Lưu Vĩnh Phúc, www.takaoclub.com/

QUÂN CỜ ĐEN

 

HENRY McALEAVY

NGÔ BẮC dịch

  


Các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa đã sẵn được đề cập nhiều lần trong câu chuyện này, như, cùng với Vân Nam, giáp ranh phía bắc của Việt Nam, và trong nhiều thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Thiên Chúa, đã gộp cùng với Việt Nam thành một đơn vị hành chánh thống nhất nằm trong Đế Quốc Trung Hoa.  Chúng ta cũng đã từng ghi nhận rằng các cư dân của chúng, dưới nhãn quan của người miền bắc Trung Hoa, hầu như tạo thành một sắc dân khác biệt, không đơn giản là các người dân phương nam -- từ ngữ “phương Nam” đối với một người dân bình thường tại Bắc Kinh vẫn được dùng để chỉ vùng Thung Lũng sông Hoàng Hà – mà như một sắc dân bán khai giống như dân Việt Nam sống bên kia biên giới.  Thái độ này được duy trì ngay dù những cư dân ở các tỉnh biên giới là những người thuộc chủng tộc Hoa một cách bất khả tranh luận, nhưng một phần lớn dân số, đặc biệt tại Quảng Tây, bao gồm các bộ lạc bản xứ, gần giống với sắc dân được gọi là “người Thượng” của Việt Nam, và cũng giống như họ bị xua đuổi khỏi các vùng đất phì nhiêu chạy lên vùng đồi núi trước sự tiến bước không ngăn cản được bởi chính sách thực dân văn hóa của Trung Hoa từ phương bắc đổ xuống.  Ngày nay, dưới chính quyền Nhân Dân [Trung Quốc], một phần lớn của tỉnh Quảng Tây đã được chỉ định như một đặc khu tại đó các người dân bộ lạc, được gọi là “dân tộc ít người” được hưởng một số biện pháp tự trị nào đó, nhưng cho đến năm 1949, các thổ dân, như một nguyên tắc, thường có một sự giao hảo tồi tệ nhất với các người gốc Hoa đến chiếm đất, và thường chất chứa đủ ác cảm để làm nảy sinh cuộc chiến tranh công khai với họ. 

Mặc dù thế, ngay chính tên Quảng Tây đã khơi dậy trong đầu óc của người Hoa có học ý tưởng về một nơi không giống nơi nào khác, nơi mà các phong cảnh thần tiên,  -- các ngọn núi phủ đầy thông với hình dạng kỳ lạ đột nhiên mọc lên từ một đồng bằng có nhiều hồ nước rải rác, và lách qua khỏi màn sương khói sẽ thấy thấp thoáng các khe suối và các dòng thác đổ -- trong nhiều thế kỷ đã thực sự ám ảnh óc tưởng tượng của các thi sĩ và họa sĩ.  Trên hết, nó là một tỉnh có nhiều ma lực, một miền tại Trung Hoa có nhiều ác cảm nhất với chủ nghĩa hoài nghi của Khổng học.  Các thày phù thủy và các thuật sĩ luyện kim nhan nhản trong các ngọn núi hư ảo đó, tìm cách phơi bày các bí mật của thiên nhiên và để cất nấu thuốc trường sinh bất tử.  Khổng tử sẽ ghê tởm mọi điều về sự kiên đó, chưa kể đến tình trạng vô chính phủ kinh niên trong đó vào khoảng đầu thế kỷ thứ mười chín phần lớn miền nam Trung Hoa bị đắm chìm.  Về tình hình sự việc này, một loạt các nguyên nhân được nêu ra.  Sự lưu ý đã được vạch ra trong một chương trước đây về sự gia tăng mau chóng trong dân số từ thế kỷ thứ mười bẩy trở đi đã đưa đến một áp lực về đất đai.  Thêm vào đó là ác cảm trường kỳ giữa những người Trung Hoa chính gốc và dân bộ lạc bản địa, và điều rõ ràng là chính quyền của một miền như thế cần có một khả năng quản trị xuất sắc, một loại tài năng thường hoàn toàn vắng bóng các nhân viên được phái từ Bắc Kinh đến làm đại diện cho nó.  Khi tình hình trở nên tồi tệ, sự thù hận lâu đời đối với người Mãn Châu, luôn luôn sáng rực bên dưới bề mặt của các quận huyện cực nam này, đã bùng cháy công khai thành ngọn lửa.  Không phải là ngẫu nhiên mà Quảng Tây trở thành nơi khai sinh của cuộc Nổi Dậy Thái Bình; cũng như không có những tình huống hiện diện ở nơi nào khác lại tạo ra một hiện tượng giống như đoàn quân Cờ Đen được.

Lãnh tụ của đoàn quân, Lưu Vĩnh Phúc, sinh năm 1837 tại vùng xa nhất theo hướng tây nam của tỉnh Quảng Đông, gần biên giới Việt Nam và cách xa biển khoảng vài dặm.  Giống như người thành lập phong trào Thái Bình Thiên Quốc, ông thuộc chủng tộc Hẹ (Hakka) [còn gọi là Khách, chú của người dịch], Người Khách (từ ngữ có nghĩa là “người xa lạ”), nguyên gốc là dân định cư đến từ phía Bắc và Trung của Trung Hoa bị đuổi sâu xuống phía Nam bởi các cuộc xâm lăng của Mông Cổ và Thát Đát (Tartar) dưới triều đại nhà Tống, một sự kiện có thể được diễn dịch từ tiếng nói của họ, bởi họ nói một thổ ngữ gần với tiếng Trung Hoa tiêu chuẩn nhiều hơn tiếng Phúc Kiến hay tiếng Quảng Đông mà họ nghe thấy chung quanh mình.  Hậu quả, họ có một cảm thức rất mạnh về tinh thần chủng tộc, và một người trong họ du hành bất kỳ nơi nào khắp miền nam nước Trung Hoa hay Đông Nam Á sẽ có cảm tưởng như ở nhà tại các công đồng người Hẹ mà người đó sẽ gặp gỡ.  Tuy nhiên, đây chỉ là điều tương đồng duy nhất giữa nhà tiên tri của phong trào Thái Bình và Lưu Vĩnh Phúc.  Người trưo’c có một số vốn học thức, một hiệu trưởng đã đi thi, mặc dù không đỗ đạt, các kỳ khảo thí của nhà nước, và sinh trưởng từ một gia đình tạm đầy đủ.  Cha mẹ của Lưu, trái lại, là những kẻ nghèo nhất trong số nghèo, không có nhà cửa hay nghề nghiệp cố định, và ông ta suốt đời vẫn hoàn toàn mù chữ.

