc khủng hoảng đã phá tan một thập niên hợp tác ngoại giao giữa Trung Hoa và người tây phương.  Các chiến thuyền ngoại quốc tức thời được triệu tập về Thiên Tân và các lời phản kháng mạnh mẽ đã được chuyển tới Tổng Lý Nha Môn.

Cuộc khủng hoảng chỉ được giải quyết bằng các nỗ lực khó khăn và nhức đầu của Tăng Quốc Phiên, và sau này của Lý Hồng Chương.  Trung Hoa phải trả một khoản bồi thường là 400,000 lạng vàng cho Pháp và hành quyết các viên chức chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát.  Một phái bộ tạ lỗi được cầm đầu bởi Chung-hou được gửi sang Pháp để đệ trình một bức thư xin lỗi.  Quan hệ Trung-Pháp được êm dịu trong một thập niên nữa cho đến khi gặp các rắc rối về An Nam.

 Các nguyên do của cuộc tranh chấp Trung-Pháp về An Nam -- Sự xâm nhập của Pháp vào Đông Dương bắt đầu với sự cập bến của các giáo sĩ người Pháp hồi đầu thế kỷ thứ 17.  Với dòng thời gian, nước Pháp đã can thiệp vào nhiều cuộc tranh chấp thường xuyên gây ra nhiều rắc rối cho các quốc gia trong vùng.  Từ thập niên 1860 nước Pháp đã gia tốc chính sách lấn tới của họ tại An Nam.  Năm 1862, Pháp chiếm đoạt miền nam Việt Nam, Cochinchina, qua việc ký kết một hiệp ước với hoàng đế Việt Nam.  Vào lúc đó, Pháp bắt đầu khai phá một thủy lộ đi từ Việt Nam đến miền Tây Nam Trung Hoa.  Trong năm 1872, Pháp nắm quyền kiểm soát Bắc Việt (Tonkin).  Hoàng Đế An Nam bị cưỡng bách ký kết một hiệp ước với Pháp năm 1874.  Trong thực tế, An Nam đã bị biến thành một xứ bảo hộ của Pháp.  Trung Hoa từ chối nhìn nhận một hiệp ước như thế bởi họ tuyên bố là có chủ quyền trên An Nam. Đây là nguồn gốc cuộc tranh chấp giữa Trung Hoa và Pháp.

Sự bùng nổ chiến sự -- Trong một thập niên trước khi có cuộc chiến tranh năm 1884, các sự tranh chấp Trung-Pháp đã bùng nổ dọc theo biên giới giữa Trung Hoa và Bắc Việt (Tonkin).  Quân Cờ Đen dưới sự lãnh đạo của Lưu Vĩnh Phúc đã xâm nhập vào khu vực và được khuyến khích bởi hoàng đế An Nam để tấn công các nhà mậu dịch Pháp tại đó.  Quân đội chính quy của Trung Hoa cũng được phái đến để trợ giúp Lưu Vĩnh Phúc.  Pháp chuẩn bị cho một cuộc đối đầu với Trung Hoa.  Pháp đã làm điều này bằng cách chiếm lấy Hà Nội trong năm 1882.  Các cuộc xung đột khác diễn ra tại Lạng Sơn, Bắc Việt trong năm 1883.  Trong năm 1884, Pháp đã tấn kích Keelung tại đảo Đài Loan để trả thù Trung Hoa.

Về phía Trung Hoa, Lý Hồng Chương chống đối việc giao chiến với Pháp. Ông nghĩ rằng Trung Hoa thiếu lực lượng hải quân để kháng cự nước Pháp và bảo vệ bờ biển Trung Hoa.  Cùng lúc, Trung Hoa vẫn còn lúng túng trong vấn đề gây nhiều khúc mắc về Cao Ly (Hàn quốc) với Nhật Bản.  Vì thế ông tán thành một sự giải quyết mau chóng xuyên qua các sự thương thảo với nước Pháp.  Nhưng có các quan điểm đối kháng khác tại Trung Hoa.  Một nhà ngoại giao hay lên tiếng chỉ trích, Tăng Kỷ Trạch, tán đồng một lập trường cứng rắn hơn đối với nước Pháp. Ông nhận xét rằng nước Pháp thiếu sức mạnh quân sự và khả năng tài chính để theo đuổi một cuộc chiến tranh kéo dài. Ông cảm thấy rằng nếu Trung Hoa chấp nhận một chính sách cứng rắn với nước Pháp và chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh, nước Pháp sẽ không dám phát động một cuộc chiến tranh chống lại Trung Hoa.

Sự nổi dậy của phe chủ chiến Ch’ing-liu tại Trung Hoa -- Phe chủ chiến tại Trung Hoa được biết đến dưới danh hiệu Ch’ing-liu t’ang (Thanh Lưu đường: The Purists) phát sinh từ cuộc khủng hoảng ở vùng Ili với nước Nga. Phái này được thành lập bởi các học giả của Hàn Lâm Viện đứng đầu bởi Chang Chih-tung (xem tiểu sử nhân vật này nơi Phụ Lục 3).  Phe này chủ chiến để bảo vệ danh dự nước Trung Hoa và quốc gia triều cống An Nam.  Phe này kết án chính sách nhượng bộ yếu hèn của Lý Hồng Chương.  Các thành viên của Thanh Lưu đường nhấn mạnh nhiều đến tầm quan trọng của sức mạnh tinh thần của Trung Hoa, tuyên bố rằng chiến tranh được chiến thắng nhờ ở lòng can đảm và đạo đức hơn là vào vũ khí.  Phái Thanh Lưu là những người tán đồng mạnh mẽ nhất việc thúc đẩy Trung Hoa khai chiến với nước Pháp.  Triều đình Mãn Châu bị kẹt giữa các quan điểm khác biệt và khá lưỡng lự để quyết định nên chiến hay nên hòa.

Chiến tranh và hòa bình -- Quân Pháp dưới sự chỉ huy của Đại Tá Henri Rivière đánh chiếm thành Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt vào ngày 25 tháng Tư năm 1882.  Rivière bị hạ sát trong khi tảo thanh quân Cờ Đen ra khỏi vùng đồng bằng Sông Hồng vào mùa xuân năm 1883, khuấy động một đợt sóng ngầm các cảm xúc chủ chiến tại Pháp.

Vào ngày 25 tháng Tám năm 1883, Hiệp Ước ở Huế, nhường Bắc Việt cho Pháp làm đất bảo hộ, được ký kết giữa Hoàng Đế An Nam và nước Pháp.  Trung Hoa bác bỏ hiệp ước này, và di chuyển lực lượng vào Bắc Việt.  Mặc dù cả Trung Hoa lẫn Pháp đều không tuyên chiến với nhau, các cuộc giao chiến đã khởi sự trong mùa thu 1883.  Các lực lượng tuần giang của Pháp chiếm giữ các thành Bắc Ninh, Sơn Tây, và Tuyên Quang.

Trong các hiệp ước Thiên Tân ngày 11 tháng Năm, 1884 và ngày 9 tháng Sáu năm 1884, Trung Hoa đã thừa nhận Hiệp Ước tại Huế.  Tuy nhiên, trong tháng Sáu 1884 tại ấp Bắc Lê, các lực lượng Trung Hoa tấn công một đội quân Pháp được phái đến để chiếm đóng xứ sở chiếu theo các hiệp ước.  Sự kiện này đưa đến việc mở rộng chiến tranh.  Mặc dù các tư lệnh hải và lục quân tại chiến trường thúc dục một cuộc tấn công trực tiếp vào kinh đô nhà Thanh tại Bắc Kinh, thủ tướng nước Pháp Jules Ferry đã giới hạn các cuộc hành quân ở khu vực Đông Dương và vùng biển Nam Trung Hoa, bởi ông lo sợ một cuộc tấn công vào Bắc Kinh sẽ khích động sự đáp ứng của các cường quốc Âu Châu khác, đặc biệt là từ Anh và Nga.  Hải quân Pháp, dưới sự chỉ huy của Đô Đốc Amédée Courbet, đã phong tỏa các hải cảng Keelung và Tamsui của Đài Loan và mở một cuộc hành quân đổ bộ đánh quân Thanh đồn trú trên đảo…

Trong tháng Tám 1884 tại trân đánh ở Phúc Châu (Foochow), quân Pháp đã hủy diệt hoàn toàn hạm đội hải quân Trung Hoa – đang thả neo ở đó -- một cách mỉa mai, đoàn tàu này được xây dựng dưới sự giám sát của Prosper Giequel, một công dân Pháp sống tại Trung Hoa.  Bên Pháp không hề tuyên chiến và trận đánh diễn ra trong vòng chưa đến ba mươi phút.  Tuy nhiên, tại Bắc Việt, mùa gió nồm đã loại bỏ các cuộc tấn công của Pháp, cho phép quân Trung Hoa tiến quân đến sát bờ viền đồng bằng sông Hồng.  Trong chiến dịch này, quân Trung Hoa bao vây thành Tuyên Quang, dẫn đến sự cố thủ nổi tiếng bởi một tiểu đoàn quân đánh thuê (legion) của Pháp.  Một lực lượng viễn chinh của Pháp gồm hai lữ đoàn tiến lên mạn ngược của Bắc Việt và chiếm giữ Lạng Sơn hồi tháng Hai năm 1885.  Một lữ đoàn sau đó đã ra đi để tiếp viện cho Tuyên Quang, để lữ đoàn kia đơn độc ở lại Lạng Sơn.  Viên chỉ huy lữ đoàn này, tìm cách đẩy lui sự củng cố sức mạnh tấn công của quân Trung Hoa, vượt qua biên giới để tấn công, và bị thất trận tại Trấn Nam Quan (Zhennam Pass) [tức Ải Nam Quan, chú của người dich].  Tiếp theo sau một cuộc phản công không thành công của quân Trung Hoa (chủ yếu là các đội dân quân gốc dân Choang dưới sự chỉ huy của Feng Zicai [Phùng Tử Tài?, chú của người dịch], viên quyền tư lệnh Pháp đã vội vã rời bỏ Lạng Sơn vào ngày 28 tháng Ba, năm 1885, tin tức đã đưa đến sự sụp đổ của chính phủ Jules Ferry tại Pháp.

