Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ

Pḥng Đại Dương và

Các Sự Vụ Môi Trường Quốc Tế và Khoa Học

Washington, D. C.

 

Các Giới Hạn Tại Biển

Nghiên Cứu số 143

Trung Quốc:

Các Tuyên Nhận Trên Biển

tại Biển Nam Trung Hoa

Ngày 5 Tháng Mười Hai, 2014

 

Ngô Bắc dịch

***

 

Lời Người Dịch

Dưới đây là bản dịch một bài nghiên cứu của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mới đựoc công bố hôm 5 Tháng 12, 2014 về đường các vạch đứt đoạn tại Biển Nam Trung Hoa trên bản đồ chính thức của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, với một kết luận chắc nịch rằng:

V́ các lư do này, trừ khi Trung Quốc nói rơ rằng sự tuyên nhận theo đường các vạch đứt đoạn chỉ phản ảnh một sự tuyên nhận các ḥn đảo nằm bên trong đường đó và bất kỳ khu vực biển nào phát sinh từ các địa h́nh đất liền đó đúng theo luật quốc tế về biển, như được phản ảnh trong Công Ước LOS, sự tuyên nhận theo đường các vạch đứt đoạn của nó không phù hợp với luật biển quốc tế.

Với tư cách một siêu cường duy nhất hiện nay có các quyền lợi chiến lược quan trọng trong vùng, tiếng nói chính thức của Hoa Kỳ về t́nh trạng tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông chắc chắn có một ảnh hưởng lớn lao đến sự phán xét của Phiên Ṭa Trọng Tài Quốc Tế trong vụ kiện của Phi Luật Tân xin giải thích về các sự tuyên nhận chủ quyền phi pháp và phi lư của Trung Quốc. 

Hai ngày sau, vào ngày 7 Tháng 12, 2014, Bộ Ngoại Giao của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc đà đưa ra bản tuyên bố Lập Trường của Trung Quốc về vấn đề Quyền Tài Phán trong vụ Trong Tài tại Biển Nam Trung Hoa được khởi kiện bởi Công Ḥa Phi Luật Tân. Bản văn về lập trường của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc này có thể được tham khảo tại địa chỉ: http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/t1217147.shtml

 

 

Một trong các chuyên viên hàng đầu của Hoa Kỳ và thế giới về Biển Đông tại Center for Strategic & International Studies: Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế Học (CSIS), Hoa Thịnh Đốn, ông Gregory B. Poling, đă đưa ra một bài b́nh luận ngắn gọn về các điểm chính yếu trong các văn bản chính thức của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Bộ Ngoại Giao Trung Quốc  nêu trên.  Bản dịch phần nhận định sơ khởi của Giáo Sư Gregory B. Poling được đăng tải nơi phần phụ lục dưới đây. /-

 

 

***

Tập nghiên cứu này là một tâp trong loạt bài nghiên cứu được phát hành bởi Văn Pḥng Đại Dương và Các Địa Cực Sự Vụ, Pḥng đặc trách các Sự Vụ về Đại Dương, Môi Trường Quốc Tế và Khoa Học thuộc Bộ Ngoại Giao.  Mục đích của loạt bài nghiên cứu này nhằm khảo sát các sự tuyên nhận và/hay ranh giới trên biển của một Quốc Gia duyên hải và lượng định sự phù hợp của chúng với luật quốc tế.  Cuộc nghiên cứu này đại diện cho các quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ chỉ riêng trong các vấn đề xác định được thảo luận trong đó và không nhất thiết phản ảnh một sự chấp nhận các giới hạn được tuyên nhận

Tập nghiên cứu này và các tập nghiên cứu trước đây trong cùng loat này, có thể được tải xuống từ địa chỉ: http://www.state.gov/e/oes/ocns/opa/c16065.htm.

Các ư kiến và câu hỏi cần được gửi bằng thư điện tử đến LimitsInTheSeas@state.gov

Các phân tích viên chính yếu cho tập nghiên cứu này là Kevin Baumert và Brian Melchior.

***

Dẫn Nhập

Bài nghiên cứu này phân tích các sự tuyên nhận trên biển của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa, đặc biệt sự tuyên nhận theo “đường các vạch đứt đoạn” của nó bao quanh các ḥn đảo và các hải phận của Biển Nam Trung Hoa. 1

Trong Tháng Năm 2009, Chính Phủ Trung Quốc có thông đạt hai Kháng Thư (Notes Verbales) đến Tổng thư Kư Liên Hiệp Quốc yêu cầu chúng được lưu hành đến tất cả các Quốc Gia Hội Viên Liên Hiệp Quốc. 2 Các Kháng Thư (Notes) năm 2009, chứa đựng các sự phản đối của Trung Quốc đối với các sự đệ nạp bởi Việt Nam và Mă Lai (đệ nạp chung) và Việt Nam (riêng rẽ) lên Ủy Hội Về Các Giới Hạn của Thềm Lục Địa, có tuyên bố như sau:

Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh căi trên các ḥn đảo tại Biển Nam Trung Hoa và các hải phận kề cận, và hưởng dụng các quyền chủ quyền và quyền tài phán trên các hải phận liên hệ cũng như đáy biển và tầng lớp dưới mặt đáy biển theo đó (xem bản đồ đính kèm).  Lập trường nêu trên đă được duy tŕ một cách nhất quán bởi Chính Phủ Trung Quốc, và được hay biết một cách rộng răi bởi cộng đồng quốc tế.

Bản đồ được đề cập tới trong các Kháng Thư của Trung Quốc, được in lại thành Bản Đồ số 1 của tập nghiên cứu này, vẽ chín vạch (đoạn, khúc) bao quanh các hải phận, các ḥn đảo, và các địa h́nh khác của Biển Nam Trung Hoa.  Việt Nam, Indonesia, và Phi Luật Tân đă theo nhau phản đối nội dung các Kháng Thư 2009 của Trung Quốc, kể cả việc khẳng định rằng các sự tuyên nhận của Trung Quốc phản ảnh trong bản đồ đường các vạch đứt đoạn là không có căn bản chiếu theo luật quốc tế về biển. 3 Trong năm 2011, Trung Quốc có yêu cầu rằng một Kháng Thư khác phải được truyền đạt đến Các Quốc Gia Hội Viên Liên Hiệp Quốc, đă lập lại câu đầu tiên được trích dẫn ở trên, và nói thêm rằng “Chủ quyền của Trung Quốc và các quyền liên hệ và quyền tài phán tại Biển Nam Trung Hoa được hậu thuẫn bởi đầy rẫy bằng chứng pháp lư và lịch sử”. 4

Trung Quốc đă không nói rơ xuyên qua pháp chế, sự tuyên bố, hay các lời phát biểu chính thức khác về căn bản hay bản chất pháp lư của sự tuyên nhận của nó gắn liền với bản đồ đường đứt đoạn.  Do đó, tập nghiên cứu Các Giới Hạn Tại Các Biển này khảo sát một vài sự giải thích khả hữu của sự tuyên nhận theo đường các vạch đứt đoạn và tầm mức theo đó các sự giải thích này phù hợp với luận quốc tế về biển.

 

Bản Đồ 1: Bản Đồ Đường Vạch Đứt Đoạn của Trung Quốc

 từ Các Kháng Thư Năm 2009

 

Các Bản Đồ Đường Vạch Đứt Đoạn

 

Các Nguồn Gốc và Sự Tiến Hóa

Mặc dù Trung Quốc không đưa ra một sự tŕnh bày chính thức, bản đồ đường các vạch rời nhau đầu tiên, theo lời tường thuật một cách rộng răi bởi các học giả và các nhà b́nh luận trước ngày có sự xuất hiện của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, đă được ấn hành trong năm 1947 bởi Chính Phủ phe Quốc Dân Đảng thời Trung Hoa Dân Quốc (Republic of China). 5 Bản đồ đó, phô bày 11 vạch, được in lại làm Bản Đồ số 2 của tập nghiên cứu này.  Các bài viết nghiên cứu cho thấy rằng bản đồ năm 1947, có tên là “Bản Đồ Các Đảo Biển Nam Trung Hoa”, có nguồn gốc từ một bản đồ sớm hơn có tên là “Bản Đồ Các Đảo Trung Hoa tại Biển Nam Trung Hoa (Zhongguo nanhai daoyu tu) được ấn hành bởi Ủy Ban Kiểm Tra Các Bản Đồ Đất Liền và Biển Của Trung Hoa Dân Quốc trong năm 1935, và rằng các bản đồ Trung Hoa được sản xuất sau ngày thành lập Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa trong năm 1949 “rơ ràng đi theo các bản đồ cũ”. 6 Tuy nhiên, các bản đồ ấn hành bởi Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc đă xóa bỏ hai vạch được vẽ nguyên thủy bên trong Vịnh Bắc Việt (Gulf of Tonkin). 7 Mặc dù không được nh́n thây trên bản đồ năm 2009 (Bản Đồ 1), các bản đồ Trung Quốc hiện đại, ít nhất kể từ 1984, kể cả các bản đồ vẽ theo chiều dọc được ấn hành bởi Trung Quốc trong các năm 2013 và 2014, 8 cũng gồm cả một vạch thứ mười nằm ở phía đông của Đài Loan.

 

Bản Đồ 2: Bản Đồ Đường 11 Vạch năm 1947 của (Quốc Dân Đảng) Trung Hoa

có tên là “Bản Đồ Các Đảo Tại Biển Nam Trung Hoa”

 

Mô Tả Địa Dư 9

Bản đồ gồm trong Các Kháng Thư năm 2009 của Trung Quốc chứa chín vạch bao quanh các ḥn đảo, các hải phận, và các địa h́nh khác của Biển Nam Trung Hoa.  Trung Quốc đă không công bố các tọa độ địa dư xác định vị trị của các vạch.  Bởi thể, tất cả các phép tính toán trong tập nghiên cứu này liên quan đến đường các vạch đứt đoạn có tính chất xấp xỉ, gần đúng. 10

Đường các vạch đứt đoạn bao trùm khoảng 2,000,000 cây số vuông không gian biển, một khu vực rộng khoảng 22 phần trăm diện tích đất liền của Trung Quốc.  Con số này cấu thành một bách phân đáng kể của không gian biển tại Biển Nam Trung Hoa. 11 Không kể Đài Loan và Đảo Pratas (được nói đến bởi Trung Quốc là Dongsha Qundao: Đông Sa Quần Đảo), đường các vạch đứt đoạn chứa đựng khoảng 13 cây số vuông diện tích đất liền. 12 Diện tích mặt đất này bao gồm ba nhóm địa h́nh đất liền trong phạm vi Biển Nam Trung Hoa: (1) Quần Đảo Paracel (được nói đến bởi Trung Quốc là Xisha Qundao) [tiếng Việt là Quần Đảo Hoàng Sa, chú của người dịch], (2) Quần Đảo Spratly (Nansha Qundao) [Trường Sa trong tiếng Việt, chú của người dịch] và (3) Scarborough Reef (Huangyan Dao).  Đảo lớn nhất trong các ḥn đảo này là Đảo Woody [Phú Lâm trong tiếng Việt, ND] thuộc Quần Đảo Paracel, với một diện tích là 2.4 cây số vuông.  Các vạch cũng bao quanh nhiều địa h́nh ch́m dưới mặt nước chẳng hạn như Macclesfield Bank (Zhongsha Qundao: Trung Sa Quần Đảo) và James Shoal (Zengmu Ansha). 13

 

Bản Số 3 Minh Họa Đường Các Vạch Đứt Đoạn Của Trung Quốc

Bản Đồ số 3 của tập nghiên cứu này vẽ đường các vạch với một con số được ghi bên cạnh mỗi vạch chỉ để dùng cho tiện việc tŕnh bày.  Cần phải ghi nhận rằng Trung Quốc không đánh số cho các vạch.  Các vạch không được phân bố một cách đồng nhất và cách xa nhau từ 106 hải lư (giữa các vạch 7 và 8) đến 274 hải lư (các vạch 3 và 4). Các vạch nằm tương đối gần sát với các bờ biển đất liền và các ḥn đảo duyên hải của các Quốc Gia duyên hải chung quanh Biển Nam Trung Hoa.  Vạch 1 cách bờ biển đất liền của Việt Nam 50 hải lư và cách đảo ven biển Lư Sơn của Việt Nam 36 hải lư.  Vạch 3 cách đảo gần nhất của Indonesia, Pulao Sekatung 75 hải lư.  Vạch 4 cách bờ biển Mă Lai trên đảo Borneo 24 hải lư.  Vạch 5 cách điểm gần nhất trên đảo đông nam Phi Luật Tân, đảo Balabac, 35 hải lư.  Vạch 9 cách Đảo Y’Ami, đảo cực bắc của Phi Luật Tân trên Eo Biển Luzon 26 hải lư

 

Bản Đồ 4: Các Khoảng Cách Từ Các Vạch Đến Các Địa H́nh Đất Liền

Như được chỉ trên Bản Đồ số 4 của tập nghiên cứu này, các vạch nói chung sát gần các bờ biển bao quanh của các Quốc Gia lân cận hơn so với ḥn đảo gần nhất [với các vạch] trong phạm vi Biển Nam Trung Hoa.  Nói cách khác, các khoảng cách giữa các vạch và các ḥn đảo nói chung xa hơn các khoảng cách đă nói ở trên đến các bờ biển bao quanh.  Tại các điểm gần nhất của chúng, các vạch cách ḥn đảo gần nhất thuộc Quần Đảo Hoàng Sa 84 hải lư (vạch 1 đến Đảo Tri Tôn), cách đảo gần nhất thuộc Quần Đảo Spratly hơn 46 hải lư (vạch 5 đến Băi Half Moon Shoal) và cách Scraborough Reef gần 75 hải lư (vạch 7).  Một số vạch cách xa các đảo gần nhất thuộc Biển Nam Trung Hoa.  Thí dụ, vạch 3 cách ḥn đảo gần nhất như thế, tức Đảo Spratly, đến 235 hải lư.  Vạch 4 cách Louisa Reef 133 hải lư.  Vạch 8 cách đảo gần nhất tại Scraborough Reef 179 hải lư.

Một sự mô tả địa dư đường các vạch rời nhau của Trung Quốc trở nên phức tạp bởi sự thiếu đồng nhất giữa bản đồ năm 2009 của Trung Quốc với các bản đồ khác của trung Hoa, chẳng hạn như bản đồ 1947.  Sự mô tả địa dư ở trên có thể được áp dụng cho bản đồ năm 2009, nhưng không áp dụng được cho bản đồ năm 1947 hay ngay ca/ cho các bản đồ hiện thời của Trung Quốc bởi các bản đồ đó rơ ràng vẽ các vạch với các kích cỡ và vị trí khác nhau.  Bản Đồ số 5 của tập nghiên cứu này vẽ đường các vạch đứt đoạn từ cả bản đồ năm 2009 lẫn 1947, cho thấy rằng kích thước và các vị trí của các vạch của bản đồ năm 2009 nói chung ngắn hơn và gần các bờ biển của các Quốc Gia lân cận hơn so với các vạch trên bản đồ năm 1947.  Gần bờ biển Việt Nam, vạch 2 trong bản đồ năm 2009 sát bờ biển Việt Nam hơn đến 45 hải lư so với vạch gần nhất trên bản đồ năm 1947, và vạch 1 gần hơn 15 hải lư.  Vạch 4 gần hơn bờ biển Mă Lai (khoảng 8 hải lư) và tương tự, vạch 8 gần hơn miền bắc đảo Luzon của Phi Luật Tân (khoảng 19 hải lư).  Ngoài ra, vạch 5 từ bản đồ năm 1947 gần đảo Pulau Sekatung của Indonesia 15 hải lư so với vạch 3 của bản đồ năm 2009.  Cho dù có một h́nh uốn cong tương tự với vạch 5 của bản đồ năm 2009, vạch 7 của bản đồ năm 1947 th́ dài hơn và gần hơn chút ít đảo Palawan của Phi Luật Tân, cũng như với các bờ biển của Mă Lai và Brunei trên đảo Borneo.  Các vạch được vẽ trong bản đồ năm 1947 cũng được cách quăng sao cho chúng nói chung gần nhau hơn so với các vạch của bản đồ năm 2009, với ngoại lệ rằng khoảng cách giữa các vạch 8 và 9 vào khoảng 290 hải lư.  Mặt khác, các vạch trên bản đồ năm 1947 cách xa nhau trong khoảng từ 31 hải lư (các vạch 10 và 11) đến 255 hải lư (các vạch 4 và 5).

