Ann Bates

Royal London Hospital

 & A. W. Bates

Royal Free Hospital, London

 

LĂN ÔNG (LÊ HỮU TRÁC, 1720-91)

TRUYỀN THỐNG Y HỌC VIỆT NAM

 

Ngô Bắc dịch

 

H́nh 1

Hải Thượng Lăn Ông.

 Không h́nh ảnh tương tự nào được bảo tồn và các h́nh vẽ hiện đại có tính chất tưởng tượng. 
Theo một h́nh được cung cấp một cách ân cần bởi Nguyễn Kỳ Nam

 

Đại Ư: Y sĩ Hải Thượng Lăn Ông hồi thế kỷ thứ 18 là vị thầy thuốc nổi tiếng nhất của y học Việt Nam.  Ông có viết các sách y khoa và thi ca bao gồm, điều khác thường vào thời đó, một phần kê khai tiểu sử và ông là vị thầy thuốc Việt Nam đầu tiên có các tin tức về lư lịch đáng kể được cung ứng.  Được học tập về y học Trung Hoa cổ điển, ông đă kết hợp nó vào các cách chữa trị bằng dược thảo truyền thống có tính cách bản địa Việt Nam.  Bất kể khuynh hướng của ông muốn theo đuổi một cuộc sống ẩn dật, ông đă trở thành vị lương y hàng đầu trong thời đại ông và đă bị triệu về triều đ́nh thối nát của các chúa Trịnh tại Hà Nội, sự kiện mà ông đă ghi lại bằng một sự tường thuật tiết lộ nhiều điều.  Kể từ thế kỷ thứ 19, các tác phẩm của ông đă trở thành trung tâm của kinh sách y khoa Việt Nam truyền thống

***.

DẪN NHẬP

Tại Việt Nam ngày nay, Lăn Ông là thày thuốc danh tiếng nhất trong truyền thống y khoa Việt Nam, trung tâm địa dư của điều đó là đường Lăn Ông ở Hà Nội với nhiều dược pḥng của nó.  Tiếng tăm của Lăn Ông về học thuật và đức hạnh to lớn đến nỗi một tiểu thuyết lịch sử gần đây của Pháp dựa trên cuộc đời của ông bị xem là có tính chất phỉ báng bởi nó đă phác họa ông với một số khuyết điểm trong con người (giả tưởng). 1 Đời sống và các công tŕnh của vị thày thuốc quư tộc này, kẻ vốn học hỏi y khoa từ các kinh điển Trung Hoa và đă viết các tác phẩm y khoa bằng tiếng Hán, đă được nh́n bởi cả các sử gia thực dân lẫn cộng sản như sự biểu lộ phong cách Việt Nam độc đáo về y học. 2

       Bài viết này dựa trên bản dịch sang tiếng Pháp của Nguyễn Trần Huân quyển tự truyện Thượng Kinh Lai Sứ (Relation of a Journey to the capital) của Lăn Ông, được ấn hành bởi Trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp (École Française d’Extrême-Orient) năm 1972 về tài liệu tiểu sử được công bố bởi Albert Sallet, Pierre Huard và Maurice Durand trong thời Pháp thuộc, và trong học thuật gần đây hơn của Việt Nam. 3 Mặc dù ít được hay biết tại phương Tây ngoài nước Pháp, tại Việt Nam, danh tiếng của Lăn Ông vẫn c̣n vang dội y như lúc sinh thời của ông.  Khi vào năm 1782, lúc ông ở tuổi 63, Lăn Ông, mặc áo và đội mũ đi mượn, được giới thiệu với Chúa Trịnh Sâm 4 để nhận các lời cám ơn chính thức của Chúa Trịnh, Vị Quan Số Một [Quận Nhất tức Quận Công Hoàng Đ́nh Bảo, chú của người dịch] đă nói về ông, “Ông tuy có quê mùa trong lời nói, nhưng về sự học hỏi y khoa, không ai trong nước có thể sánh với ông”. 5

 

Thời Niên Thiếu và Sự Huấn Luyện Y Khoa

Hải Thượng Lăn Ông (H́nh 1) sinh ra tại làng Liêu Xá, tỉnh Hải Dương, đông nam Hà Nội, ngày 11 Tháng Mười Hai 1720.  Tên khai sinh của ông là Lê Hữu Trác, Lăn Ông hai chữ Nôm viết tên ông) là một biệt danh mà Ông đă chấp nhận sau này cho sự trước tác của ḿnh. 6 Ông là con thứ bảy của ông Lê Hữu Mưu, Tổng Đốc tỉnh trung du Nghệ An. 7 Chú của ông, Lê Hữu Kiều, người có diện mạo mà Lăn Ông trông rất giống, là một vị quan tại triều đ́nh các Vua Lê.

       Theo lời tự thuật của ông, tuổi niên thiếu của ông là một thời vui sướng.  Làng quê của ông tại Liêu Xá được dẫn vào ngang qua một chiếc cầu gỗ nơi các phụ nữ tập hợp để bán trà và bánh ngọt.  Vào lúc chiều tối, ông cùng người anh sẽ lội xuống con sông để tắm rửa hay bơi lội.  Gần 50 năm sau, khi Lăn Ông quay trở về Liêu Xá và nh́n thấy các sự đổ nát của ngôi nhà gia đ́nh ông, bị phá hủy trong các cuộc nổi loạn tại Miền Bắc, ông nhớ lại một số điều mà anh của ông đă nói với ông khi họ c̣n ở tuổi trẻ thơ: “Chúng ta c̣n trẻ, và thật là điều tốt để dùng th́ giờ cho các tṛ vui đùa.  Sau này, khi chúng ta trở thành các viên chức, và cách xa nhau, làm sao chúng ta lại có thể vui đùa như thế này suốt ngày?” Trong thực tế, anh của tôi đă thành đạt trong các cuộc khảo thí, và tôi dùng suốt cuộc đời ḿnh để đi lang thang chốn sông hồ.  Lời nói đó đâu có phải là một sự tiên đoán đúng thực? 8 Sau sự thành công trong học thuật, anh của Lăn Ông được bổ làm quan và được phái đến tỉnh Lạng Sơn xa xôi nơi biên giới núi đồi đông bắc giáp Trung Hoa, làm tổng đốc.  Lúc về già, anh ông đă trở lại ngôi nhà thời niên thiếu nhưng Lăn Ông, trong sự ẩn dật tự ḿnh đặt ra, dường như ít gặp ông anh.