Hậu quả -- Bất kể có sự triệt thoái, sự thành công trước đây trong các trận đánh trên đánh liền tại Bắc Việt và đảo Đài Loan, sự thiếu ý chí tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh của chính phủ Trung Hoa, và ưu thế áp đảo của Pháp trên mặt biển đã đưa cuộc chiến tranh Trung-Pháp đến chỗ kết thúc.

1.      Hiệp ước chấm dứt chiến tranh được ký kết hôm 9 tháng Sáu năm 1885, trong đó Trung Hoa thừa nhận Hiệp Ước Huế và từ bỏ quyền chủ tể của họ trên Đế Quốc An Nam.

2.      An Nam  và Bắc Việt (Tonkin) được sáp nhập vào Đông Dương thuộc Pháp không lâu sau đó.

3.      Pháp rút quân khỏi Đài Loan và quần đảo Pescadores.

4.      Trung Hoa không phải bồi thường, nhưng phải gánh chịu tổn hại kinh tế lớn lao khi theo đuổi cuộc chiến tranh.

5.      Chiến thắng của Pháp soi tỏ rõ sự bất quyết trong việc ấn định chính sách của chính phủ Trung Hoa, và sự thiếu nỗ lực động viên toàn dân để kháng cự ngoại xâm.

6.      Chiến thắng của Pháp trên Trung Hoa tại Việt Nam trong cuộc chiến năm 1884-1885 đánh dấu một sự bành trướng quan trọng của chủ nghĩa đế quốc của Tây Phương tại Á Châu.

7.      Chiến thắng của Pháp đã làm mất lòng tin nơi sự thực hiện chiến lược “tự cường” của triều đình nhà Thanh.

8.      Chiến thắng của Pháp khuấy động các cảm nghĩ dân tộc tính tại miền nam Trung Hoa. 

9.      Sự thất bại của Trung Hoa cho thấy tình trạng vô năng lực của Thanh triều trong việc củng cố và bảo vệ các mối quan hệ thiên triều-triều cống cổ truyền với các quốc gia chung quanh. Việt Nam sau hiệp ước Thiên Tân bị bỏ rơi một mình để kháng cự lại chủ nghĩa thực dân Pháp trong gần một thế kỷ, và đây cũng là một bài học lịch sử mà người dân Viêt Nam phải ghi nhớ.

10.  Bên Pháp có số tử trận và bị thưong khoảng 2,100 người trên tổng số quân tham chiến khoảng 15,000 đến 20,000 người (kể cả quân tình nguyện Tây Ban Nha và Phi Luật Tân).  Số tử trận và bị thương của Trung Hoa và Việt Nam khoảng 10,000 người trên tổng số quân tham chiến khoảng 25,000 đến 35,000 quân.

11.  Thanh triều không rút được kinh nghiệm sau lần thất trận trước người Pháp để nắm lấy cơ hôi tiến hành cải cách và còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa trong trận chiến với Nhật Bản mười năm sau đó trên một tình hình tương tự tại bán đảo Triều Tiên.

12.  Liên quan trực tiếp đến biên giới Trung-Việt, Pháp và Trung Hoa đã ký kết các văn kiện sau đây như hậu quả của cuộc chiến tranh Trung-Pháp:

   1. Hiệp Ước Thiên Tân giữa Pháp và Trung Hoa liên quan đến sự phân ranh biên giới Pháp-Trung, được ký ngày 9 tháng Sáu, năm 1885, với các sự phê chuẩn đã được trao đổi vào ngày 28 tháng Mười Một năm 1885.

Theo các điều khoản của hiệp ước này, Pháp và Trung Hoa đồng ý chỉ định các ủy viên để xác định biên giới chung.

   2. Quy Ước liên quan đến biên giới giữa Trung Hoa và Bắc Việt (Trung Hoa và Pháp), ký ngày 26 tháng Sáu, năm 1887, tiếp theo sau một sự Trao Đổi Văn Thư đề ngày 23 tháng Sáu năm 1887.

Điều III ấn định đường phân ranh, một cách chi tiết, biên giới giữa Trung Hoa và Bắc Việt từ Vịnh Bắc Việt chạy theo hướng tây đến sông Đà (Black River) trên căn bản công tác của ủy ban phân định ranh giới.  Văn kiện này vẫn chưa bao gồm đầy đủ việc phân định ranh giới của Việt Nam và không ảnh hưởng đến Lào.

   3. Quy Ước về việc phân định biên giới giữa Pháp và Trung Hoa, ký ngày 20 tháng Sáu năm 1895.

Biên giới phía đông dòng sông Đà được sửa đổi và đường phân ranh phía tây của dòng sông được hoàn tất đối với cả Việt Nam và Lào.

   4. Quy Ước Nam Kinh giữa Pháp và Trung Hoa ký ngày 16 tháng Năm năm 1930, với các sự phê chuẩn được trao đổi ngày 20 tháng Bẩy năm 1935.

Quy Ước liên quan đến các mối quan hệ giữa Đông Dương và các tỉnh miền nam Trung Hoa gồm Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông. Đường phân ranh biên giới không bị thay đổi.

Tóm tắt, biên giới dài 796.4 dậm giữa Việt Nam và Trung Hoa đã được phân ranh bởi các hiệp định quốc tế và được vạch vẽ phân chia bởi các ủy hội biên giới chính thức được thành lập bởi Trung Hoa và Pháp.  Khoảng 285 cột được dựng để đánh dấu 578 dậm của biên giới trên đất liền (có nghĩa cứ khoảng hai dặm có trồng một cột, ít hơn tại những vùng phía tây dân cư thưa thớt và nhiều hơn ở phía đông nơi có đông dân định cư hơn.

Phụ Lục 2:

Sử Liệu Việt Nam về Lưu Vĩnh Phúc,

trích từ quyển Nguyễn Tri Phương, Nhất Gia Tam Kiệt, của Đào Đăng Vỹ, xuất bản lần đầu tiên tại Hoa Kỳ, Nhà Xuất Bản H.T. Kelton, không đề năm (sau năm 1984?).  Sách này đã in xong nhưng không kịp phát hành tại Việt Nam vì xảy ra biến cố 30 tháng Tư, 1975.

Giặc Cờ Đen, Cờ Vàng (các trang 164-167):

Tình hình ngoài Bắc vẫn không tiến triển.  Năm Tự Đức thứ 25 (1870), giặc Cờ Đen Lưu -vĩnh-Phúc vẫn đánh phá cướp bóc các tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Trong 3 năm trường chúng vẫn uy hiếp các tỉnh này mà quan quân bị đánh thua luôn …

Sau khi quan Tổng Đốc Phạm Chi Hương bại trận và bị bắt, Triều đình đã phái Võ Trọng Bình ra làm Hà Ninh Tổng Đốc kiêm Khâm Sai Quân Thứ đại thần Tuyên-Thái-Lạng.  Quan Khâm Sai hội với quan Đề Đốc Quảng Tây để cùng đánh giặc Ngô Côn vì bọn này quấy phá cả hai bên biên thùy.  Vào giữa năm 1869, Ngô Côn đem quân đánh Bắc Nịnh  Quan Tiểu Phủ Ông Ích Khiêm đánh thắng một trận lớn, phá tan quân giặc và Ngô Côn bị bắn chết.

Ngô Côn chết rồi thì đồng đảng chia làm 3 phe tiếp tục cướp phá các tỉnh mạn ngược của Bắc Viêt: phe Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc, phe Cờ Vàng của tướng Hoàng Sùng Anh, phe Cờ Trắng của bọn Bàn Văn Nhị và Lương-Văn-Lợi.

Quan Trung-quân Đoàn-Thọ được gửi từ Kinh ra làm Tổng-Thống quân-vụ Bắc-kỳ. Ông liền kéo quân lên Lạng Sơn.  Bọn giặc Khách là Tô Tứ thình lình nổi lên nửa đêm vào chiếm thành giết chết Đoàn Thọ.  Võ-trọng-Bình may chạy thoát được …  Triều-đình lại sai Hoàng-kế-Viêm ra làm Thống-đốc quân-vụ Lạng-Bình-Ninh-Thái cùng với Tán-tương Tôn-thất-Thuyết tìm cách dẹp giặc cho yên.  Tiếp theo vua lại sai ông Lê Tuấn là Thượng-thơ Hình-bộ ra làm Khâm-sai thị-sự để giúp Hoàng-kế-Viêm.  Rồi Hoàng-kế-Viêm giữ mạn Sơn-Tây, Lê Tuấn trấn đóng ở Hải Dương.  Tuy vậy tình-hình vẫn lằng-nhằng không giải-quyết thanh-thỏa được.

