ĐẶNG PHÙNG QUÂN
Từ điển triết học giản yếu
25 (tiếp theo)
bấm vào đây xem Từ Điển Triết Học các kỳ trước
Trường phái Lwów-Warszawa - Triết học khoa học đối đầu chủ nghĩa Mác ở Ba lan.
Ba Lan, Triết học: Thế kỷ 20 mở ra một kỷ nguyên mới hai lần trong lịch sử Ba lan. Lần thứ nhất vào lúc Thế chiến thứ nhất chấm dứt và lần thứ hai vào 1989-1990 khi phong trào Đoàn kết thắng lợi kết thúc cai trị của đảng Cộng sản trong quĩ đạo Liên xô. Trong giai đoạn giữa Thế chiến cho tới khi độc lập, triết học Ba lan đă đạt tới đỉnh cao và có ảnh hưởng quốc tế ra khỏi biên vực quốc gia, với trường phái Lwow-Warszawa (và những khuôn mặt lớn trong lịch sử triết học thế giới, như Kazimierz Twardowski, Kazimierz Ajdukiewicz, Tadeusz Kotarbiński, Stanisław Leśniewski, Jan Łukasiewicz, Alfred Tarski) v́ tầm quan trọng phát triển khoa luận lư học hiện đại và một kiện tướng của phong trào hiện tượng luận thế giới là Roman Ingarden.
Khởi từ những xu hướng triết học thống lĩnh này, nhiều nhà biên soạn lịch sử triết học cũng như Từ điển triết học phải t́m hiểu và nói đến triết học Ba lan, một thiếu xót trong nhiều bộ triết sử về những giai đoạn lịch sử triết học về trước. Trong Thế chiến thứ hai, triết học Ba lan gánh chịu một mất mát lớn lao do Đức Quốc xă muốn tiêu diệt văn hóa Ba lan (nhiều nhà triết học Ba lan bị giết trong vùng chiếm đóng và trong những trại tập trung). Sau Thế chiến thứ hai, triết học Ba lan lại chịu một thử thách mới trước bạo lực và hệ thống triết học chủ đạo (chủ nghĩa duy vật biện chứng kiểu Liên xô). Thế kỷ 20 đánh dấu sự phát triển của triết học Ba lan và tranh biện với chủ nghĩa Mác.
Trường phái Lwów-Warszawa/Szkoła lwowsko-warszawska do KazimierzTwardowski thành lập vào cuối thế kỷ19 ở Lwów (lúc bấy giờ c̣n thuộc Đế chế Áo-Hung), phát triển mạnh trong những năm 1918-1939, đóng góp nhiều cho tư trào luận lư h́nh thức của triết học Tây phương. Những công tŕnh của các thành viên dẫn trên phần lớn viết bằng tiếng Ba lan, chỉ có một ít viết bằng tiếng Đức. Theo một thành viên của trường là Tadeusz Kotarbinski, người lănh đạo phái là Jan Łukasiewicz (1878-1956), không những là đồng nghiệp mà c̣n là người thày của nhiều thành viên trẻ trong nhóm. Łukasiewicz được đào tạo trong triết học, phần lớn thời gian đại học ở tỉnh nhà Lwów. Ông bị lôi cuốn bởi một tuyến nghiên cứu mới mà Twardowski phát triển là luận lư học giống như đại số học và ông đă mở ra trong luận lư những viễn cảnh có thể so sánh với những viễn cảnh của những hệ thống h́nh học phi Euclide. Song Łukasiewicz không chỉ phát triển con đường mới, ông c̣n tái xây dựng những ǵ công chính trong luận lư học Aristote. Một trong những tác phẩm đầu của ông luận về nguyên lư mâu thuẫn trong sách Aristote. Ông nghiên cứu phép tính mệnh đề ba giá trị trong O logic trójwartosciowej/Luận lư ba giá trị, 1920 . Một người học tṛ của ông là Stanislaw Leśniewski (1886-1939) chú trọng đến phụ lục của tác phẩm trên về đại số học của luận lư, muốn xây dựng một hệ thống cơ sở luận lư của toán học, vượt khỏi những tương phản, thuần lư và công chính về mặt tri thức, tuy ông không phải là nhà toán học. Łukasiewicz và Leśniewski đều dạy tại Đại học Warszawa trong những năm đầu của Ba lan độc lập (1918) và phát triển lănh vực những khái niệm và định lư của lư luận tập hợp, điểm giao tiếp giữa luận lư và toán