 

Bản Đồ 5

So sánh Đường Các Vạch Đứt Đoạn Trong Các Bản Đồ năm 2009 và năm 1947

Bản đồ đường các vạch được phân phát bởi Trung Quốc đến cộng đồng quốc tế trong năm 2009 cũng không đồng nhất về mặt họa đồ với các bản đồ khác được ấn hành bởi Trung Quốc.  Các vạch của bản đồ năm 2009 xem ra không ở cùng các vị trí địa dư như các vạch trong các bản đồ các năm 2013-2014 được ấn loát bởi Nhà Xuất Bản Sinomaps và các bản đồ của cơ quan tiền thân của nó, Nhà Xuất Bản Bản Đồ (Ditu Chubanshe), có niên đại lùi lại ít nhất đến năm 1984.  Bản đồ 6 của tập nghiên cứu này miêu tả sự khác biệt đối với vạch 4.

 

Bản Đồ 6: Vị Trí Vạch 4 trên các bản đồ 2009 (màu đỏ liền nhau) & bản đồ năm 1984

 

Căn Bản Phân Tích

Chiếu theo luật quốc tế, khuôn khổ pháp lư khả dĩ áp dụng được cho việc lượng định các sự tuyên nhận về biển là luật quốc tế về biển, như được phản ảnh trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (viết tắt trong Anh ngữ là LOS Convention).

 

Các Khu Vực Biển

Luật quốc tế, như được phản ảnh trong Công Ước LOS, chứa đựng các quy tắc chi phối sự hưởng dụng các khu vực biển của một Quốc Gia duyên hải.

Phần II của Công Ước đặt ra các quy tắc chi phối các đường cơ sở ven biển, từ đó các giới hạn hướng ra biển của các khu vực biển được đo lường.  Đường cơ sở thông thường là mực thủy triều xuống thấp dọc theo bờ biển, như được mô tả nơi Điều 5 của Công Ước.  Công Ước cũng cho phép phương pháp các đường cơ sở thẳng hàng được sử dụng “tại các địa phương nơi bờ biển lơm và cắt sâu vào phía trong hay nếu có một chuỗi các ḥn đảo dọc theo bờ biển tại vùng lân cận sát cạnh của nó” (Điều 7).  Các hải phận của bên hướng vào đất liền của đường cơ sở là các nội hải (Điều 8).  Phần IV của Công Ước chứa đựng các quy tắc về các đường cơ sở bao quanh các hải phận ṿng cung đảo của các Quốc Gia ṿng cung đảo chẳng hạn như Indonesia và Phi Luật Tân. 15

Phần II của Công Ước cũng đặt ra các quy tắc chi phối lănh hải, có thể được nới dài tới 12 hải lư từ đường cơ sở, và trong đó Quốc Gia duyên hải hành sử chủ quyền phải tôn trọng quyền thông hành vô tư (innocent passage) và các quy tắc khác của luật quốc tế.  Ngoài ra, Phần II mô tả khu tiếp giáp, nới dài vượt quá lănh hải tới 24 hải lư tính từ các đường cơ sở, trong đó một Quốc Gia duyên hải có thể hành sử sự kiểm soát cần thiết để ngặn chặn hay trừng phạt sự vi phạm thuế quan, các luật lệ và các quy định về tài chính, nhập cảnh, hay vệ sinh của nó trong phạm vi lănh thổ và lănh hải của nó.

Phần V của Công Ước đặt ra các sự dự liệu liên quan đến khu kinh tế độc quyền: KKTĐQ (exclusive economic zone: EEZ), có thể nới dài tới mức tối đa 200 hải lư kể từ đường cở sở.  Trong phạm vi KKTĐQ, Quốc Gia duyên hải có liệt kê các quyền hạn, một cách nổi bật, là “các quyền chủ quyền để thăm ḍ và khai thác, bảo tồn và quản trị các tài nguyên thiên nhiên” và “thẩm quyền tài phán như được dự liệu” trong Công Ước về “sự thiết lập và sử dụng các đảo nhân tạo, các cơ sở thiết trí và các cấu trúc” cũng như “sự nghiên cứu khoa học về biển” và “sự bảo vệ và bảo tồn môi trường biển” (Điều 56).  Cùng lúc, các quyền tự do hàng hải, hàng không, lắp đặt và bảo tŕ các dây cáp dưới biển, và các sự sử dụng khác liên quan đến các tự do này được duy tŕ tại KKTĐQ (Điều 58).

Phần VI của Công Ước đặt ra các sự quy định liên quan đến thềm lục địa, nới dài tới đường viền ṿng ngoài của gờ lục địa hay tới một khoảng cách 200 hải lư tính từ các đường cơ sở, như được mô tả nơi Điều 76.  Quốc Gia duyên hải hành sử các quyền chủ quyền để thăm ḍ thềm lục địa và khai thác các tài nguyên thiên nhiên của nó; các quyền này có tinh chất “độc quyền: exclusive” và “không lệ thuộc vào sự chiếm ngụ, có thực hay trong ư niệm, hay trên bất kỳ sự tuyên bố công khai nào” (Điều 77).

Phần VIII của Công Ước định nghĩa một ḥn đảo như “một khu đất liền được tạo thành một cách tự nhiên, được bao quanh bởi nước biển, ở trên mặt nước lúc thủy triều lên cao” (Điều 121(1)).  Nó quy định rằng các ḥn đảo có cùng các quyền hưởng dụng dành cho các khu vực biển nêu trên như lành thổ khác, ngoại trừ “các ḥn đá không thể chống đỡ cho sự cư trú của con người hay sinh hoạt kinh tế của bản thân chúng, sẽ không có khu kinh tế độc quyền hay thềm lục địa” (Điều 121(3)).

Các dịa h́nh ch́m dưới mặt nước không nổi lên trên mặt nước lúc thủy triều lên cao không phải là “các ḥn đảo” và không được hưởng quyền như các khu vực biển. 16 Chúng tạo thành bộ phận của đáy biển và lớp nằm dưới đáy biển, và chịu sự chi phối theo chế độ của khu vực biển trong đó chúng được t́m thấy.  Công Ước cũng nói rơ rằng “các đảo nhân tạo, các cợ sở thiết trí, và các cấu trúc không có quy chế của các ḥn đảo.  Chúng không có lănh hải của chính chúng, và sự hiện diện của chúng không ảnh hưởng đến sự phân định lănh hải, KKTĐQ hay thềm lục địa” (Điều 60(8)).  Chúng cũng phải chịu cùng thể chế của khu vực biển nơi mà chúng tọa lạc.

 

Các Ranh Giới Biển

Các vấn đề phân định ranh giới biển phát sinh khi các khu vực biển của các Quốc Gia láng giềng phủ trùm lên nhau.  Các Điều 15, 74 và 83 của Công Ước đặt ra các sự dự liệu cho sự phân định các ranh giới biển giữa các Quốc Gia đối diện hay kề cận nhau.  Điều 15, liên can đến sự phân định lănh hải, quy định rằng “ngược lại … nếu không đạt được sự thỏa thuận”, một Quốc Gia  không được hưởng quyền “để nới dài lănh hải của nó vượt quá mọi điểm trên đường trung tuyến có khoảng cách đều nhau từ các điểm gần nhất trên các đường cơ sở mà từ đó bề rộng của lănh hải của mỗi một trong hai Quốc Gia được đo lường”.  Tuy nhiên, điều khoản này “không áp dụng … nơi mà v́ lư do bằng khoán lịch sử hay các t́nh huống đặc biệt khác, cần phải phân định các lănh hải của hai Quốc Gia theo một cách biến đổi theo đó”.

Về sự phân định KKTĐQ và thềm lục địa, các Điều 74 và 83 lần lượt quy định, rằng sự phân định “sẽ bị ảnh hưởng bởi sự thỏa thuận trên căn bản luật quốc tế, như được nói đến trong Điều 38 của Luật Tổ Chức Về Ṭa Án Công Lư Quốc Tế (Statute of the International Court of Justice), nhằm đạt được một giải pháp công bằng”.  Các năm gần đây, các ṭa án và các phiên ṭa quốc tế nói chung đă phân định KKTĐQ và thềm lục địa bằng việc vẽ một đường cách đều nhau tạm thời và sau đó điều chỉnh đường đó nếu cần thiết chiếu theo cấu h́nh và các địa h́nh của bờ biển, kể cả các ḥn đá và các ḥn đảo nhỏ khác. 17

 

Các Vũng “Lịch Sử” và Bằng Khoán “Lịch Sử”

Các điều khoản trọng yếu về nội dung của Công Ước LOS đề cập tới các vũng hay bằng khoán “lịch sử” trong hai trường hợp.  Thứ nhất, Điều 10 (“Các Vũng”) quy định rằng các khoản của điều đó liên can đến các vũng về mặt pháp định “không áp dụng cho các điều được gọi là các vũng ‘lịch sử’”.  Thứ nh́, Điều 15, như đă được nói đến ở trên, quy định rằng quy tắc tổng quát chi phối sự phân định các lănh hải phủ trùm lên nhau không áp dụng trong các trường hợp của “bằng khoán lịch sử hay các t́nh huống đặc biệt khác”.  Các điều khoản này có nội dung giống như các điều khoản được chứa đựng trong các Điều 7 và 12 của Công Ước năm 1958 về Lănh Hải và Khu Tiếp Giáp. 18

Trách vụ thiết lập sự hiện hữu của một vũng lịch sử hay bằng khoán lịch sử thuộc về bên tuyên nhận.  Hoa Kỳ có quan điểm rằng, đề thiết lập sự hiện hữu của một vũng lịch sử hay bằng khoán lịch sử, một Quốc Gia phải chứng minh: (1) sự hành sử thẩm quyền công khai, được hay biết rơ ràng và hữu hiệu trên hải phận được cứu xét đến; (2) sự hành sử liên tục thẩm quyền đó; và (3) sự ưng thuận của các Quốc Gia khác về sự hành sử thẩm quyền đó. 19 Các giới hạn này phù hợp với quan điểm của giới chức thẩm quyền pháp lư quốc tế có ảnh huởng, kể cả Ṭa Án Công Lư Quốc Tế và cuộc nghiên cứu năm 1962 về “Chế Độ Pháp Lư Của Hải Phận Lịch Sử, Gồm Cả Các Vũng Lịch Sử”, được ủy nhiệm bởi Hội Nghị đă chấp thuận Các Công Ước Geneva năm 1958 về luật biển. 20 Án lệ quốc tế cứu xét các sự tuyên nhận lịch sử đă được giới hạn vào (1) các sự tranh chấp liên quan đến các ranh giới trên biển và chủ quyền trên lănh thổ đất liền 21 và (2) các sự tranh chấp khác trên các hải phận gần bờ biển nơi mà, theo luật biện hiện thời, có thể bị khoanh ṿng khi sử dụng phương pháp các đường cơ sở thẳng hàng. 22

Các Điều 10 và 15 bị giới hạn nghiêm ngặt về mặt địa dư và thực chất.  Chúng chỉ áp dụng đối với các vũng và các cấu h́nh duyên hải gần bờ biển tương tự, không ở trong các khu vực của KKTĐQ, thềm lục địa, hay các biển mở ngỏ.  Trong quá khứ, trước khi có sự xuất hiện của các khu vực biển ngày nay, chế độ các biển mở ngỏ đă được áp dụng rất gần với mực khi thủy triều xuống thấp dọc theo bờ biển, làm khích động các ước muốn cho sự bảo vệ rộng lớn hơn các quyền lợi của Quốc Gia duyên hải – các ước muốn được thông tri trước đây rằng “các hải phận lịch sử” 23 và các tuyên nhận khác của các Quốc Gia duyên hải vi phạm vào chế độ biển mở ngỏ đó.  Các thể chế của Công Ước LOS và các giới hạn địa dư của chúng đă thích ứng các ước vọng đó, và đặr ra khuôn khổ chi phối mọi bộ phận của biển theo đó không có vùng hạn chế nào được cho phép (Điều 309).

 

Phân Tích

  

Các sự tuyên nhận khả hữu của Trung Quốc liên hệ đến các bản đồ đường các vạch rời nhau có thể được phân chia thành hai loại: các tuyên nhận về đất liền và các tuyên nhận về biển.  Về các tuyên nhận trên đất liền, lập trường của Trung Quốc th́ rơ ràng; nó đang tuyên nhận chủ quyền trên các đảo nằm trong phạm vi của đường các vạch đứt đoạn.  Các Kháng Thư na9m 2009 của Trung Quốc tuyên bố rằng “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh căi trên các ḥn đảo tại Biển Nam Trung Hoa”. Sự khẳng định này, trong khi bị tranh chấp bởi các Quốc Gia láng giềng với các sự tuyên nhận chủ quyền tranh giành nhau trên các đảo này, th́ nhất quán với các sự loan báo trước đây của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, có niên kỳ lùi lại ít nhất là luật lănh hải năm 1992 của nó. 24 Chính v́ thế, điều rơ ràng là Trung Quốc chủ ư nói rằng các bản đồ đường các vạch của nó để chỉ các ḥn đảo tại Biển Nam Trung Hoa trên đó nó tuyên nhận chủ quyền. 25

Về các tuyên nhận về biển, lập trường của Trung Quốc không rơ ràng.  Do đó, tập nghiên cứu này khảo sát dưới đây ba sự diễn giải khả hữu của sự tuyên nhận theo đường các vạch đứt đoạn và tầm mức theo đó các sự giải thích đó phù hợp với luật biển quốc tế. 26 Các sự giải thích bổ khuyết nhau này được xác định với sự tham chiếu các nguồn tài liệu chính yếu, một cách nổi bật, các lời tuyên bố chính thức và các đạo luật của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc. 27

 

1. Đường các Vạch Như Một Sự Tuyên Nhận Các Ḥn Đảo

Thảo Luận

Theo sự diễn giải khả hữu này, đường các vạch là để cho thấy các ḥn đảo trên đó Trung Quốc tuyên nhận chủ quyền.  Không phải là điều khác thường để vẽ các đường trên biển trên một bản đồ như một phương thức hiệu quả và thực tiễn để xác định một nhóm các ḥn đảo.  Nếu bản đồ tŕnh bày các sự tuyên nhận về đất liền không thôi của Trung Quốc, khi đó các sự tuyên nhận về biển của Trung Quốc, theo sự diễn giải này, là các sự tuyên nhận được quy định trong Công Ước LOS.  Lời phát biểu của Trung Quốc kèm theo bản đồ trong các Kháng Thư năm 2009 của nó có thể được đọc nhằm hậu thuẫn cho ư nghía này:

Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh căi trên các ḥn đảo tại Biển Nam Trung Hoa và các hải phận kề cận, và hưởng dụng các quyền chủ quyền và quyền tài phán trên các hải phận liên hệ cũng như đáy biển và tầng lớp dưới đáy biển ở đó (xem bản đồ đính kèm).

“Chủ quyền“ trên các hải phận “kề cận” của các ḥn đảo có thể để chỉ lănh hải 12 hải lư, trong thực tế là một khu thuộc “chủ quyền” theo luật quốc tế. 28 Tương tự, “các quyền chủ quyền và quyền tài phán” có thể được hiểu để chỉ các thể chế pháp lư của KKTĐQ và thềm lục địa theo Công Ước LOS, vốn dùng cùng từ ngữ để mô tả thẩm quyền Quốc Gia duyên hải trong phạm vi các khu vực đó. 29 “Các hải phận liên hệ” và “đáy” biển cùng lớp đất dưới đáy biển theo đó” cũng có thể được hiểu một cách tương tự để chỉ KTTĐQ và thềm lục địa.