Vua Tự Đức quá lo lắng không biết làm sao, lại phải vời cụ Nguyễn-tri-Phương vào điện mà dụ rằng: “Khanh vốn sẵn có uy-vọng, ai ai cũng biết, khanh cứ ngồi một chỗ mà trù tính mọi việc ở xa, khiến các tướng phấn-khởi, bất-tất khanh phải đem thân ra chốn chiến-trường.  Hiện giờ bầy tôi kỳ-cựu ở Triều duy còn một mình khanh, mà đình-thần thường cứ xin cử khanh đi dẹp giặc ở miền Bắc, Trẫm vẫn không mãi mãi phiền khanh về đường quân-vụ … Nhưng hiện giờ ở chốn biên-khổn giặc giã quấy rối đã lâu rồi, Trẫm rất lấy làm lo ngại, mà khanh cũng có lòng muốn đền báo ơn vua nợ nước, thành thử Trẫm buộc lòng phải ủy khanh đi một lần nữa mới xong mọi việc.”

Tam-Tuyên Quân-thứ Khâm-mạng Đại thần:

Vua liền chuẩn sung cụ làm chức Tam-tuyên quân-thứ Khâm-mạng Đại-thần.  Cụ được phép tùy-nghi lo việc đánh dẹp cho yên.  Vua ban cho cụ kỳ-bài, ấn-kiếm, cờ mao-tiết, nhung-y v.v…

Vừa đi thì cụ đã trù hoạch các mưu kế.  Lúc ra đến nơi quân binh được lệnh đi đốn củi, cắt bổi khô, cỏ khô … đem chất chứa quanh các gốc cây gần các đồn giặc.  Gặp một đêm có gió lớn thổi theo chiều thuận-lợi, Cụ đốc-thúc các đoàn quân đều mang gươm dáo súng ống, nhưng đặc-biệt là phải mang theo rất nhiều những chất dẫn hỏa như diêm-tiêu, lưu-hoàng, thuốc súng.  Các cánh quân lẳng lặng bố-trí quanh đồn trại giặc, đặt lửa trên gió đốt các đống củi khô.  Càng đốt cháy, gió càng thổi mạnh lửa càng lan tràn khắp nơi.  Quân ẩn núp bao quanh bắn xả vào giặc.  Quân giặc đang ngủ mê nghe lửa mới vùng dậy bỏ chạy tán loạn nên phần bị chết cháy, phần bị bắn, phần bị bắt.  Số ít thoát được phải chạy trốn thật xa vào rừng sâu mới thoát thân.

Hỏa-công phá Cờ Đen.  Thu-phục Lưu-vĩnh-Phúc:

Tiếp theo cụ còn ra lệnh cho dân các vùng quanh đó không được liên-lạc, lui tới mua bán tiếp-tế cho giặc.  Thế là giặc lại bị tuyệt lương sau khi bị hỏa-công đốt.

Trong một tháng các tướng giặc vô kế khả thi đều kéo đến trước cửa dinh xin đầu hàng.  Cầm đầu bọn này là Lưu-vĩnh-Phúc và Phó-tướng là Bạch-quế-Hương.

Bọn Lưu, Bạch đồng trình với cụ: “Chúng tôi đã trải qua trăm trận, chưa có lần nào bị thua to như vầy.  Chúng tôi thấy tướng-công trí dũng hơn người, thật tình tâm phục.  Nếu tướng công rộng lòng thâu-dụng, chúng tôi xin xả thân phục vụ giúp Triều-đình trong khi hữu sự.”

Cụ dâng sớ xin thâu dùng, vì biết rõ bọn Lưu có tài và quân lính cũng dũng cảm.  Vua Tự Đức bằng lòng và ban cho Lưu-vĩnh-Phúc chức Đề Đốc với nhiệm-vụ tuần phòng ở biên-cảnh.  Từ đó Triều-đình chẳng những bớt cái họa Cờ Đen, mà Cờ Đen còn giúp chống đánh bọn Cờ Vàng, Cờ Trắng và sau này còn giúp đánh Pháp.

Năm Tự Đức thứ 24 (1871) vua xuống dụ: “Nguyễn tri-Phương tuổi tác tuy già mà tấm lòng giúp trí chống giặc không già, ấy là trời đã đem Nguyễn-Khanh mà cho ta đó.”  Ngay đó Ngài chuẩn cho cụ khai-phục nguyên-hàm Thái-tử Thái-bảo Võ-hiển-điện Đại-học-sĩ Trí-dõng-tướng Tráng-liệt-bá, nhưng vẫn sung Tam-tuyên quân thứ Khâm-mạng Đại-thần.

Mùa đông năm 1872, vua nhân nhớ cụ đang ở ngoài Bắc là xứ lạnh lẽo, nên gởi ban cho cụ một cái áo ấm vừa dụ rằng: “Áo này là áo ngự dùng mặc mùa lạnh, nay ban cho khanh để tỏ là người có công đức và tăng thêm cho khanh vẻ quân-dung.”

Garnier bị quân Cờ Đen giết (các trang 216-218):

Nguyễn-tri-Phương bị thương ngày 20-11-1873, chết ngày 20-12-1873 như ta đã biết.

Ngày 21-12-1873 thì Fr. Garnier chết, do tay quân Cờ Đen giết.  Hai cái chết hình như cùng một ngày của hai địch thủ, có liên quan gì với nhau không?

Bề ngoài ta thấy hai việc không dính dáng gì nhau, nhưng xét kỹ hình như cũng có chút liên hệ … Nguyên trước kia, cụ Nguyễn Tri Phương sau một trận hỏa công đã hàng-phục được tướng Cờ Đen là Lưu-vĩnh-Phúc và Bạch-quế-Hương, lại xin vua cho được thu-dụng, Lưu-vĩnh-Phúc được làm Đề-Đốc để coi việc tuần-phòng biên-cảnh.  Từ đó Phúc chẳng những là tâm-phục cụ, còn tự coi như mang ơn nặng đối với cụ, cho nên gặp việc là bọn Cờ Đen hết sức lo lắng để phục vụ Triều-đình và đền ơn tri-ngộ của cụ …  Lúc Fr. Garnier ra Hà-Nội gây rối, và cụ Nguyễn-tri-Phương được gọi cấp tốc về giữ thành, Lưu-vĩnh-Phúc cũng rục rịch về giúp vị ân-sư thần-tượng của anh ta.  Nguyễn-tri-Phương bị thương nặng, Lưu quyết trả thù.  Quân Cờ Đen lảng vảng quanh Hà-Nội, tìm chỗ yếu của giặc Tây để đánh vào.  Bệnh cụ Nguyễn càng trầm trọng, Lưu càng nóng lòng đánh Pháp.  Sáng ngày 20-12-1873, Nguyễn-tiên-sinh mất, Lưu không còn trì-hoãn được nữa (anh ta luôn luôn có trinh-thám liên lạc cho biết tin-tức hàng ngày).  Sáng 21-12, một cánh quân Cờ Đen từ Sơn Tây kéo về thành Hà-Nội, cách 200 thước trước cửa Tây-Nam bắn đại bác nhỏ vào.  Garnier vừa ở Nhà Thờ ra và sắp đi đến hội-thương với các vị sứ-thần Trần-đình-Túc và Nguyễn-trọng-Hiệp vừa ở Huế ra đã hai ngày.  Nghe tin Cờ Đen đang đánh thành, anh vội chạy lại cửa Tây-Nam và cũng dùng đại-bác bắn trả lại quân của Lưu-vĩnh-Phúc.  Súng Tây chính-xác hơn, mạnh hơn, nên chẳng mấy chốc quân tiên-phong của Cờ Đen bị nao núng và thối lui.  Garnier muốn ra đẩy xa đám quân này, vì quân Pháp vẫn rất ngại Cờ Đen đến gần.  “Ta không thế nào để một địch quân như vậy ở cách thành một ngàn thước”, anh ta bảo các sĩ quan như vậy, rồi mở cửa Thành đem theo 12 tên lính và một khẩu thần-công cố đuổi theo quân Cờ Đen.  Anh chia quân thành 4 nhóm: 3 người kéo súng nặng đi sau, còn 9 người chia thành 3 nhóm đi trước, nhóm Garnier đi giữa. Đi khỏi thành chừng 1,500 thước, đến trước một cái đập tại Ô Cầu Giấy anh ta muốn vượt qua, nhưng chẳng may anh ta vấp té nằm bên chân đập.  Một nhóm Cờ Đen núp bên kia đập trèo qua vừa bắn tứ tung.  Hai lính đi theo Garnier thì một bị trúng đạn chết, tên thứ hai bị thương.  Garnier bắn hết sáu phát đạn súng lục của anh ta thì bị quân Cờ Đen vừa đâm vừa chém nát mình rồi chặt đầu đem đi.  Hai nhóm lính kia tới chậm chỉ còn mang về một xác không đầu.

Mặt khác, Chuẩn-úy Balny cũng kéo một nhóm quân ra đuổi theo Cờ Đen như Garnier.  Nhóm anh ta cũng bị giết hết như nhóm của Garnier.