học. Trường phái Lwów-Warszawa không chỉ phát triển luận lư toán học, c̣n chú trọng đến ngữ nghĩa học và ứng dụng những công cụ phân tích mới vào những địa hạt triết học khác nhau. Sự phát triển luận lư học ở Warszawa trong giai đoạn giữa hai Thế chiến (1918-1939) như Zbigniew A. Jordan nhận xét đă đưa tên tuổi của nhóm luận lư gia Ba lan trường phái này (mặc dầu khó nhớ và khó phát âm) trở nên quen thuộc trong giới chuyên môn toàn vũ. Có thể chia làm hai giai đoạn nhỏ là thời kỳ 1918-1929 đánh dấu những công tŕnh khoa học và giảng dạy của Łukasiewicz và Leśniewski, mặc dầu những thành quả chưa được xuất bản nhiều, chỉ phổ biến rộng răi vào thời kỳ sau 1929. Những tên tuổi quan trọng khác vào thế hệ này là Kazimierz Ajdukiewicz (1890-1963), Tadeusz Czezowski (1889-1981), Tadeusz Kotarbiński (1886-1981) và Zygmunt Zawirski (1882-1948). Những môn đệ của Twardowski và Łukasiewicz sau ngày Ba lan độc lập ở rải rác các nơi trong xứ, giữ những ghế luận lư và triết học ở ba đại học Warszawa, Poznań và Wilno. Thế hệ thứ hai có thể kể Adolf Lindenbaum (1904-1941?), Stanisław Jaśkowski (1906-1965), Moses Presburger (1904-1943), Jerzy Slupecki (1904-1984), Bolesław Sobociński (1904-1980), Mordechaj Wajsberg (1902-1942?) và người nổi bật nhất là Alfred Tarski (1901-1983). Khoa luận lư toán học nở rộ ở Ba lan một phần nhờ sự cộng tác của những nhà toán học và triết học ở Warszawa; đặc điểm quan trọng khác là những người sáng lập trường phái toán học đă có kinh nghiệm hiếm có nhờ mời hai nhà triết học với một quá tŕnh đào tạo toáùn học khiêm tốn là Łukasiewicz và Leśniewski làm giáo sư ở Phân khoa Toán học và Khoa học tự nhiên - điều không xẩy ra ở bất kỳ quốc gia nào khác. Tuy nhiên, khoa luận lư toán học vẫn được coi là một khoa học tự trị, không chỉ giới hạn vào toán học mà đ̣i hỏi sự cộng tác của mọi lănh vực khác có thể sử dụng luận lư. Cho nên theo Łukasiewicz, luận lư học là luân lư của tư tưởng và ngôn từ, Tarski c̣n quan niệm: tôn giáo phân hóa con người, luận lư đem con người lại với nhau. Điều đó có nghĩa luận lư học chống lại mọi chủ nghĩa phản lư.
Bên cạnh trường phái Lwów-Warszawa, Đại học Krákow cũng phát triển luận lư học độc lập với nhóm này. Người có thể so sánh với Łukasiewicz là J. Śleszyński (1854-1931) có công quảng bá khoa luận lư mới, với hỗ trợ của nhà vật lư học S. Zaremba cũng quan tâm đến môn luận lư ứng dụng vào vật lư học và toán học. Nghiên cứu của Śleszyński tập hợp do Zaremba phụ trách biên tập gồm hai quyển dưới nhan đề Teoria dowodu/Lư thuyết về chứng cớ, 1925-1929 dẫn nhập luận lư toán học, chứng cớ toàn diện, chứng cớ toán học, tŕnh bày lư luận những mệnh đề, phép tính Boole, luận lư Grassmann, đại số Schröder, bẩy luật của Porecki, học thuyết Peano, Burali-Forti. Người học tṛ của Śleszyński và Zaremba là Leon Chwistek (1889-1942) cùng ở lứa tuổi của thế hệ thứ nhất của trường phái Lwów-Warsawa là một trong những tên tuổi lớn trong đời sống trí thức ở Ba lan, cùng với W. Wilkosz và O. Nikodym nổi tiếng v́ công tŕnh của họ về lư luận tập hợp. Những công tŕnh nghiên cứu của Chwistek xuất bản bằng hai thứ tiếng, Anh và Ba lan. Nét đặc sắc của trường phái Kraków là quan niệm liên hệ mật thiết giữa luận lư với toán học, là phương tiện và phương pháp giải quyết những vấn đề cơ bản của toán học cũng như một vài ngành trong vật lư học.