Ủng hộ cho sự giải thích này có thể được t́m thấy trong các luật và lời tuyên bố của Trung Quốc.  Điều 2 của luật lănh hải năm 1992 của Trung Quốc tuyên nhận một lănh hải 12 hải lư chung quanh “Quần Đảo Dongsha [Pratas], Quần Đảo Xisha [Paracel], Quần Đảo Nansha [Spratly] và các đảo khác thuộc về Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc”. 30 Tuyên Bố Lănh Hải năm 1958 của Trung Quốc đưa ra các sự tuyên nhận tương tự. 31 Về các khu vực “liên hệ” hướng ra phía biển của lănh hải, luật KKTĐQ và thềm lục địa năm 1998 của Trung Quốc ấn định một KKTĐQ rộng 200 hải lư và tŕnh bày các quyền và quyền tài phán thềm lục địa của Trung Quốc. 32 Trong thực tế, Các Kháng Thư năm 2009 của Trung Quốc đă nói rơ quan điểm của nó rằng “Quần Đảo Nansha hưởng dụng đầy đủ Lănh Hải, Khu Kinh Tế Độc Quyền (KKTĐQ) và Thềm Lục Địa”, và không có sự đề cập nào được đưa ra về bất kỳ sự tuyên nhận biển nào khác. 33

Bằng chứng bản đồ và các lời tuyên bố chính thức cũng cung cấp sự ủng hộ cho một sự giải thích rằng đường các vạch đứt đoạn của Trung Quốc tŕnh bày các sự tuyên nhận đảo và không có các sự tuyên nhận biển riêng biệt.  Như đă ghi nhận ở trên, bản đồ đường các vạch đứt đoạn nguyên thủy của thập niên 1930, trên đó các bản đồ các vạch đứt đoạn kế tiếp đă dựa vào, được đặt tên là “Bản Đồ Các Đảo Trung Hoa tại Biển Nam Trung Hoa”.  Bản đồ đó rơ ràng đă được đem sử dụng trong nước bởi Trung Hoa Dân Quốc hồi cuối thập niên 1940 trong thời gian khi luật quốc tế chi phối các sự tuyên nhận biển bởi phần lớn sự giải tŕnh chỉ thừa nhận một ṿng đai lănh hải chật hẹp.  Trong thực tế, Tuyên Bố về Lănh Hải của chính Trung Quốc trong năm 1958 nói:

Điều khoản này [lănh hải 12 hải lư] áp dụng cho tất cả các lănh thổ của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, kể cả lục địa Trung Quốc và các ḥn đảo duyên hải của nó, cũng như Đài Loan và các ḥn đảo bao quanh của nó, Quần Đảo Bành Hồ và tất cả các đảo khác thuộc về Trung Quốc, bị cách biệt với lục địa và các đảo duyên hải của nó bởi các biển mở ngỏ [high seas] [in nghiêng để nhấn mạnh được bổ túc bởi các soạn giả]. 34

Sư đề cập đến “các biển mở ngỏ” – không gian biển không thuộc quyền tài phán của nước nào – phân cách lục địa Trung Quốc và các ḥn đảo duyên hải của nó với “tất cả các ḥn đảo khác thuộc Trung Quôc’ cho thấy rằng trong năm 1958, Trung Quốc đă không đưa ra sự tuyên nhận toàn thể không gian đại dương nằm bên trong đường các vạch đứt đoạn.

 

Lượng Định

Đặt sang một bên các vấn đề liên hệ đến các sự tuyên nhận chủ quyền tranh giành nhau trên các đia h́nh đất liền và các ranh giới trên biển chưa được giải quyết tại Biển Nam Trung Hoa, nếu sự diễn giải ở trên về sự tuyên nhận theo đường các vạch đứt đoạn của Trung Quốc là xác thực, khi đó các sự tuyên nhận biển dự liệu trong các luật nội địa Trung Quốc có thể được giải thích một cách tổng quát để thích hợp với luật biển quốc tế, như sau đây:

1.      Bờ biển lục địa Trung Quốc và Đảo Hải Nam được hưởng dụng một lănh hải, khu tiếp giáp, KTTĐQ và thềm lục địa, kể cả tại các khu vực nhô ra Biển Nam Trung Hoa. 35

2.      Các Đảo Khác, như được định nghĩa bởi Điều 121(1) Công Ước LOS, được tuyên nhận bởi Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa, một cách tương tự, sẽ được hưởng dụng các khu vực biển nêu trên.  Theo Điều 121(3) các đảo cấu thành “các ḥn đá không thể chống đỡ cho sự cư trú của con người hay đời sống kinh tế của chính nó sẽ không được hưởng dụng một KKTĐQ và một thềm lục địa. 36

3.      Các địa h́nh ch́m dưới nước, tức các địa h́nh không ở trên mặt nước lúc thủy triều lên cao, không phải là chủ thể của các sự tuyên nhận chủ quyền và không phát sinh các khu vực biển của riêng chúng. 37 Chúng phải chịu cùng thể chế của khu vực biển nơi mà chúng được t́m thấy.

4.      Các đảo nhân tạo, các cơ sở thiết trí, và các cấu trúc, tương tự, không phát sinh ra bất kỳ lănh hải hay các khu vực biển khác. 38

Sự lượng định này phải chịu một vài sự cảnh báo quan trọng.

Trước tiên, các sự tuyên nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các ḥn đảo tại Biển Nam Trung Hoa có bị tranh chấp. 39 Quần Đảo Paracel cũng được tuyên nhận bởi Việt Nam và Đài Loan; và một số hay toàn thể Quần Đảo Spratly cũng được tuyên nhận bởi Việt Nam, Phi Luật Tân, Mă Lai, Brunei, và Đài Loan.  Bởi v́ các sự tuyên nhận đất liền của Trung Quốc bị tranh chấp, các sự tuyên nhận biển tŕnh bày ở trên dựa trên các sự tuyên nhận đất liền, tương tự, cũng bị tranh chấp.

Thứ nh́, Trung Quốc vẫn chưa làm sáng tỏ các sự tuyên nhận biển của nó liên quan đến một số địa h́nh địa dư nào đó tại Biển Nam Trung Hoa.  Thí dụ, Trung Quốc không nói rơ các địa h́nh nào tại Biển Nam Trung Hoa mà nó xem là “các ḥn đáo (hay, cách khác, các địa h́nh ch́m dưới nước) cũng như “những đảo nào”, nếu có, mà nó xem là “đá” không được hưởng dụng một KKTĐQ hay một thềm lục địa chiếu theo đoạn 3 của Điều 121, Công Ước LOS.  Đối với Rạn San Hô Scarborough Reef và một số địa h́nh nào đó tại Quần Đảo Spratly, các vấn đề này là các chủ điểm của thủ tục trọng tài giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc theo Phụ Lục VII của Công Ước LOS. 40

Thứ ba, Việt Nam, Phi Luật Tân, Mă Lai, Indonesia, và Brunei có các khu vực biển nới dài từ các bờ biển lục địa của chúng vào Biển Nam Trung Hoa.  Giả sử cho mục đích tranh luận không thôi rằng ngay dù Trung Quốc có chủ quyền trên toàn thể các ḥn đảo tranh chấp tại Biển Nam Trung Hoa, các khu vực biển phát sinh bởi các ḥn đảo tại Biển Nam Trung Hoa sẽ phủ trùm lên các khu vực biển được phát sinh bởi các bờ biển đối diện của các Quốc Gia đă nói ở trên.

 

2. Đường Vạch Đứt Đoạn Như Một Ranh Giới Quốc Gia

 

Bản Đồ 7: Kư Hiệu Trên Bản Đồ Trung Hoa Hiện Đại
Trinh Bày Đường Các Vạch Đứt Đoạn


 

Thảo luận:

Theo sự giải thích khả hữu này, đường vạch đứt đoạn xuất hiện trên các bản đồ Trung Quốc có ư định để chỉ một ranh giới quốc gia giữa Trung Quốc và các Quốc Gia láng giềng.

Như được chỉ nơi Bản Đồ 7 của bài nghiên cứu này, các bản đồ và tập bản đồ Trung Quốc hiện đại sử dụng một kư hiệu ranh giới để vẽ đường vạch đứt đoạn tại Biển Nam Trung Hoa.  Trong thực tế, kư hiệu trên các bản đồ Trung Quốc cho các ranh giới đất liền cũng là kư hiệu được dùng cho các vạch, và văn bản trong phần chú giải của các bản đồ như thế đă phiên dịch kư hiệu ranh giới hoặc là “ranh giới quốc gia” hay “ranh giới quốc tế” (国界, kư âm theo mẫu tự la mă là guojie: quốc giới).  Các bản đồ này cũng dùng một kư hiệu ranh giới khác, được phiên dịch như ranh giới quốc gia hay quốc tế “chưa được xác định” (未定囯界: weiding guojie: vị định quốc giới), nhưng kư hiệu này không được sử dụng cho đường các vạch đứt đoạn.  Sự đặt để các vạch trong phạm vi không gian đại dương mở ngỏ khiến ta nghĩ đến một giới hạn hay ranh giới biển.

 

Lượng Định

Các Điều 74 và 83 của Công Ước LOS quy định về KKTĐQ và thềm lục địa rằng sự phân định ranh giới “sẽ bị ảnh hưởng bởi sự thỏa thuận trên căn bản luật quốc tế .. nhằm đạt được một giải pháp công bằng”. 41 Bởi các ranh giới biển theo luật quốc tế được tạo lập bởi thỏa ước (hay phán quyết pháp lư) giữa các Quốc Gia láng giềng, một nước không thể đơn phương thiết lập một ranh giới biển với một nước khác.  Giả sử rằng Trung Quốc có chủ quyền trên mọi ḥn đảo tranh chấp, sự phân định ranh giới biển các khu vực chồng chéo sẽ cần được thương thảo với các Quốc Gia có các bờ biển đối diện – Việt Nam, Phi Luật Tân, Mă Lai, Indonesia, và Brunei.  Các vạch cũng thiếu các chuẩn mực (hallmark) quan trọng khác của một ranh giới biển, chẳng hạn như một danh sách liệt kê các tọa độ địa dư và một đường liên tục, không đứt đoạn phân cách không gian biển của hai nước.

Cho đến tầm mức đường vạch đứt đoạn bày tỏ lập trường đơn phương của Trung Quốc trên vị trí xác thực của một ranh giới biển với các láng giềng của nó, một lập trường như thế sẽ đi ngược lại với sự thực thi của Quốc Gia và án lệ quốc tế về sự phân định ranh giới biển.  Trong việc xác định vị trí của các ranh giới biển, Các Quốc Gia và các ṭa án và các pháp đ́nh thường chuẩn cấp, một cách điển h́nh, cho các đảo rất nhỏ, xa cách một bờ biển lục địa giống như các đảo tại Biển Nam Trung Hoa một tầm quan trọng ngang bằng hay thấp hơn các bờ biển đối diện chạy dài và liên tục. 42 (Bản Đồ 4 bên trên cho thấy các địa điểm tuyển chọn nơi các vạch gần sát hơn nhiều các bờ biển của Các Quốc Gia khác so với các ḥn đảo Biển Nam Trung Hoa được tuyên nhận bởi Trung Quốc).

Nếu đường các vạch đứt đoạn có chủ định để tŕnh bày một sự tuyên nhận ranh giới biển đơn phương, sự diễn giải này cũng không giải đáp câu hỏi liên hệ về loại quyền hay quyền tài phán nào mà Trung Quốc đang khẳng định cho bản thân nó trong phạm vi đường vẽ.  Đường các vạch đứt đoạn, để phù hợp với luật quốc tế, không thể tượng trưng cho một giới hạn trên lănh hải (và do đó, chủ quyền của nó) của Trung Quốc, khi các vạch được tọa lạc bên ngoài giới hạn tối đa 12 hải lư lănh hải của các địa h́nh đất liền được tuyên nhân bởi Trung Quốc.  Hơn nữa, các vạch 2, 3, và 8 không những chỉ tường đối gần sát các bờ biển lục địa của các Quốc Gia khác, tất cả hay một phần các vạch đó cũng c̣n nằm ngoài 200 hải lư từ bất cứ địa h́nh đất liền nào được tuyên nhận bởi Trung Quốc.  Đường các vạch đứt đoạn do đó không thể tượng trưng cho giới hạn hướng ra biển của KKTĐQ của Trung Quốc đúng theo Điều 57 của Công Ước LOS, vốn nói rằng chiều rộng của KKTĐQ “sẽ không nới dài vượt quá 200 hải lư” tính từ các đường cơ sở ven biển. 43

 

3. Đường Các Vạch Đứt Đoạn Như Một Sự Tuyên Nhận Lịch Sử

Thảo Luận

Theo sự diễn giải khả hữu này, đường các vạch đứt đoạn xuất hiện trên các bản đồ Trung Quốc có chủ định để chỉ cái được gọi là một sự tuyên nhận “lịch sử”.  Một sự tuyên nhận lịch sử có thể là một sự tuyên nhận chủ quyền trên không gian biển (“các hải phận lịch sử” hay “bằng khoán lịch sử”), hay một cách khác, một số loại các quyền nhẹ hơn (“các quyền lịch sử”) đối với không gian biển.

Một số luật và sự phát biểu của chính phủ Trung Quốc cũng có thể được đọc như để ủng hộ một phiên bản của sự giải thích sự tuyên nhận lịch sử này. 44 Nổi bật nhất là luật KKTĐQ và thềm lục địa năm 1998 của Trung Quốc, có cho hay, nhưng không có sự quảng diễn nào khác, rằng “các điều khoản của Đạo Luật này sẽ không ảnh hưởng đến các quyền liên quan đến lịch sử: historical rights của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc”. 45 Các Kháng Thư năm 2009 của Trung Quốc tuyên bố rằng lập trường của Trung Quốc về các sự tuyên nhận của nó về “chủ quyền và các quyền liên hệ cùng quyền tài phán” tại Biển Nam Trung Hoa được “hậu thuẫn bởi đầy rẫy bằng chứng pháp lư và lịch sử” (in nghiêng để nhấn mạnh được bổ túc bởi tác giả).  Mặc dù không thể quy kết được cho chính phủ Trung Quốc, một số định chế và các nhà b́nh luận Trung Quốc đă nhận định rằng các bản đồ đường các vạch đứt đoạn tŕnh bày bằng khoán lịch sử hay các quyền lịch sử của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa. 46

Hơn nữa, một số các sự phát biểu và các hành động của chính quyền Trung Quốc liên hệ đến Biển Nam Trung Hoa không phù hợp với Công Ước LOS.  Trong khi các sự phát biểu và các hành động như thế không tương đương với việc bày tỏ các sự khẳng định của một sự tuyên nhận lịch sử, chúng có thể cho thấy rằng Trung Quốc xem rằng nó có một căn bản thay thế -- chẳng hạn như bằng khoán lịch sử hay các quyền lịch sử -- cho các sự tuyên nhận biển của nó tại Biển Nam Trung Hoa.

Thí dụ, chính phủ Trung Quốc đă từng tuyên bố rằng Trung Quốc hành sử “chủ quyền” tại một số khu vực nào đó, hay ngay cả trên toàn thể, Biển Nam Trung Hoa.  Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao (BNG) Trung Quốc đă nói đến Băi Cạn Second Thomas Shoal như thuộc “chủ quyền” của Trung Quốc”, 47 bất kể vị trí của nó nằm quá giới hạn của bất kỳ lănh hải nào.  Mở rộng hơn, một phát ngôn viên BNG từng phát biểu: “Tôi muốn tái xác định rằng Trung Quốc thụ hưởng chủ quyền không thể tranh căi trên Biển Nam Trung Hoa và [các] ḥn đảo”. 48 Tương tự, các tàu hải quân Trung Quốc được tường thuật có thực hiện các buổi lễ tuyên thệ định kỳ tại Băi James Shoal để khẳng định “chủ quyền” trên cồn cát này.  Mặc dù Băi Cạn James Shoal là một địa h́nh ch́m dưới mặt nước cách xa bất kỳ đảo nào được tuyên nhận bởi Trung Quốc, Trung Quốc dường như xem địa h́nh này như “lănh thổ cực nam” của nó”. 49 Điều không rơ là các sự tham chiếu như thế về “chủ quyền” của Trung Quốc phải hiểu theo sát nghĩa đen hay không, nếu đúng thế, căn bản pháp lư của chúng không thể nào là Công Ước LOS bởi “chủ quyền” của một Quốc Gia duyên hải chiếu theo Công Ước không thể nới dài quá giới hạn 12 hải lư của lănh hải.  Do đó, có thể rằng Trung Quốc xem căn bản pháp lư cho chủ quyền biển được tuyên nhận của nó tại Biển Nam Trung Hoa là một căn bản của các hải phận lịch sử.