       Giới quan lại được coi trọng nhất, dù thế Lăn Ông đă trở nên khinh thị sự thăng tiến thế tục như thế, có lẽ một phần bởi phủ Chúa Trịnh đă bị thối nát.  Sự bổ nhiệm vào giới quan lại theo truyền thống tùy thuộc vào sự đỗ đạt trong các cuộc khảo thí ba năm một lần trong đó khoảng 20 trong số hàng ngh́n người ứng thí sẽ nhận được tước hiệu tiến sĩ. 9 Tên của họ vẫn c̣n có thể được nh́n thấy trên các bia đá tại Văn Miếu ở Hà Nội (H́nh 2).  Các tiến sĩ đỗ đạt có thể lựa chọn để chấp nhận sự bổ nhiệm tại triều đ́nh hay đi làm quan ở địa phương, nhưng một số đă quay về quê để dạy học hay để theo đuổi một đời sống học thuật riêng tư.  Cha của Lăn Ông đă đạt được tước hiệu tiến sĩ trong năm 1710.  Mặc dù hiếm hoi để có cả người cha lẫn người con đều đỗ đạt trong các cuộc khảo thí tiến sĩ, đó chính là một lợi điểm của Lăn Ông, vốn được sinh ra từ một gia đ́nh uyên thâm, nơi tiếng Hán được đọc và nói.  Như một người con thành niên, ông đă theo đúng quy củ đi học tại Hà Nội, 10 giành được các điểm số cao trong các cuộc khảo thí sơ bộ, nhưng không hề tiến đến bậc tiến sĩ. 11 Thay vào đó, ông quyết định du lịch và học hỏi về thuật bói toán từ một học giả 80 tuổi tên Vũ, là người mà ông làm học tṛ trong vài năm.  Sau đó ông gia nhập quân đội Hoàng Triều, nhưng binh nghiệp của ông bị cắt ngắn khi, sau sự từ trần của một trong các anh em của ông, ông đă quay về nhà để chăm sóc cho mẹ già (cha của ông đă mất năm 1739) tại làng Tinh Diễm, tỉnh Hà Tĩnh.

 

H́nh 2

Bia Tiến Sĩ tại văn Miếu Hà Nội. 
Các con rùa trường thọ, một trong tứ linh vật,
tượng trưng cho tính thường trực của việc học tập

 

       Từ 1729 đến 1740, nhà cai trị thực sự Miền Bắc là Chúa Trịnh Giang, một nhà lănh đạo tích cực nếu không phải là độc đoán, kẻ mà thời trị v́ có nhiều cuộc nổi loạn diễn ra khi các nhóm nông dân, trở nên vô gia cư bởi các thời kỳ đói kém do mùa màng thất bát và sự cai trị tồi tệ, đă khởi nghĩa chống lại chính quyền.  Hoàng tộc nhà Lê được ḷng dân chúng, mong muốn độc lập với chúa Trịnh, thường cầm đầu các cuộc nổi dậy này và, sau khi Chúa Trịnh Giang đă truất phế và ám sát Lê Duy Phương vào năm 1732, giành đoạt cho chính ḿnh một vương hiệu từ hoàng đế Trung Hoa, nhà Lê đă dấy lên cuộc nổi loạn chống lại chúa Trịnh và cuộc nội chiến vang rền trong nhiều thập niên cho đến khi có sự thất bại của ông Hoàng Lê Duy Mật năm 1770. 12 Trong các cuộc đấu tranh cốt nhục tương tàn này, cả bên phía triều đ́nh lẫn quân đội đều không mang lại một sự bảo đảm hay một chức nghiệp vinh dự.  Lăn Ông đă tóm tắt thời thanh niên của ông như sau:

Bạn đă dùng tuổi trẻ của bạn trong tṛ đấu kiếm và đọc kinh sách.  Trong mười lăm năm lang thang khắp đất nước, tôi đă không cảm nghiệm được điều ǵ ngoài điều tốt.  Kế đến, từ bỏ mọi ước muốn về của cải vật chất và các danh giá thế tục, tôi đă dựng một túp lều tranh tại Hương Sơn để chăm sóc người mẹ già của tôi và đọc các kinh sách.  Tôi đă dốc ḷng học hỏi bộ Hiên Kỳ (Kinh Sách Y Khoa của Hoàng Đế).  Tôi giữ ḿnh được khỏe mạnh và tôi giúp đỡ các người khác.  Điều này, tôi tưởng, là phương cách tốt đẹp nhất. 13

       Các kỳ khảo thí tiến sĩ đ̣i hỏi một kiến thức chính xác về các kinh điển Khổng học và phần lớn các học tṛ chỉ học những sách vở cần thiết cho sự thành đạt học vấn.  Đă không có hệ thống ấn định điều kiện hay sự huấn luyện y khoa chính thức, và nhu cầu về các người hành nghề thày thuốc được đáp ứng ở cấp làng xă bởi những người học hỏi về các cách chữa bệnh bằng pháp thuật hay dược thảo từ các bậc già lăo hơn và tại các thị trấn lớn hơn, bởi các nhà dược thảo được huấn luyện qua lối thực tập học nghề.  Các nhà dược thảo sử dụng các cây lá bản địa trong các toa thuốc truyền thống, một hệ thống được hay biết là Thuốc Nam hay “thuốc ta”, để phân biệt với y khoa Hán-Việt nặng về học thuật hơn của phương Bắc.  Các học giả có thể đọc được tiếng Hán t́m hiểu thuốc Bắc xuyên qua việc t́m đọc riêng tư hay từ một thày giáo và, trong một số gia đ́nh, việc học hỏi y khoa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.  Một số học giả t́m học y khoa để chữa trị cho chính họ hay cho gia đ́nh họ.  Một ít quan lại chuyên môn về y khoa và trở thành thày thuốc của triều đ́nh, một sự bổ nhiệm tương đối thấp. 14

       Chức nghiệp y khoa của Lăn Ông bắt đầu khi ông ngă bệnh và đi đến một vị thày thuốc tên là Trần Độc để chữa trị.  Trần Độc có tiếng là một học giả, và giống như người thày trước đó của Lăn Ông, ông Vũ, đă sống một cuộc đời hưu trí, từ bỏ các hy vọng được bổ làm quan sau ba lần bị trượt trong các cuộc khảo thí.  Sự tham khảo giữa một vị thày thuốc và một bệnh nhân có học vấn điển h́nh là một cuộc đàm thoại giữa những người ngang vế: bệnh nhân được kỳ vọng hiểu được và có lẽ đặt câu hỏi về sự chẩn đoán và thày thuốc giải thích lư thuyết đàng sau toa thuốc của ḿnh.  Chính từ đó, Lăn Ông lần đầu tiên đă tham khảo kinh sách y khoa Trung Hoa trong sự học hỏi sau đó trải dài suốt phần c̣n lại của cuộc đời ông.  Trần Độc có một thư viện đầy đủ, gồm cả quyển Cẩm Nang Bí Lục [Secret Notes from Master Feng’s Brocade Pouch], được biên soạn hồi đầu thế kỷ thứ 18 bởi Feng Zhaozhang], là quyển, theo truyền thuyết, Lăn Ông đă nhớ nằm ḷng sau lần đọc duy nhất.  Về sau ông có viết rằng ở tuổi 20 ông đă từ bỏ văn chương để theo đuổi y học. 15