Tuy triết học Ba lan bị triệt hủy trong Thế chiến, đă hồi phục và phát triển trong những điều kiện mới. Nói chung trong giai đoạn 1945-1949, t́nh h́nh tương tự như trước 1939, với những nỗ lực xây dựng lại đời sống trí thức b́nh thường, phát triển triết học theo những tŕnh độ khác nhau, hiện diện của nhiều xu hướng triết học với những tác phẩm mới của Ajdukiewicz, Kotarbiński, Ingarden, Tatarkiewicz, Czezowski, Maria Ossowska, Andrzej Mostowski, cũng như những triết gia Thiên chúa giáo hoạt động trong Đại học Thiên chúa giáo ở Lublin.
Trước hết hăy nói về luận lư học và triết lư khoa học. Những công tŕnh của O. Wojtasiewicz xây dựng một lư luận ngôn ngữ dựa trên luận lư h́nh thức toàn phần/mereology <μερος:thành phần, từ mới do Leśniewski đề ra, coi ngôn ngữ như một hệ thống dấu chỉ; của Adam Schaff về những vấn đề ngữ nghĩa; của H. Stonert về một số vấn đề luận lư của cú pháp, ngữ nghĩa và thực dụng; của R. Suszko về lược đồ cấu trúc ngôn ngữ . J. Katarbińska khảo những lư luận khác nhau về khái niệm dấu chỉ theo hai xu hướng: xu hướng chủ quan t́m những liên hệ giữa dấu chỉ và hàm thị/denotatum trong một phạm vi những đáp ứng của tác nhân sử dụng dấu chỉ và xu hướng khách quan t́m những liên hệ giữa dấu chỉ và chỉ định/designata độc lập với tác nhân lư giải cũng như sử dụng. K. Ajdukiewicz đưa ra hai định nghĩa về một câu phân tích: những định đề dựa trên quy ước thuật ngữ cũng như những hệ quả cấu thành những câu phân tích theo nghĩa thứ nhất; những thay thế trong trùng phức ngữ luận lư và những câu có thể giản lược vào những thay thế này qua quy ước thuật ngữ là những câu phân tích theo nghĩa thứ hai. M. Kokoszyńska phát triển khái niệm của Ajdukiewicz theo chứng thực diễn dịch qua hai ư niệm, những công lư/tiên đề là những câu phân tích tất yếu và những công lư/tiên đề không cần là những câu phân tích; chỉ có diễn dịch theo ư niệm thứ hai này có thể ứng dụng trong những khoa học tự nhiên.
Nói chung nhiều nhà luận lư học trong giai đoạn này quan tâm đến luận lư học quy nạp (như Ajdukiewicz, Cerwiński, Giedymin, Gordon, Greniewski, Kokoszyńska, Wójcicki, Ziemba v.v..), ứng dụng những kết quả từ lư luận xác suất là diện chung của những nghiên cứu này. S. Łuszczewska-Romahnowa và Batóg tổng quát hoá khái niệm phân chia luận lư và khái niệm trực giác vào việc phân loại và phân ngành. Alfred Tarski, Kubiński, Zandarowska, Zarneka-Biały nghiên cứu lư luận những hệ thống diễn dịch. Trong giai đoạn 1956-1966, một số nhà luận lư quan tâm đến những ma trận luận lư, như R. Suszko phân tích một số những đặc tính của luận lư đa giá, cấu thành một phương sách đại số, Turowicz đưa ra phương pháp kiểm chứng những công thức của phép tính câu lưỡng giá, liên hệ với nhiều công thức của đa thức đại số mà biến số chỉ có hai trị giá: 0,1.