Thế là Cờ Đen đã báo được thù cho cụ Nguyễn-tri-Phương.  Kẻ thắng trận chết sau kẻ bại trận đúng một ngày.  Hồn cụ linh-thiêng chắc cũng bớt uất-hận phần nào?

Phụ Lục 3:

Sử liệu Trung Hoa Về Các Nhân Vật Chính Trị và Các Quan Điểm

Liên Quan Đến Cuộc Chiến Tranh Trung-Pháp

Photograph:Li Hung-chang
Li Hung-chang
Charles Phelps Cushing

 1. Lý Hồng Chương

Lý Hồng Chương (1823-1901) … sinh ra từ một gia đình giàu có tại Ho-fei, tỉnh Anhwei (An Huy).  Mới hai mươi ba tuổi ông đã đậu bằng chin-shih (tiến sĩ?) và đã được bổ nhiệm làm việc tại Hàn Lâm Viện.  Tại đó ông theo học một cách không chính thức nơi ông Tăng Quốc Phiên (Tseng Kuo-fan) và mối quan hệ này đã đặt định nền tảng cho sự nghiệp tương lai của ông.  Từ ba mươi đến bốn mươi lăm tuổi (1853 đến 1868), họ Lý phục vụ trong quân đội đi đánh dẹp quân nổi loạn Thái Bình Thiên Quốc và quân Nien, thăng cấp từ chức vụ một nhân viên tham mưu lên thành một cấp chỉ huy độc lập. Với tư cách một chỉ huy độc lập, ông thường tỏ ra có sự phán đoán tình hình một cách chính xác và thiết lập kế hoạch cẩn thận trước khi tiến quân.  Với sự trợ giúp của đoàn quân Vĩnh Thắng (?) (Ever-Victorious) có người ngoại quốc cầm đầu, vốn đã được tổ chức trước khi ông được phái tới Thượng Hải trong năm 1862, họ Lý đã tái chiếm tỉnh Kiangsu (Giang Tô?) trong vòng hai năm, tạo điều kiện thuận lợi cho sự chiếm giữ sau rốt thành phố Nam Kinh; ông cũng đã dẹp tan được quân Nien nổi loạn trong năm 1868 sau khi hơn hai mươi viên chỉ huy quân sự khác đã thất bại.  Sự thành công về quân sự mà ông có được một phần cũng là nhờ ảnh hưỏng của người bảo trợ cho ông, Tăng Quốc Phiên, người đã giúp ông tổ chức quân đội đất Huai (Hoài?) (hay Anhwei: An Huy), theo khuôn mẫu đội quân tỉnh Hồ Nam (Hunan) của chính họ Tăng.

Là một quan chức, Lý Hồng Chương đã giữ nhiều chức vụ cao cấp, trong đó nhiều chức được kiêm nhiệm ở trong một số thời khoảng nào đó, như tổng đốc Kiangsu (Giang Tô) (1862-1865), đại thần (grand secretary) (1872-1901), thượng thư Tổng Lý Nha Môn (Tsungli Yamen: tức bộ ngoại giao) (1896-1898), đại diện Trung Hoa tham dự lễ đăng quang của Nga Hoàng Nicholas II (1896) và tổng đốc Lưỡng Quảng (Liang-kuang) (1900-1901).  Tuy nhiên, chức vụ chính yếu của ông là tổng đốc Chihli [tỉnh bao quanh kinh đô Bắc Kinh, chú của người dịch] từ 1870 đến 1895, các thập kỷ quyết định trước khi có sự thất trận trước Nhật Bản.

Vị thế lãnh đạo của họ Lý tại Trung Hoa nằm trong lãnh vực “ngoại vụ: yang-wu”.  Từ ngữ này bao gồm cả việc điều hành các quan hệ ngoại giao lẫn sự vay mượn kỹ thuật của Tây Phương, hai hoạt động mà trong thực tế là hai mặt của một vấn đề duy nhất, làm sao có thể tồn tại trong một thế giới tân tiến.

Với tư cách người phụ trách ngoai giao của Trung Hoa, Lý Hồng Chương chính là nhân vật chính trị của Trung Hoa có nhiều ảnh hưởng nhất đến tình hình ở Bắc Việt nói riêng và của Việt Nam nói chung vào thời điểm quân Pháp tiến đánh Bắc Việt cùng lúc có sự hiện diện của quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc.

 
Marquis Tseng, picturehistory.com

2. Tăng Kỷ Trạch (Tseng Chi-tse)

(Tăng Kỷ Trạch) (1839-1890): là một nhà ngoai giao Trung Hoa có khả năng và bộc trực, con của Tăng Quốc Phiên (Tseng Kuo-fan) [một số tài liệu khác nói là cháu của Tăng Quốc Phiên, chú của người dịch], thường được gọi bởi các người Tây Phương dưới tước hiệu “Hầu Tước họ Tăng: Marquis Tseng”, có hiểu biết nhiều cả về khoa học của Tây Phương và Anh Ngữ. Ông thường được xem là một nhà ngoai giao tài giỏi, không phải là vì ông là sứ thần tại nước Anh và Pháp trong các năm 1878-1886, mà bởi vì ông đã ký kết vào ngày 24 tháng Hai năm 1881, Bản Hiệp Ước tại St. Petersburg theo đó Nga bị bắt buộc hoàn trả cho Trung Hoa một số phần đất chiến lược nằm trong vùng Ili, sau khi đã bị nhượng bởi chữ ký không được cố vấn tốt của Ch’ung-hou trong Hiệp Ước Treaty of Livadia năm 1879.  Trong khi sự thành công vào dịp này của họ Tăng một phần nhờ ở sự chiến thắng quân sự của Tso Tsung-t’ang tại Tân Cương và ở sự hậu thuẫn mãnh liệt của Tso và các nhân vật khác trong các cuộc thương thảo tại Nga, phần khác cũng là nhờ ở sự tranh biện sắc bén của họ Tăng với các giới chức thẩm quyền của Nga.

Sau khi sống tại Âu Châu, Hầu Tước họ Tăng trở nên không chỉ một kẻ biện hộ nhiệt thành cho công cuộc Tây Phương Hóa, mà còn là một người thực hành các cung cách của Tây Phương, tôn sùng quần áo, dụng cụ, và dược phẩm ngoại quốc, vì những điều này ông bị chỉ trích bởi giới bảo thủ Trung Hoa.

Năm 1878, ông được bổ nhiệm để kế nhiệm ông Kuo Sung-tao làm sứ thần tại các nước Anh và Pháp.  Trước khi lên thuyền khởi hành từ Thượng Hải vào ngày 22 tháng Mười Một, 1878, ông đã được diện kiến Thái hậu Từ Hy tại Bắc Kinh, sau đó ông có ghi chép trong nhật ký của ông cuộc đối thoại lý thú và ngây thơ đó [trong đó có đề cập đến người tiền nhiệm của họ Tăng, ông Kuo Sung-tao là một nhà ngoại giao giỏi giang nhưng quá bộc trực, chú của người dịch]

Với tư cách là Đại Sứ của Trung Hoa tại Pháp trong thời gian có cuộc chiến tranh Trung Pháp tại Bắc Việt, Tăng Kỷ Trạch là nhân vật trực tiếp đứng ra điều đình với chính phủ Jules Ferry của Pháp lúc bấy giờ [xem bài dịch về Chính Sách Bành Trướng Thuộc Địa của Jules Ferry, của cùng người dịch] Ông được xem là người chủ trưong chính sách cứng rắn đối với người Pháp   

3. Chang Chih-Tung

Chang Chih-Tung (1837-1909): sinh ra từ một gia đình quan lại, được học tập kinh điển kỹ lưỡng.  Không lâu sau khi đỗ bằng chin shih (tiến sĩ?) vào năm 1863, ông bắt đầu viết các bản điều trần lên nhà vua, và việc này làm ông nổi tiếng. Ông đã từng giữ các chức vụ Tổng Đốc Quảng Đông và Quảng Tây trong năm năm (1884-1889), Tổng Đốc Hồ Nam và Hồ Bắc trong mười tám năm (1889-1907), với đôi lần gián đoạn để đảm nhận chức Tổng Đốc Nam Kinh. Ông đã trở thành một cố vấn không thể thiếu được cho mọi vấn đề trọng yếu của chính quyền cuối thời nhà Thanh, trong cả lãnh vực đối nội lẫn đối ngoại.  Cuối cùng, sau khi có sự từ trần của Lý Hồng Chương (1901), Liu K’un-I (1902), và Jung-lu (1903), họ Chang trở thành một chính khách lão thành hàng đầu tại kinh đô, đóng vai trò đại thần đặc trách việc giám sát bộ Giáo Dục mới thành lập.  Chính Chang Chih-Tung đã tóm tắt triết lý giáo dục Trung Hoa đương thời thành một khẩu hiệu lừng danh: “Trung Hoa học về các nguyên lý căn bản; Tây Phương học về sự ứng dụng thực tế: Chung-hsueh wei t’i, His-hsueh wei dung”. Ông được xem là một quan chức cấp tiến cổ võ cho sự cải cách, đồng thời là một học giả bảo thủ chống lại chính thể đại nghị.  Các ý tưởng then chốt về sự cải cách của ông được trình bày trong tác phẩm được truyền đọc rộng rãi, quyển “Cổ Võ Việc Học: Ch’uan-hsueh-p’ien”.  Họ Chang không coi trọng triết lý hay lý thuyết chính trị tây phương.  Các tư tưởng của ông có thể tóm tắt thành ba tiêu đề chính: 1. Cứu vãn Thanh triều bằng sự phục hưng Khổng học; 2. Cứu vãn Trung Hoa bằng giáo dục (Chiao-yu chiu-kuo); và 3. Cứu vãn Trung Hoa bằng việc kỹ nghệ hóa.