Vào lúc ông ra đời, cha của ông sinh sống vất vưởng bằng việc bán rong rượu do chính mình chế tạo ra, trong khi một người chú ông cùng sống với nhau làm nghề mổ lợn.  Mẹ của Lưu -- một biểu hiệu khác của sự nghèo đói của gia đình, là một người góa chồng kết hôn với cha ông khi cha ông đã gần đến bốn mươi tuổi, và bà đã sớm trở thành một cột trụ của gia đình qua việc hành nghề đỡ đẻ, và đôi khi như một loai phụ nữ thông thái cầu khấn và đọc bùa chú nhân danh các thân chủ của bà.  Ban đầu họ ở trong một ngôi nhà tranh xây bằng gạch đất bùn -- một cố gắng tội nghiệp để giữ vẻ khả kính mà đến năm đứa bé được bẩy tuổi, đã phải bỏ rơi vì vượt quá phương tiện của họ.  Gia đình, gồm cả người chú, nghiện cờ bạc đã bị xô đẩy đến tai họa, đã di chuyển một khoảng cách ngăn sang tỉnh Quảng Tây, lưu trú với một vài thân thích có viễn ảnh có vẻ sáng sủa hơn; nhưng vào chính lúc đó một trong các người được nhắm tới của họ lại bị bắt vì bị tình nghi là thổ phỉ, gia đình bị suy sụp bởi sự tốn kém để hối lộ viên án sát địa phương nhằm xin thả người đó, và gia đình họ Lưu một lần nữa bị thảy ra ngoài để tự lo liệu xoay sở lấy.  Người cha vật lộn để có được phần công chết đói trên một giải đất, người mẹ làm lại nghề cũ, và đứa trẻ, vốn đã sẵn lòng tự hào trong việc cố gắng cải thiện phần dinh dưỡng của họ bằng một con cá thỉnh thoảng bắt được từ một dòng sông gần cận, nhanh chóng quen thuộc các chỗ nước cạn và các bãi cát dọc theo dòng nước đến nỗi cậu ta có thể kiếm được một tiền đồng lẻ với việc làm như một kẻ canh phòng các tàu thuyền chạy trên thủy lộ.

Mối dây liên hệ giữa người mẹ và cậu con trai đặc biệt rất chặt chẽ, và sáu mươi năm sau đó ông Lưu vẫn hồi tưởng đến những đêm khi mà như một cậu bé ông ngồi trên một tảng đá ngoài căn lều của họ chờ đợi người mẹ trở về nhà sau những lần bà được mời đi đỡ đẻ, và sự mừng vui của cậu khi mà cậu nhìn thấy ánh sáng mờ nhạt đầu tiên từ chiếc đèn lồng của người mẹ từ xa xa, xuyên qua hàng cây.  Mẹ cậu phải đi làm dưới mọi thời tiết, và thường phải đi xa.  Một tối mùa thu năm 1853, mẹ cậu trở về ướt sũng vì mưa và với một cơn ho và sốt.  Trong một hai ngày, người mẹ đã từ trần.

Nguời Trung Hoa, ngay cả những người đã bác bỏ khái niệm về sự bất tử của linh hồn, đã gán một tầm quan trọng lớn lao cho việc chôn cất thích đáng các thi thể.  Việc bỏ mặc thân thể mà không chôn cất là một tội lỗi, và đã có cả một khoa học về coi đất giúp cho sự lựa chọn một thửa đất thích hợp để đặt mồ.  Trong nhiều thế kỷ, các đồng bằng miền Bắc và Trung Trung Hoa có rải rác nhiều nấm mồ này, sự hiện diện ngày nay biểu chứng cho một trở ngại gây khó khăn nhiều nhất cho sự tập thể hóa và cơ giới hóa nông nghiệp, bởi không thể nào vận hành được một chiếc máy cày nơi mà cứ vài trăm thước bạn lại phải bẻ tay lái để tránh không làm xúc phạm đến nơi an nghỉ cuối cùng của các tổ tiên một người nào đó.  Các nhân vật quan trọng của Cộng sản khi chết đi nhất quyết được hỏa thiêu: trong khi chờ đợi sự chấp nhận phổ quát tập tục này, người dân quê đã được thuyết phục để đồng ý cải táng hài cốt tiền nhân của họ trong khu đất tương đối kém phì nhiêu hơn được dùng là các nghĩa trang công cộng.  Tại miền Nam Trung Hoa vấn đề không đến nỗi khẩn cấp như thế, bởi các ngôi mộ, như một định lệ, đã sẵn tọa lạc tại các giải đất đá sỏi và không màu mỡ trên sườn đồi.

Không chỉ việc lựa chọn nơi chôn cất là vấn đề quan trọng duy nhất, mà còn cả vấn đề sơ khởi là chiếc quan tài.  Những gia đình giàu có thường sửa soạn bằng cách đặt đóng các hòm này trước, bằng thứ gỗ tốt nhất.  Không có gì là rùng rợn về sự kiện rằng một trong những quang cảnh thông thường nhất tại bất kỳ thị trấn Trung Hoa nào là cửa hàng của thợ đóng quan tài, mở toang cửa trông ra đường và phô bày các dẫy quan tài sơn bóng loáng cho khách qua lai nhìn thấy.  Trong thực tế, vào năm 1950, một ô trưng bày của một nhà mai táng tân thời, tại đường Joffre Avenue, thành phố Thượng Hải, có triển lãm hình nhân một thợ may cắt -- của một nhà sản xuất ngoại quốc khi xét tới các đường nét Âu Châu và mái tóc bạch kim trên đầu – được phủ bằng một tấm vải liệmTrung Hoa, mặc áo choàng màu đỏ thắm vui tươi với một chiếc mũ chùm lên đầu đem lại cho hình nhân dáng vẻ của ông già Noel Santa Claus.