Nhà triết học được biết đến nhiều ở bên ngoài là T. Kotarbiński (1886-1981) với một thế giới quan trong đó thuyết chủ vật/reism hay cụ thể giữ vai tṛ chủ đạo. Thuyết chủ vật xác định hiện hữu của đối tượng vật chất và chỉ có những đối tượng này. Như một đề cương của ngôn ngữ biện luận, thuyết chủ vật giả định giản lược mọi câu chứa tên của những sở hữu, quan hệ, quá tŕnh vào những câu chỉ chứa tên sự vật. Định đề này nhằm tác động như một biện luận dao cạo của Ockham, loại trừ những giả thực thể là nguyên nhân của những lư chứng triết học vô ích. Một phần công tŕnh của Kotarbiński đề ra trong một khoa ông mệnh danh là thực tiễn luận/praxiology/praxéologie là một khoa học nghiên cứu khái quát hành động con người từ quan điểm về tính kỳ thành. Mục tiêu của thực tiễn luận trước hết là phân tích ư nghĩa của những từ cơ bản dùng để mô tả những hành động nhắm về mục đích. Những khái niệm như “mục đích”, “tác nhân”, “vật liệu”, “công cụ” được phân tích và xác định lại để h́nh thành một khung kiên định cho lư luận tổng quát về những hành động kỳ thành.
Sau thời kỳ hồi phục từ sự tàn phá của chiến tranh, khi đời sống trí thức và triết học bắt đầu sống lại trong khoảng 1949-1950 th́ chủ nghĩa Mác bắt đầu thống trị, trở nên hệ tư tưởng chính thức trên hầu hết những nước xă hội chủ nghĩa Đông Âu. Trong nhiều lănh vực nhân văn nghệ thuật, chủ nghĩa duy vật lịch sử chiếm vai tṛ chỉ đạo, với những luật lệ chế tài. Mọi trường phái triết học phải quy phục vào chủ nghĩa Mác, hoặc bị tiêu diệt. Ở Ba lan, t́nh h́nh có khác. Theo Henryk Skolimowski trong Polish Analytical Philosophy, 1967 chiến dịch chính của Nhà nước là chống triết học phân tích hơn là chống triết học Thiên chúa giáo, v́ triết học phân tích có nhiều điểm hội tụ với chủ nghĩa Mác (tính cách duy thực và duy vật, xóa bỏ những giả vấn đề như Tuyệt đối, Siêu việt, Hữu thể) trong khi giữa triết học Thiên chúa giáo và chủ nghĩa Mác không có nhịp cầu thông giao, nên không sợ ảnh hưởng lên chủ nghĩa Mác, trong khi phải ngừa ảnh hưởng lan truyền của triết học phân tích vào chủ nghĩa Mác. Do đó chủ trương của Nhà nước là cường điệu những khu biệt qua việc phê phán và so sánh mọi luận điểm của triết học phân tích với những giáo điều của chủ nghĩa Mác. Một tranh biện diễn ra sôi nổi của người Mác-xít với những nhà triết học phân tích. Skolimowski nhận xét là do truyền thống và môi trường luận lư của những trường phái triết học phân tích ở Ba lan, kết quả chống áp lực của triết học phân tích lên chủ nghĩa Mác dẫn đến một sản phẩm đặc thù Ba lan mà ông gọi là chủ nghĩa Mác ngữ học-phân tích. Phát triển của hiện tượng này có thể chia làm ba giai đoạn: một, giai đoạn xung đột giữa chủ nghĩa Mác và các triết gia phân tích vào những năm 1951-1955 dẫn đến việc những người Mác-xít phải thay đổi thái độ của họ trong việc tấn công đối phương; hai là giai đoạn xét lại trong chủ nghĩa Mác với những xung động xă hội trong những năm 1955-1958; ba là giai đoạn phát triển có hệ thống dưới tiêu đề chủ nghĩa Mác sáng tạo thay đổi những dị biệt/heresies trong khi bành trướng viễn quan chính thống từ 1958 trở đi.