Ông là người đứng đầu phái Thanh Lưu Đường, chủ trương chiến đấu chống lại người Pháp để bảo về danh dự Trung hoa và bảo vệ các nước bảo hộ bởi Trung Hoa là Việt Nam.

4. Kuo Sung-tao:

Kuo Sung-tao (1818-1891): đại sứ đầu tiên của Trung Hoa tại Luân Đôn, Anh Quốc, là một nhà ngoại giao rất có khả năng, đáng kính, và là một quan chức Trung Hoa chính thống nhưng cũng là một con người rất thẳng thắn, bộc trực ngay khi ông vừa đặt chân đến Anh Quốc. Ông vẫn có sự nghi ngờ chính sách hiếu chiến về phía Trung Hoa.   Trong diễn tiến kéo dài và hỗn loạn giữa việc đánh và đàm với Pháp năm 1884, ông đã không ngần ngại nói thẳng tuột sự điều hành không hiệu quả của Trung Hoa trong các mối quan hệ với nước Pháp, và đã đệ trình bản văn tóm lược các quan điểm của ông như dưới đây (trang 97):

Các quốc gia Âu Châu tập trung vào các quan hệ mậu dịch … Các khu vực mà họ chiếm đóng cách xa hàng vạn dặm (li: lý), tất cả đều đã được chiếm đóng vì nguyên do thương mại.  Trước tiên họ không có các ý định viện dẫn đến chiến tranh, nhưng sau khi [dân địa phương] nhiều lần thất hứa, ngoại nhân hiển nhiên thấy bị xúc phạm và vì thế sử dụng đến sức mạnh quân sự.  Họ cũng không có ý tưởng tiền định nào về việc đánh nhau để chiếm đất; nhưng càng đánh nhau, họ càng tiến xa hơn và nương theo đó họ nắm lấy cơ hội để chiếm đoạt lãnh thổ.  Nhiều hòn đảo khác nhau tại Đông Nam Á hầu như hoàn toàn bị xâm lăng và chiếm đóng, và đều theo tiến trình này.  Bởi thế, trong việc thương thảo với các dân tộc Âu Châu về các vấn đề thương mại, chúng ta có thể dùng lý lẽ để khuất phục họ mà tuyệt đối không nên cậy nhờ đến sức mạnh trong một cuộc tranh biện; chúng ta có thể khơi dậy sự tin tưởng của họ bằng tấm lòng thành thật và thiện chí, nhưng bất kỳ cách nào không được lơ là sự việc; chúng ta có thể tìm cách sử dụng sức mạnh của họ để trù hoạch cho việc giúp chính chúng ta mạnh lên, nhưng chúng ta trong bất kỳ trường hợp nào không nên ghen tị với sức mạnh của họ và rồi tìm cách thách đố họ.

Sứ thần bầy tôi của Ngài đã từng có lần chủ trương rằng, về các lời yêu cầu mà người Âu Châu đưa ra, bất luận là nhỏ nhặt hay nghiêm trọng, lớn hay nhỏ, với hàng trăm biến thái hay sự thay đổi, không có điều nào là không có thể giải quyết bởi sự thỏa hiệp đúng theo lý lẽ; trong khi đó, nếu sở cậy đến chiến tranh, các yêu cầu này sẽ không dễ dàng gì để giải quyết. Sự việc là như thế bởi vì … (trang 38) mục đích của họ không gì khác hơn là mậu dịch với chúng ta để kiếm lợi nhuận; họ không ấp ủ sự thù hận hay oán hờn gì trong tâm tưởng của họ.  Chúng ta ghi nhận rằng họ không nói về chiến tranh một cách khinh xuất nhưng vẫn tranh luận đối đáp với chúng ta, thủ giữ lại cho chính họ nhiều quyền tự do để tìm kiếm trong mỗi trường hợp một vài lợi thế.  Nếu, chỉ dựa vào sự kiện rằng họ không mấy dễ dàng để nói về chiến tranh, chúng ta lại khích bác họ hành động với sự bạo hành có tính cách sỉ nhục, khi đó sẽ tạo ra sự phương hại to lớn.  Một khi chiến tranh được cậy dẫn tới, phí tổn quân sự mà họ chi tiêu ra sau cùng sẽ được đổ lên đầu chúng ta như một khoản bồi thường.  Đây là nguyên tắc theo đó nhiều quốc gia Âu Châu đã tìm cách để chế ngự nước khác.  Chúng ta chỉ đơn thuần không tranh luận gì về việc khước từ lời yêu cầu của họ.  Sau hết họ có thể phải gánh chịu sự thất bại và căng buồm bỏ chạy, nhưng … sau một vài năm chắc chắn họ sẽ quay trở lại.  Họ có thể tràn ngập chúng ta một cách ngạo mạn như họ muốn và tai họa họ mang đến sẽ còn nặng nề hơn nữa.  Các cuộc chiến tranh giữa các nước Âu Châu kéo dài cả chục năm và đôi khi cả hai mươi năm.  Tại mỗi trận đánh hàng tràng đại bác ở cả hai bên có thể không dứt tiếng nổ trong vài ngày.  Bờ biển Trung Hoa trải dài 8, 9 ngàn dặm (li: lý).  Chúng ta có thể chống lại họ bằng cách nào đây

Đây là lý do tại sao sứ thần bầy tôi của Ngài có nói rằng nhiều nước Âu Châu khác nhau đang bao quanh và kết hợp với nhau chống lại Trung Hoa, sao cho Trung Hoa không có cơ may chiến đấu, không có sức mạnh để chiến đấu, và đơn giản không có lý do để chiến đấu.  Quân mọi rợ Pháp Quốc thường ký kết các hiệp ước riêng tư với An Nam chỉ vì mục đích duy nhất nhằm mở mậu dịch với Vân Nam.  Sau khi nước Anh khởi sự mậu dịch với T’eng-yueh (Vân Nam), người Pháp càng lo sợ hơn nữa bởi việc bị bỏ rơi đàng sau và ấp ủ ý tưởng cạnh tranh với họ [người Anh, chú của người dich].  Sự kiện này được ghi lại trong quyển sách của T’e-la-ko-erh, T’an-ti-chi (tức Doudart de Lagrée, Investigation of the Routes, 1865).  Tham vọng mà họ đã ấp ủ từng lâu và sâu kín bên trong …

Khi quân mọi rợ Pháp Quốc gây ra sự rắc rối tại An Nam, chúng ta đúng ra phải gửi một sứ giả sang kinh đô nước Pháp và cũng phải gửi một sứ giả sang Sàigòn để tìm hiểu các thời cơ và quan sát các sự thay đổi trong tình hình, song chúng ta lại chẳng phái ai đi cả.  Khi nước Pháp đã gây ra sự rối rắm tại An Nam, nơi họ khởi sự là Sàigòn.  Trong khu vực Sàigòn có hơn 300,000 người Trung Hoa [trang 39] và một lãnh sự đúng ra đã phải được thiết lập ở đó để trông coi sự vụ cho họ [tức người Hoa, chú của người dịch], song chúng ta lại không có thể hành động đi trướcc thời cuộc này.  Các thời cơ chiến lược quan trọng kiểu này đã bị mất đi vì sự bất hành động!

Trước tiên, quân mọi rợ Pháp Quốc nghĩ rằng nếu họ có 500 binh lính đồn trú tại Sàigòn, quân số này đã quá dư để chiếm đóng cả nước An Nam.  Khi họ bị tấn công bên cạnh sườn bởi Lưu Vĩnh-Phúc (1837-1917, thủ lãnh quân “Cờ Đen”, quân không chính qui của Trung Hoa), họ sửng sốt bởi sự tấn công bất ngờ và rơi vào tình trạng nghịch lý.  Chúng ta đã có thể lợi dụng tình trạng này để giải quyết cuộc tranh chấp, nhưng một lần nữa, chúng ta đã đánh mất thời cơ này.