Gia đình họ Lưu mắc nghèo dĩ nhiên không thể cung cấp cho người chết các tiện nghi như thế.  Nhưng cô mụ đỡ đẻ nghèo nàn rất được yêu mến bởi các thân chủ của bà ta, và mặc dù nhiều người trong họ cũng túng thiếu không khác gì tang gia, đã tự nguyện đóng góp với nhau đủ tiền để mua một chiếc hòm đơn sơ trong đó cô mụ đã được đặt chôn xuống nền đất.  Chồng của bà, một người đàn ông đau khổ tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi sáu, chỉ sống sót qua hai tháng sau và sự bần cùng của đứa trẻ mồ côi Lưu Vĩnh Phúc có thể được đo bằng sự kiện rằng, việc tìm kiếm ngay cả một chiếc hòm đơn sơ nhất hoàn toàn vượt quá các phương tiện của mình, cậu bé đã tháo gỡ chiếc giường thô sơ  trên đó cha cậu nằm chết, và bó thi thể giữa các miếng ván để bảo vệ thân xác khỏi phải chạm với mặt đất trần trụi.  Một vài tuần sau đó, ngay trước ngày Tết Trung Hoa năm 1854, người chú đi theo ông anh và bà chị dâu, và lần này điều tối đa [mà cậu bé] có thể làm được là đem chôn xác quấn trong một chiếc chiếu.

Bị phó mặc với năng lực riêng của chính mình, cậu bé đã tích cực đủ để kiếm được miếng ăn ở đây đó trong vùng lân cận, đôi khi trên các con thuyền chạy trên sông, đôi khi như kẻ chất than đun bếp.  Chính trong thời kỳ làm nghề sau này mà cậu đã có một kinh nghiệm không bao giờ quên được.  Một ngày kia, nơi núi sâu, bị khuất phục bởi cơn mệt mỏi cậu lăn ra ngủ.  Trong một giấc mơ hiện ra trước cậu bé một cụ già đáng kính với chùm râu bạc phất phơ, đã nói với cậu bé các lời như sau: “Hắc Hổ Tướng Quân, tại sao người lại chui rúc ở xó xỉnh này?  Hãy ra khỏi núi này và bước vào thế giới!”  Cậu bé tỉnh giấc trở dậy và thấy mặt trời đã lặn và một cơn gió lạnh đang rên rỉ bên sườn đồi.

Đối với một người như cậu bé, tiêm nhiễm thói mê tín dị đoan của người nông dân, không có gì đáng nghi ngờ nữa rằng cảnh quan có một nguồn gốc thần bí, và tiên báo nhiều tương lai oai hùng.  Cậu trở nên gan dạ hơn; điều được tường thuật, mặc dù không nên quá tin tưởng, rằng đó chính lúc đó cậu đã làm một cuộc du hành đầu tiên sang Việt Nam.  Ngay dù câu chuyện này là đúng thực, nó không làm liên tưởng rằng cậu đã mạo hiểm đi cách quá xa khỏi vùng biên giới, và làm việc, như cậu được nói là đã làm, cùng với các đồng bào Trung Hoa, cậu không thể bị xem là một kẻ lưu vong một cách có ý thức.  Cậu chắc chắn không đi xa trong một thời gian dài, nhưng bất luận là ở Việt Nam hay ở một nơi nào đó, có vẻ như là cậu đã có được một số tiền đáng kể.  Theo lời kể của chính cậu bé, cậu ta vấp phải một gói thuốc phiện mà các kẻ buôn lậu từ Vân Nam, nơi mà cây nha phiến được trồng, bỏ lại khi chạy trốn một toán các viên chức quan thuế của tỉnh Quảng Tây.  Bất kể đã thụ đắc bằng cách nào, tiền bạc đã giúp cậu tháo bỏ được một mối ân hận giằn vặt đã hành hạ cậu kể từ khi cha mẹ cậu mất đi.  Vì thiếu phương tiện, cậu bé đã phải chôn cha và mẹ cậu trên mảnh đất nhỏ mà họ đã cầy cấy, mặc dù cậu không hiểu biết rõ mấy về sự bất thích nghi của nó, bởi nó không xa mạch nước mấy phân và vào mùa ướt thì thường bị ngập lụt.  Sự tưởng tượng của cậu bé thường bị biến thành các ác mộng kỳ quái liên can đến các loại sâu bọ và vật hư thối.  Giờ đây cậu bé nhớ lại làm thế nào mà nhiều năm trước, khi còn là một dứa bé chăn trâu cho người hàng xóm giàu có, cậu có nghe loáng thoáng một thầy địa lý, đang khảo sát đất huyện để tìm các thế đất tốt đặt mồ, ca ngợi một chỏm núi nào đó trông giống như xương sống của một con hổ.  Lạ lùng thay là ông lão trong giấc mơ cũng đã đề cập đến cùng con vật đó!  Món tiền trong tay chỉ vừa đủ để cậu bé làm theo lời khuyên răn.  Cậu đã làm mọi điều theo đúng cách, thuê mướn một thày địa lý để giúp chọn thế đất sau cùng và một thày chiêm tinh để tính toán giờ khắc tốt lành nhất cho cuộc lễ. Đôi khi chúng ta có đọc trong các kinh sách Trung Hoa về các đứa con hiếu thảo đã mang theo trên lưng di cốt của cha mẹ khi di chuyển đến một ngôi nhà mới, và khi cậu bé Lưu làm hai cuộc du hành -- bởi thi thể được chôn tại hai ngôi mộ riêng biệt – điều có thể nhận thức được là cậu ta cũng đã áp dụng cùng phương pháp cổ điển, bởi mới chỉ có ba năm trôi qua kể từ sự chôn cất đầu tiên, có thể là các thi thể vẫn chưa bị tiêu hao thành bộ xương không còn thịt và rằng các di thể này đã được đặt trong các quan tài chạm trỗ cần đến một số người phu khiêng đi ngay sau khi khai quật lên.  Lần cải táng cuối cùng này phải ở trong tình trạng cực kỳ kinh hoàng mặc dù nhà biên tập soạn thảo hồi ức của họ Lưu vào lúc lớn tuổi có che dấu chúng ta nhiều chi tiết rùng rợn, ông có hé mở cho chúng ta nhìn thoáng qua một sự kiện bộc lộ điều bí ẩn.  Thày chiêm tinh đã ấn định giờ cải táng người cha vào lúc nửa đêm, và một cơn bão dữ dội đã nổi lên khi mà tang lễ tiến đến ngôi mộ mới.  Cậu Lưu đã than khóc rằng cơn mưa hẳn sẽ gây ngập lụt huyệt chôn, và rất buồn lòng cho tới khi sờ đến các mặt bao quanh và đáy huyệt bằng bàn tay của mình, cậu khám phá ra rằng mặt đất chỉ hơi bị ẩm ướt.  và như thế, bổn phận làm con đối với cha mẹ ông đã được chu toàn, cậu được tự do bước vào thế giớI, như ông lão đã thúc dục, và tìm kiếm phúc phận của mình.