Tại sao lực tấn áp của chủ nghĩa Mác lại mất sức thúc đẩy ở Ba lan? Tại sao nó không thành công trong việc quy phục những triết học khác vào chủ nghĩa Mác như mọi nước xă hội chủ nghĩa khác? Theo Skolimowski, có ba giải đáp đáng được cứu xét: một, thái độ của những triết gia “tư sản” Ba lan đối với những phê phán họ; hai, vấn đề thảo luận - trừu tượng và khá chuyên biệt v́ thế không dễ hướng dẫn tranh luận theo những thuật ngữ kiểu lưỡng phân duy tâm-duy vật; ba, tinh thần tương đối cởi mở của người Mác-xít ở Ba lan. Trong giải đáp thư nhất, nét đặc thù của những đại biểu trường phái triết học phân tích ở Ba lan là có danh tiếng đáng kể ở châu Âu trước Thế chiến. Họ khá biết giá trị những công tŕnh họ thành tựu đối với văn hóa nhân loại, do đó khó có thể bắt họ im lặng hay bắt buộc họ phải theo học thuyết mới áp đặt. Lư ưng xẩy ra tranh biện và những nhà triết học này được phép bảo vệ quan điểm của họ tự do và thông thoáng. Có thể nêu ra ở đây một vài điển h́nh, như Kotarbiński trả lời phê b́nh ông:
“Như khi tôi thực sự quan tâm đến những ư kiến chính trị xă hội và triết học của tôi, và mong được làm sáng tỏ về vấn đề này, tôi vừa nhận được một quyển sách mới xuất bản của Bronisław Baczko về chủ đề này. Khi đọc nó, tôi học được là những ư kiến của tôi về những vấn đề nêu trên, trong sự kiện hiện tại, hoàn toàn khác với những ǵ tôi nghĩ. Đúng như tác giảquả quyết, v́ những ư kiến của tôi không thay đổi nhiều ít ra trong hai mươi năm qua, và vẫn như vậy, một điều không nhất quán nghiêm trọng dường như hiện hữu giữa những ư kiến của chúng ta về những quan điểm triết học của tôi.” (Odpowiedź/Phản hồi, Myśl Filoz, 2(4), 1952)
Như Ajdukiewicz chỉ ra việc phê phán bất kỳ học thuyết nào muốn có giá trị đ̣i hỏi phải có khả năng và ước muốn hiểu nó; những nhà Mác-xít đă chẳng hiểu học thuyết của ông:
“Những vấn đề tôi nghiên cứu khác với những ǵ người Mác-xít quan tâm. Những vấn đề khác nhau đ̣i hỏi những phương pháp khác nhau. Nhưng cái ǵ khác không thiết yếu là phải mâu thuẫn, ngay cả có thể tiếp cận được. Điều tôi chủ trương thường khác với học thuyết duy vật, như không hẳn mâu thuẫn với nó v́ rơ ràng là xét đến những vấn đề khác nhau.” (W sprawie artykulu Profesora Schaffa o moich poglądach filozoficznych/Về vấn đề bài báo của giáo sư Schaff đối với những ư kiến triết học của tôi, Myśl Filoz, 2(8), 1953)
Hai dẫn chứng trên in trong tạp chí Myśl Filozoficzna/Tư tưởng triết học là “kết quả của nghị quyết Đại hội khoa học Ba lan lần thứ nhất” xuất bản từ năm 1951 thay thế tạp chí Myśl Wspólczesna/Tư tưởng hiện đại xuất bản từ năm 1946 để đáp ứng với t́nh h́nh mới ở Ba lan. Ngay từ số ra mắt, tạp chí mới đă xác định “triết học Mác-xít là nhân tố cơ bản để xây dựng xă hội đang tiến lên con đường tới chủ nghĩa xă hội” và “đấu tranh ư thức hệ mang ư nghĩa cơ bản”. Cho nên trong Đại hội nói trên, khởi sự tranh biện bút chiến chung quanh những vấn đề về ngôn ngữ là đối tượng nghiên cứu triết học, tương phản duy tâm-duy vật có thể giải quyết bằng phân tích ngữ học, chân lư của những biểu ngôn triết học và khoa học chỉ tùy thuộc vào một số những quy tắc ngữ học ước lệ, đối lập với chủ nghĩa duy vật biện chứng xem chân lư độc lập với những ước lệ ngữ học.