       Việc học y khoa tuy thế là một hoạt động văn chương và triết lư, đ̣i hỏi thời giờ nghiên cứu các kinh điển.  Bất kể lời tuyên hứa từ bỏ văn chương của ḿnh, Lăn Ông được ngưỡng mộ như một nhà thơ và nhà văn tài hoa, nhiều đến nỗi bản dịch đầu tiên các tác phẩm của ông sang Việt ngữ đă bỏ quên các phần về y học.  Trong túp lều của ông nơi khu rừng, Lăn Ông sẽ ghi lại các đoạn văn mà ông quan tâm và sau đó suy ngẫm chúng trong nhiều giờ, hy vọng sẽ dẫn đến một số cảm hứng mới. 16 Sau một thời niên thiếu trải qua cùng đường lối học tập như các ứng viên tiến sĩ đă trải qua trong nhiều thế kỷ, y học mang lại cơ hội để thích ứng việc giảng dạy kinh điển, và có lẽ để khám phá, trong tiểu vũ trụ của thân thể, “các bí mật của vũ trụ”.  Lăn Ông đă cứu xét một vấn đề từng đè nặng nhiều học giả Trung Hoa:  nơi đâu là cổng vào của sinh lực, theo y học Trung Hoa, đă mang lại qi (khí) nguyên thủy, lực chuyển động của mọi hoạt động điều hành của cơ thể, và nó tương ứng với bộ phận nào?  Các quả thận đă được tin sẽ là gốc rễ của mọi chất nhiệt (hỏa) và nước (thủy) trong cơ thể, và một quan điểm cho rằng nguồn cội của nhiệt (hóa) nằm ở trái thận bên phải, có cơ năng khác biệt với quả thận bên trái, quả thận của nước.  Lăn Ông tin tưởng rằng cả hai quả thận tiết ra nước tiểu và cửa ngơ của sinh lực (mệnh môn) [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], nguồn cội của sức nóng cho các bộ phận bên trong cơ thể, nằm ở một nơi nào đó giữa hai quả thận. 17

       Sau sự từ trần của người mẹ vào năm 1760, Lăn Ông đă dành trọn thời gian cho việc trước tác và giảng dạy y học.  Các tác phẩm đồ sộ của ông được tập hợp lại sau khi ông mất tạo thành bộ bộ bách khoa về y học, Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh (Treatise on Medical Knowledge by Hải Thượng). 18 Trong suốt sinh thời của ông, sự lưu hành công tŕnh của ông bằng lối chép tay và sự trung thành của các đệ tử cũ đă mang lại cho ông một tiếng tăm đáng kể.  Điều này dẫn đến việc ông được triều mời về Phủ Chúa Trịnh đang gặp khó khăn, một kinh nghiệm đă khiến ông ước mong rằng ông nên ẩn dật sâu hơn nữa trong vùng núi rừng.

       Giống như nhiều văn nhân trí thức Việt Nam, Lăn Ông ôm chằm lấy Đạo Lăo vốn nhấn mạnh đến vô vi và ḥa hợp với thiên nhiên.  Ông đă nh́n sự vui thú quan trọng hơn sự thăng tiến vật chất và đă tŕnh bày cuộc sống của ông tại Hương Sơn như một ṿng tuần hoàn của việc đi bộ, câu cá, chơi cờ, nghe nhạc và quan sát cây cối cùng muông thú.  Đây là một điều ǵ đó của một sự tự minh họa được lư tưởng hóa, như sự lựa chọn biệt hiệu Lăn Ông (Kẻ Lười Biếng) cho thấy.  Các cung cách hay mang tính chất quư phái đ̣i hỏi rằng vị thày thuốc Việt Nam tinh thông và trước tác nhiều nhất này phải đóng vai như một nhà thẩm mỹ học lừ đừ, kẻ đôi khi viết ra một câu thơ dễ dàng, thường ngay chính vào lúc đ̣i hỏi nhiều nhất sự hành động.  Trong các tác phẩm của chính ḿnh, Lăn Ông lúc nào cũng là một học giả nghèo từ miền núi rừng, một kẻ ngu dốt và không giá trị ǵ bị đẩy một cách trái ư vào ánh đèn sân khấu.

 

Một Chuyến Du Hành Đến Kinh Đô

 

H́nh 3

Bản đồ Việt Nam hiện đại, chỉ các địa điểm được nói đến trong văn bản

 

       Một ngày trong mùa xuân năm 1782, hai sứ giả đến từ Phủ Chúa Trịnh với một lệnh truyền từ hoàng triều đ̣i Lăn Ông phải tŕnh diện tại Hà Nội (H́nh 3). 19 Một đặc tính của chính quyền họ Trịnh là mọi điều xảy ra một cách mau chóng, bất ngờ và không có lời giải thích.  Thường có thể khám phá một cách không chính thức những ǵ đang diễn ra, một cách thức bôi dầu làm trơn các bánh xe của chính phủ, nhưng bị đối đầu một cách nguy hiểm với lời đồn đăi và âm mưu.  Lăn Ông học được từ một trong các sứ giả rằng ông đă được lựa chọn theo đề nghị của Hoàng Đ́nh Bảo, Vị Quan Hạng Nhất (Nhất Quận Công) tại triều đ́nh Chúa Trịnh, để chăm sóc cho ông hoàng Trịnh Cam [phải là Trịnh Cán, chú của người dịch], kẻ sẽ kế ngôi hay bị đau ốm của Chúa Trịnh Sâm.  Cùng với lệnh triệu mời là một đoàn binh sĩ hộ tống và các giấy tờ lưu thông an toàn giúp cho Lăn Ông đến nơi sớm nhất: ông phải ra đi tức thời và du hành cả ngày lẫn đêm”.

Lăn Ông kinh hoàng, nếu không phải ngạc nhiên, về lệnh triệu tập mà ông không mấy chờ đợi, bởi ông quen biết với Quận Nhất từ lâu.  Tốt nhất, nếu sự chữa trị của ông thành công, ông có thể được ước định sẽ bị giữ lại tại Phủ Chúa vô hạn định trong một môi trường chính trị và đấu tranh nội bộ mà ông đă chán ghét và lánh xa từ tḥi niên thiếu.   Nếu thất bại, có thể bị trừng phạt và trên mặt lư thuyết, ngay cả sự hành quyết.  Sự lựa chọn người kế ngôi của Trịnh Sâm làm phân hóa triều đ́nh; ông chỉ định Trịnh Cán, con trai của vương phi được sủng ái của ông, Đặng Thị Huệ, làm người kế ngôi chúa chứ không chọn đứa con trai lớn nhất (và chính thức), Trịnh Khải, khiến cho triều đ́nh phân chia thành phe phái.  Đặng Thị Huệ và người thân tín của bà ta, Hoàng Đ́nh Bảo, sẽ giành đoạt thắng lợi nếu Trịnh Cán lên kế ngôi chúa, nhưng quyền lực của Trịnh Sâm lệ thuộc phần lớn vào quân đội đôi khi hành động một cách độc lập để lật đổ các nhà lănh đạo thất nhân tâm bằng vũ lực.  Triều đ́nh là một nơi chốn nguy hiểm để hiện diện:

Tôi nhận thức được sự trầm trọng của t́nh h́nh nhưng đă không có th́ giờ để lo âu, cho dù trong một thời khắc ngắn ngủi tôi lấy làm kinh sợ.  Những nguời trong gia đ́nh tôi [Lăn Ông có hai con trai và bốn con gái] hiểu tôi, rất đồng t́nh với tôi và chia sẻ sự buồn phiền của tôi].  Những kẻ không biết tôi lại lấy làm vui mừng cho tôi. 20

Đối vói những kẻ để ư đến việc được hay biết bởi Chúa Trịnh và khắp nơi trong nước là một dấu hiệu vinh dự lớn lao, Lăn Ông đă trả lời bằng một cách ngôn Đạo Lăo: Các cây bị cắt để lấy hoa của chúng; con người là nạn nhân của các danh dự hào nhoáng không mang lại cho họ điều ǵ ngoài sự chán nản.  Bon chen chường mặt ra trước không thể vui thú bằng việc ẩn dật. 21

Ông quyết tâm dùng chuyến du hành để viết lách và ông đă tuân theo truyền thống của các quan chức du hành bằng cách viết các bài thơ gợi hứng bởi chuyến đi.  Ngay dù có phải dậy sớm và du hành măi đến khuya cũng không ngăn cản được sự thưởng ngoạn môi trường quanh ông:

Tối hôm đó, chúng tôi đă lợi dụng ánh trăng sáng tỏ để hải hành [theo đường sông để đến quân trấn tại Vinh].  Các làng mạc ven sông nằm ngủ im lặng.  Các con chó sủa vang khi thuyền chúng tôi đi ngang qua.  Mặt trăng tṛn to lớn chạy dọc theo luồng nước, ngang qua bờ sông, thủy triều giúp sức cho hành tŕnh của chúng tôi.  Từ một ngôi chùa xa xôi vẳng lại tiêng chuông ngân nhè nhẹ.  Làn sương mỏng phủ chùm hàng cây mất dạng dần dần, một ít ngọn đèn của các thuyền đánh cá loé sáng trong đêm lạnh, một đôi chim lang thang lặng lẽ bay ngang bàu trời.  Các học tṛ của tôi uống rượu tiêu sầu. 22

Từ Vinh, hành tŕnh tiếp tục trên đường bộ với Lăn Ông được khiêng về hướng bắc qua các ngọn núi trên một chiếc kiệu được tháp tùng bởi một đoàn tùy tùng gồm các đệ tử và 20 người lính.

Như có thể được kỳ vọng, sự hiện diện hiếm hoi của một v́ thày thuốc uyên thâm tại các khu vực tương đối hẻo lánh này đưa đến các lời thỉnh cầu xin tham vấn.  Một buổi tối, một người lính đă mang biếu Lăn Ông một đĩa tôm và xin tư vấn về sự chữa trị cơn sốt cho đứa con trai tám tuổi của anh ta.  Sáng hôm sau, sau khi đă cho uống các dược thảo khuyến cáo để làm giảm các triệu chứng của đứa trẻ, người lính đă quay trở lại với lời cám ơn và các thỉnh cầu về thuốc men từ dân trong làng.  Bất kể đến sự khẩn cấp của cuộc hành tŕnh, Lăn Ông đă cho rẽ vào làng người lính để đưa ra lời khuyên.  Ư thức mạnh mẽ của ông về các nghĩa vụ của một người thày thuốc, về những điều ông đă viết trước đó trong bộ sách Các Khái Niệm Về Nghĩa Vụ: Deontological Precepts, được dựa trên sự hiểu biết của ông về y học như một “lời kêu gọi từ Trời”; tức Đạo (Tao) hay con đường được theo đuổi bởi nhà thông thái với sự tin tưởng tuyệt đối. 23

Sau 10 ngày, thời hạn cho phép bởi Chúa Trịnh Sâm cho hành tŕnh, Lăn Ông vẫn c̣n cách xa kinh đô (chuyến di hành c̣n kéo dài thêm 13 ngày nữa) và vị quan được lệnh tháp tùng ông lấy làm lo sợ về sự giận dữ của Chúa Trịnh.  Lăn Ông, được khích lệ bởi lời tiên đoán của một vị Đạo Gia về kết cuộc thuận lợi cho chuyến du hành của ông, đă bác bỏ các nỗi lo sợ này và đă dựng lên một câu chuyện xa nhà khi được triệu hồi thành duyên cớ cho sự chậm trễ của họ.  Đến gần kinh đô hơn, sự thích thú của Lăn Ông khi ghi lại nhật kư tin tức cho hay rằng một học tṛ cũ của ông đă dựng một bàn thờ cho ông (một danh dự hiếm có cho một người c̣n sống) trái ngược với các biểu lộ công khai sự khiêm nhường của ông đối với vị quan tháp tùng: Về phần ḿnh, tôi th́ ngu dốt và không có khả năng.  Tài năng của tôi th́ thô thiển và sự hiểu biết của tôi th́ nông cạn.  Tôi thật vô dụng đối với xă hội.  Tôi đă chọn một nghề mọn để sinh nhai.  Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng vào một ngày tốt đẹp, tôi sẽ được gọi về triều đ́nh.  Việc này giống như câu y phục không xứng với kỳ đức.  Đó không phải là một niềm vui cho tôi. 24

 

Tại Triều Đ́nh Chúa Trịnh

Vào ngày 13 Tháng Ba, Lăn Ông đến một kinh đô đang chuẩn bị chiến tranh, với các binh sĩ trang bị ở mọi nơi và các tuyến pḥng thủ với đường hào và cọc nhọn.  Ông đến nơi với sự tự tin, c̣n dạo quanh các nơi chốn ông từng hay biết lúc c̣n trẻ, cần đến một gậy bằng mây để dọn lối đi xuyên qua các đám đông.  Ngày hôm sau, ông được triệu đến khám bệnh cho vị Thế Tử Trịnh Cán. Đây là lần đầu tiên ông bước chân vào một cung điện vua chúa và ông lấy làm sững sờ về sự huy hoàng của nó khi được hối thúc đến pḥng yết kiến ông thoáng nh́n thấy các chiếc kiệu nghi lễ của nhà chúa được nạm vàng toàn bộ và các chiếc bàn chất đầy vật quư giá.  Tại một “trà” 25 đ́nh sơn màu tím, cao và rộng, có tám thày thuốc của phủ chúa hiện diện.  Sau sự chờ đợi khó chịu, Lăn Ông đi theo Quận Nhất đến gặp mặt Trịnh Cán.  Trong khi phủ phục trước ông hoàng nhỏ, ông nhận ra rằng Chúa Trịnh Sâm vừa mới rời căn pḥng và giấu ḿnh, cùng với một số cung phi của ông ta, đàng sau một tấm màn thêu bằng vàng.  Lăn Ông bắt mạch vị thế tử, v́ trọng tuổi già của ông, Lăn Ông được phép ngồi. 26 Từ pḥng bên ngoài, Trịnh Sâm đă ra lệnh cho con ông được phép được cởi y phục để khám bệnh.  Sau khi việc này hoàn tất, Lăn Ông được phép lui ra ngoài và vị Nhất Quận Công đă tŕnh bày về chứng bệnh của thế tử:

Chứng bệnh kéo dài đă gần sáu tháng.  Đôi khi thế tử rất yếu đuối và mệt mỏi.  Hiện giờ thế tử mới lên cân được chút ít.  Đó là bằng chứng vững chắc của một chứng suy nhược di truyền.  Ngoài ra đó là chứng bệnh kinh niên, không thể hồi phục.  V́ thế nếu ông bốc thuốc vị dương (yang), bụng dạ sẽ không chịu đựng nổi sức nóng.  Nếu ông kê thuốc vị âm (yin), ông sẽ làm kéo dài chứng bệnh.  Có lẽ ông nên dùng các loại thuốc tán (dispersing) [chống nóng sốt: antipyretic] để có kết quả tốt. 27 Một cách riêng tư, Lăn Ông xem kiến thức y khoa của Hoàng Đ́nh Bảo là nông cạn, nhưng cần lư luận giá trị lư thuyết cho toa thuốc của ông với Nhất Quận Công và với chính Chúa Trịnh Sâm trước khi toa thuốc được chấp nhận.  Trong lời thuật của ḿnh, ông nhớ đă toan dùng các loại thuốc sẽ mang lại sự chữa trị ngắn gọn với hy vọng được phép rời triều đ́nh nhưng ông hồi tưởng đến bổn phận của ḿnh, không phải đối với bệnh nhân mà là đối với tổ tiên, là phải gắng sức tối đa.  Ông đă viết về vị thế tử rằng: “Đă sống trong một thời gian dài tại một thế giới khép kín: bụng thế tử bị trương phù, các bắp thịt bị suy nhược, các màng nhầy bị khô lại.  Đến nay, thế tử đă uống các lượng lớn nhiều loại thuốc mà Lăn Ông lo ngại đă cản trở sự hồi phục.  Ông đă báo cáo bằng văn bản với Nhất Quận Công:

Tôi nhận được lệnh khám bệnh và tôi nhận thấy rằng sáu mạch đều mong manh và suy yếu, rằng mạch Quan [?] tay phải suy yếu nhất và rằng mạch Xích bên phía phải cũng suy nhược.  Nguyên lư Âm của tụy tạng th́ yếu.  Hành hỏa của bao tử th́ quá mạnh và không thể bị kiềm chế bởi nguyên lư Âm-Dương.  Khi hành hỏa hoạt động kém, khiến làm bụng to ph́nh và sung phù.  Bệnh trạng tổng quát là rỗng bên trong là “trương ph́nh” bên ngoài.  Hành thổ của tụy tạng sẽ cần được tăng cường, để hoàn thành tác dụng của dạng thức hành thổ, và sau đó các khó khăn tự chúng sẽ liệu giải.  Tôi bạo gan đề nghị liều thuốc sau đây với ông:

1.      Bạch Truật [Atractylis], một chỉ (ounce).  Rang ít gạo ba lần, đừng làm cháy chúng.  Dùng phần bốc mùi thơm sẽ tăng cường khí [ch’i: spririt] của tụy tạng.

2.      Thục địa [Rehmannial], ba chỉ, phơi khô và gây hương vị.  Dược liệu này tái lập nguyên lư âm của tụy tạng.

3.      Gừng khô (Can khng [?]), hai chỉ, nướng cho đến khi cháy đen, dùng làm chất giúp hơi thoát ra từ bao tử hay đường ruột (carminative).

4.      Ngũ Vị [Schizandra chinesis], một chỉ.  Để tăng cường khí của phổi và điều ḥa đường tiểu tiện. 

Những dược liệu này sẽ phải trộn lẫn nhau và nung nóng để có một thứ bột dính như keo.  Cho bệnh nhân dùng mỗi lần một muỗng nhỏ pha với nhân sâm, vào giữa bữa ăn.

Kư tên: Thần dân của Ngài

Lễ Hữu Trác 28

 

Hoàng Đ́nh Bảo chỉ ghi nhận rằng toa thuốc khác biệt lớn lao với toa thuốc của chính ông ta và các toa thuốc của các thày thuốc khác trong triều.  Ít ngày trôi qua trước khi Lăn Ông nghe được rằng Chúa Trịnh Sâm đă chấp thuận và thưởng cho ông một khoản tiền tương đương với khoản lương của 20 gia nhân trong phủ.  Chấp nhận tiền thưởng có nghĩa trở thành một thày thuốc trong phủ và, bởi không thể từ chối, Lăn Ông giả vờ ngă bệnh thay v́ quay trở lại Phủ Chúa.  Ông đă dùng t́nh bạn với con trai Quận Nhất để thuyết phục Hoàng Đ́nh Bảo rằng ông không thích hợp với quan trường và bởi lớn tuổi và bệnh tật và trong một lúc ông được phép cư ngụ bên ngoài Phủ Chúa, mặc dù không xa.  Trong các tháng ông sống ở ngoại ô kinh đô, được canh gác bởi một ít binh sĩ ù lí và được thăm viếng bởi các thân nhân, các bệnh nhân và người khác nghe thấy danh tiếng của vị thày thuốc già.  Hiệu ứng của chính  h́nh thức nô dịch ḥa dịu nhất trên Lăn Ông là điều có thể tiên đoán được.  Ông đă kiếm cách và sau hết được phép rời kinh đô trong ít ngày để tham dự lễ cải táng một trong các tổ tiên của ông nhưng, khi bị tái triệu hồi bởi chúa Trịnh Sâm chỉ vài tiếng trước khi ông đến hạn quay về [kinh đô], ông không thể khước từ, ông đưa ra nhận định, “Tôi chỉ là một kẻ nô lệ! … Bây giờ là chuyện ǵ đây?29

       Trịnh Sâm, trong khi giám sát các cuộc thao diễn hải quân, bị cảm lạnh.  Các gia nhân  của Lăn Ông đă đi suốt đêm để khiêng ông quay lại kinh đô và khi đến đó các binh sĩ của Phủ Chúa thay thế và khiêng kiệu ông chạy đến phủ, đụng cả vào các người đi bộ để dẹp đường và nhồi sóc Lăn Ông một cách không hề êm ái.  Ông đă đi theo Quận Nhất vào cấm thành và vị quan sứ giả này nắm lấy tay áo ông và kéo ông dọc theo các hành lang và xuyên qua một loạt các tấm màn thêu đến pḥng ngủ nơi chúa Trịnh Sâm đang ngồi trên một chiếc vơng màu đỏ bên cạnh một chiếc giường làm bằng vàng ṛng và được che bằng một màn bằng lụa vàng thêu hoa văn.  Chúa Trịnh Sâm nh́n Lăn Ông và nhận xét: “Ông trông giống với Thày Liêu” (chú của Lăn Ông)].  Quận Nhất ra lệnh Lăn Ông đến gần và xem mạch cho Trịnh Sâm:

Tôi chỉ đứng cách vị Chúa vài bước; tôi phải cúi đầu bởi tôi không dám nh́n thẳng vào ông ta …. Tôi nhận thấy các mạch Quan và Thốn ở cả hai bên chạy quá mức, đập nhanh và rung mạnh.  Mạch Xích bên phải th́ nông và nhanh.  Nếu tôi bấm mạnh hơn một chút, mạch không c̣n sức … Tôi tự nhủ thầm: “Cơ thể th́ gầy g̣ và trơ xương, da khô.  Nước tiểu vàng đục và phân chứa các ngũ cốc không tiêu hóa được.  Phổi bị ứ và hơi dội ngược trở lại, bị sốt cao, miệng khô và lưỡi bị lở loét, bị ho dai dẳng và mất giọng.  Mọi điều cho thấy một sự mất mát lớn lao sinh khí và bị thiếu máu trầm trọng (anaemia).  Hơn nữa, mạch bị căng và đập nhanh.  Tôi sợ rằng cũng có một sự suy yếu lớn lao khí ở dạ dầy.  Có lẽ các thày thuốc đă không sẵn nghĩ đến việc cho thuốc hồi sức, hay có lẽ đây không phải là nguyên do của chứng bệnh, nhưng dĩ nhiên người ta phải lạc quan”. 30

Lăn Ông kê tám loại dược liệu dưới h́nh thức thuốc bôi. 31 Tối hôm đó, Trịnh Sâm lại triệu tập ông lần nữa và tra hỏi để biết lư do tại sao ông lại kê quế và phụ tử (aconitum), những thứ làm gia tăng nhiệt độ.  Lăn Ông đă giải thích rằng cơn sốt là một loại được gọi là “cơn sốt giả tạo” và Trịnh Sâm sau đó đ̣i hỏi một sự giải thích các triệu chứng bệnh tật của ông ta.  Sau khi bằng ḷng rằng Lăn Ông đă có “các ư tưởng rất chính xác”, Chúa Trịnh đă đồng ư dùng thử một liều lượng nhỏ trước.

Sự chờ đợi trong khi các nhà dược thảo Phủ Chúa bào chế toa thuốc là một thời khoảng đầy âu lo.  Một vị quan nói rằng cách điều trị đó không khác ǵ đổ dầu vào ngọn lửa, điều Lăn Ông trả lời rằng ông biết rơ rằng lưỡi đao của đao phủ thủ đang chờ đợi ông nếu cách điều trị bị thất bại.  Ông đă kín đáo vui mừng trong ngày kế đó khi sắc mặt vui tươi của Quận Nhất cho thấy cơn sốt đă hạ giảm.  Chúa Trịnh Sâm đền ơn đă tặng ông một chiếc áo lụa và 10 giải bằng bạc (từ ngữ thái ngưu, thường được dùng để chỉ tổng số tiền đó, phải được giải thích cho một Lăn Ông thoát tục).  Cuộc hội kiến chính thức tại đó Chúa Trịnh bày tỏ ḷng biết ơn của Chúa là một dịp căng thẳng, với các lời khen tặng châm chọc từ các quan chức ngày càng ghen tỵ và một sự nhắc nhở gây bối rối rằng việc xuất hiện với y phục không đúng cách sẽ cấu thành tội khi quân, trên lư thuyết là một tội bị tử h́nh.

Lăn Ông c̣n lo sợ rằng sự thỏa măn của Chúa Trịnh về sự điều trị cho chính Chúa và con trai của Chúa sẽ khiến ông không thể rời khỏi triều đ́nh, nhưng nỗi lo âu về phần các thầy thuốc chính thức của triều đ́nh và của các quan chức khác rằng lời tư vấn y khoa trước đây của họ sẽ bị nh́n là khiếm khuyết khi đối chiếu, đă mang lại cho ông một cơ hội.  Quận Nhất sau cùng được thuyết phục để phóng thích ông, với một quà tặng 50 giải bạc nữa, nhưng Lăn Ông đă hoàn trả lại hết, chỉ giữ lại 6 giải và đă ra đi: “như một con chim sổ lồng, hay một con cá thoát ra khỏi lưới câu”. 32

       Có lẽ Hoàng Đ́nh Bảo đă dự liệu trước sự nguy hiểm và đă quyết định rằng bất kỳ công lao nào có thể quy chụp lên vai ông từ việc giới thiệu Lăn Ông với triều đ́nh không c̣n quan trọng nữa.  Trong ṿng ít ngày sau khi về tới nhà, Lăn Ông nghe tin rằng các binh sĩ đă giết chết Quận Nhất và gia đ́nh ông ta hôm 28 Tháng Mười Một.  Trịnh Sâm đă chết v́ bệnh và, trước khi Chúa được chôn cất, quân đội đă lật đổ Trịnh Cán, và đă lập người con trai trưởng của Trịnh Sâm, là Trịnh Khải, lên ngôi Chúa. 33 Tin tức có thể đă không bất ngờ và nó xác định sự tin tưởng của Lăn Ông rằng cuộc sống đơn độc của ông tại vùng núi rừng là sự lựa chọn khôn ngoan nhất.  Trở lại Hương Sơn một cách an toàn, ông đă viết:

Danh giá và sự giàu có th́ phù du như các đám mây trôi.

Ca nhạc, tháp cao và cung đ́nh không tồn tại qua một buổi sáng … 34

Ông đă sống ở đó suốt thời hưu trí cho đến khi từ trần vào ngày 17 Tháng Hai, 1791.

 

Lăn Ông và Y Học Việt Nam Cổ Truyền

Nhiều thế kỷ mưu toan của Trung Hoa nhằm thuộc địa hóa hay khuất phục người dân Việt Nam đă đưa đến một khuynh hướng trong văn giới Việt Nam muốn hạ thấp các ảnh hưởng của Trung Hoa.  Trong khi dược phẩm Miền Bắc Việt Nam (thuốc Bắc) có nguồn gốc Trung Hoa, có một sự tương đồng phổ biến với mối quan hệ giữa y học tây phương hiện đại và y khoa La Mă hay Hy Lạp cổ điển: Lăn Ông đă viết bằng tiếng Hán giống y như các học giả Tây Phương viết bằng tiếng La tinh.  Trong khi y học Trung Hoa là một ảnh hưởng tiếp diễn, y học Bắc Việt Nam chưa bao giờ là một sự bắt chước một cách nô lệ: yêu sách của Trung Hoa về [việc giao nạp] các thày thuốc Việt Nam như vật triều cống dưới thời chiếm đóng nhà Minh (1407-27) 35 khiến ta nghĩ đến một sự trao đổi tư tưởng trong trường kỳ, nếu không nói là bị cưỡng bách.