Trong năm 2012, Tổ Hợp Dầu Ngoài Khơi Quốc Gia Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation: CNOOC) có giới thiệu các lô sang nhượng [quyền khai thác] đối diện với bờ biển miền trung của Việt Nam được cho là nằm “trong các hải phận thuộc quyền tài phán của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc”. 50 Tuy nhiên, như được minh chứng trong Bản Đồ 8 của bài nghiên cứu này, hoàn toàn ngoài các câu hỏi theo Điều 121 và các câu hỏi về sự phân định ranh giới biển, một phần của hai trong các lô này (BS16, DW04) đă nới dài, mà không có sự giải thích nào, đến các hải phận vượt quá 200 hải lư của bất kỳ ḥn đảo nào được tuyên nhận bởi Trung Quốc (vùng có nét gạch chéo màu xanh).  Đây là một sự khẳng định quyền tài phán biển vượt quá những ǵ được quy định chiếu theo Công Ước LOS.

 

Bản Đồ 8

 

Các luật quốc nội của Trung Quốc cũng khiến ta nghĩ rằng Trung Quốc khẳng định một căn bản pháp lư cho các sự tuyên nhận biển của nó rằng nó th́ tách biệt, và bổ sung, Công Ước LOS.  Thí dụ, Luật Bảo Vệ Môi Trường Biển năm 1999 của Trung Quốc tŕnh bày phạm vi áp dụng của nó là bao trùm “các nội hải, lănh hải, khu tiếp giáp, khu kinh tế độc quyền, thềm lục địa của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc và các khu vực biển khác nằm dưới quyền tài phán của Công Ḥa Nhân Dân Trung Quốc”. 51 Bởi v́ quyền tài phán của Quốc Gia duyên hải theo Công Ước LOS bị giới hạn vào các khu vực biển đă nói ở trên, điều không rơ những “khu vực biển khác” nào được nghĩ đến, và có lẽ nhóm chữ này để chỉ các khu vực nơi mà Trung Quốc xem là nó có các sự tuyên nhận lịch sử.

Sự lượng định dưới đây khảo sát việc liệu có một căn bản theo luật quốc tế cho một sự tuyên nhận của Trung Quốc đối với các hải phận lịch sử hay các quyền lịch sử đối với các hải phận nằm trong phạm vi đường các vạch đứt đoạn hay không.

 

Lương Định Phần I – Trung Quốc Có Đưa Ra Một Sự Tuyên Nhận Lịch Sử Nào Không?

Như một vấn đề sơ khởi, bởi cuộc thảo luận trước đây khiến ta nghĩ rằng Trung Quốc thực sự không có đưa ra một sự tuyên nhận có thể nhận biết đối với hoặc “các hải phận lịch sử” hay “các quyền lịch sử” đối với các hải phận của Biển Nam Trung Hoa nằm trong đường vạch đứt đoạn.

Một Quốc Gia đưa ra một tuyên nhận lịch sử phải đưa ra một sự quảng bá quốc tế về sự tuyên nhận như thế. 52 Như được nói đến trong một cuộc nghiên cứu bao quát gần đây về các hải phận lịch sử, “sự thông báo chính thức một sự tuyên nhận [lịch sử] như thế thường sẽ được xem là cần thiết cho nó để đạt được sự hay biết đầy đủ; sao cho, ít nhất, các Quốc Gia khác có thể có cơ hội phủ nhận bất kỳ sự ưng thuận nào bằng sự tuyên bố phản đối v.v…” 63

Liên quan đến Biển Nam Trung Hoa, rơ ràng không có luật, sự tuyên bố, lời tuyên cáo, hay các sự phát biểu chính thức khác tŕnh bày và đặt cộng đồng quốc tế vào sự cáo tri về một sự tuyên nhận lịch sử đối với các hải phận nằm trong đường vạch đứt đoạn.  Sự tham chiếu đến “các quyền lịch sử” trong luật về KKTĐQ và thềm lục địa năm 1998 của Trung Quốc, như một pháp đề pháp lư, là một “điều khoản bảo lưu các quyền” saving clause” [chống lại sự vô hiệu hóa có thể xảy ra đối với các điều khoản khác, chú của người dịch]; lời phát biểu không đưa ra sự tuyên nhận tự bản thân, và đạo luật không chứa đựng sự tham chiếu đến bản đồ đường đứt đoạn. 54  Mặc dù một số luật và các quy định nào đó của Trung Quốc đề cập đến “các khu vực biển khác nằm dưới quyền tài phán của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc”, không có sự chỉ dẫn về bản chất, căn bản, hay vị trí địa dư của quyền tài phán như thế, cũng như không có các luật nói đến bất kỳ loại tuyên nhận “lịch sử” nào.  Trong khi Kháng Thư năm 2011 của Trung Quốc tuyên bố rằng “bằng chứng pháp lư và lịch sử” hậu thuẫn cho “chủ quyền và các quyền liên hệ cùng quyền tài phán của Trung Quốc, Kháng Thư đó, giống như luật KKTĐQ và thềm lục địa năm 1998, không phải là một sự phát biểu về bản thân một sự tuyên nhận.  Hơn nữa, “bằng chứng .. lịch sử” có thể nói đến sự tuyên nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các ḥn đảo, chứ không phải các hải phận. 55

Sự ấn hành không thôi bởi Trung Hoa bản đồ các vạch đứt đoạn trong năm 1947 không thể cấu thành sự thông báo chính thức về một sự tuyên nhận biển, và sự ấn hành trong nước của nó bằng ngôn ngữ Trung Hoa không phải là một hành vi của sự quảng bá quốc tế đầy đủ hầu báo động một cách thích hợp cho cộng đồng quốc tế về một sự tuyên nhận như thế, ngay dù nó đă khẳng định sự tuyên nhận. 56 Nhiều bản đồ khác nhau ấn hành bởi Trung Quốc cũng thiếu chính xác, sự rơ ràng, và sự nhất quán có thể chuyển tải bản chất và phạm vi của một sự tuyên nhận biển.  “Lời phát biểu về một nguyên tắc” của Ṭa Án Công Lư Quốc Tế (International Court of Justice: ICJ) trong vụ Tranh Chấp Biên Cương giữa Burkina Faso và Mali tŕnh bày hiệu lực pháp lư của các bản đồ như sau:

Liệu trong các sự phân định biên cương hay trong các sự xung đột lănh thổ quốc tế, các bản đồ chỉ cấu thành tin tức biến đổi trong mức độ chính xác từ trường hợp này đến trường hợp khác; tự bản thân, và chỉ bởi sự hiện hữu của chúng không thôi, chúng không thể cấu thành một bằng khoán lănh thổ, tức, một văn kiện được ban cấp bởi luật quốc tế với hiệu lực pháp lư nội tại cho việc thiết lập các quyền lănh thổ.  Dĩ nhiên, trong một số trường hợp, bản đồ có thể thụ đắc hiệu lực pháp lư như thế, nhưng khi điều này xảy ra, hiệu lực pháp lư không chỉ phát sinh từ các giá trị nội tại của chúng: đó là bởi v́ các bản đồ như thế rơi vào loại của các sự biểu lộ cụ thể ư chí của một hay nhiều Quốc Gia liên can.  Đây là trường hợp, thí dụ, khi các bản đồ được phụ đính vào một văn bản chính thức với nó chúng trở thành một bộ phận kết hợp.  Ngoại trừ trong trường hợp được xác định rơ ràng này, các bản đồ chỉ là bằng chứng ngoại tại với độ tin cậy biến đổi hay không được tin cậy có thể được sử dụng, cùng với bằng chứng khác thuộc một loại gián tiếp, để thiết lập hay tái dựng các sự kiện có thực. 57

Tuyên Bố Lănh Hải năm 1958 của Trung Quốc cũng mâu thuẫn với quan điểm rằng Trung Quốc có đưa ra một sự tuyên nhận hoặc về “hải phận lịch sử” hay “các quyền lịch sử” trong phạm vi đường các vạch đứt đoạn.  Bản tuyên bố đó nói đến “các biển mở ngỏ” phân cách lục địa và các đảo duyên hải của Trung Quốc khỏi “tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc”.  Khái niệm “các biển mở ngỏ” có tính chất khác biệt về mặt pháp lư với bất kỳ loại hải phận quốc gia nào và không chịu sự chiếm hữu quốc gia hay sự sử dụng độc quyền, đă là một quy tắc được thiết định của luật quốc tế trong nhiều thế kỷ trước khi có bản Tuyên Bố năm 1958 của Trung Quốc.  Hơn nữa, cho dến tầm mức Bản Tuyên Bố năm 1958 đưa ra một sự tuyên nhận lịch sử, đó là đối với một vùng biển khác – Bột Hải (Bo Hai hay Pohai), một vịnh ở phía đông bắc Trung Quốc. 58 Một khi Trung Quốc đă xem trong năm 1958 rằng hải phận nằm trong đường vạch đứt đoạn được ấn hành trên các bản đồ cấu thành các hải phận lịch sử, một cách giả định, nó hẳn sẽ nói đến điều này trong bản Tuyên Bố năm 1958 của nó cùng với sự tuyên nhận của nó đối với Bột Hải.  Thay vào đó, nội dung của bản Tuyên Bố đó, đặc biệt phần đề cập đến “các biển mở ngỏ”, cho thấy rằng Trung quốc đă không xem các hải phận nằm trong đường các vạch đứt đoạn có một tinh chất lịch sử.

Cộng đồng quốc tế phần lớn nh́n bản đồ đường các vạch đứtt đoạn trong một phương cách phù hợp với quan điểm này.  Trong thực tế, một cuộc nghiên cứu bao quát về các hải phận lịch sử được ấn hành trong năm 2008 c̣n không thảo luận đến đường các vạch đứt đoạn của Trung Quốc, 59 hay đường các vạch đứt đoạn này cũng không đựoc xác định trong các bản toát yếu của chính phủ Hoa Kỳ về các sự tuyên nhận hải phận lịch sử trong khu vực công cộng (public domain). 60 Sự phản đối quốc tế chính thức đường các vạch đứt đoạn chỉ bắt đầu sau khi có sự công bố của Trung Quốc trong năm 2009 các Kháng Thư của nó đă được tŕnh bày trước đây trong bài nghiên cứu này. 61

 

Lượng Định Phần 2 – Một Sự Tuyên Nhận Lịch Sử Sẽ Có Hiệu Lực Hay Không?

Trung Quốc đă không đưa ra một sự tuyên nhận lịch sử có thể biết được về hoặc chủ quyền trên không gian hàng hải bên trong đường các vạch đứt đoạn (“các hải phận lịch sử” hay “bằng khoán lịch sử” hay một loạt kém hơn của các quyền hạn (“các quyền lịch sử”) trong không gian hàng hải đó.  Nếu Trung Quốc, tuy thế, xem đường các vạch đứt đoạn xuất hiện trên các bản đồ của nó để chỉ một sự tuyên nhận lịch sử, một sự tuyên nhận như thế sẽ trái với luật quốc tế.

Các lập luận tán đồng các sự tuyên nhận lịch sử của Trung Quốc thường ghi nhận rằng Công Ước LOS nh́n nhận các sự tuyên nhận như thế. 62 Một sự tuyên nhận của Trung Quốc các hải phận lịch sử hay các quyền lịch sử bên trong đường các vạch đứt đoạn tuy nhiên sẽ không được thừa nhận bởi Công Ước.  Văn bản và lịch sử soạn thảo Công Ước nói rơ điều đó, ngoài một loại chật hẹp về “các vũng lịch sử” gần bờ biển (Điều 10) và “bằng khoán lịch sử” trong khung cảnh của sự phân định ranh giới lănh hải (Điều 15), luật biển quốc tế hiện đại không nh́n nhận lịch sử như căn bản cho thẩm quyền tài phán trên biển.  Một sự tuyên nhận lịch sử của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa sẽ bao quanh các khu vực cách xa các địa h́nh đất liền được tuyên nhận bởi Trung Quốc, và v́ thế sẽ liên can đến các điều khoản của Công Ước về KKTĐQ, thềm lục địa, và có thể các biển mở ngỏ.  Khác với các Điều 10 và 15, các điều khoản của Công Ước về các khu vực biển này không chứa đựng bất kỳ ngoại lệ nào cho các sự tuyên nhận lịch sử làm phương hại đến các quyền chủ quyền và quyền tài phán của một Quốc Gia duyên hải hay các tự do của mọi Quốc Gia. 63

Bởi v́ các điều khoản của Công Ước về KKTĐQ, thềm lục địa, và các biển mở ngỏ không chứa đựng các ngoại lệ dành cho các sự tuyên nhận lịch sử, các điều khoản của Công Ước thắng thế trên bất kỳ sự khẳng định nào của các sự tuyên nhận lịch sử được đưa ra tại các khu vực đó.  Cuộc nghiên cứu năm 1962 về các hải phận lịch sử được ủy nhiệm bởi Hội Nghị đă chấp thuận Các Công Ước Geneva 1958 đă đi đến cùng kết luận này về sự giải thích Công Ước 1958 về Lănh Hải và Khu Tiếp Giáp. 64 Công Ước LOS năm 1982 đă tiếp tục khảo hướng này bằng việc giữ lại các điều khoản liên hệ đến các vũng lịch sử và các bằng khoán lịch sử có tính chất đồng nhất về nội dung với các điều khoản được chứa đựng trong Công Ước 1958.  Nếu các nhà soạn thảo Công Ước LOS có ư định cho phép các sự tuyên nhận lịch sử của một Quốc Gia phủ quyết các quyền được phát biểu một cách công nhiên của các Quốc Gia khác, Công Ước hẳn đă phản ảnh ư định này trong văn bản của nó.  Thay vào đó, như với Công Ước năm 1958, Công Ước LOS giới hạn sự thích đáng của các sự tuyên nhận lịch sử vào các vũng và sự phân định lănh hải.

Do đó, về “các quyền lịch sử” Trung Hoa khả hữu tại Biển Nam Trung Hoa, 65 bất kỳ quyền nào như thế do đó cần phải phù hợp với các điều khoản của Công Ước về các hoạt động liên hệ.  Các quy tắc về hải hành được đặt ra bởi Công Ước, và các quy tắc này phản ảnh các sự sử dụng hải hành truyền thống của biển.  Các quy tắc liên hệ đến sự phát triển dầu hỏa và khí đốt cũng được đặt ra trong Công Ước, không có ngoại lệ cho các quyền lịch sử trong bất kỳ khung cảnh nào.  Cũng vậy, các quy tắc cho việc đánh cá được đặt ra trong Công Ước, kể cả các quy tắc hạn chế liên hệ đến các sự sử dụng lịch sử không mang lại một căn bản cho chủ quyền, các quyền chủ quyền, hay quyền tài phán. 66 Như trong vụ kiện Vịnh Maine: Gulf of Maine, Pḥng Xét Xử Của Ṭa Án Công Lư Quốc Tế đă ghi nhận trong phán quyết năm 1984, sự xuất hiện của quyền tài phán độc quyền của một Quốc Gia ven biển trên ngư trường nằm trong 200 hải lư từ bờ biển của nó phủ quyết sự sử dụng và các quyền trước đây của các Quốc Gia khác tại khu vực đó. 67

Điều cũng được lập luận rằng “bằng khoán lịch sử” và “các quyền lịch sử” là “các vấn đề không được quy định bởi Công Ước này [và chính v́ thế] tiếp tục bị chi phối bởi các quy tắc và các nguyên tắc của luật quốc tế tổng quát“ nằm bên ngoài Công Ước LOS. 68 Lập trường này không được ủng hộ bởi luật quốc tế và đă hiểu lầm phạm vi bao quát của Công Ước LOS.  Công Ước đặt ra các chế độ pháp lư cho mọi bộ phận của đại dương.  Như đă thảo luận ở trên, các vấn đề như hải hành, phát triển chất đốt hydrocarbon, và đánh cá, trong thực tế được “quy định bởi Công Ước”.  Do đó, một Quốc Gia không thể làm phương hại các điều khoản của Công Ước trên các vấn đề như thế bằng việc tuyên nhận các hải phận lịch sử hay các quyền lịch sử chiếu theo “luật quốc tế tổng quát”. Mặc dù người ta có thể cần tham chiếu đến “luật quốc tế tổng quát” để xác định ư nghĩa của các thuật ngữ đặc biệt trong Công Ước – chẳng hạn như các sự tham chiếu về vũng lịch sử và bằng khoán lịch sử lần lượt trong các Điều 10 và 15 – Công Ước không cho phép một Quốc Gia viện dẫn “luật quốc tế tổng quát” như một căn bản bổ khuyết cho quyền tài phán hàng hải mâu thuẫn với các điều khoản công khai của Công Ước liên quan đến khu vực biển.