Trong số tất cả các quan chức trong và ngoài kinh đô, không có được một người nào thành thạo về ngoại vụ.  Tất cả việc họ làm là trông chừng một cách cẩn trọng ý định của Triều đình và biểu lộ nhiệt tình chủ chiến.  Các quan chức phụ trách quân đội biên giới cũng vẫn quen với thói cũ của phe quân sự và đưa ra các báo cáo phóng đại sai sự thực, tất cả chỉ gồm các sự bịa đặt nhằm tránh không đề cập đến sự bại trận mà chỉ báo cáo sự thắng lợi không có được dù chỉ một câu [làm bằng] có thể chứng thực được …

Khi quân mọi rợ Pháp Quốc gây rối rắm tại An Nam và chưa lan tới Trung Hoa, các thựợng thư tại triều chủ chiến để kháng cự lại chúng …Khi chúng tiến đến, quân đội chúng ta rút lui trước.  Khi chúng triệt thoái, một sự tái chiếm được báo cáo …

Phí tổn của xưởng đóng tàu tại Ma-wei, Phúc Châu (Foochow), và sự thiết trí máy móc chế tạo lên tới vài triệu đồng.  Bất kỳ khi nào một tàu chiến được xây dựng, phí tổn cao nhất cho một chiếc tàu lên đến một triệu vài trăm ngàn đồng.  Phí tổn tối thiểu [cho một chiếc tàu] cũng đã lên tới vài trăm ngàn đồng.  Trong một trận giao chiến duy nhất (với Pháp vào năm 1884), toàn bộ các chiến thuyền bị hủy diệt trọn vẹn.  Tổn thất khoảng mười đến hai mươi triệu.  Như thế chúng ta đã tự phá hủy một cách vô ích các chiến thuyền và máy móc đóng tàu duy nhất của chúng ta khiến cho các kẻ gây chiến lấy làm vui mừng …

Trong hai ba năm vừa qua, từ khi có sự khởi phát cuộc chiến tranh biên giới, các thương gia Tây phương đã rút lại phần vốn đầu tư của họ tại Trung Hoa và đình chỉ việc mậu dịch, các thương nhân vùng duyên hải của chúng ta bị phá sản và sức mạnh nguyên thủy của họ đã bị kiệt quệ một cách lớn lao; dân chúng tiếp đó đã bỏ đi [trang 40] và trở thành những kẻ lang thang – trong một ngày họ có thể bị kinh hoàng nhiều lần bởi không còn khả năng để bảo vệ chính đời sống của mình.  Các thương gia của chúng ta còn phải khổ sở nhiều hơn nữa.  Trong cuộc chiến tranh này chúng ta chỉ tự tạo ra cho mình các khó khăn …

Hiện thời số lượng các sắc thuế và các sự chuyển giao ngân khoản, và tầm mức rộng lớn của sự trưng binh, đã vượt xa các con số của thời trị vì của vua Hsien-feng [1851-1861] khi mà các lực lượng quân sự đã được dùng để dẹp tan quân nổi loạn.  Chúng ta đang phô bày sức mạnh quân sự của chúng ta tai những nơi mà nó không thể ứng dụng được và đang tìm cách giao chiến với một kẻ thù không đáp ứng [với chiến lươc. của chúng ta].  Dọc theo vài ngàn dặm của bờ biển chúng ta, các công sự phòng thủ được bố trí ở mọi nơi, chỉ làm kiệt quệ sức lực của chính chúng ta, và vẫn chưa được chấm dứt …

Sứ thần bầy tôi của Ngài có nghe là từ thời cổ xưa trong khi chiến đấu tại những cuộc chiến hải ngoại, điều cần thiết phải làm đầu tiên là bảo đảm an toàn của chính quyền nội xứ.  Các người Tây Phương đã chiếm đóng các hải cảng của chúng ta và đã xâm nhập sâu vào trong nội địa.  Bởi thế không còn gì cho chúng ta để nói về việc đánh nhau trong một cuộc chiến tranh hải ngoại, nhưng thay vào đó chúng ta phải mau chóng lưu tâm đến tình trạng an ninh trong nước.  Nếu hành động quân sự được diễn ra ở mọi nơi và các biên cương bị quấy rối, chúng ta sẽ mất sự kiểm soát ở cả hai mặt trận – không thể tống xuất ngoại nhân và cũng không có được sự an ninh trong phạm vi xứ sở …

5. Liu K’un-I:

Liu K’un-I (mất năm 1902), Khâm sai (Imperial Commissioner) và Tổng Đốc Lưỡng Giang (?) (Liang-chiang), đệ trình một báo cáo bí mật về một đại kế hoạch liên minh với nước Nga để chống lại Nhật Bản, nhằm củng cố sự phòng thủ kinh đô thứ nhì (tức Phụng Thiên (Fengtien), nơi mà Triều Đình chạy trốn về đó) và để tăng cường tình hình nói chung, trong đó có phần đề cập đến Việt Nam khi nói về hậu quả của cuộc chiến tranh Trung Pháp.

Đề nghị bí mật của Liu K’un-i : Tài Liệu 36

Thần tôi của Ngài ghi nhận rằng các quan hệ ngoại giao giữa Trung Hoa và người nước ngoài vẫn liên tục trong ba mươi năm cho đến ngày nay, khi mà vấn đề ngày càng trở nên khó điều hành hơn.  Sự áp dụng của Trung Hoa các chính sách mềm mỏng và cứng rắn cần nhấn mạnh đến sự thay đổi tùy theo thời thế.  Các cơ may rằng mọi quốc gia đều là thân hữu hay thù nghịch với chúng ta được hướng dẫn bởi tình huống.  Sau cuộc chiến tranh tại An Nam, nơi mà Trung Hoa đã thất bại trong việc đối phó với vấn đề một cách thích đáng, chúng ta đã bị khinh chê một cách nặng nề bởi mọi dân tộc.  Vào ngay lúc này, khi chúng ta thương thảo hòa ước với Nhật Bản, chúng ta đã đưa ra quá nhiều sự thỏa hiệp tán trợ cho sự khởi động tiệm tiến của một chính sách rình mò -- trợn trừng nhìn chúng ta như các con hổ, tất cả các cường lực khác tìm cách rình mò chỗ béo bở để cắn xé chúng ta.  Chúng ta ước lượng rằng sức mạnh của chúng ta thì thua kém sức mạnh của các nước đó, vì thế chúng ta phải mau chóng tạo lập một liên minh quốc tế như là một phương cách để tìm kiếm sự trợ giúp.

Theo sự hiểu biết thô thiển của bầy tôi của Ngài, tai họa đe dọa đến từ các nước khác hãy còn đang diễn ra một cách chậm rãi, nhưng tai họa đến từ Nhật Bản thì cấp bách.  Sở dĩ có điều này vì họ gần cận chúng ta; sau khi họ chiếm được Đài Loan (Taiwan) và Liêu Đông (Liaotung), con đường xâm nhập của họ càng trở nên thuận tiện hơn, như thể quân đội của họ có thể khởi động ngay từ trong nhà [trên giường chiếu, trong nguyên bản, chú của người dich] của chúng ta -- họ có thể chủ động xâm lăng bất kỳ phần nào trên lãnh thổ chúng ta … Nhưng nước Nga không muốn nước Nhật trở nên hùng mạnh, và sự xâm lăng của Nhật vào Ba Tỉnh Miền Đo6ng của chúng ta [tức vùng Mãn Châu] đã làm nước Nga ghen tức hơn nữa.  Chính bởi thế, theo hòa ước Trung-Nhật [tại Shimonoseki] chúng ta đã sẵn nhượng vùng Liêu Đông cho Nhật Bản, nhưng các nước Nga, Pháp và Đức đã bắt buộc Nhật Bản phải giao hoàn vùng này về cho Trung Hoa.  Có phải nước Nga đang làm điều này đặc biệt vì chúng ta hay không?  Cùng một lúc, nước Nga làm điều này cho chính họ nữa.  Nếu chúng ta nắm lấy cơ hội này để thiết lập các quan hệ chặt chẽ với họ, vì mục đích trợ giúp hỗ tương, và dành cho họ một vài đặc nhượng, nước Nga chắc chắn sẽ vui lòng để đáp ứng.  Ngay dù hành động này không thể bảo vệ các tỉnh ven biển của chúng ta, Nhật Bản chắc chắn sẽ không dám tơ tưởng đến phần đất thuộc Ba Tỉnh Miền Đông nữa, phần đất nằm gần sát nước Nga ..  Nếu các tỉnh này bị mất đi, làm sao mà triều đình có thể duy trì được nền tảng của mình, và làm sao mà vị Hoàng Đế của chúng ta lại có thể nhìn mặt được tổ tiên của Ngài được? Đây là lý do tại sao, bất kỳ khi nào bầy tôi của Ngài nghĩ đến điều này, trái tim của hạ thần không khỏi phập phồng lo sợ và thân xác không khỏi quặn đau.

Một số người nói rằng nước Nga tiếp giáp giải đất dài nhất của lãnh thổ Trung Hoa và rằng trong tương lai nước này chắc chắn sẽ gây phương hại cho Trung Hoa.  Trước đây, bầy tôi của Ngài cũng có cùng ý kiến như thế.  Giờ đây, bầy tôi của Ngài có khuynh hướng nghĩ rằng lời phát biểu này là không đúng. Điều này cũng tùy thuộc vào việc chúng ta sẽ giải tỏa thắc mắc hay kiềm chế nước này như thế nào.  Lãnh thổ của Nga vốn đã rất rộng lớn và, hơn thế nữa, nước này được biết rõ là có thiện chí và tính lương thiện.  Họ đã từng có các mối giao hảo với chúng ta trong hơn hai trăm năm qua, không hề có cuộc xung đột nào trong suốt thời gian này. Đây là điều hiếm có trong mọi thời đại.  Trước đây [1881] họ đã trao trả Ili cho chúng ta, và lần này họ đã hợp tác với Pháp và Đức đấu tranh chống Nhật Bản để đòi trả Liêu Đông lại cho Trung Hoa, một sự biệt đãi còn to lớn hơn hành động trước đây; song vẫn có một số người hãy còn ngờ vực là họ có các tham vọng khác, và sẽ không muốn thật lòng liên kết với họ. Điều này có nghĩa, với dân tộc hợp tác với chúng ta, chúng ta lại giữ khoảng cách xa cách với họ; và đối với dân tộc hào hiệp với chúng ta, chúng ta lại đối xử một cách bủn xỉn.  Không bao lâu họ sẽ nói rằng Trung Hoa không đáng để giúp đỡ nữa, và vị thế của chúng ta sẽ càng trở nên bị cô lập hơn …

Chừng nào mà các quan hệ Nga-Hoa vẫn còn bền vững một cách thường trực, Nhật Bản và các nước khác sẽ phải ngần ngại và sẽ không đi đến chỗ cực đoan để xem Trung Hoa như là không có, và quỷ quyệt tìm cách gây rối …”

Rõ ràng là quan điểm của Liu K’un-I muốn cổ võ cho sự liên minh với nước Nga ở phương bắc phát sinh phần lớn từ việc Trung Hoa đã mất ảnh hưởng trên Việt Nam nay nằm trong tay nước Pháp ở phương nam.