Trong giấc mơ, cậu đã được chào đón như một vị “Tướng Quân”, như thế đó, bước đầu tiên là cậu ta trở thành một thổ phỉ ăn cướp.  Công bình mà nói, cậu ta không hề nghĩ vấn đề dưới khía cạnh đó.  Khi đó và sau này trong mắt nhìn của chính ông, ông luôn luôn là một người lính – đôi khi, đúng nghĩa hơn, một người lính đánh thuê, nhưng cũng không kém vẻ vang trong khía cạnh đó.  Trong thực tế, giờ đây ngay ở lúc khởi đầu chức nghiệp của ông, định mệnh đã đóng một dấu ấn khả kính trên các hành động của ông, gần như chắc chắn không xứng đáng, nhưng là điều mà đồng bào ông ta đã dùng để bào chữa cho các thành tích cướp bóc của ông ta.  Như chúng ta đã thấy, cuộc nổi dậy lớn lao của Thái Bình Thiên Quốc đã bộc phát từ Quảng Tây trong năm 1851, và từ 1853 trở đi đã tự thiết lập tại Nam Kinh như một triều đình thường trực, điều mà đối với nhiều nhà quan sát có vẻ gần như muốn thu gọn toàn thể lãnh thổ về sự tuân phục nó.  Chúng ta cũng đã mô tả, họ đã vội vã như thế nào để tiến đến vùng giàu có nhất của Trung Hoa, vùng Thung Lũng Hạ Lưu Sông Dương Tử, đoàn quân Thái Bình đã xuyên qua nhiều khu vực rộng lớn của xứ sở mà không buồn thiết lập các căn cứ ở hậu phương.  Do sự khinh xuất này, họ đã có mọi ý định và mục đích để bỏ rơi ngay chính nơi phát sinh ra phong trào, đến nỗi tới năm 1857 – năm khi Lưu Phúc, ở tuổi hai mươi, khởi động sự nghiệp mới của mình – có vẻ như không có các lực lượng nào của Thái Bình Thiên Quốc, đúng ra là như thế, tại tỉnh Quảng Tây.  Mặt khác, hào quang của danh hiệu Thái Bình Thiên Quốc, và uy thế của việc phục vụ một triều đình chiến đấu trong một cuộc chiến tranh yêu nước chống lại nhà Mãn Châu ngoại lai, khuyến khích quân cướp sinh sôi nẩy nở bởi tình trạng vô chính phủ trong vùng -- bởi sự vắng mặt của Thái Bình Thiên Quốc không có nghĩa rằng chính quyền trung ương đã tái lập sự kiểm soát hữu hiệu – khoa trương lòng trung thành của họ cho chính nghĩa dân tộc.  Một trong những người này, Wu Yuan-ch’ing, lãnh tụ của một nhóm quấy phá vùng phụ cận thành phố Nam Ninh kế cạnh biên giới Việt Nam, thực sự tuyên bố rằng đã được phong Vương bởi nhà lãnh đạo Thái Bình Thiên Quốc tại Nam Kinh và đã tổ chức một buổi lễ đăng quang trọng thể, tạo ấn tượng mạnh mẽ vào chàng thanh niên họ Lưu đến nỗi anh ta nhiệt thành tự gắn mình với số phận của ông Vương họ Wu.

Trong ít năm kế tiếp cuộc sống của Lưu Vĩnh Phúc, đối với một độc giả tây phương ở mọi trình độ, là một hồ sơ tẻ nhạt của các sự cướp bóc và giao chiến nhỏ tại nhiều nơi phần lớn không có gì quan trọng để được vạch vẽ trên bản đồ, đánh lại những người, mà tên tuổi, ngoại trừ ngẫu nhiên khi có sự hiện diện của Lưu Vĩnh Phúc tại chiến trường, đã biến mất từ lâu vào sự lãng quên đáng tội nghiệp.  Song chính những sự giao chiến này  mà lúc về già đầu óc ông ta vẫn còn hồi tưởng đến.  Người ta có thể kỳ vọng rằng với ông ta biến cố vĩ đại trong sự nghiệp của ông sẽ phải là sự đối đầu với kẻ thù Âu châu, làm ông trở thành một anh hùng dân tộc, nhưng thực sự không phải như thế chút nào cả.  Như chúng ta sẽ thấy, các thành tích của ông chống lại quân Pháp, không chỉ làm tên họ ông vang dội ở Việt nam và Trung Hoa không thôi, mà còn cả ở Âu Châu và Mỹ Châu, đã chỉ được đề cập đến bằng đích danh của ông khi thực sự cần thiết, và ngay cả khi ông quay lưng lại với họ một cách mau chóng nhất có thể làm được, với sự nhẹ nhõm hiển nhiên, để theo đuổi những ân oán thuần túy Trung Hoa mà ông cảm thấy như về nhà.  Trong một cách nhìn, đây là một sự nhắc nhở hữu ích rằng các người ngoại quốc chúng ta có thói quen phóng đại vai trò mà chúng ta đã đóng trong lịch sử Trung Hoa.  Khi người ta xét đến con số lớn lao các người tây phương sống ở Trung Hoa trong suốt thế kỷ trước khi có sự chiến thắng của Cộng sản hồi năm 1949, điều đáng ngạc nhiên là chỉ có quá ít người trong họ được nhớ đến bởi người Trung Hoa nói chung.  Có lẽ chỉ có hai người được xem là bất tử, Thống Chế người Phổ tên Waldersee là người đã chỉ huy quân đội đồng minh chống lại Các Võ Sĩ (Boxers) năm 1900 – nhưng tiếng tăm nổi bật của ông không phải là nhờ các chiến tích, mà vì tình yêu đương của ông với một cô gái điếm Trung Hoa đã trở thành đề tài của vô số các tác phẩm văn chương – và Bác Sĩ Bethune, một bác sĩ người Gia Nã Đại đã dâng hiến đời sống của ông để phục vụ Hồng Quân và là kẻ có sự tán dương bởi Mao Trạch Đông được gồm vào trong kinh sách Cộng Sản. Đúng y như khả thể của nó, sự thờ ơ của Lưu Vĩnh Phúc khiến cho hồi ức của ông, được kể lại vào lúc tuổi già cho một kẻ ngưỡng mộ ông, trở thành một trong những tác phẩm tẻ nhạt nhất chưa từng đuợc biên soạn.