Cho dù giả sử rằng một sự tuyên nhận lịch sử của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa bị chi phối bởi “luật quốc tế tổng quát’ chứ không phải bởi Công Ước, sự tuyên nhận sẽ vẫn c̣n cần được chứng minh theo luật như thế.  Về việc này, một sự tuyên nhận hải phận lịch sử Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa sẽ không vượt qua được bất kỳ thành tố nào của cuộc trắc nghiệm pháp lư ba phần được mô tả bên trên, trong đoạn nói về Căn Bản Phân Tích:

(1)   Không có sự hành sử thẩm quyền công khai, được hay biết, và hiệu lực trên Biển Nam Trung Hoa.  Trung Quốc đă không thông tin bản chất của sự tuyên nhận của nó trong phạm vi đường các vạch đứt đoạn trong thời khoảng mà Trung Quốc có thể hàm ư đă thiết lập một sự tuyên nhận lịch sử; trong thực tế, bản chất của thẩm quyền Trung Quốc được tuyên nhận trong phạm vi đường các vạch đứt đoạn vẫn chưa được nói rơ.  Tương tự, Trung Quốc đă không thiết lập các sự tuyên nhận của nó với sự nhất quán và chính xác về mặt địa dư.  Như thế, nó không thể thỏa măn các điều kiện ‘công khai” hay “được hay biết’ cho một tuyên nhận có hiệu lực đối với hải phận lịch sử.

 

(2)   Không có sự hành sử thẩm quyền liên tục tại Biển Nam Trung Hoa.  Đă có sự sử dụng phổ biến từ lâu Biển Nam Trung Hoa bởi các nước tuyên nhận khác trong một cung cách sẽ không phù hợp với chủ quyền hay quyền tài phán chuyên độc của Trung Quốc.  Nhiều ḥn đảo và các địa h́nh khác tại Biển Nam Trung Hoa được chiếm cứ không chỉ bởi Trung Quốc, mà c̣n bởi Mă Lai, Phi Luật Tân, Việt Nam và Đài Loan, và các tuyên nhận biển từ lục địa của Mă Lai, Phi Luật Tân, Brunei, Nam Dương, và Việt Nam cũng phóng chiếu vào Biển Nam Trung Hoa.  Các nước đều có mọi hoạt động đă được tiến hành, chẳng hạn như đánh cá và thăm ḍ chất hydrocarbon, trong không gian hàng hải tuyên nhận của họ, không phù hợp với sự “hành sử liên tục” hay “hữu hiệu” chủ quyền hay các quyền chuyên độc của Trung Quốc trên không gian đó.

 

(3)   Không có sự ưng thuận bởi các Quốc Gia ngoại quốc ve6` sự hành sử thẩm quyền của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa.  Không Quốc Gia nào thừa nhận hiệu lực của một sự tuyên nhận lịch sử bởi Trung Quốc đối với khu vực nằm trong phạm vi đường các vạch đứt đoạn.  Bất kỳ sự ưng thuận được cho là mặc nhiên bởi các Quốc Gia nào đều có thể bị bác bỏ bởi thiếu sự hay biết rộng răi, có ư nghĩa về bất kỳ sự tuyên nhận lịch sử nào bởi Trung Quốc, đă được thảo luận ở trên.  V́ thế, một Quốc Gia tuyên nhận không thể dựa trên các sự tuyên nhận mơ hồ về thực chất hay không công bố làm nền tảng cho sự ưng thuận, mà, thay vào đó, phải thiết lập sự tuyên nhận của nó một cách công khai và quảng bá, với sự minh bạch đầy đủ, sao cho các Quốc Gia khác có thể có sự hiểu biết thực sự về bản chất và khuôn khổ của các sự tuyên nhận đó. 69 Trong trường hợp đường các vạch đứt đoạn, dựa trên sự thông tin chính thức đầu tiên về một bản đồ đường các vạch đứt đoạn đến cộng đồng quốc tế trong năm 2009, vài nước bị ảnh hưởng trực tiếp đă phản đối một cách chính thức và công nhiên. 70 Cách thực thi của Hoa Kỳ cũng nổi bật về sự thiếu sự ưng thuận.  Mặc dù Hoa Kỳ tích cực trong việc phản đối các tuyên nhận lịch sử khắp thế giới mà nó xem là thái quá, Hoa Kỳ đă không phản đối đường các vạch đứt đoạn trên các căn bản này bởi nó không tin một sự tuyên nhận như thế được đưa ra bởi Trung Quốc.  Đúng ra, Hoa Kỳ đă yêu cầu Chính Phủ Trung Quốc làm sáng tỏ các sự tuyên nhận của nó. 71

Sự kiện rằng các sự tuyên nhận của Trung Quốc có niên kỳ trước Công Ước LOS không mang lại một căn bản chiếu theo Công Ước hay luật quốc tế bởi làm phương hại đến Công Ước LOS. 72 Lời nói đầu Công Ước tuyên bố rằng nó có ư định “giải quyết … mọi vấn đề liên quan đến luật biển” và thiết lập một trật tự pháp lư phát huy sự ổn định và sự sử dụng ḥa b́nh các biển. 73 Đối tượng và mục địch của nó là đặt ra một chế độ pháp lư bao quát, khả dĩ tiên liệu được và rơ ràng tŕnh bày các quyền và các nghĩa vụ của các Quốc Gia đối với biển.  Cho phép các Quốc Gia làm phương hại các điều khoản của Công Ước bởi các sự tuyên nhận của họ có niên đại trước sự chấp nhận Công Ước th́ trái ngược và phá hủy đối tượng và mục đích này.  Giống như một Quốc Gia đă tuyên nhận chủ quyền trên một lănh hải rộng 200 hải lư hồi thập niên 1950 không thể duy tŕ một cách hợp pháp một sự tuyên nhận như thế ngày nay, Trung Quốc hay bất kỳ Quốc Gia nào khác không thể chống đỡ cho một sự tuyên nhận các hải phận lịch sử hay các quyền lịch sử tại các khu vực cách xa các bờ biển của nó.  Công Ước không cho phép các sự tuyên nhận như thế, và trừ khi Công Ước thừa nhận theo nguyên bản các sự tuyên nhận lịch sử -- chẳng hạn như Điều 10 về “các vũng” – các điều khoản của Công Ước thắng thế trên bất kỳ các sự tuyên nhận lịch sử nào như thế.  Sự xuất hiện của Công Ước LOS, vừa như luật hiệp ước cũng như vừa phản ảnh luật quốc tế thường lệ, đ̣i hỏi các Quốc Gia phải thích ứng các sự tuyên nhận biển của họ cho phù hợp với các điều khoản của Công Ước.

 

Kết Luận

Trung Quốc đă không nói rơ các sự tuyên nhân biển của nó liên hệ với các bản đồ đường các vạch đứt đoạn trong một cung cách phù hợp với luật quốc tế.  Các luật, các bản tuyên bố, và các sự phát biểu chính thức của Trung Quốc đưa ra bằng chứng trái ngược về bản chất và khuôn khổ của các sự tuyên nhận của trung Quốc.  Bằng chứng cung ứng khiến ta nghĩ rằng ít nhất ba sự diễn giải khác nhau mà Trung Quốc có thể chủ định, bao gồm các vạch là (1) các đường trong đó Trung Quốc tuyên nhận chủ quyền trên các ḥn đảo, cùng với các khu vực biển mà các đảo đó sẽ phát sinh ra chiếu theo Công Ước LOS; (2) các đường ranh giới quốc gia; hay (3) các giới hạn của cái gọi là các sự tuyên nhận biển lịch sử thuộc nhiều loại khác nhau.

Về cách diễn giải thứ nhất, nếu các vạch trên các bản đồ Trung Quốc có chủ định để thể hiện các ḥn đảo trên đó Trung Quốc tuyên nhận chủ quyền, khi đó, để phù hợp với luật biển, các sự tuyên nhận biển của Trung Quốc bên trong đường các vạch đứt đoạn sẽ phải là các sự tuyên nhận được đặt ra bởi Công Ước LOS, tức một lănh hải, khu tiếp giáp, KKTĐQ, và thềm lục địa, được vẽ theo đúng Công Ước LOS từ bờ biển đại lục Trung Quốc và các địa h́nh đất liền đáp ứng định nghĩa một “ḥn đáo chiếu theo Điều 121 của Công Ước. 74 Bởi chủ quyền trên các đảo Biển Nam Trung Hoa bị tranh chấp, các khu vực biển gắn liền với các đảo này cũng sẽ bị tranh chấp.  Ngoài ra, ngay dù Trung Quốc có sở đắc chủ quyền các ḥn đảo, bất kỳ khu vực biển nào phát sinh bởi các ḥn đảo đó chiếu theo Điều 121 sẽ phải chịu sự phân định ranh giới biển với các Quốc Gia láng giềng.

Về cách giải thích thứ nh́, nếu các vạch trên các bản đồ Trung Quốc có chủ định để thể hiện các đường ranh giới quốc gia, khi đó các đường đó sẽ không có một căn bản pháp lư thích đáng theo luật biển.  Theo luật quốc tế, các ranh giới biển được tạo lập ra bởi sự thỏa thuận giữa các Quốc Gia láng giềng; một nước không thể đơn phương thiết định một ranh giới biển với một nước khác.  Hơn nữa, một ranh giới như thế sẽ không phù hợp với sự thực thi [pháp luật] của Quốc Gia và án lệ quốc tế, vốn không ban cho các ḥn đảo biệt lập. rất nhỏ bé như các đảo tại Biển Nam Trung Hoa nhiều trọng lực trong việc xác định vị trí của một ranh giới biển cho bằng các bờ biển đối diện chạy dài và liên tục. 75 Vả chăng, các vạch 2, 3, và 8 xuất hiện trên bản đồ năm 2009 của Trung Quốc không chỉ tương đối gần với các bờ biển lục địa của các Quốc Gia khác, mà tất cả hay một phần của chúng cũng nằm ngoài 200 hải lư tính từ bất kỳ địa h́nh đất liền tuyên nhận nào của Trung Quốc.

Sau cùng, nếu các vạch trên các bản đồ Trung Quốc có chủ định để chỉ khu vực trong đó Trung Quốc tuyên nhện cái gọi là “hải phận lịch sử” hay “các quyền lịch sử” đối với hải phận thuộc độc quyền của Trung Quốc, chẳng hạn như các tuyên nhận không nằm trong sự xếp loại chật hẹp của các sự tuyên nhận lịch sử được thừa nhận nơi các Điều 10 và 15 Công Ước LOS.  Biển Nam Trung Hoa là một biển nửa khép kín rộng lớn trong dó nhiều Quốc Gia ven biển có các sự hưởng dụng KKTĐQ và thềm lục địa, phù hợp với Công Ước LOS; luật biển không cho phép các quyền hưởng dụng này bị phủ quyết bởi các sự tuyên nhận biển của Quốc Gia khác đặt trên căn bản “lịch sử”.  Ngược lại, một mục đích chính và thành quả của Công Ước là mang sự rơ ràng và đồng nhất đến các khu vực biển theo đó các Quốc Gia ven biển có quyền hưởng dụng.  Ngoài ra, ngay dù trắc nghiệm pháp lư cho các hải phận lịch sử có thể được áp dụng, sự tuyên nhân theo đường các vạch đứt đoạn sẽ không vượt qua được từng thành tố của sự trắc nghiệm đó.

V́ các lư do này, trừ khi Trung Quốc nói rơ rằng sự tuyên nhận theo đường các vạch đứt đoạn chỉ phản ảnh một sự tuyên nhận các ḥn đảo nằm bên trong đường đó và bất kỳ khu vực biển nào phát sinh từ các địa h́nh đất liền đó đúng theo luật quốc tế về biển, như được phản ảnh trong Công Ước LOS, sự tuyên nhận theo đường các vạch đứt đoạn của nó không phù hợp với luật biển quốc tế./-

___

CHÚ THÍCH

1. Sự tuyên nhận này được nói đến bởi các nhà b́nh luận bằng các tên gọi khác nhau, kể cả “Đường Chín Vạch”, “Đường Chấm Gạch”, “Lưỡi Ḅ” và “Đường H́nh Chữ U.

 

2.Phái Bộ Thường Trực của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, Các Kháng Thư  CML/17/2009 và CML/18/2009, Ngày 7 Tháng Năm, 2009, được cung ứng bởi Ban Đại Dương Sự Vụ và Luật Biển Liên Hiệp Quốc (UN Division for Ocean Affairs and the Law of the Sea: DOALOS) tại:

 http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2009re_mys_vnm_e.pdfhttp://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/vnm37_09/chn_2009re_vnm.pdf.

 

3. Văn thư cung ứng bởi DOALOS tại:

 http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_mysvnm_33_2009.htm.

 

4. Phái Bộ Thường Trực của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, Kháng Thư CML/8/2011, ngày 14 Tháng Tư, cung ứng bởi DOALOS tại:

 http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2011_re_phl_e.pdf.

Văn thư này không gồm chứa một bản đồ đường các vạch đứt đoạn.

5. Các bài viết uyên bác ấn định niên kỳ ấn hành từ 1946 đến 1948. Để đơn giản, bài nghiên cứu này quy chiếu là “bản đồ năm 1947”. Xem, thí dụ, M. Sheng-Ti Gau, “The U-Shaped Line and a Categorization of the Ocean Disputes in the South China Sea,” Ocean Dev’t & Int’l L., 43:1, 57-69 tại trang 58 (2012) (nói rằng bản đồ được “ấn hành lần đầu tiên” bởi Trung Hoa Dân Quốc trong Tháng Mười Hai 1946); K-H. Wang, “The ROC’s Maritime Claims and Practices with Special Reference to the South China Sea,” Ocean Dev’t & Int’l L., 41:237-252 tại trang 243 (2010) (nói rằng bản đồ được “phát hành” trong năm 1947); L. Jinming and L. Dexia, “The Dotted Line on the Chinese Map of the South China Sea: A Note,” Ocean Dev’t & Int’l L., 34:287-95 tại trang 290 (2003) (nói rằng bản đồ được “in” trong năm 1947 và được “công bố” trong Tháng Hai 1948).

 

6. Jinming và Dexia, chú thích sô 5 bên trên (supra) tại 289-90 (2003). Cũng xem, N. Alfred Hu, “South China Sea: Troubled Waters or a Sea of Opportunity?” Ocean Dev’t & Int’l L., 41:203-213 (2010).

 

7. Khu vực này sau rốt được phân định một phần bởi Trung Quốc và Việt Nam.  Thỏa Ước về Sự Phân Định Lănh Hải, Các Khu Kinh Tế Độc Quyền và Thềm Lục Địa tại Vịnh Bắc Bộ [Gulf of Tonkin] giữa Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc và Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa ViệT Nam, Bắc Kinh, ngày 25 Tháng Mười Hai, 2000, có hiệu lực vào ngày 30 Tháng Sáu, 2004, Law of the Sea Bulletin No. 56, at 137 (2004); V International Maritime Boundaries 3745-3758 (2005).