Cuộc bút chiến tranh biện diễn ra trong phân ranh giữa người Mác-xít (Schaff, Holland, Baczko..) và những nhà triết học phi Mác-xít (chủ yếu là trường phái Lwów-Warsawa) trong hai năm, 1952-1953. Những luận điểm phê phán Mác-xít như phân biệt vai tṛ khách quan của một giai cấp hay cá nhân trong một khung cảnh xă hội nhất định với ư thức chủ quan của nó; thay đổi điểm đối chiếu biến những khái niệm theo trường phái triết học phân tích thành phản động về mặt khách quan: chẳng hạn Schaff tuyên bố là Ajdukiewicz không thừa nhận một số những luận điểm gán cho ông “thực ra đă hàm ngụ trong phân tích của ông, v́ cá nhân không phải chỉ bị phê phán trên những điều y nói mà trên vai tṛ xă hội khách quan của y”; tương tự, Holland cũng cho là Twardowski không ư thức những hệ quả duy tâm, ước lệ trong những khái niệm của ông. Kotarbiński đă phát biểu là nhiều bài viết trong tạp chí nói trên dựa vào lư luận kiểu tam đoạn luận “những ǵ chúng ta viết là Mác-xít; chủ nghĩa Mác là môn khoa học duy nhất, và như vậy những ǵ chúng ta viết là khoa học duy nhất”. Theo Schaff, “triết học ngữ nghĩa” theo bản chất chủ yếu là duy tâm đă liên kết trường phái phân tích nói trên với chủ nghĩa kinh nghiệm Anh, như Russell, tân thực chứng, như Schlick, Carnap, Neurath, Reichenbach v.v.., và chủ nghĩa thực dụng, như Morris, là những trường phái người Mác-xít phê phán là tư sản, chủ quan, cá nhân, bảo thủ và suy đồi.
(Poglady filozoficzne Kazimierza Ajdukiewicza/Những khái niệm triết học của K. Ajdukiewicz, Miśl Filoz 1, 1952). Nói tóm lại, những luận điểm mà các đại biểu Mác-xít phê phán căn bản triết học của trường phái phân tích chủ yếu và khách quan là triết học ngữ nghĩa duy tâm, ước lệ đối lập sâu sắc với tiên đề chính xác khoa học, bản chất người sáng lập trường phái Twardowski là tín ngưỡng, ngu dân, phản khoa học, tăng lữ v.v..
Phản bác của những nhà triết học của trường phái nói trên như Ajdukiewicz, ngoài những luận cứ về phê phán thiếu cơ sở của người Mác-xít, c̣n cả ngộ nhận về giá trị triết học của trường phái, tính hội tụ họ muốn chỉ ra là cũng như chủ nghĩa duy vật, thế giới quan của họ xây dựng trên những cơ sở thuần lư và phản lư, trên thường nghiệm, kinh nghiệm và thực tiễn trên cơ sở đi t́m thực tại, thành quả lớn nhất của khoa học.
Năm 1956 đánh dấu chuyển biến lớn trong sinh hoạt triết học ở Ba lan. Nhiều nhà Mác-xít chính thống đă chuyển biến tư tưởng, bị Đảng CS khiển trách hay khai trừ, coi như theo chủ nghĩa xét lại. Adam Schaff (người Mác-xít được giáo dục ở Liên xô và là người đầu tiên giữ ghế dạy chủ nghĩa Mác ở Đại học Lódz) đă thấm đậm nhiều ư niệm của triết học phân tích trong luận về khái niệm chân lư của chủ nghĩa Mác, kết hợp luận lư biện chứng với luận lư h́nh thức trong những tác phẩm của ông (Z zagadnień marksistowskiej teorii prawdy/Vài vấn đề về lư luận chân lư Mác-xít); Jeryk a Poznanie/Ngôn ngữ và tri thức; Marksizm a jednostka ludzka/Chú nghĩa Mác và con người cá nhân), trong tiểu luận bàn về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa hiện sinh nh́n nhận triết gia không chỉ chia theo duy tâm, duy vật mà c̣n theo ngả thừa kế trường phái Ionia quan tâm và khai phá ngoại giới với trường phái Socrate quan tâm đến con người và đi t́m bản ngă. Leszek Ko?akowski là một nhà triết học Mác-xít trẻ đă phát triển những vấn đề đạo đức theo hướng tính cá nhân, không chính thống, đă phát biểu: Không đúng là sử quan/ historio-zofia xác định những chọn lựa cơ bản đời sống của chúng ta - chúng được ư thức đạo đức của chúng ta xác định (Odpowiedzizlnośċ i historia/trách nhiệm và lịch sử, 1957).