Các người lính của Ngô “Vương” (Prince Wu) tự phong chịu một cuộc sống khốn khổ nhất, cảm thấy may mắn khi họ được cấp phát phần trợ cấp số gạo nhỏ nhoi mà họ được hứa hẹn.  Chúng ta được nghe nói rằng có lần khi họ được ăn một bữa cơm với thịt heo, cả một đai đội bị ngã gục vì tiêu chảy.  Sau một hay hai năm, Lưu có vẻ ngày càng chán nản hơn và đã tách rời để đi tìm một lãnh tụ năng hoạt hơn.  Cơ nghiệp cụ thể của ông chưa được cải thiện bao nhiêu nhưng sự cứng rắn và quyết tâm mà ông bày tỏ tại nhiều xó xỉnh kín đáo đã thu hút được sự chú ý; trong hai hay ba năm ông đã được nhìn nhận là thủ lãnh của gần hai trăm người mà ông yêu cầu tuyên thệ kết tình anh em và trung thành trước một lá cờ màu đen mà, vì luôn nhớ đến giấc mơ của mình, ông đã chỉ định làm quân kỳ và linh vật của nhóm.  Với đoàn quân này đứng sau lưng, ông quyết định quay về vớI chủ cũ, nơi mà khi đó Wu Ah-chung đã kế vị cha mình trong vương quốc giả danh.  Giờ này, dĩ nhiên, Lưu đã có thể có sức mạnh để trở thành một nhân vật, rõ rệt đến mức Ngô “Vương” nghĩ rằng tốt hơn là nên thắt chặt sự liên hệ của họ bằng cách gả em gái cho Lưu.  Có vẻ người thiếu nữ này không được hấp dẫn mấy, bởi mặc dù chàng Lưu đã đồng ý hứa hôn nhưng anh đã viện dẫn nhiều lý do khác nhau để trì hoãn hôn lễ và đến năm 1865 anh ta ở tuổi hai mươi tám nhưng vẫn còn độc thân.

Thái Bình Thiên Quốc đã bị quét ra ngoài Nam Kinh một năm trước đó, và bất kể vẫn còn nhiều cuộc nổi dậy ở nơi khác, Bắc Kinh đã dần dà tái xác định thẩm quyền của nó tại tỉnh Quảng Tây.  Các viễn ảnh của các kẻ ngoài vòng pháp luật thì thê lương, và khi đó đồ tiếp liệu trở nên khan hiếm hơn, Lưu đã xin phép dẫn đoàn quân của mình cho một cuộc viễn chinh cướp bóc tách xa khỏi bộ phận chính.  Lời yêu cầu của ông được chấp thuận với một sự miễn cưỡng, và với điều kiện ông phải quay trở về mà không được phép thất bại vào cuối một tháng; nhưng khi hạn kỳ này đã hết, Quân Cờ Đen, thay vì giữ lời hứa, đã nhất trí bỏ phiếu tán đồng việc khởi sự một cuộc phiêu lưu vốn phải nằm ở trong đầu óc của Lưu từ một vài thời điểm trước đó, và chúng ta được nghe nói rằng anh ta đã đưa ra đề nghi vào lúc này một phần là để tránh cuộc hôn phối gượng ép mà anh ta nhìn thấy là anh không có thể lần lữa vô hạn.  Kế hoạch của anh, một cách ngắn gọn, nhằm cắt xén một vùng đất bên kia biên giới tại Việt Nam, nhưng làm như thế với sự phù trợ của chính phủ Việt Nam bằng cách tự giới thiệu mình như là một đồng minh của chính phủ Việt Nam để chống lại các bộ lạc “miền núi” là những kẻ từ lâu vẫn làm chủ vùng núi đồi nằm giữa biên giới Trung Hoa với thượng nguồn của sông Hồng.

Xét bề ngoài của nó, không còn gì liều lĩnh hơn ý đồ này.  Không hề có một nỗ lực nhỏ nhoi nào được thực hiện để thiết lập sự tiếp xúc với các giới chức thẩm quyền Việt Nam.  Cuộc tiến quân diễn ra từ tốn và ung dung, lảng vảng nơi này nơi kia để thu thập các tân binh từ các nhóm thổ phỉ Trung Hoa khác.  Mãi rồi, khi chạm mặt với các lính tuần cảnh Việt Nam, một cuộc đụng độ chỉ được tránh khỏi trong gang tấc.  Lỗ tai của Lưu và lính của ông vẫn chưa quen thuộc với tiếng nói địa phương, nhưng một hay hai người trong họ xem ra có học hơn thủ lãnh của họ và đã có thể thông đạt với người Việt Nam bằng chữ viết cho biết rằng họ là những thương gia ôn hòa đang trên đường sang Vân Nam.  Có thể vài điều gì đó trong cung cách của Lưu mang lại cảm tưởng rằng ông không phải là loại người mà ai đó được an toàn một khi đã châm chọc vào ông.  Chắc chắn không có gì cho thấy, vào khi đó cũng như sau này, nhận định theo những gì ông nói vào lúc tuổi già, rằng ông có khuynh hướng đánh giá rất cao các binh sĩ Việt Nam.  Trong mọi trường hợp, bất luận câu chuyện của ông có đáng tin hay không, ông đã được phép để tiếp tục cuộc hành trình cho đến khi gặp Sông Hồng, khu đối diện với thành phố Sơn Tây, và ông đã cho dựng doanh trại có hàng rào bao quanh.

Cuộc du hành của ông xuyên qua xứ sở được theo dõi bởi các người dân miền núi, tuy thế (có lẽ họ nghĩ rằng ông ta thực sự chỉ di hành xuyên quá) họ đã không mưu toan chặn đường.  Thế nhưng, giờ đây sự việc trở nên rõ ràng là một gian thương đang cắm cọc dành quyền tại vùng mà họ đã xem riêng biệt như là lãnh địa của họ, và họ không có ý định đối đáp bằng sự hỗn xược.  Các lãnh tu. của họ xem các vị thế của chính họ đáng trọng đến nỗi họ cảm thấy một sự tiếp xúc theo nghi lễ không phải là điều bị gạt ra ngoài, và đã gửi đến ông Lưu một thẻ bằng tre có khắc Hán tự như sau:

“Chúng tôi những người chỉ huy quân sự của người dân miền núi vào một ngày do chúng tôi quyết định sẽ đến Sơn Tây vớI tuyệt đỉnh sức mạnh của một đoàn quân vĩ đại, có quân số hàng ngàn, hàng ngàn, và vô số người.  Đây là sự chào mừng đầy kính trọng của chúng tôi đối với ông.”