 

8. Xem, thí dụ, “China’s New Weapon in the Battle for the South China Sea is … a Vertical Map,” Wall Street Journal, ChinaRealTime blog, Jun. 25, 2014. Bản đồ theo “chiều dọc này được ấn hành lần đầu tiên bởi Sinomaps năm 2013 và được in lại sau này bởi Hunan Map Publishing House năm 2014. 

9. Các sự tính toán cho cuộc nghiên cứu này được thực hiện tại ESRI ArcMap 10. Các vạch dùng trong các sự tŕnh bày và tính toán cho cuộc nghiên cứu này được số hóa từ các bản đồ có tỷ lệ xích 1:10,600,000 (2009) và 1:12,000,000 (ước chừng) (1947) và giả định một phóng chiếu kiểu Mercator [bản đồ h́nh ống trải trên mặt phẳng với các kinh tuyến song song với nhau, chú của người dịch].  

 

10. Cùng sự cảnh báo này áp dụng cho các sự tính toán khi nói đến đường các vạch trên bản đồ năm 1947, các tọa độ của nó cũng không được công bố bởi Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc hay Trung Hoa Dân Quốc.  

 

11. Các tường thuật của truyền thông thường đề cập các số ước lượng 80 phần trăm hay lớn hơn.  Tỷ lệ bách phân chính xác tùy thuo6.c vào tầm mức địa dư phỏng định của Biển Nam Trung Hoa.  Đường các vạch bao gồm 62 phần trăm hải phận của Biển Nam Trung Hoa khi sử dụng các giới hạn được tŕnh bày trong quyển S-23 Limits of the Oceans and Seas (1953) của Tổ Chức Thủy Đạo Quốc Tế (International Hydrographic Organization: IHO), được cung ứng bởi IHO tại: http://www.iho.int/iho_pubs/IHO_Download.htm#S-23.

Quyển S-23 tŕnh bày các giới hạn của Biển Nam Trung Hoa có bao gồm Eo Biển Đài Loan, Vịnh Bắc Việt, và phần đôi khi được nói đến là Biển Natuna Sea.

 

12. Đề mục cho các Quần Đảo Spratly và Paracel trong quyển CIA World Factbook tại:

 https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/.

 

13. Không điều ǵ trong tập nghiên cứu này có chủ định bày tỏ một lập trường xác định về địa h́nh nào tại Biển Nam Trung Hoa là “các ḥn đảo” chiếu theo Điều 121 của Công Ước LOS hay liệu bất kỳ đảo nào như thế là “đá” theo Điều 121(3).

14. Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, Montego Bay (United Nations Convention on the Law of the Sea, Montego Bay), được mở ra để kư tên từ ngày 10 Tháng Mười Hai, 1982, có hiệu lực vào ngày 16 Tháng Mười Một, 1994, 1833 UNTS 397, cung ứng bởi DOALOS tại:

http://www.un.org/Depts/los/convention_agreements/texts/unclos/closindx.htm.

Trung Quốc đà phê chuẩn Công Ước hôm 7 Tháng Sáu, 1996.  Hoa Kỳ xem các điều khoản có thực chất của Công Ước LOS được trích dẫn trong cuộc nghiên cứu này phản ảnh luật quốc tế thường lệ, giống như các ṭa án và các phiên ṭa quốc tế.  Xem, thí dụ, J.A. Roach, “Today’s Customary International Law of the Sea,” Ocean Dev’t & Int’l L., 45: 239-252 (2014).

 

15. Một “Quốc Gia ṿng cung đảo: archipelagic State” có nghĩa một Quốc Gia được cấu thành hoàn toàn bởi một hay nhiều ṿng cung cung đảo và có thể gồm cả các đảo khác”. Công Ước LOS, chú thích số 14 bên trên, Điều 46(a). Các Quốc Gia ṿng cung đảo do đó không bao gồm các Quốc Gia đại lục chẳng hạn như Trung Quốc hay Hoa Kỳ.

16, Tuy nhiên, Điều 13, chú thích số 14 bên trên, Công Ước LOS quy định: “Nơi mà một cao điểm lúc thủy triều xuống thấp tọa lạc toàn thể hay một phần ở khoảng cách xa không vượt quá chiều rộng của lănh hải từ lục địa hay một ḥn đảo, đường ngấn mặt nước lúc thủy triều xuống thấp tại cao điểm đó có thể được dùng làm đường cơ sở để đo chiều rộng của lănh hải”.  Một “cao điểm lúc thủy triều xuống thâp” được định nghĩa là “một khu vực đất liền được thành lập một cách tự nhiên được bao quanh bởi, và ở trên mặt nước lúc thủy triều xuống thấp nhưng bị ch́m dưới nước lúc thủy triều lên cao”. Cùng tài liệu đà dẫn: Id.

 

17, Xem, thí dụ, Territorial and Maritime Dispute (Nicaragua v. Colombia), I.C.J., Judgment of Nov. 19, 2012.

18. Công Ước  Convention on the Territorial Sea and the Contiguous Zone, Geneva, Apr. 29, 1958, entered into force Sept. 10, 1964, 516 UNTS 205, available at:

https://treaties.un.org/doc/Publication/UNTS/Volume%20516/v516.pdf.

 

19, Xem, thí dụ, Limits in the Seas No: 112: “United States Responses to Excessive National Maritime Claims,” U.S. Dep’t. of State, Mar. 9, 1992; Memorandum from Bernard H. Oxman, Dep’t of State Ass’t Legal Adviser for Ocean Affairs (Sept. 17, 1973), được trích trong quyển Digest of U.S. Practice in International Law 1973, tại 244 (A.W. Rovine, biên tập).

 

20. Vụ Kiện Đánh Cá: Fisheries Case (U.K. v. Norway), 1951 I.C.J. 116 (Dec. 18), p. 130, 133, 138, 142; Land, Island and Maritime Frontier Dispute (El Salvador/Honduras), 1992 I.C.J. 350 (Sept. 11), paras. 384, 394; Int’l Law Comm’n, Juridical Régime of Historic Waters, Including Historic Bays, [1962] 2 Y.B. Int’l L. Comm’n 1, U.N. Doc. A/CN.4/143 [từ giờ về sau viết tắt là UN Study]. Cũng xem, jurisprudence of the U.S. Supreme Court, e.g., United States v. Louisiana, 394 U.S. 11, 23 (1969), và United States v. California, 381 U.S. 139, 172 (1965).

 

21. Xem, thí dụ, El Salvador/Honduras, chú thích số 20 bên trên; Continental Shelf (Tunisia/Libya), 1982 I.C.J. 18 (Feb. 24); Eritrea/Yemen, Award in the First Stage of the Proceedings, (Perm. Ct. Arb. Oct. 9, 1998) và Award in the Second Stage of the Proceedings, các đoạn 103, 107 (Perm. Ct. Arb. Dec. 17, 1999), http://www.pca-cpa.org/showpage.asp?pag_id=1160.

 

22. Fisheries Case, chú thích số 20 bên trên.

 

23. “Bởi ‘hải phận lịch sử’ thường có nghĩa hải phận được đối xử như nội hải mà nếu không có sự hiện hữu của một bằng khoán lịch sử, nó sè không có tính chất đó”. Fisheries Case, chú thích số 20 bên trên, trang130.

24. Luật về Lănh Hải và Khu Tiếp Giáp ngày 25 Tháng Hai 1992, được cung ứng bởi DOALOS tại:

http://www.un.org/depts/los/LEGISLATIONANDTREATIES/PDFFILES/CHN_1992_Law.pdf.

Xem Điều 2.

 

25. Cuộc nghiên cứu này không cố gắng để khảo sát các giá trị của các sự tuyên nhận bởi Trung Quốc hay các Quốc Gia khác đối với các địa h́nh đất liền tại Biển Nam Trung Hoa.  Hoa Kỳ đă tái xác nhận nhiều lần rằng nó không có lập trường về việc nước nào có chủ quyền trên các địa h́nh đất liền tại Biển Nam Trung Hoa.  Xem, thí dụ, Phát Biểu bởi Quyền Phát Ngôn Viên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, 10 Tháng Năm, 1995 (“Hoa Kỳ không có quan điểm về các giá trị pháp lư của các sự tuyên nhận cạnh tranh nhau về chủ quyền trên các ḥn đảo, các rạn san hô, các ṿng đảo san hô và các băi cạn khác nhau tại Biển Nam Trung Hoa”.) Đây tiếp tục sẽ là lập trường của Hoa Kỳ, và không điều nào trong bài nghiên cứu này lại sẽ được giải thích như một quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ về giá trị của các sự tuyên nhận cạnh tranh nhau về chủ quyền trên bất kỳ ḥn đảo nào tại Biển Nam Trung Hoa, vốn không phải là vấn đề bị chi phối bởi luật biển.

 

26. Xem cùng tài liệu đă dẫn: id.

 

27. Trong việc lượng định lập trường của Chính Phủ Trung Quốc về khuôn khổ các sự tuyên nhận biển của nó tại Biển Nam Trung Hoa, cuộc nghiên cứu này, bởi sự bắt buộc, đă đặt tiêu điểm vào các quan điểm được khẳng định bởi Chính Phủ đó và không t́m cách để quy kết cho Trung Quốc các quan điểm hay sự phân tích của các nguồn tài liệu phi chính phủ, chẳng hạn như của giới luật học hay các nhà hàn lâm Trung Quốc khác.  

28. Công Ước LOS Convention, chú thích số 14 bên trên, Điều 2.

 

29. Công Ước LOS Convention, chú thích số 14 bên trên, Các Điều 56, 77, 79, 80, and 81.

 

30. Luật lănh hải, chú thích số 24 bên trên.

 

31. Tuyên Bố về Lành Hải Của trung Quốc, được in lại trong Limits in the Seas No. 43: “Straight Baselines: People’s Republic of China,” U.S. Dep’t of State, ngày 1 Tháng Bảy, 1972.

 

32. Đạo Luật Khu Kinh Tế Độc Quyền và Thềm Lục Địa, được chấp thuận ngày 26 Tháng Sáu, 1998, cung ứng tại:

http://www.un.org/Depts/los/LEGISLATIONANDTREATIES/PDFFILES/chn_1998_eez_act.pdf.

Xem Điều 2.

 

33. Kháng Thư: Note Verbale, chú thích số 4 bên trên.

 

34. Tuyên Bố, chú thích số 31 bên trên, đoạn 1, tại trang 2.

35. Các khu vực biển này phải được vẽ từ các đường cơ sở phù hợp với các đường cơ sở đă được đặt ra trong Công Ước LOS Convention.  Hoa Kỳ đă phản đối sự sử dụng các đường cơ sở thẳng hàng của Trung Quốc (kể cả trên đại lục, Đảo Hải Nam và Quần Paracel) là thái quá và không phù hợp với Công Ước LOS Convention. J.A. Roach và R.W. Smith, Excessive Maritime Claims, ấn bản lần thứ 3 (Nijhoff, 2012), trang 98 và chú thích số 103. Cũng xem, Limits in the Seas No. 117: “Straight Baselines Claim: China,” U.S. Dep’t. of State, July 9, 1996.

 

36. Công Ước LOS Convention, chú thích số 14 bên trên, Art. 121. Về quan điểm của Hoa Kỳ, xem chú thích số 13 bên trên.

 

37. Xem chú thích số 16 bên trên, nói đến sự đo lường các khu vực biển từ các cao điểm lúc thủy triều xuống thấp.

 

38. Công Ước LOS Convention, chú thích số 14 bên trên, Điều 60.

 

39. Hoa Kỳ không có quan điểm về các sự tranh chấp chủ quyền này.  Xem bên trên, chú thích số 25.

 

40. Xem, thí dụ, “Notification and Statement of Claim,” Jan. 22, 2013, cung ứng bởi Bộ Ngoại Giao Phi Luật Tân (The Philippines Department of Foreign Affairs) tại:

http://www.dfa.gov.ph/index.php/component/docman/doc_download/56-notification-and-statement-of-claim-on-west-philippine-sea?Itemid=546.

Tài liệu liên quan đến vụ kiện này được cung ứng bởi Ṭa Trọng Tài Thường Trực (Permanent Court of Arbitration) tại:

http://www.pca-cpa.org/showproj.asp?pag_id=1529.

41. Sự nhấn mạnh được bổ túc bởi các tác giả.  Xem sự thảo luận tại đoan: Căn Bản Của Sự Phân Tích, bên trên.

42. Xem, thí dụ, Continental Shelf (Libya /Malta), 1985 I.C.J. 13, para. (đoạn) 73 (June 3) (cứu xét đến cả “khung cảnh địa dư tổng quát trong đó các đảo của Malta xuất hiện như một địa h́nh tương đối nhỏ” lẫn “sự sai biệt lớn lao về các chiều dài của các bờ biển liên hệ của hai Bên”). Cũng xem Nicaragua v. Colombia, chú thích số 17 bên trên.  Muốn có một sự thảo luận về sự thực thi Nhà Nước và án lệ, xem, thí dụ, V. Prescott và G. Triggs, “Islands and Rocks and their Role in Maritime Delimitation,” International Maritime Boundaries, 3245-3280 (ASIL, 2005).

 

43. Công Ước LOS Convention, chú thích số 14 bên trên, Điều 76, đoạn 1, quy định rằng các giới hạn của thềm lục địa có thể nới dài vượt quá 200 hải lư.  Cứu xét đến địa thế của đáy biển Biển Nam Trung Hoa và sự vắng bóng một sự khẳng định bởi Trung Quốc về quyền hưởng dụng thềm lục địa vượt quá 200 hải lư tại Biển Nam Trung Hoa, cuộc nghiên cứu này giả định rằng Trung Quốc không xem rằng thềm lục địa phát sinh bởi các ḥn đảo được tuyên nhận bởi Trung Quốc bên trong Biển Nam Trung Hoa nới dài quá giới hạn 200 hải lư

 

44. Xét rằng các bản đồ đường các vạch đứt đoạn có trước ngày thành lập Công Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, các quan điểm của Đài Loan cũng đáng chú ư.  Trong năm 1993, Đài Loan chính thức chấp thuận “Các Sự Hướng Dẫn Chính Sách Về Biển Nam Trung Hoa, tuyên bố quan điểm rằng các hải phận nằm bên trong đường các vạch đứt đoạn là “giới hạn hải phận lịch sử “ của nó trong đó Đài Loan “sở đắc mọi quyền và quyền lợi”.  Được trích dẫn trong bài viết của K-H. Wang, “The ROC’s Maritime Claims and Practices with Special Reference to the South China Sea,” Ocean Dev’t & Int’l L., 41:237-252 (2010). Tuy nhiên, pháp chế về biển sau đó được ban hành bởi Đài Loan và các sự phát biểu công khai sau này khiến ta nghĩ rằng quan điểm đó không c̣n được duy tŕ một cách chính thức bởi Đài Laon.  Xem cùng tài liệu đă dẫn (id.)Limits in the Seas No. 127: “Taiwan’s Maritime Claims,” U.S. Dep’t. of State, Nov. 15, 2005. 

45. Đạo Luật, chú thích số 32 bên trên. Điều 14 (sự nhấn mạnh được bổ túc bởi tác giả).

 

46. Xem, thí dụ, Xiamen University South China Sea Institute, “New map boosts China’s claim in sea,” South China Sea Bulletin, Vol. 2, No. 8, Aug. 1, 2014, trang 1-2; Z. Gao và B.B. Jia, “The Nine-Dash Line in the South China Sea: History, Status, and Implications,” Am. J. Int’l L. 107:98-124, 124 (2013); và Keyuan, các chú thích số 58 và 65 bên dưới (infra).

 

47. Cuộc Họp Báo Thường Lệ của Qin Gang (Tần Cương), Phát Ngôn Viên BNG, ngày 10 Tháng Ba, 2014, cung ứng tại

http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/xwfw_665399/s2510_665401/2511_665403/t1136288.shtml.

“Điều được hay biết bởi mọi người rằng Trung Quốc có chủ quyền trên Quần Đảo Nansha và các hải phận bao quanh chúng, kể cả Rạn San Hô Ren’ai Reef (sự nhấn mạnh được bổ túc bởi tác giả).  Ren’ai là tên gọi bằng Hán ngữ cho Băi Cạn Second Thomas Shoal.