6. Khang Hữu Vi:

Khang Hữu Vi (K’ang Yu-wei) (1858-1927) có tác phẩm quan trọng nhất về lý thuyết chính trị là tập khảo luận về “thế giới đại đồng; cosmopolitan society” (Ta-t’ung shu: Đai Đồng thư, Sách Viết về Sự Thịnh Vương Toàn Cầu).  Là người đọc sâu rộng về Khổng học, Phật giáo, và tư tưởng Tây Phương (qua các bản dich), họ Khang đã khai triển ý tượng của ông về thế giới đại đồng tưởng tượng từ Chương nhan đề Đai Đồng trong Kinh Lễ (Book of Rites) …

Năm hai mươi bẩy tuổi, Khang Hữu Vi, mặc dù không có tư cách chính thức, đã cố gắng đệ trình lên Nhà Vua bản điều trần của ông nhằm thúc dục sự cải cách. Ông bị xem là kẻ điên khùng và văn bản của ông đã không đến được nhà vua.  Tuy nhiên, sau khi có bản hòa ước Trung-Nhật năm 1895, họ Khang cùng học trò của mình, Lương Khải Siêu (Liang Ch’I-ch’ao), đang đi dự thi kỳ thi cấp tỉnh thành tại Bắc Kinh, đã thu thập được khoảng 1300 chữ ký của các sĩ tử và đã đệ trình lên Nhà Vua bản văn nổi tiếng “Bức Thư Một Vạn Chữ: Wan-yen shu.”  Phần cốt lõi của văn bản dài này, sau được goi là “bản điều trần được đệ trình bởi các sĩ tử khảo thí” (Kung-ch’e shang-shu chi), là muốn bác bỏ hòa ước, dời chuyển kinh đô, và thi hành các sự cải cách…

Khi Đức cưỡng bách Trung Hoa nhượng lại vịnh Kiaochow Bay năm 1897, Khang Hữu Vi, khi đó là quan chức hạng trung tại Bộ Công (Board of Works), lại thảo một văn bản khác thúc dục hoàng đế hãy theo gương Minh Trị Thiên Hoàng của Nhật Bản và Đại Đế Peter The Great [của Nga, chú của người dịch], quyết định một chính sách cải cách quốc gia, … [nhưng] bản điều trần này cũng không được chuyển trình lên Nhà Vua. Tuy nhiên, vào khoảng đầu năm 1898, họ Khang đã tìm cách yết kiến được với Hoàng Đế Quang Tự (Kuang-hsu) và sau hết đã thuyết phục được vị vua trẻ tuổi ban hành một sắc dụ loan báo một chính sách cải cách quốc gia vào ngày 11 tháng Sáu.  Ngày này thường được xem là ngày khởi đầu cho chiến dịch Một Trăm Ngày Cải cách, mặc dù một số sắc dụ cải cách đã được ban hành trước đó.

Khang Hữu Vi là một người theo phái “tân văn: modern text: chin-wen” trong các học giả cổ điển…

Không cần giải thích nơi đây sự quan tâm của họ Khang về học thuyết chính trị, ta có thể vạch cho thấy sự kính trọng của ông đối với Khổng Tử ít nhất một phần như một công cụ chính trị.  Trong quyển sách gây chấn động của ông về đề tài “Khổng Tử như một nhà cải cách” (K’ung-tzu kai-chih k’ao), ông đã áp dụng học thuật của mình để chứng tỏ rằng Khổng Tử thực sự đã tạo ra học thuyết về một thời hoàng kim trong quá khứ nhằm mục đích thuyết phục các nhà lãnh đạo đương thời hãy thực hiện các sự cải cách như các vị vua hiền triết thời cổ xưa đã làm.  Từ đó, hệ luận theo sau là nếu Khổng Tử đã tán đồng sự thay đổi, tất cả các môn đồ của Khổng Học, tự mình rập theo khuôn của Khổng Tử, không có lý do gì để phản đối điều đó [tức sự thay đổi].

2. Khang Hữu Vi phát biểu nhân danh “Hội Nghiên Cứu Chính Sách Tự Cường: K’ang Yu-Wei’s Statement for the “Society for the Study of Self-Strengthening”, 1895, trong đó có nhắc đến các hậu quả của việc Pháp chiếm đoạt Việt Nam sau trận chiến tranh Trung-Pháp 1884-1885 như sau:

Người Nga đang do thám chúng ta từ phương bắc và người Anh rình mò chúng ta từ phía tây; người Pháp thì trừng trừng nhìn chúng ta từ phương nam và người Nhật đang theo dõi chúng ta từ phía đông.  Sống ở giữa bốn kẻ láng giềng hùng mạnh này, và là một Vương Quốc Trung Tâm, Trung Hoa đang trong cơn nguy hiểm khẩn cấp.  Mối hiểm nghèo này sẽ còn gia tăng đến mức độ nào nữa khi mà hơn mười dân tộc khác đang mài răng cho sắc và đang nhỏ rãi, thèm khát nhảy vào cắn xé phần thừa thãi?  Bán đảo Liêu Đông và Đài Loan đang trong cảnh hỗn loạn, cuộc nổi dậy của dân theo đạo Hồi đang làm bối rối chúng ta, đầu óc của dân chúng thì hoang mang và tình hình xem ra khó chống đỡ đuợc.

Trước đây, Ấn Độ là một dân tộc nổi tiếng tại Á Châu, nhưng họ đã bảo tồn các truyền thống của họ không chịu thay đổi và như thế trong thời trị vì của vua Càn Long [1736-1795] người Anh đã tổ chức một công ty với số vốn là một trăm hai mươi nghìn đồng tiền vàng để thực hiện một cuộc mậu dịch với Ấn Độ và đã khống chế năm lãnh địa tại Ấn Độ.  Trước đây, Thổ Nhĩ Kỳ đã là một xứ sở Hồi Giáo rộng lớn.  Lãnh thổ của họ trải rộng khắp ba lục địa, Á Châu, Âu Châu và Phi Châu, nhưng họ trở nên bảo thủ và không thực hiện các sự thay đổi; như thế chính quyền của họ bị chiếm giữ bởi sáu nước, lãnh thổ của họ bị phân chia, và nhà lãnh đạo của họ phải lưu đầy.  Về các nước khác, chẳng hạn như An Nam, Miến Điện, Cao Ly (Korea), Liu-ch’iu, Xiêm La, Ba Tư (Persia), A Phú Hãn (Afghanistan) và Baluchistan, cũng như các nước khác đã lập quốc tại Phi Châu và trên các hòn đảo tại vùng Thái Bình Dương, con số tổng quát có thể được ước lượng lên tới vài trăm hay cả nghìn.  Thực sự lãnh thổ của các quốc gia thủ cựu này hoặc đã bị cắt giảm hay sáp nhập, và trong số tất cả các xứ sở thủ cựu trên địa cầu có lẽ không còn một nước nào là hãy còn được giữ nguyên vẹn.

Nước Trung Hoa suy yếu của chúng ta đang nằm giữa một nhóm các cường lực và đang ngủ say trên nóc của một đống ngòi nổ.  Trong chính quyền, Trung Hoa chỉ quan tâm đến việc ngăn chặn sự xấu xa chứ không để ý đến việc phát triển các nguồn lợi nhuận.  Các quan chức của nó chỉ biết đến việc tuân hành luật pháp, nhưng không biết làm sao để phán đoán các xu hướng của thời đại.  Các học giả của Trung Hoa chuyên chú vào việc học hỏi chuyện cổ xưa, không có sự hiểu biết về hiện tại.  Dân chúng của Trung Hoa có thể phòng vệ các môi trường tiếp cận của mình, nhưng không thể đi xa ra ngoài.  Mạnh Tử có nói, “Một quốc gia phải tự mình thức tỉnh trước tiên, nếu không các nước khác sẽ lay động nó.”  Sự phòng thủ các bộ đoàn Mông Cổ, Phụng Thiên (Fengtien), Kỳ Lân (Kirin), Thanh Hải (Ch’inghai) Tân Cương (Sinkiang), Tây Tạng (Tibet), các bộ lạc bản xứ và các quân biên phòng đều chỉ là một sự phòng thủ vùng đất hoang sơ xa lạ.  Vùng đất phì nhiêu của Chihli, Sơn Đông (Shantyung), Phúc Kiến (Fukien), Triết Giang (Chekiang), An Huy (Anhwei), Hồ Nam (Hunan), Hà Bắc (Hupei), Quảng Đông (Kwangtung), Tứ Xuyên (Szechwan), Quý Châu (Kweichow), Vân Nam và Quảng Tây (Kwangsi) đã hoàn toàn trở nên một vựa lúa của quân cướp.  Không bao lâu nữa chúng ta sẽ trở thành một nước Thổ Nhĩ Kỳ và Phi châu.