Trong thực tế, quân đội người thượng miền núi bao gồm vài ngàn chiến sĩ, và khi mà quân Cờ Đen cùng với các đồng minh mới của họ cộng chung hơn năm trăm người, tình hình không có gì khích lệ lòng tin tưởng.  Nhưng ông Lưu không bao giờ nghi ngờ rằng người dân các bộ lạc sẽ đến tấn công ông với sức mạnh tối đa, và ông ta thực hiện các biện pháp phòng vệ.  Chính địa thế cho thấy là địch quân sẽ đổ xuống xuyên qua một đèo xác biệt trong vùng đồi núi, và thay vì cố gắng cầm chân địch ở vị thế này, ông Lưu cho một đơn vị biệt phái trú đóng và phục kích tại đây, sẽ khai pháo vào các quân miền núi khi họ đã qua hẳn đèo, với mục đích lùa họ vào một giải đất có cắm dày đặc các cọc tre vót nhọn đặt trong các bẫy và được che dấu bằng cây cỏ.  Mưu chước này đã thành công một cách đáng kinh ngạc; quân lính miền núi hoảng hốt và chỉ trong vài phút hoàn toàn rút lui, những người ở phía sau (chúng tôi được hay biết) đã dẫm lên cả thân xác đồng đội bị cọc đâm xuyên qua người.

Ccác giới chức thẩm quyền Việt Nam đã theo dõi các tiến triển này với sự thích thú, đặc biệt khi ông Lưu theo đuổi sự chiến thắng bằng cách tổ chức cuộc ám sát bởi một người dân bộ lạc bất mãn một thổ tù có thủ cấp đà được treo giá bởi chính phủ.  Triều đình tại Huế, theo đề nghị của đại diện địa phương của họ, đã bị dẫn dụ để phong tặng cho ông Lưu một cấp bậc danh dự trong quân đội Việt Nam, và ông cùng quân lính của ông được khuyến khích hãy tiếp tục công cuộc bình định của họ.  Tuy nhiên, vào năm 1868, ông đã quyết định để yên các người miền núi trong tạm thời và tập trung các nỗ lực của ông vào một trong những phần thưởng đáng giá nhất có được, giang cảng ở thành phố Lào Cai giáp ranh với Vân Nam, vốn trong nhiều năm nằm trong tay của một nhóm thương gia Quảng Đông có vũ trang.

Khi mà những kẻ này lọt vào sự chủ định của ông Lưu, họ do những biến cố tình cờ đã có thể cầu cứu đến một lãnh chúa quyền lưc.  Bởi trong khi quân Cờ Đen đang dành đực ưu thế tại Việt Nam, tình trạng của các đồng chí cũ của họ tại tỉnh Quảng tây, Ngô “Vương” và quân đội của ông ta, rõ ràng ngày càng trở nên suy yếu hơn cho đến khi, bị truy lùng ráo riết bởi đội quân tỉnh, họ cũng bị xua đuổi và vượt qua biên giới phía nam.  Người cháu của “Vương”, có tên là Hoàng Sùng Anh (Huang Ch’ung-ying), năng động hơn người chú, đã thu tập các đệ tử thân cận quanh ông ta để thành lập một nhóm được phân biệt bằng lá cờ vàng, đúng theo mô thức đã được ấn định bởi Lưu Vĩnh Phúc nhưng có quân số đông gấp hai dến ba lần, và đã dựng một doanh trại tại một địa điểm có tên là Hà Giang, bên bờ sông Lô (Clear River). Đây là một phụ lưu của sông Hồng, phát nguyên giống như sông chính từ Vân Nam nhưng xa hơn về phía bắc, và chảy theo hướng đông nam cho đến khi nhập vào dòng nước chính, ở nơi cách bờ biển khoảng một trăm dặm.  Tuy nhiên, con sông Lô hiển nhiên không thể trở thành một nguồn lợi lộc như con sông Hồng, và một lời mời từ những thương nhân đang chiếm giữ ở Lào Cai thì hấp dẫn hơn nhiều.

Hoàng đã bắt kịp Lưu khi họ Lưu đang tiến quân chỉ còn cách Lào Cai vài dặm và đã chào đón ông như một người bạn và đồng chí cũ. Ở đó bảo đảm có câu chuyện mà tình tiết tương đồng gần nhất tại phương tây có lẽ sẽ được tìm thấy nơi lịch sử của các thị tộc vùng cao nguyên Scotlands.  Họ Lưu đã chiêu đãi vị khách một cách huy hoàng nhất mà ông có thể cung ứng được và giúp đỡ Hoàng thiết lập đoanh trại bên bờ sông đối diện với doanh trạị của mình.  Song ông ta không dám liều mạng một mình giữa đám quân Cờ Vàng, cho đến khi có điều tiếng đến tai ông rằng ông Hoàng cảm thấy bị tổn thương bởi sự kiện rằng ông ta đã nhiều lần đích thân sang thăm viếng họ Lưu nhưng chưa hề được đáp lễ.   Đã có sự nghi ngờ hiện diện giữa các đồng chí cũ với nhau như thế chăng?  Vì thế, sau hết, vào một ngày được lựa chọn vì có nhiều điềm được đoán giải là tốt, ông Lưu đã vượt qua sông, không vũ trang của chỉ có hai tùy tùng đi theo, và tự mình tìm đến túp lều nơi mà họ Hoàng đang nằm trên một chiếc phản hút thuốc phiện.  Khi vào trong, ông nhìn thấy một vài tên côn đồ trông dữ tợn đứng gác ở cửa, và lòng ông chùng xuống, nhưng giờ đã quá trễ để quay lui, và ông đã cố khởi sự một cuộc đối thoại sao cho tự nhiên nhất.  Có một dọc tẩu khác để trên bàn và mặc dù họ Lưu là người mà cả đời không hút thuốc, ông ta cầm chiếc ống điếu lên và giữ nó trong tay trong suốt buổi nói chuyện, sẵn sàng, theo lời chính ông kể lại, đánh vỡ óc họ Hoàng một khi họ Hoàng này có một củ chỉ đáng nghi ngờ nào khác.