 

48. “China warns on South China Sea oil,” Economic Times, Sept. 15, 2011 (sự nhấn mạnh được bổ túc bởi tác giả).

 

49. “Chinese ships patrol southernmost territory,” Xinhua, Jan. 26, 2014. Cũng xem, B. Hayton, “How a non-existent island became China's southernmost territory,” South China Morning Post, Ngày 9 Tháng Hai, 2013 và “Loss of James Shoal could wipe out state’s EEZ,” Borneo Post, ngày 5 Tháng Hai, 2014.  Các buổi lễ này theo tường thuật liên can đến việc thả các cột mốc bằng thép hay các tảng đá khắc chữ từ bên hông con tàu và xuống bờ cát ch́m dưới mặt nước. Cùng tài liệu đă dẫn: Id.

 

50. CNOOC, “Notification of Part of Open Blocks in Waters under Jurisdiction of the People’s Republic of China Available for Foreign Cooperation in the Year of 2012,” được cung ứng tại

http://en.cnooc.com.cn/data/html/news/2012- 06-22/english/322127.html.

CNOOC là “một công ty sở hữu bởi nhà nước hoạt động trực tiếp dưới Ủy Hội Quản Trị và Giám Sát Các Tài Sản Sở Hữu bởi Nhà Nước của Hội Đồng Nhà Nước [tức Chính Phủ, chú của người dịch], Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc.  Cùng tài liệu đă dẫn: Id.

51. Luật Bảo Vệ Môi Trường Biển, 1999. Các Điều 2 và 39. Các sự đề cập tương tự đến “các khu vực biển khác dưới quyền tài phán của Trung Quốc có thể được t́m thấy trong Luật Khảo Sát và Vẽ Bản Đồ của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, 2002 (Các Điều 2, 7, 32, 41, và 51) và Các Quy Định của Công Ḥa Nhân Dân Trung Quốc về Sự Quản Trị Việc Nghiên Cứu Khoa Học về Biển Liên Quan Đến Nước Ngoài, 1996 (Các Điều 2, 4, 9 và 10).

 

52. Xem, thí dụ, UN Study, chú thích số 20 bên trên, ở các đoạn 125-130 (kết luận rằng có “các lư do vững mạnh để cho rằng sự vang danh của sự hành sử chủ quyền … bị đ̣i hỏi …” và đoạn 96.

 

53. C.R. Symmons, Historic Waters in the Law of the Sea: A Modern Re-Appraisal (Nijhoff, 2008), trang 145. Phần nhấn mạnh là trong nguyên bản.

54. Đạo Luật, chú thích số 14 bên trên (“Các điều khoản của Đạo Luật này sẽ không ảnh hưởng đên các quyền lịch sử …” (phần nhấn mạnh được bổ túc bởi tác giả)).

55. Trong thực tế, bằng chứng lịch sử th́ quan hệ trong luật quốc tế áp dụng cho các sự tranh chấp chủ quyền trên đất liền, và bộ phận luật này th́ tách rời và khác biệt với luật biển.  Xem, thí dụ, Nicaragua v. Colombia, chú thích số 17 bên trên, các đoạn 66-84 (áp dụng các khái niệm về “niên kỳ trọng yêu’ và “hiệu lực: effectivités’” cho sự tranh chấp chủ quyền trên đất liền).

 

56. Phần nhấn mạnh được bổ túc bởi tác giả. Cũng xem, E. Franckx và M. Benatar, “Dots and Lines in the South China Sea: Insights from the Law of Map Evidence,” Asian J. of Int’l L., 2 (2012), 89-118 (b́nh luận về đường vạch đứt đoạn rằng “bản đồ có giá trị bằng chứng đáng ngờ vực chiếu theo các yếu tố khác nhau phát sinh từ án lệ quốc tế về bằng chứng bản đồ”).  

 

57. Vụ kiện Frontier Dispute (Burkina Faso/Republic of Mali), 1986 I.C.J. 554 (Dec. 22), đoạn 54. Sự lượng định gần đây nhất của Ṭa Án về giá trị bằng chứng của các bản đồ là vụ kiện Nicaragua v. Colombia, chú thích số 17 bên trên, các đoạn 96-102.

58. Fu Chu, Concerning the Question of Our Country’s Territorial Sea (in Chinese), Peking, 1959, bản dịch được cung cấp trong sách của J.A. Cohen và H. Chiu, People’s China and International Law: A Documentary Study, Princeton Univ. Press (1974), 470-79, 483-84 (tuyên bố “nếu các vũng hay các vịnh có quyền lợi quan trọng về quốc pḥng và kinh tế của các quốc gia ven biển và trong một thời gian lâu dài các quốc gia ven biển đă nhiều lần hành sử quyền tài phán trên các vũng hay các vịnh, chúng có thể được xem là các vũng lịch sử và vịnh … Vịnh Bột Hải (Gulf of Pohai) là … một vũng lịch sử của xứ sở chúng ta”). Tác giả Keyuan tham chiếu tài liệu của Fu Chu như “một tập tiểu luận giải thích chính thức được ấn hành tại Trung Quốc để biện minh cho Bản Tuyên Bố về Lănh Hải của Trung Quốc”.  Z. Keyuan, “Historic Rights in International Law and in China’s Practice,” Ocean Dev’t & Int’l L., 32:149-168, trang 156 (2001).

 

59. Symmons, chú thích số 53 bên trên.

 

60. Xem, thí dụ, Limits in the Seas No. 112, chú thích số 19 bên trên, trang 8-21. Viên Chức Chấp  Án Đặc Biệt [The Special Master, giới chức được chỉ định bởi thẩm phán để bảo đảm cho việc các lệnh tư pháp được tuân hành, chú của người dịch] trong vụ kiện U.S. v. Alaska (545 U.S. 75) cho rằng “sự vắng bóng của ấn phẩm (trên các danh sách) có ư nghĩa quan trọng trong các sự bất đồng quốc tế về các sự tuyên nhận các hải phận lịch sử”. No. 128 Original: Report of the Special Master on Six Motions for Partial Summary Judgment and One Motion for Confirmation of a Disclaimer of Title, Mar. 2004, trang 111.

 

61. Các Kháng Thư, chú thích số 3 bên trên và văn bản đi kèm.

 

62. Xem, thí dụ, Xiamen University South China Sea Institute, chú thích số 46 bên trên (tŕnh bày các bản đồ của Trung Quốc như “chiếu sáng bằng khoán lịch sử [của Trung Quốc].  Sau hết, sự tham chiếu đến các bằng khoán lịch sự là một phần của Công Ước UNCLOS”.

63. Tại các phần của Công ước nói về các khu vực biển, Công Ước chứa đựng vài điều khoản liên quan đến các sự sử dụng biển truyền thống hay trong lịch sử.  Điều 62(3) đ̣i hỏi các Quốc Gia ven biển phải cứu xét đến “nhu cầu tối thiểu hóa sự xáo trộn kinh tế tại Các Quốc Gia có các công dân từng đánh cá một cách thường xuyên (habitually)” (phần nhấn mạnh được bổ túc bởi tác giả) tại KKTĐQ.  Điều 51 cũng đ̣i hỏi các Quốc Gia ṿng cung đảo, trong phạm vị hải phận ṿng cung đảo, thừa nhận “các quyền đánh cá truyền thống (traditional) (phần nhấn mạnh được bổ túc bởi tác giả) và các hoạt động hợp pháp khác” của các Quốc Gia láng giềng kề cận trực tiếp.  Các điều khoản như thế có thể mang lại một căn bản cho một Quốc Gia ven biển t́m cách tiếp cận với các ngư trường của Quốc Gia duyên hải khác dựa trên sự sử dụng từ trước.  Tuy nhiên, chúng không mang lại một căn bản cho chủ quyền, các quyền chủ quyền, hay quyền tài phán.

 

64. Nghiên Cứu Của Liên Hiệp Quốc: UN Study, chú thích số 20 bên trên, các đoạn 72-76, thảo luận “các hải phận lịch sứ” như một ngoại lệ đối với các quy tắc được đặt ra trong công ước tổng quát [1958]”, kể cả việc giải thích Công Ước 1958 ra sao “trong các trường hợp nơi bằng khoán lịch sử không được bảo lưu một cách công khai trong bản Công Ước”.  Cuộc Nghiên Cứu nói rằng, “nếu các sự dự liệu của một Điều được nhận thấy trái nghịch với một bằng khoán lịch sử trên một khu vực hàng hải, và không khoản nào bao gồm trong điều luật bảo toàn bằng khoán lịch sử, các sự dự liệu của điều này phải chiếm ưu thế như giữa các bên thành viên của Công Ước.  Điều này xem ra đi theo quyết định bác khước những ǵ trái ngược: a contrario với sự kiện rằng các điều 7 và 12 [của Công Ước 1958] có các khoản công khai bảo lưu các quyền lịch sử; các điều không có một khoản như thế phải được xem là không thừa nhận một ngoại lệ tán đồng các quyền như thế (phần nhấn mạnh được bổ túc bởi tác giả) Cùng tài liệu đă dẫn (Id.), đoạn 75

 

65. Xem, thí dụ, các sự đề cập đến các quyền lịch sử bởi các tác giả Z.Gao và B.B. Jia, chú thích số 46 bên trên, tại trang 124 (nói rằng đường các vạch đứt đoạn  “bảo tồn các quyền lịch sử Trung Quốc trên việc đánh cá, hải hành, và các hoạt động trên biển khác như sự phát triển dầu hỏa và hơi đốt tại các hải phận và trên thềm lục địa …”) và tác giả Keyuan, chú thích số 58 bên trên, trang 162 (nói rằng “các quyền [lịch sử] thuyết phục nhất mà Trung Quốc có thể hưởng dụng là các quyền đánh cá”.)

 

66. Xem, các chú thích 63 và 64 bên trên và văn bản đi kèm.  

 

67. Delimitation of the Maritime Boundary in the Gulf of Maine Area (Canada/United States of America), 1984 I.C.J. 246 (Oct. 12), các đoạn 233, 235. Về “sự viện dẫn các quyền lịch sử, mặc dù thành ngữ đó không được sử dụng [bởi Hoa Kỳ] …” Pḥng Xét Xử có tuyên bố rằng ‘đến tầm mức mà các khu vực có ưu thế đánh cá lịch sử của Hoa Kỳ] đă trở thành một bộ phận của khu ngư trường độc quyền của Quốc Gia láng giềng, không sự tin tưởng nào c̣n có thể được đặt trên ưu thế đó nữa.  Rơ ràng, bất kể t́nh trạng ưu tiên đến đâu mà Hoa Kỳ có thể đă thụ hưởng trước đây, điều này không thể cấu thành trong bản thân nó một căn bản giá trị cho sự tuyên nhận giờ đây của nó, sự sáp nhập vào khu vực đánh cá độc quyền của riêng nó bất kỳ khu vực nào, theo luật, đă trở thành một phần của Canada” (phần nhấn mạnh được bổ túc bởi tác giả).  Cùng tài liệu đă dẫn (Id.)

 

68. Công Ước LOS Convention, chú thích số 14 bên trên, lời mở đầu (“Xác dịnh rằng các vấn đề không được quy dịnh bởi Công Ước này tiếp tục sẽ bị chi phối bởi các quy tắc và nguyên tắc của luật quốc tế tổng quát”).  Xem, thí dụ, Gao và Jia, chú thích số 46 bên trên, tại trang 123 (nói rằng Công Ước LOS “chưa bao giờ có ư định, ngay ở vào lúc chấp thuận nó, khử trừ luật quốc tế.  Ngược lại, nó đă dự liệu đầy đủ chỗ cho luật thường lệ được phát triển và khỏa lấp các khoảng trống mà bản thân Công Ước đă không thể lấp đầy trong năm 1982 [là điều được xác nhận] trong lời nói đầu của Công Ước UNCLOS, tuyên bố rằng “các vấn đề không được quy định bởi Công Ước này tiếp tục sẽ bị chi phối bởi các quy tắc và các nguyên tắc của luật quốc tế tổng quát.”)

69. Symmons, chú thích số 53 bên trên, trang 245 (“Để nhận được sự chấp nhận bắt buộc bởi các nước khác, các hành vi chủ quyền của Quốc Gia duyên hải phải được hay biết đối với các nước ngoài”.)  Cũng xem, UN Study, các chú thích số 20 và 52 bên trên.

 

70. Các Kháng Thư, chú thích số 3 bên trên và văn bản đi kèm.

 

71. Xem, thí dụ, Lời Chứng Scot Marciel, Phó Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao, Tiểu Ban Đông Á và Thái B́nh Dương Sự Vụ, Ủy Ban Quan Hệ Ngoại Giao Thượng Viện, ngày 15 Tháng Bảy, 2009, Digest of U.S. Practice in International Law 2009, các trang 460-63 (“Điều có thể hữu ích cho mọi bên nếu Trung Quốc đưa ra một sự giải thích rơ ràng hơn về nội dung các sự tuyên nhận cuủa nó”) và Lời Chứng của Daniel Russel, Phụ Tá Bổ Trưởng Ngoại Giao, Tiểu Ban Á Châu và Thái B́nh Dương, Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện, ngày 5 Tháng Hai, 2014 (“Trung Quốc có thể nêu cao sự tôn trọng luật quốc tế bằng việc làm sáng tỏ hay điều chỉnh sự tuyên nhận của nó …”).

 

72. Một khái niệm như thế được phản ảnh, thí dụ, trong bài viết của các tác Gao and Jia, chú thích số 46 bên trên, trang 123 (nói rằng “Trong trường hợp Biển Nam Trung Hoa, như được khoanh ṿng bởi đường chín vạch, bằng khoán và các quyền lịch sử của Trung Quốc, đi trước sự xuất hiện của Công Ước UNCLOS trong nhiều năm, vẫn đóng giữ  một vai tṛ liên tục.

73. Công Ước LOS Convention, chú thích số 14 bên trên, lời nói đầu.

74. Công Ước LOS Convention, chú thích số 14 bên trên, Điều 121. Bất kỳ các sự giới hạn nào áp đặt bởi đoạn 3, Điều 121 về “đá” sẽ được áp dụng.

 

75. Xem vụ kiện Libya/Malta, chú thích số 42 bên trên, Nicaragua v. Colombia, chú thích số 17 bên trên, và Prescott and Triggs, chú thích số 42 bên trên. 

  _____

Nguồn: United States Department of State. Bureau of Oceans and International Environmental and Scientific Affairs, Limits in the Seas No. 143, China: Maritime Claims in the South China Sea, công bố ngày 5 Tháng Mười hai, 2014.

 

_____

PHỤ LỤC

 

Gregory B. Poling

Sumitro Chair for Southeast Asia Studies

Center for Strategic & International Studies,

Washington, D.C.

 

 

 

CUỘC ĐẤU KHẨU TAY ĐÔI

 

VỀ BIỂN NAM TRUNG HOA

 

GIỮA TRUNG QUỐC VÀ MỸ

 

 

Bắc Kinh đang sắp tiến tới một hạn kỳ ngày 15 Tháng Mười Hai để đệ nạp sự biện hộ của nó trong vụ kiện trọng tài chống lại các sự tuyên nhận của Trung Quốc được nêu lên bởi Phi Luật Ta6n.  Vụ kiện đó, được đặt dưới cơ chế [trọng tài] tranh chấp cưỡng bách theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UN Convention on the Law of the Sea: UNCLOS), được tóm tắt nơi đây.  Chính phủ Trung Quốc không có ư định tham gia vào vụ trọng tài, hay bác bỏ 4,000 trang bằng chứng và lập luận của Phi Luật Tân, nhưng nó muốn chắc chắn rằng năm vị thẩm phán xét xử vụ kiện tại Ṭa Án Trọng Tài Thường Trực sẽ cứu xét đến các lập luận của Trung Quốc chống lại quyền tài phán của họ.