Người Tây Phương rất nghiêm ngặt về các chủng tộc và họ nhìn các chủng tộc khác như kẻ thù.  Khi Pháp chiếm An Nam, phương cách để người An Nam làm giàu và trở nên cao quý xuyên qua các kỳ khảo thí để ra làm quan đã bị cắt bỏ, và các quan chức nổi tiếng trước kia giờ đây trở thành các thương nhân buôn lụa.  Nước Anh chinh phục Ấn Độ hơn một trăm năm trước đây, nhưng phải đợi mãi đến năm 1889 mới có một người Ấn Độ được bầu làm đại biểu trong Nghị Viện.  Các người dân bản xứ khác bị đối xử như trâu ngựa.  Nếu chúng ta không trù hoạch trước, mà đột nhiên tự mình phân hóa … than ôi, khi đó số phận của chủng tộc thiêng liêng của chúng ta sẽ không thễ diễn tả được, tuyệt đối không thể diễn tả được!

Đối với Trung Hoa, trên trái đất vĩ đại này, đã từng có một sự kế ngôi liên tục của các vị minh quân và xứ sở rất lừng danh.  Các nguyên tắc, định chế, và văn hóa của nó vượt trội lên đỉnh cao nhất trong thế giới.  Lãnh thổ bao la của nó đứng hàng thứ ba trong vô số các quốc gia, dân số của nó đứng hàng đầu; khí hậu của nó thuộc vùng ôn đới, người dân của nó thì thông minh và toàn vẹn, và đất đai của nó thì phì nhiêu và phong phú.  Không có xứ sở nào trên trái đất có thể sánh bằng với nó.  Chỉ bởi vì các phong tục của nó không được soi sáng và bởi có sự khan hiếm các người có khả năng, Trung Hoa đang thụ động hứng chịu sự xâm lăng và sỉ nhục.  Trước đây Tăng Quốc Phiên đã thảo luận các vấn đề học thuật với các học giả thông thái như Wo-jen và các vị thức giả khác tại Bắc Kinh, và ông đã quyết đoán về phương thức huấn luyện quân dân cùng với các quan chức nổi tiếng khác như Chiang Chung-yuan và Lo Tse-nan tại Hồ Nam; sau hết ông đã đạt được công trạng trấn áp được Cuộc Nổi Đây của Thái Bình Thiên Quốc.  Tại nước Phổ (Prussia) đã có một hiệp hội được thành lập để làm cho quốc gia trở nên hùng mạnh [ch’iang-kuo chih hui] và rồi họ đã trả thù được nước Pháp đối nghịch.  Tại Nhật Bản có những người cổ võ cho sự kính trọng Nhật Hoàng và cự tuyệt các kẻ mọi rợ và từ đó họ đã hoàn thành được các sự cải cách của họ.  Nói chung, kiến thức có thể đạt được xuyên qua sự thảo luận, và các người có khả năng có thể được đào tạo bằng sự khuyến khích.  Khi tài năng và sức mạnh của nhiều người được tổng hợp, khi đó sẽ dễ dàng biên soạn sách vở; và khi các tư tưởng và ý nghĩ của nhiều người được kết hợp, khi đó sẽ dễ dàng có sự trao đổi tin tức.  Kinh Dịch (Book of Changes) có nói: “Các người trác việt thảo luận vấn đề với bè bạn.”  Sách Luận Ngữ (Analects) của Khổng Tử có nói:”Người thợ máy có cơ xưởng của họ trú ngụ, hầu hoàn thành công việc của họ.  Người trác việt học tập, để đạt được tới chỗ tối cao trong các nguyên lý của mình.”  Nước biển đang nổi sóng và sôi sục.  Trong tầm tai và trong giấc mơ của chúng ta tiếng vang dội của đạn đại bác đang réo lên.  Hỡi tất cả các bậc quân tử, làm thế nào mà quý vị có thể tránh khỏi nỗi bi ai của việc bị hủy diệt và (trở nên) kẻ bị khuất phục trước sự cai trị của một chủng tộc khác?  Có phải chúng ta đang tìm cách né tránh sự phỉ nhổ hay không? Ôi các vị học giả đang bế môn, liệu có người nào trong quý vị bước ra để nói về sự tôn kính hoàng đế và về việc cự tuyệt quân mọi rợ.?  Nếu quý vị làm như thế, không chỉ giảng dạy về triều đại nhà Thanh cao quý, về hai vị hoàng đế, về ba vi minh quân, và về Khổng Tử, bốn trăm triệu người dân sẽ có điều gì đó để nương tựa vào.

7. Lương Khải Siêu:

Lương Khải Siêu (Liang Ch’i-Ch’ao (1873-1929): môn đệ và phụ tá đắc lực nhất của Khang Hữu Vi, là một tác giả viết nhiều thể loại và được đọc nhiều nhất vào thời của ông.  Sự nghiệp của ông có thể được chia làm ba giai đoạn: từ 1890 đến 1911: ông vận động cho phong trào cải cách và chủ nghĩa lập hiến; từ 1912 đến 1919, ông vận động cho chính phủ công hòa, và có tham gia vào chính quyền; và từ 1919 cho đến lúc từ trần, ông là giáo sư tại Đại Học Thanh Hoa, Bắc Kinh. Ông nổi tiếng học giỏi từ thủa nhỏ, rồi trở thành học trò và bị ảnh hưởng rất nhiều bởi người thầy là ông Khang Hữu Vi.

Họ Lương bắt đầu tham gia vào phong trào cải cách từ năm 1895.  Trong năm kế tiếp, ông trở thành nhà biên tập tờ báo Shih-wu pao tại Thượng Hải, nơi ông đã viết một loạt 10 bài nhan đề “ Biến Pháp Tổng Luận Về Sự Cải Cách: Pien-fa t’ung lun”, được quan đại thần Chang Chih-Tung để ý và mời về làm việc nhưng ông từ chối để nhận làm khoa trương trường cao đẳng về sự vự hiện thời tại tỉnh Hồ Nam.

Các bài viết của Lương Khải Siêu lập lại nhiều ý kiến của thày ông, Khang Hữu Vi.  Các đoạn văn ông viết có đề cập đến Việt Nam được trích dẫn như sau:

…"An Nam, Miến Điện, và Cao Ly tuân phục và lệ thuộc vào Trung Hoa.  Dần dần, họ học các thói xấu từ Trung Hoa và theo đuổi các cách thức tham những trong chính quyền, trôi nổi mà không có sự thay đổi gì cả.  Giờ đây, ở các nơi đó, không còn có chút phẩm giá hay tác phong của quan chức Trung Hoa nữa.”…

hay:

…”Sự bành trướng giống nòi là một vấn đề đáng tán dương; và nhờ điều này, nó có thể chứng tỏ rằng chủng tộc chúng ta mới chỉ ở thời thanh xuân; nó chưa đạt tới tuổi tráng niên và hãy còn tăng trưởng mỗi ngày.

Điều đáng tiếc nhất là tại một vài nơi khác, chúng ta đã hoàn toàn thất bại: trước tiên, Đài Loan; thứ nhì: Triều Tiên; và thứ ba, An Nam …  Chúng ta phải thừa nhận rằng, trong khi dân tộc chúng ta có khả năng tiến về phía trước, các giống nòi khác cũng có thể làm như thế.  Từ rày trở đi, nếu chúng ta không có các nồ lực mới, tôi e sợ rằng con đường duy nhất sẽ là lối trở lùi, và chúng ta sẽ không có cơ hội để tiếp tục sự bành trướng của chúng ta.”/-

Nguồn các phụ lục:

1.      China’s Response to the West, A documentary Survey, 1839-1923, Ssu-yu Teng & John K. Fairbank, ed., Cambridge, Massachusetts and London, England: Harvard University Press, 1982.

2.      International Boundary Study, No. 38 – 29 October 1964, China-Vietnam Boundary, The Geographer, Office of Research in Economics and Science, Bureau of Intelligence and Research, Washington, D.C.: U.S. Department of State, 1964.

3.      http://www.bookrags.com/Sino-French_War;

4.      http://en.wikipedia.org/wiki/Franco-Chinese_war

5.      http://www.onwar.com/aced/chrono/c1800s/yr80/fsinofrench1884.htm

6.      http://www.answers.com/topic/sino-french-war

7.      http://quinnell.us/conflict/essay/sino3.html

8.      Nguyễn Tri Phương, Nhất Gia Tam Kiệt, Đào Đăng Vỹ, Sunnyvale, CA.: Nhà Xuất Bản H.T. Kelton, 1985? Và một số tài liệu rải rác khác.

Nguồn: Black Flags In Vietnam: The Story of A Chinese Intervention – The Tonkin War of 1884-85, Henry McAleavy, New York: The Macmillan Company, 1968

 Ngô Bắc dịch và chú giải

© 2007 gio-o

đọc các bản dịch khác của Ngô Bắc