Sự thận trọng này không cần thiết, bởi rõ ràng tất cả điều mà họ Hoàng muốn thảo luận chỉ là về vấn đề thành phố Lào Cai. Ông ta đã quyết định chuyển quân Cờ Vàng đến đó trong vòng hai hay ba ngày sắp tới, ông ta nói, và ông sẽ rất phấn khởi có người bạn của ông cùng đi.  Khó khăn duy nhất là về nơi đóng quân: các thương nhân Quảng Châu tại đó đã đề nghị cung cấp nơi đóng quân của Hoàng trong trung tâm thành phố, nhưng họ có đề cập rằng các tòa nhà để trống vùng ngoại ô sẽ rất thích hợp cho họ Lưu và cho bất kỳ quân số nào mà họ Lưu muốn mang theo. Điều duy nhất mà họ giao ước là các nhà kho của họ phải được để nguyên.
 
Thoát ra ngoài hang hổ một cách an toàn, họ Lưu lấy lại sự tự tin và đã tự mình trình diện đúng theo giao ước cùng với một đoàn quân Cờ Đen tại các tòa nhà được chỉ định. Ông đã sửa soạn đầy đủ tinh thần để nương náu qua ngày, thế nhưng vừa nhìn thấy những gì được sắp đặt cho mình, ông ta đã nổi cơn thịnh nộ.  Đó là một dãy lán tồi tàn, toát ra mùi hôi thối gớm ghiếc, bởi nền nhà và tường bị trát dầy đủ loại phân, người và súc vật. Điều này không thể chịu đựng được: đoàn quân Cờ Đen tiến vào thị trấn và không nói không rằng trưng dụng ngay một trong những kho hàng lớn nhất của nhóm thương gia Quảng Châu.  Náo động dữ dội xảy ra, và chỉ một lúc sau họ Hoàng xuất hiện, giận dữ y như họ Lưu, đòi biết tại sao họ Lưu lại không giữ lời hứa.  Một cuộc đụng độ xem ra khó có thể tránh khỏi, nhưng, một cách kỳ diệu, khi nghe trình bày về những gì đã xảy ra, cơn thịnh nộ của họ Hoàng đã tức thời tan biến thành sự dịu ngọt và lời xin lỗi về sự khinh xuất không thể tha thứ được do lỗi lầm của một số người nào đó.

Song dù sự việc đã được bỏ qua, sau đó không cần phảI giữ bề ngoài thân hữu nữa.  Trong vài tuần hai đội quân giữ khoảng cách và trông chừng nhau. Đã có một nỗ lực bởi một số thủ hạ có thiện chí, những kẻ bị tiêu hao vì cuộc huyn h đệ tương tàn, để mang hai nhà lãnh tụ ngồi lại với nhau, và một thời điểm cùng nơi chốn đã được chỉ định cho một cuộc họp, trong đó các người tham dự sẽ không được vũ trang.  Trong sự sẵn sàng đối phó với mọi tình huống, họ Lưu đã cho chúng ta hay rằng ông đã nhất quyết mài vót các móng tay thành móc nhọn, để móc mắt kẻ đối thoại khi tình thế phát sinh, nhưng cuộc hội họp không bao giờ diễn ra.

Các tình huống của trận đánh ở Lào Cai, khi mà sự bùng nổ không thể tránh khỏi đã xảy ra, đã che đậy dưới một bức màn sương hầu như không xuyên thấu được các chi tiết mâu thuẫn nhau.  Quân Cờ Vàng khai pháo mở trận đánh đầu tiên, dựa không chỉ trên ưu thế về quân số, mà còn trên sự việc rằng họ đã đào hầm chôn mìn ở dướI khu mà họ nghĩ là chỗ ngủ của đối phương.  Trong mưu kế này họ đã bị lừa, bởi họ Lưu đã hay biết được âm mưu của họ và đã phân tán quân của mình ra khỏi vùng nguy hại, sao cho khi mìn được châm ngòi cho nổ, nó tạo ra tiếng nổ rất lớn nhưng không có ai bị thương tích gì cả.  Thay vào đó, bên tấn công sớm phải gánh hậu quả của chính mưu kế của họ: trong khi họ xua quân tiến đánh, kho đạn dược của họ bị đốt cháy và giết hại nhiều quân lính của họ trong vụ nổ.  Cuộc giao tranh được phóng ra nhiều đợt trong vài ngày và kết thúc khi quân Cờ Vàng, bị bao vây từ ba mặt, đã bỏ chạy theo đường sông trong sự hỗn loạn đến nỗi một số người trong họ bị chết đuối.