       Y học Việt Nam, giống như tôn giáo, có tính chất hổ lốn, và các bệnh nhân có cơ hội sẽ tham khảo càng nhiều thày thuốc càng tốt và sẽ áp dụng các phương thức chữa trị khác nhau mà họ thấy thích hợp.  Ở cả Miền Bắc lẫn Miền Nam, các triều đ́nh đă sử dụng các nhà giải phẫu và các y sĩ Tây Phương ngoài các thày thuốc của chính họ. 36 Trong khi Lăn Ông giờ đây được tưởng nhớ v́ việc du nhập các sự canh cải Việt Nam vào y học Trung Hoa cổ truyền, trong sinh thời của ḿnh, ông đă đóng vai tṛ quan trọng trong việc mang ảnh hưởng Trung Hoa vào Việt Nam: ông đă mua các thảo mộc Trung Hoa và người bạn gần gũi nhất của ông trong số các thày thuốc của Phủ Chúa là người Trung Hoa.  Ông cũng bảo tồn và mở rộng các danh sách các thứ thuốc Nam cổ truyền.  Trong tập Linh Nam Bản Thảo, một tập liệt kê dược thảo bằng văn vần chữ nôm, Lăn Ông đă ghi chép 722 loại dược thảo Việt Nam bao gồm các dược thảo từ tập sách cổ điển của Tuệ Tĩnh, Nam Dược Thần Hiệu (Southern Medicines of Divine Effect), cùng phần bổ túc các thứ dược thảo do chính ông đă kê toa. 37

       Nửa sau của thế kỷ thứ 18 đă là một thời kỳ tích cực cho y học Việt Nam, khi vài loại dược thảo quan trọng [được khám phá] và các công tŕnh về sản khoa và bệnh truyền nhiễm được trước tác. 38 Các tác phẩm của Lăn Ông th́ bao quát nhất và là các tác phẩm duy nhất có chứa đựng các phần về đạo đức nghề nghiệp và lư lịch bản thân.  Sau khi mất, các tác phẩm của ông vẫn c̣n là một nguồn quan trọng cho các thày thuốc Việt Nam và trong năm 1865 ông Vơ Xuân Hiên đă khởi sự biên tập các bản thảo c̣n tồn tại được ấn hành lần đầu tiên (bằng chữ Hán) thành 63 quyển trong thời khoảng từ 1876 đến 1883. 39 Trong thế kỷ thứ 20, các sử gia y khoa người Pháp đă duyệt xét các tác phẩm của Lăn Ông.  Sự nhấn mạnh của họ trên các khía cạnh Việt Nam độc đáo trong tư tưởng của ông có thể được nh́n như một phần của một nỗ lực rộng lớn hơn nhằm sáng tạo ra một thời đại hoàng kim Việt Nam thời tiền thuộc địa đă mất, lại có khả năng được phục hồi dưới chính quyền Pháp. 40 Sau khi Việt Nam giành lại sự độc lập, các tác phẩm của Lăn Ông tạo thành căn bản cho một sự phục hồi y học Việt Nam truyền thống được thúc đẩy một phần bởi nhu cầu vào lúc khi các dược phẩm Tây Phương không sẵn sàng được cung ứng, và một phần bởi một mong muốn nhấn mạnh đến căn cước dân tộc xuyên qua y học cổ truyền chứ không phải y học Tây Phương. 41 Có lẽ chính trong sự nhấn mạnh của họ vào nên y học thực dụng và đạo đức nghề nghiệp, được gợi hứng bởi bổn phận đối với bản thân và gia đ́nh ḿnh, mà các tác phẩm của Lăn Ông có Việt Nam tính riêng biệt nhất:   

Hăy t́m học cách thức để thích ứng với các t́nh huống và để thich ứng với điều kiện của bạn, học cách kiểm soát chính ḿnh và dừng lại đúng lúc, và xem đó là một danh dự không bao giờ bị ngă gục trước ḷng tham lam. 42

___

Ann Bates (Phạm Thị An), sinh ra và theo học tại Sà́g̣n.  Sau khi miền Nam sụp đổ trước cộng sản, bà đă di cư sang Anh Quốc và làm việc tại Royal London Hospital và tại National Gallery, London trước khi về hưu tại Essex

Alan W. Bates, Tiến Sĩ, Bác Sĩ, giảng dạy về giải phẫu học và phôi thai học tại Đại Học Queen Mary College, London trước khi di chuyển đến Bệnh Viện Royal Free Hospital làm bác sĩ khảo sát tế bào để định bệnh (histopathologist).  Ông là tác giả quyển Emblematic Monsters: Unnatural Conceptions and Deformed Births in Early Modern Europe (Rodopi, 2005).  Các tác giả là đôi vợ chồng.  Thư từ liên lạc: Department of Histopathology, Royal Free Hospital, Ondon NW3 2QG, UK (email: Alan.Bates@royalfree.nhs.uk)

 

___

Các Tài Liệu Tham Khảo và Các Chú Thích

1.      Việt Nam News, Thứ Hai 18 Tháng Mười 2004.  Xem Feray Y, Monsieur le Paresseux.  Paris: Robert Laffont, 2000, các trang 222-3.

2.      Tiếng Hán đă là ngôn ngữ được chấp nhận bởi y học uyên thâm; các tài liệu hoàng triều Việt Nam và các tác phẩm không phải về y học của Lăn Ông được viết bằng Chữ Nôm (Vietnamese ideographic script) [sic].

3.      Lăn Ông (do Nguyễn Trần Huân biên tập và phiên dịch), Thượng Kinh Kư Sự (Relation d’un voyage à la Capitale).  Paris: École Française d’Extrême-Orient, 1972; Sallet A., Un grand médecin d’Annam: Hải Thượng Lăn Ông (1725-1792).  Bulletin de la Société Française d’Histoire de la Médecine 1930; 24: 170-78; Huard P. Durand, M. Lăn Ông et la Médecine sino-vietnamienne.  Bulletin de la Société des Études Indochinoises 1953; 28:221-93; Lê Khắc Thiên, Hải Thượng Lăn Ông, great master of traditional medicine.  Vietnamese Studies 1976; 50:143-59.

4.      Trịnh Sâm, nhà cai trị Miền Bắc Việt Nam (Đàng Ngoài) 1767-82.  Kể từ thế kỷ thứ 17, các hoàng đế họ Lê thành các nhà cai trị hư vị, trong khi các Chúa Trịnh nắm giữ quyền lực ở ngoài Bắc và các chúa Nguyễn ở trong Nam [Đàng Trong]; tuy nhiên, trên danh nghĩa, mỗi bên đều trung thành với các vua Lê.

5.      Lăn Ông HT (trong tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3): trang 88a.

6.      Bởi tên Trác, tên “cấm” của ông, không được viết hay đọc sau khi có sự từ trần, ông cũng c̣n được biết là Lê Hữu Chấn, nhưng thường được gọi đơn giản là Lăn Ông.

7.      Nghệ An, cách xa kinh đô, có khuynh hướng nổi loạn; ba anh em họ Nguyễn cầm đầu cuộc khởi nghĩa Tây Sơn năm 1771 sinh ra ở đó.

8.      Lăn Ông HT (tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3): trang 77a.

9.      Tiến sĩ, học vị cao nhất, có khoảng 2,300 người được trao bằng này tại Việt Nam thời tiền thuộc địa trong hơn 300 năm, Hữu Ngọc, Lady Borton: Thi Cử Nho Giáo, Hà Nội: Thế Giới, 2004.

10.  Khi đó được gọi là Thăng Long, nơi mà vua Lê và Chúa Trịnh đặt triều đ́nh.

11.  Sallet A (tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3): 172; Hoàng BG, Phú DT, Hữu N., Overview of Traditional Vietnamese Medicine.  Trong quyển: Vietnamese Traditional Medicine.  Hà Nội: Thế giới, 1993: các trang 5-29.