M. Przełęcki và J.J. Jadacki xét đến hai mươi năm 1969-1989 (thập niên 70, những khuôn mặt lớn của triết học Ba lan như Ajdukiewicz đă mất năm 1963, Ingarden 1970, Ossowska 1974, Tatarkiewicz 1980, Kotarbiński 1981, Tarski 1983 v.v.., 1989 chế độ cộng sản ở Ba lan sụp đổ) triết học Ba lan hiện đại chia làm hai ḍng triết học “phân tích” và triết học “tổng hợp”; triết học phân tích gắn liền với truyền thống trường phái Lwów-Warszawa tŕnh bày ở trên, c̣n xu hướng không phân tích khó có thể quy vào một mối, phần đông khác với xu hướng phân tích ở chỗ không thừa nhận lư tưởng tư tưởng khoa học là mẫu mực của hoạt động triết học và trông cậy vào những phương pháp đặc thù triết học như hiện tượng luận và thông diễn học. Luận lư học đă mất địa vị thống trị như giữa hai Thế chiến, tiến tŕnh phát triển dựa trên luận lư triết học, trong khi luận ly toán học đă trở thành một phần cơ bản trong toán học. Các nhà triết học Ba lan chú ư đến những mô điển luận lư khác nhau, như những luận lư nghĩa vụ (Zdazisław Ziemba, Jerzy Kalinowski, Wojciech Suchoń), luận lư h́nh thái (Jerzy Perzanowski), luận lư thích đáng (Tokarz), luận lư thời tính hay luận lư biến chuyển (Stanis?aw Kiczuk), luận lư luyến ái (Andrzej Paweł Wejland, Kubiński, Robert Leszko), những triết gia tiếp nối công tŕnh luận lư riêng của Ba lan như Wójcicki, Malinowski (phép tính của Łukasiewicz), Srzednicki, Rickey và Czelakowski (theo hệ thống Leśniewski), luận lư phi-Frege (Suszko, Mieczyław Omyła). Những nghiên cứu ngữ nghĩa về mọi tŕnh độ, cú pháp, ngữ nghĩa, thực dụng khai sinh ra những lư luận h́nh thức ngôn ngữ như Barbara Stanosz, Adfam Nowaczyk, Henryk Hiź, Maria Nowakowska, Leon Koj. Triết học theo định hướng ngữ học như Anna Wierzbicka, Eugeniusz Grodziński, Alfred Gawroński.
Hiện tượng luận Husserl trước Thế chiến Hai do Roman Ingarden (theo học Husserl ở Göttingen) đă đưa vào Ba lan năm 1924, kết hợp hai truyền thống khác nhau:siêu h́nh học suy lư của Brentano và triết học phân tích Ba lan. Ông đă viết những tác phẩm lớn về hiện tượng luận. Vào thời Cộng sản, ông bị ngừng giảng dạy một thời gian và chỉ xuất hiện khoảng 1957 với tác phẩm mỹ học Studia z estetyki, 1957-1958. Trong hai thập niên nói trên, một người học tṛ của Ingarden tiếp tục nghiên hữu hữu thể luận như Antoni Bolesław Stępień theo định hướng hiện tượng luận. Ingarden c̣n được coi như người tiền phong của xu hướng nghiên cứu khoa nhân học triết lư ở Ba lan, với những Zdzisław Cackowski, Janusz Kuczyński.
[Xem những mục riêng về những triết gia chủ đạo của Ba lan].
Kỳ tới: triết học Ba tây, Bantu, Bảo gia lợi, Bỉ - Alain Badiou
ĐẶNG PHÙNG QUÂN
(c̣n tiếp)
http://www.gio-o.com/DangPhungQuan.html