Cuộc chiến thắng đã mang lại một bước ngoặt có tính cách quyết định trong sự nghiệp của Lưu Vĩnh Phúc.  Vốn đã sẵn liên minh với chính quyền Việt Nam, giờ đây ông nhận thấy sự trợ lực của ông lại được yêu cầu bởi chính quyền của chính quốc gia mình hầu đối phó với những kẻ cho đến giờ mà ông biết, nếu quả thực ông có hay biết, chỉ là các nhóm thổ phỉ nhỏ nhặt không quan trọng.  Chúng ta đã chứng kiến thấy bị chỉ huy cũ của ông, Ngô “Vương” đã chạy trốn xuống phương nam nhập vào Việt Nam vì bị truy kích bởi các thẩm quyền tỉnh Quảng Tây.  Các thẩm quyền này đã quyết định, với sự thỏa thuận của chính quyền Việt Nam, để thực hiện các cuộc truy kích xuyên qua biên giới, và một đôi quân Trung Hoa dưới quyền của một Tướng Quân họ Phùng nào đó đang hoạt động trên phần đất Bắc Việt Nam.  Viên tướng này, đóng một vai trò quan trọng trong câu chuyện của chúng ta, sẽ cần được giới thiệu một cách chính thức hơn sau này: trong nhất thời chỉ cần ghi nhận rằng ông đã nghe được sự chiến thắng của họ Lưu tại Lào Cai và tin tức đã gây ấn tượng sâu xa hơn nữa với ông ta bởi Ngô “Vương”, thủ lãnh chính thức của các nhóm thổ phỉ, đã thoát khỏi sự truy kích vi đã từ trần -- một cách tự nhiên hay vì bạo lực thì không rõ -- khiến cho người phụ tá tên Hoàng Sùng Anh trở thành người kế nhiệm ông ta.  Nói cách khác, họ Phùng, đại diện của Bắc Kinh, họ Lưu, một tên khấu tặc, và các võ quan cùng các quan lại bên dân sự tượng trưng cho sự xác nhận chủ quyền trên phần đất Bắc Việt của chính quyền tại Huế, nhận thấy họ có cùng một kẻ thù chung, bởi quân Cờ Vàng, vẫn còn là một lực lượng cần phải canh chừng trong vùng núi rừng rậm rạp nằm giữa thượng nguồn của sông Hồng và biên giới Quảng Tây, vốn có sự liên kết chặt chẽ với các bộ lạc miền núi.  Nhận thức được thực trạng sự vụ này, họ Phùng đã phái các sứ giả đến Lào Cai đề nghị ban cấp cho họ Lưu một quân hàm danh dự trong quân đội Trung Hoa với các điều kiện gần như tương đồng với các điều kiện mà ông ta đã chấp nhận đối với chính quyền Việt Nam.  Bất kỳ ác cảm nào còn lại trong họ Lưu đối với Triều Đình Mãn Châu – và khó nói rằng từ nguyên thủy ác cảm này được đặt trên các nguyên tắc nghiêm chỉnh – đã tức thời tan giá bởi sự ân cần trong lời nhắn nhủ.  Sự thực là càng nhìn thấy phía Việt Nam bao nhiêu, quân Cờ Đen càng cảm thấy hãnh diện hơn về chủng tộc của chính họ.  Ngô “Vương”, khi tuyên thệ trung thành với Thái Bình Thiên Quốc, hẳn đã phải ra lệnh cho quân sĩ của mình để tóc dài theo kiểu Trung Hoa cổ truyền, và chúng ta có thể tưởng tượng rằng đến giờ này, nếu chỉ vì các lý do thuận tiện, quân Cờ Đen vẫn còn để tóc như thế.  Từ nay trở đi, họ thay đổi quay trở lại việc tết bím tóc kiểu Mãn Châu, cảm thấy rắc rối hơn bởi, ngoài việc buộc và tết tóc, phần trán trên đầu lúc nào cũng cần đến sự sủ dụng lưỡi dao cạo.  Tuy nhiên, sự bực bội được đền bù nhiều hơn bằng lòng kiêu hãnh của việc khoa trương huy hiệu của nước chủ tể đối với đám dân chư hầu.

Chiến dịch sau đó bao gồm một số những thí dụ đáng kể nhất trong khả năng lãnh đạo quân sự của họ Lưu, đặc biệt chiến tích được mệnh danh là “ cuộc xung kích mười ba đèo”, trong đó họ Lưu đã lãnh đạo một lực lượng quân Cờ Đen xuyên qua vùng đồi núi tấn công vào tổng hành dinh của Hoàng Sùng Anh tại Hà Giang.  Bị thất trận một cách tuyệt vọng, họ Hoàng đã phải ẩn trốn cùng các đồng minh người miền núi của ông ta, và trong một thời gian ngắn, với một sự kết hợp tấn công to lớn, có vẻ như thể họ Hoàng và cánh quân Cờ Vàng của ông ta sắp đến hồi kết cuôc.  Nhưng thời tiết của Việt Nam, như đã từng xảy ra trong quá khứ, một lần nữa cho thấy khó kham được đối với một đội quân Trung Hoa chính quy, và Tướng Quân họ Phùng, quân sĩ của ông đã bị tàn phá bởi bịnh sốt rét và các chứng bịnh khác của vùng nhiệt đới, đã rút quân ra khỏi chiến trường.  Một lần nữa, quân Cờ Vàng lại khởi dậy từ vùng hoang dại và thiết lập một căn cứ dọc sông Hồng nằm giữa Lào Cai và Sơn Tây.

Niên biểu của các sự vụ này cực kỳ lộn xộn, nhưng chúng có thể ấn định với một số sự khả tín là đã diễn ra trong thời khoảng từ 1869 đến 1870.  Khi [Jean] Dupuis lần đầu tiên đi thuyền trên sông này vào năm 1871, họ Lưu đã nắm quyền kiểm soát một cách vững chắc thị trấn Lào Cai trong khi quân Cờ Vàng hoạt động xa hơn phía hạ nguồn.  Phần lớn điều đó ít ra cũng đã trở nên rõ rệt, nhưng trong nhiều chi tiết, chính Dupuis cũng mâu thuẫn với chính mình.  Chính vì thế, ở một nơi, ông ta khiến chúng ta tin rằng ông đã có nói chuyện với Lưu Vĩnh Phúc ở Lào Cai, trong khi ở chỗ khác, ông ta lại quả quyết rằng Lưu đã cố tình vắng mặt viI mục đích né tránh cuộc gặp gỡ với một người Âu Châu.  Trong hồi ký của chính họ Lưu, không thấy có đề cập gì đến bất kỳ cuộc nói chuyện nào thuộc loại này. Điều cũng cần phải ghi nhận rằng Dupuis đã cho biết một cách chính xác về tình thân hữu giữa nhóm quân Cờ Vàng với các dân vùng núi, nhưng có vẻ như một sự kiện đã không được nói đến rằng họ Lưu, trái với nhóm kình chống với ông ta, nói cho đúng, không còn là một nhóm thổ phỉ mà đã trở thành một bộ phận phục vụ được thừa nhận bởi các chính phủ Việt Nam và Trung Hoa. (1)

-----------

CHÚ THÍCH:

(1) Hồi ký của Lưu Vĩnh Phúc (nhan đề Liu Yung-fu li-shih ts’ao) được gồm trong quyển thứ nhất bộ Chung-Fa chan-cheng.  Một ấn bản riêng biệt với các chú thích bổ ích bởi Lo Hsiang-lin đã được ấn hành tại Đài Bắc năm 1957.  Tôi cũng có tham khảo tập tiểu sử viết bởi Li Wei, nhan đề Liu Yung-fu chuan, Changsha, 1940

Nguồn: Henry McAleavy, “Black Flags In Vietnam: The Story of A Chinese Intervention, The Tonkin War of 1884-85”, Chapter 6, các trang 98 – 112, The MacMillan Company: New York, 1968


       

Ngô Bắc dịch

© 2006 gio-o

đọc các bản dịch khác của Ngô Bắc