 

       Nhằm mục đích đó, Bộ Ngoại Giao hôm 7 Tháng Mười Hai đă công bố bản lập trường tŕnh bày các sự kháng nghị pháp lư của Trung Quốc đối với vụ kiện.  Hai ngày trước đó Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đà công bố một bản phân tích được chờ đợi từ lâu về tính hợp pháp của các sự tuyên nhận Biển Nam Trung Hoa của Bắc Kinh qua loạt nghiên cứu về Các Giới Hạn trên Biển của Bộ này.  Thời biểu của hai sự công bố này, cả trong sự liên hệ với nhau và với giai đoạn sắp tới của vụ trọng tài, khiến ta nghĩ rằng các nhà làm chính sách tại Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn thừa nhận giá trị của việc chiếm giữ ưu thế pháp lư tại Biển Nam Trung Hoa và đều  hăm hở t́m cách ảnh hưởng đến phiên ṭa trọng tài ngay dù họ không trực tiếp tham gia vào vụ kiện.

 

 

Bản Lập Trường của Trung Quốc nói những ǵ?

 

 

       Cốt lơi của bản lập trường của Trung Quốc tŕnh bày các lập luận của Bắc Kinh về lư do tại sao phiên ṭa trọng tài tại The Hague không có quyền tài phán trong vụ kiện của Phi Luật Tân.  Trung Quốc tranh luận rằng:

 

1.      Trọng tâm của vụ kiện không phải về việc giải thích Công Ước UNCLOS, mà là về chủ quyền lành thổ -- nước nào sở hữu các địa h́nh nào – trên đó Công Ước UNCLOS không có quyền tài phán.  Lập luận này không có sức thuyết phục, ít nhất không phải trong sự phát biểu của Trung Quốc rằng để phán quyết trên bất kỳ luận điểm nào của Phi Luật Tân, phiên ṭa “sẽ tất nhiên phải xác định, một cách trực tiếp hay gián tiếp, chủ quyền trên cả các địa h́nh trên biển trong vụ kiện lẫn các địa h́nh trên biển khác tại Biển Nam Trung Hoa”.

 

2.      Ngay dù vụ kiện là về Công Ước UNCLOS, Phi Luật Tân không có quyền khởi kiện.  Trung Quốc lập luận rằng Phi Luật Tân đă tự ràng buộc ḿnh trong cả các lời tuyên bố song phương và đặc biệt trong bản Tuyên Bố Khối ASEAN – Trung Quốc năm 2002 về Sự Ứng Xử Của Các Bên tại Biển Nam Trung Hoa (2002 ASEAN-China Declaration on the Conduct in the South China Sea (viết tắt là DOC) để chỉ giải quyết các sự tranh chấp xuyên qua các cuộc thương thảo.  Liệu bất kỳ nghĩa vụ ràng buộc nào như thế đă có được đưa ra hay không là điều bị ngờ vực cao độ, nhưng Manila có thể dễ dàng lập luận rằng các sự vi phạm của Trung Quốc đà vô hiệu hóa bản Tuyên Bố Về Sự Ứng Xử trong bất kỳ trường hợp nào.

 

Trung Quốc cũng lập luận rằng Phi Luật Tân đă không đáp ứng các điều kiện của Công Ước UNCLOS để chỉ theo đuổi sự trọng tài bắt buộc sau khi không đạt được một sự thỏa thuận song phương.  Bắc Kinh nhấn mạnh rằng bất kể nhiều thập niên thảo luận, “hai nước chưa bao giờ tham gia vào các cuộc thương thảo về vấn đề chủ điểm của vụ trọng tài”, và ngay dù nếu họ đă thương thảo, Công Ước UNCLOS không ấn định cụ thể một giới hạn thời gian cho các cuộc thương thuyết như thế.  Nếu được chấp nhận, lối lư luận này sẽ gạt bỏ một nước ra khỏi việc sử dụng sự giải quyết tranh chấp cưỡng bách v́nh viễn cho dù nước tuyên nhận kia ngăn chặn các cuộc thảo luận kéo dài đến bao lâu.

 

3.      Ngay dù Manila có quyền khởi kiện, Trung Quốc được miễn trừ khỏi sự trong tài bắt buộc.  Đây là lập luận có sức thuyết phục nhất của Bắc Kinh.  Nó dựa trên bản Tuyên Bố năm 2006 của Trung Quốc, như được cho phép bởi Công Ước UNCLOS, rằng nó được miễn trừ ra khỏi sự trọng tài trên một số chủ đề nào đó gồm cả sự phân định ranh giới biển.  Phi Luật Tân đă thực hiện một công việc đáng ngưỡng mộ trong việc đóng khung vụ kiện của ḿnh về nghĩa vụ của Trung Quốc phải làm sáng tỏ đường chín vạch và về quy chế của các địa h́nh, chứ không phải về việc phân định các hải phận tranh chấp.

 

Nhưng lập luận của Manila không phải là một cú đấm mạnh mẽ.  Điều đáng lo ngại nhất cho Phi Luật Tân rằng các luật sư của nó cảm thấy bị bó buộc để gồm cả một lập luận về quy chế đảo Itu Aba [Ba B́nh theo cách gọi bằng Việt Ngữ, chú của người dịch], đảo lớn nhất trong Quần Đảo Spratly (Trường Sa) trong các hồ sơ đệ náp hôm 30 Tháng Ba của Phi Luật Tân lên ṭa án.  Thản hoặc phiên ṭa phán quyết rằng đảo Itu Aba (hay bất kỳ địa h́nh nào khác) là một ḥn đảo có khả năng về mặt pháp lư làm phát sinh một thềm lục địa, khi đó nhiều phần nó sẽ triệt hủy nhiều phần trong vụ kiện của Phi Luật Tân, đặc biệt các phần liên quan đến các cao điểm khi thủy triều xuống thấp.  Nhưng điều đáng ghi nhận rằng bản lâp trường của Trung Quốc không nêu chi tiết về điểm này, để vấn đề lại cho các thẩm phán tự rút ra kết luận

 

4.      Ngay dù Trung Quốc không được miễn trừ, sự sử dụng một phiên ṭa trọng tài đặc biệt trong các vụ kiện trong đó một quốc gia đă không lựa chọn một trong các nhiệm ư khác thay cho sự trọng tài, như được cho phép bởi Công Ước UNCLOS, vi phạm luật quốc tế.  Điều này trong thực chất tra vấn một điều khoản trong Công Ước UNCLOS theo đó Trung Quốc đă đồng ư trong năm 1996.  Đây là lập luận ít có sứ thuyết phục nhất trong các lập luận của Trung Quốc, không thuyết phục chút nào bởi khó khăn để t́m hiểu rằng một ṭa án được thiết lập theo các điều khoản của Công Ước UNCLOS  lại sẽ cảm thấy được trao quyền để đảo lộn sự giải thích nhạy cảm duy nhất về một trong các điều khoản đó.

 

Điều đáng nói trong giữa các lập luận của nó chống lại quyền tài phán của phiên ṭa, Trung Quốc cũng đề cập đến sự đáng giá về mặt pháp lư để xét xử  (merits) của vụ kiện (bất kể đến việc nhấn mạnh trong phần dẫn nhập rằng nó sẽ không làm như thê).  Đặc biệt, Trung Quốc đă đưa ra một lập luận về khả năng của một quốc gia đưa ra một sự tuyên nhận chủ quyền trên một cao điểm lúc thủy triều xuống thấp, bất kể việc nh́n nhận rằng Ṭa Án Cống lư Quốc Tế trong năm 2012 đă phán quyết rằng một sự tuyên nhận như thế không được cho phép.  Trung Quốc cũng biện hộ cho các hành động của nó tại Băi Cạn Scarborough Shoal và Băi Cạn Second Thomas Shoal kể từ 2012 mà Phi Luật Tân tŕnh bày như việc sử dụng sự đe dọa sẽ dùng vũ lực.  Song bản lập trường không nói đến quy chế các địa h́nh đó mà Phi Luật Tân xác định như là đá chứ không phải các ḥn đảo, cũng như nó đă không biện hộ đường chín vạch như một sự tuyên nhận không gian biển theo Công Ước UNCLOS – cả hai cho thấy nhược điểm trong lập trường` pháp lư của Trung Quốc về các điểm này.

 

 

Cuộc Nghiên Cứu Của Hoa Kỳ Nói Những Ǵ?

 

 

Cuộc nghiên cứu Các Giới Hạn Tại Biển của Bộ Ngoại Giao đă khảo sát các sự tuyên nhận trên biển của hàng tá các nước, kể cả Indonesia, Phi Luật Tân, và Việt Nam.  Báo cáo mới nhất không đụng chạm đến hiệu lực pháp lư của các sự tuyên nhận lănh thổ trên các ḥn đảo tại Biển Nam Trung Hoa, tái xác định lập trường trung lập của Hoa Kỳ.

 

Sự khám phá chính yếu của cuộc nghiên cứu rằng “Trung Quốc đă không làm sáng tỏ căn bản pháp lư hay bản chất của sự tuyên nhận của nó”.  Cuộc nghiên cứu vạch ra rằng đường chín vạch thiếu “sự nhất quán và chính xác về địa dư”, điều nó nhấn mạnh qua việc đặt vài bản đồ của Trung Quốc chồng lên nhau cho thấy sự khác biệt đáng kể về sự đặt định các vạch.  Cuộc nghiên cứu mang lại sự hậu thuẫn cho các khía cạnh của vụ kiện của Phi Luật Tân bao trùm các băi đá và các cao điểm lúc thủy triều xuống thấp bị chiếm đóng bởi Trung Quốc.  Tại cốt lơi, sự phân tích đưa ra một sự bác bỏ đường chín vạch là một sự tuyên nhận biển có giá trị pháp lư, và do đó đánh vào trọng tâm của vụ kiện của Phi Luật Tân.

 

Bộ Ngoại Giao nêu ra ba sự giải thích khả hữu cho đường chín vạch và phân tích tính hợp pháp của chúng.  Mỗi một trong các sự giả thích này cùng lúc được hậu thuẫn và đối nghịch bởi nhiều pháp chế và các sự loan báo chính thức của Trung Quốc:

 

1.      Một sự tuyên nhận các ḥn đảo và các hải phận mà chúng sẽ phát sinh.  Cuộc nghiên cứu khám phá rằng điều này có thể là một định nghĩa nhất quán về mặt pháp lư của đường chín vạch nhưng vạch ra rằng chúng có các sự cảnh giác quan trọng.  Một thí dụ, “các quốc gia và các ṭa án và các phiên ṭa quốc tế một cách điển h́nh thường ban cấp cho các đảo rất nhỏ cách xa một bờ biển đại lục một hiệu lực bằng hay kém hơn các đường bờ biển đối diện”.  Điều này có ngh́a rằng Trung Hoa nhiều nhất có thể biện minh cho một khu kinh tế độc quyền (KKTĐQ) nới dài đến một đường trung tuyến giữa các đảo tuyên nhận của nó với các bờ biển của các lân bang Đông Nam Á của nó.

 

2.      Một ranh giới trên biển.  Bộ Ngoại Giao vạch ra rằng đường chín vạch nới dài quá xa vượt quá bất kỳ bờ biển hay ḥn đảo nào có thể chứng minh được về mặt pháp lư như một ranh giới của một KKTĐQ, và chắc chắn không phải là lănh hải.  Cuộc nghiên cứu cũng cáo giác rằng sự thiếu độ chính xác của sự tuyên nhận và sự tuyên bố đơn phương không hội đủ các điều kiện căn bản của một ranh giới trên biển hợp pháp.

 

3.      Một sự tuyên nhận bằng khoán hay các quyền lịch sử.  Đây là sự minh chứng phức tạp nhất của các sự biện minh pháp lư được đưa ra bởi các học giả Trung Quốc về đường chín vạch.  Bộ Ngoại Giao vạch ra một cách xác đáng rằng Công Ước UNCLOS “giới hạn tính xác đáng của các sự tuyên nhận lịch sử vào sự phân định các vùng và lănh hải” gần bờ biển của một nước.  Không điều nào trong Công Ước biện minh cho một sự tuyên nhận chủ quyền lịch sử hay các quyền nới rộng quá xa một bờ biển.

 

Và trái với các sự khẳng định của một số học giả Trung Quốc rằng luật thường lệ xuất hiện trước Công Ước UNCLOS sẽ cho phép một sự tuyên nhận như thế, Bộ Ngoại Giao nhấn mạnh một cách xác đáng rằng công ước có vị thế ưu tiên.  Để chứng minh điểm này, bản nghiên cứu trưng dẫn phán quyết của Ṭa Án Công Lư Quốc Tế rằng sự xuất hiện của KKTĐQ “phủ quyết sự sử dụng và các quyền trước đây của các Quốc Gia khác tại khu vực đó” – một sự bác bỏ rơ ràng sự tuyên nhận các quyền lịch sử của Trung Quốc trên các ngư trường đánh cá và các chất khí đốt hydrocarbons.

 

 

Bước Kế Tiếp Cho Phiên Ṭa Trọng Tài Là Ǵ?

 

 

       Trung Quốc sẽ không đệ tŕnh bất kỳ điều ǵ vào ngày 15 Tháng Mười Hai để đáp ứng với hạn kỳ của phiên ṭa.  Điều này có nghĩa các thẩm phán sẽ tự đảm nhận việc xem xét các phản biện mà Bắc Kinh sẽ đưa ra.  Đây là lư do tại sai sự công bố bản lập trường của Trung Quốc quan trọng biết bao.  Nó đă được lựa chọn thời biểu để đoan chắc rằng các thẩm phán sẽ nêu ra các câu hỏi chính xác, theo quan điểm của Trung Quốc.  Các chuyên viên tại Trung Quốc biết rằng Bắc Kinh sẽ bị thua ít nhất một luận điểm nếu vụ kiện được hoàn tất.  Đường chín vạch trong h́nh thức hiện thời của nó không hội đủ bất kỳ một trong các điều kiện của một sự tuyên nhận biển hợp pháp – một điểm mà cuộc nghiên cứu mới của Hoa Kỳ đă nhấn mạnh – và đ̣i hỏi việc làm sáng tỏ.

 

       Đó là lư do tại sao Trung Quốc, ngay dù trong khi từ chối không tham dự một cách chính thức vào thủ tục tố tụng, đă dành năng lực đáng kể vào việc khai triển một vụ kiện pháp lư chống lại quyền tài phán.  Bất kể sự la lối ầm ỹ của nó, Bắc Kinh không muốn coi thường một phán quyết của một phiên ṭa quốc tế và chịu đánh mất các cơ hội sẽ xảy đến với việc bị nh́n như một tay chơi vô trách nhiệm trong hệ thống quốc tế.

 

       Về bước kế tiếp, ṭa án sẽ yêu cầu toán luật sư của Phi Luật Tân trả lời các câu hỏi và các sự kháng nghị khả hữu đối với hồ sơ đệ nạp hồi Tháng Ba của nó.  Các câu hỏi đó nhiều phần sẽ bao trùm nhiều điểm được nêu lên trong bản lập trường của Trung Quốc, giữa các điều khác, bởi v́ các thẩm phán sẽ không phán quyết trên một vụ án gây nhiều tranh cài và được co6ng luận chú ư trừ khi họ cảm thấy bị thúc ép.

 

       Một khi Phi Luật Tân trả lời -- một công tác sẽ cần đến vài tháng – các thẩm phán sẽ cứu xét các câu hỏi về thẩm quyền tài phán và giá trị pháp lư của vụ kiện.  Họ xem ra sẵn sàng để cứu xét cả hai điểm trên cùng một lúc, điều sẽ xúc tiến các thủ tục.  Không có thời biểu ấn định cho một quyết định, và có thể có nhiều hơn một sự yêu cầu đ̣i Phi Luật Tân làm sáng tỏ các luận điểm.  Nhưng vào khoảng cuối năm 2015, và có thể sớm hơn, ṭa án sẽ đưa ra quyết định của nó – có tiềm năng sẽ là một phán quyết tác động nhiều nhất bởi bất kỳ phiên ṭa nào được thiết lập theo Công Ước UNCLOS. /-

 

_____

Nguồn: Gregory Poling, China and America's Dueling South China Sea Papers, tại địa chỉ trên mạng: http://nationalinterest.org/blog/the-buzz/china-americas-dueling-south-china-sea-papers-11830

 

 

Ngô Bắc dịch và phụ chú

12.01.2015

 

http://www.gio-o.com/NgoBac.html

 

© gio-o.com 2014