12.  Chesneaux J.  The Vietnamese Nation: Contribution to a History.  Sydney: Current Book Distributors, 1966: các trang 35-6.

13.  Lăn Ông HT (trong tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3): trang 4a.

14.  Khi ngạch trật quan lại được tái duyệt xét vào năm 1805, các thành viên của Trường Y Học Triều Đ́nh là các quan lại có ngạch trật thấp nhất trong chín hạng; xem Schreiner A., Les institutions Annamites en Basse-Cochinchine avant la conquête Française.  Saigon: Claude, 1900: quyển 1, các trang 278-9.  Về giáo dục y khoa tại Việt Nam, xem Huard P., Medical Education in Southeast Asia (ngoài trừ Nhật Bản), trong sách biên tập bởi O’Malley CD, The History of Medical Education.  Berkeley: University of California Press, 1970: các trang 367-90.

15.  Huard P., M. Lăn Ông et la medicine sino-vietnamienne.  Bulletin de la Société des Études Indochinoises 1953; 28: 221-93, 239.

16.  Cùng nơi dẫn trên, trang 240.

17.  Mệnh Môn tượng trưng cho một điểm nằm giữa lưng, nhưng không tương ứng với với bất kỳ cơ cấu nào trong cơ thể học tây phương.  Nguyễn Văn Thọ.  Les secrets des reins révélés.  Hà Nội: Faculté de médecine, 1952.  Về các chức năng của các quả thận trong y học Trung Hoa, xem Larre C., Rochat de la Vallée E.  The Kidneys.  Cambridge: Monkey Press, 1989, các trang 11-14.

18.  Được in lần đầu trong năm 1865.  Bản dịch sang Việt ngữ (tiếng Việt được viết bằng mẫu tự Tây Phương) xuất hiện trong thời khoảng từ 1964 đến 1974.

19.  Các Chúa Trịnh, quyền lực đàng sau ngôi vua tại Miền Bắc từ thế kỷ thứ mười sáu, dần dần tự khoác tư thế vương tước cho chính họ, duy tŕ một triều đ́nh riêng biệt và sử dụng các phong cách và tước hiệu hoàng gia; do đó các lệnh triệu mời từ Trịnh Sâm là một “mệnh lệnh từ Chúa Thượng”, một mệnh lệnh của hoàng triều.

20.  Lăn Ông HT, (trong tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3): trang 3b.

21.  Cùng nơi dẫn trên, trang 4a.

22.  Cùng nơi dẫn trên, trang 5a.

23.  Lê KT ((trong tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3)

24.  Lăn Ông HT (trong tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3): trang 12b.

25.  “Medicines: dược” là một từ cấm kỵ trong cung, do đó nó được thay bằng uyển từ “trà: tea”.

26. Thời điểm tốt nhất để bắt mạch là buổi sáng.  Thày thuốc cần được thư giăn bởi mạch được đếm ngược với hơi thở của ông ta: Dương Bá Bành, Histoire de la médecine du Viet-Nam.  Hà Nội: Publications de l'École Francaise d'Extrême-Orient, 1947: trang 25.

27. Lăn Ông HT (trong tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3), trang 20b.

28. Cùng nơi dẫn trên, các trang 21b-22a.

29. Cùng nơi dẫn trên, trang 80b.

30. Cùng nơi dẫn trên, trang 83a.  Với tiếng tăm trác táng của Trịnh Sâm, điều không mấy ngạc nhiên khi thấy một số sử gia nêu ư kiến về một sự chẩn đoán bệnh giang mai.  Sự từ trần hợp thời của ông khi Trịnh Khải đă sẵn sàng để kế ngôi cũng nêu lên mối nghi ngờ về sự đầu độc, mặc dù không có bằng chứng nào hậu thuẫn cho cả hai sự liên tưởng.

31. Evodia rutaecarpa, củ gừng, rễ gừng; Citrus madurensis: quất, Aristolochia debilis:âm tiếng Hán là Ma Dou Ling; cassia: quế, đinh hương (cloves), nhân sâm và Aralia cordata: tên gọi trong Anh ngữ là Sun King Spikenard] .

32. Lăn Ông HT (trong tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3): trang 94a.  Ông rời kinh đô vào ngày 16 Tháng Mười Một, 1782.

33. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược.  Sàig̣n: Quỳnh Mai, 2001: các trang 346-8.  Sự trị v́ bấp bênh của Trịnh Khải đă kết thúc bốn năm sau đó; bị bắt giữ bởi quân nổi dậy Tây Sơn sau sự sụp đổ của Hà Nội, ông tự cắt cổ tự tử.

34. Lăn Ông HT (trong tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3): các trang 96b-97a.

35. Hoàng BC, Phú DT, Hữu N. (tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 11).

36. Sư Huynh Jean Koffler là bác sĩ cho hoàng đé vào đầu thập niên 1750, xem Koffler (Jean), Trong sách biên tập bởi Hoefer JCF, Nouvelle Biographie Générale.  Paris: Firmin Điot Frères, 1861: tập 28, cột 28-9.

37. Lê KT (tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3).  Nam Dược Thần Hiệu được viết trong thế kỷ thứ 14; các ấn bản xuất hiện trong các năm 1717, 1725, và 1762.

38. Trong năm 1763, Ngô Văn Tĩnh và Nguyễn Nho có ấn hành quyển Vạn Phương Tập Nghiệm, một sách dược thảo có căn cứ từ Trung Hoa; trong năm 1777, Nguyễn Thế Lịch ấn hành quyển Tiểu Nhi Khoa, về sản khoa và nhi khoa và trong năm 1788, Nguyễn Gia Phan ấn hành quyển Liệu Dịch Phương Pháp Toàn Tập, một khảo luận về chứng bệnh truyền nhiễm.

39. Sallet A. (trong tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3): trang 176.

40. Các sử gia Việt Nam bị ảnh hưởng bởi Pháp nhấn mạnh đến một truyền thống y học "hoa-việt" riêng biệt, xem Dương Bá Bành (tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 26).

41. Y học đông phương đă kêu gọi không chỉ chủ nghĩa chống thực dân mà c̣n cả cộng sản chủ nghĩa làm căn bản lư thuyết của nó, có thể được giải thích bằng duy vật biện chứng; xem Unschuld PU.  History of Chinese medicine.  Trong sách biên tập bởi Kiple KF, The Cambridge World History of Human Disease.  Cambridge: Cambridge University Press, 1993: các trang 20-27.

42. Lăn Ông HT (trong tài liệu đă dẫn, tham khảo chú thích số 3): các trang 96b-97a.

____

Nguồn: Ann Bates & A. W. Bates, Lăn Ông (Lê Hữu Trác, 1720-91) and the Vietnamese Medical Tradition, Journal of Medical Biography 2007, 15: 158-164.

 

Ngô Bắc dịch và phụ chú

11.05.2015

 

http://www.gio-o.com/NgoBac.html

 

© gio-o.com 2015