LÝ ỐC BR
những huyền tích trong thơ Tô Thùy Yên
Một mai nàng lên núi Chan Chứa
Hỏi tìm cho gặp đá Tiên Tri
(Tô Thùy Yên)
Tô Thùy Yên học Văn Chương Pháp, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Tô Thùy Yên là Phật Tử, ông đọc sách kinh điển Phật Giáo nhiều. Tô Thùy Yên còn tự học Chữ Nho. Trong chương trình Trung Học thời VNCH ngày xưa có giờ học Hán Văn (ban C) bên cạnh Pháp Văn, Anh Văn tùy chọn. Khoảng 1964 thì bỏ 2 giờ học chữ Hán, chỉ còn giữ lại giờ sinh ngữ Anh, Pháp. Chữ Hán chỉ còn học trên bậc Đại Học trong các chứng chỉ Văn Minh Việt Nam và Việt Hán. Tuy nhiên, không rõ vì sao, sau đó, khoảng 1966 trở đi lại dấy lên phong trào học chữ Nho trong giới sinh vên học sinh và quân nhân công chức. Màn ảnh TV băng tần số 9 thời VNCH dạy lại chữ Nho mỗi tuần vài giờ. Sách học chữ Nho, Hán Văn của nhiều tác giả như các Giáo Sư Đào Mộng Nam, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Văn Khôn, Trần Trọng San cùng nhau xuất bản, phong phú và hấp dẫn.
Vì thế, đọc thơ Tô Thùy Yên, khía cạnh triết học Tây Phương , Phật Giáo với Đông Phương rất dễ nhận ra. Điều này có nhiều nhà nghiên cứu văn học đã viết qua chủ đề siêu hình, triết lý trong thơ của ông. Triết Tây về suy tư thân phận con người như trong mấy câu thơ:
Mùa đông bắc gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han hề Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ
(Trường Sa Hành)
Hoặc triết lý Phật Giáo về các cõi thế giới ta bà trên các tầng Trời, Thần Thánh, Tiên, Phật, Người, Súc Sanh Ngạ Quỷ.
Cửa đẩy lầm vô lường cuộc diện
Ba ngàn thế giới đã nhà chưa
Lâu ngày thân thế rách như gió
Thấy lại mình như kẻ đáng ngờ
(Thắp Tạ)
Theo tôi, khi triết gia để lại tư tưởng thì nhà thơ chỉ lưu truyền lại thi ca. Thơ liên quan đến văn học, tâm sự, nỗi niềm, cảm xúc, nét đẹp. Và thơ cũng liên quan đến gốc tích con người. Tô Thùy Yên là nhà thơ VN, ông đã để lại những vần thơ rất Việt. Trong cung cách viết, suy nghĩ và cảm nghiệm đời sống. Do đó, thơ của ông đã ghi lại khá nhiều tập quán và huyền tích VN, nhất là những huyền tích phương Nam, là nơi ông sinh trưởng. Triết Tây, Triết Đông là khi nói về cái chung, nhà thơ nhà văn ở đâu cũng có gần như cùng ý tưởng khi viết về chúng. Nhưng tập quán và huyền tích dân gian thì chỉ có trong bối cảnh riêng của từng vùng, miền của một dân tộc.
1
Ðêm lịm chầy khuya, trăng nhợt sương
Liễu đi đâu tóc xõa canh trường
Con chim lạc bạn kêu trời rộng
Hồn chết trôi miền dạ lý hương
(Vườn Hạ)
2
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
(Ta Về)
3
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
(Ta Về)
4
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
(Ta Về)
5
Một mai nàng vô rừng u ẩn
Nhặt trái nưa về nhuộm dạ sầu
Thấy trăm họ cỏ cây chen quấn
Nương náu nhau mà tội nợ nhau
(Thắp Tạ)
6
Gà nửa khuya gáy xộ trăng muộn
Ai hồ nghi lộn kiếp bên này
Con chó khóc tru ngoài địa giới
Ngờ ngợ người góc biển chân mây
(Thắp Tạ)
7
Thắp tạ càn khôn một vô ích
Thắp tạ nhân quần một luyến thương
Biển Đông đã một ngày xe cát
Đắm giạt mơ lai kiếp dã tràng
(Thắp Tạ)
1, Về truyền khẩu người xõa tóc đi một mình trong đêm là những ngươi có tâm sự buồn, tương tư, phẫn uất. 2, Loáng thoáng hình ảnh của sự tích Hòn Vọng Phu và Thiếu Phụ Nam Xương về lòng chung thủy. 3, Người miền Nam khi cúng rượu hoặc uống rượu ngoài sân, họ thường đổ xuống đất 1/2 chun để mời người khuất mày khuất mặt. 4, Về cổ tích VN khôi hài phê bình thói ham chuộng khoa bảng hư danh thái quá của người dân quê mà quên luôn thực tại. 5, Trái nưa mọc hoang hoặc được trồng, đâm giả ra dùng nước nhấu nhuộm quần áo màu đen rất bền chắc. 6, Con gà gáy lúc bình minh, nhưng nó gáy nhầm khi nửa đêm ánh trăng sáng vừa mọc nhú ra, mọi người đều cho rằng đang có sự vụng trộm tình ái đâu đó, và sẽ có chửa hoang. 7, Sự tích con dã tràng xe cát lấp biển để tìm viên ngọc nghe được tiếng muôn loài đã bị nó đánh rớt mất dưới lòng đại dương.
Northwest May 2019
Lý Ốc BR
http://www.gio-o.com/LyOcBR.html