Thi Vũ

 

ĐỌC THƠ TÔ THÙY YÊN

 

 

 Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gia Định. Bắt đầu có thơ đăng trên tạp chí Sảng Tạo từ năm 1956, rồi sau đó trên các tạp chi Hiện Đại, Thế Kỳ Hai Mươi, Văn... Ngoài thơ, còn viết truyện ngắn, và dịch sách ngoại quốc. Có lúc chủ trương cơ sở xuất bản Kẻ Sĩ in lại nhạc tiền chiến và những tác phẩm Thanh Tâm Tuyền, Thụy Vũ, và dịch phẩm André Malraux. Vào lính làm đến chức Thiếu tá Trưởng phòng Thông tin Ấn họa Cục Chiến tranh Chính trị. Sau 75, bị bắt đi tập trung cải tạo mười ba năm ở trại Bắc Thái miền Bắc, lao động đập đá, sau chuyển về trại Hàm Tân, Phan Thiết, ngày ngày gánh phân. Được thả về khoảng năm 87-88. Đầu năm 1989 cắt cườm tay tự vận, nhưng được cứu thoát. Cuối năm 1990, lại bị bắt ở Saigon. Một năm sau được thả nhưng sổng trong tinh trạng quản thúc.

Ghi chú của Tô Thùy Yên sau tấm ảnh chân dung trên đây về cuộc tự vận không thành, và thủ bút Tô Thùy Yên thư gửi Thi Vũ từ Saigon:

 

Ba mươi năm trước, vài khi trên báo chí thấy quảng cáo một tập thơ Tô Thùy Yên sắp phát hành. Nhưng dường như tập thơ ấy chưa bao giờ ra đời ? Phải chăng đó là cái lệ mà một số thi sĩ thiên tài phải chịu ? Suốt đời muốn in thơ, nhưng thơ chưa dịp in. Đâu phải muốn là được, cần sự trợ giúp của đời. Mà đời hay xa lánh thơ ! Xa như Hàn Mặc Tử, gần như Quách Thoại. Phải chết đi trong đau đớn và bần hàn, may mắn lắm mới có bạn bè góp tiền, góp lòng truy niệm in thơ. Đời thi sĩ có bao nhiêu bằng hữu ?!

May mắn quá, Tô Thùy Yên vẫn còn sống trên quê hương, sau mười ba năm đằng đẳng vắt đời trong ngục tù trại tập trung cải tạo.

Sự kiện chưa có một tập thơ Tô Thùy Yên là thiệt thòi lớn cho thi ca Việt. Thật châu báu, vài mươi bài tôi có trong tay, do bạn bè chép cho, hoặc lượm lặt tình cờ trên vài số báo cũ.

Ngôn ngữ thơ Yên mới và linh diệu. Tiết điệu thơ mạnh và hùng. Người đọc như kẻ trôi bè trên dòng nước siết. Càng về sau, thơ Yên toàn bích như rừng, như đá núi dựng sững qua khắp dãy mùa trời. Khác với sự toàn bích đẽo gọt của ngọc trên món nữ trang.

Tô Thùy Yên và Thanh Tâm Tuyền là hai nhà thơ lớn khởi lên từ giữa thập niên 50. Lớn trong nghĩa tân kỳ, trí tuệ và khai phá. Họ,muốn làm mới thơ, với nỗ lực đánh đổ một quá khứ còn mê hoặc làm chậm chân người đương thời : dòng thơ văn tiền chiến. Từ điểm khởi ấy, từ chung chịu ảnh hưởng thi ca Tây phương, đặc biệt thi ca Pháp, hai người dựng lên cõi thơ mình bằng những đường lối riêng. Càng về sau, thơ Tô Thùy Yên càng ngát lộng đông phương. Mặc dù Yên chịu ảnh hưởng St. John Perse rất đậm. Phải tinh lắm mới nhận ra. Vì ảnh hưởng thơ Pháp trong Yên đã được chuyển hóa và thuần phục. Đọc hai câu trong bài Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai :

Cảm phục bồi hồi biển nhẫn nại

Bắt đầu mãi mãi lượn thiên thu

thì đố ai dám nói Yên đã dịch hay ảnh hưởng câu thơ Paul Valéry : La mer la mer toujours recommencéeĐại dương đại dương luôn mãi hoài tái tạo — trong bài thơ nổi tiếng «Cimetière marin».

Đặt những sáng tác cuối của Yên (cuối là cuối với người viết), như Trường Sa Hành, Quỷ Xướng Thi, Tưởng tượng ta về nơi bản trạch, Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai, Qua sông, Đảng tử, Anh hùng tận... bên thơ Đường thấy không khác. Dù thơ Yên không viết thể Đường luật. Khí vị Đường là chất mông lung, man mác, bên cạnh chất trầm tĩnh của con người nhìn lên, nhìn ra. Nhìn lên vũ trụ. Nhìn ra kiếp người. Thơ Yên còn thêm chất sôi động của thời thế, với mắt quắc một người già nghìn tuổi đang nhìn xuống, nhìn vào. Nhìn xuống cõi đời. Nhìn vào thế phận đang nổ tung ý thức.

Hiệp định Genève phân chia đất nước làm đôi vào năm 54, giới làm thơ Việt Nam cũng tách chia hai đường : Những thi sĩ ở miền Bắc tiếp tục làm thơ chính luận, phục vụ các hạn kỳ chính trị và đảng cương. Ở miền Nam, dòng thơ Việt được thoải mái cách tân. Nhóm Sáng Tạc theo tư trào Hiện sinh mở đường cho thơ tự do nổi dậy, chặt đứt cầu với dòng thơ mới tiền chiến, mà họ cho đã cũ và lỗi thời. Họ đuổi khỏi thơ những hình ảnh ước lệ trong thơ tiền chiến, đi bắt lấy những hình ảnh mới của con người đòi hỏi hiện sinh. Vận trình thi hóa này đẩy hình ảnh thơ vào nhịp ý tưởng, thể hiện thành nhịp điệu của ý thức. Thanh Tâm Tuyền, người chủ soái của thơ tự do thuộc nhóm Sáng Tạo, đã xác định mỹ quan thơ tự do là nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm, đắm chìm trong khổ đau không bao giờ chịu chấp nhận[1]. Đối chọi lại với thứ nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bình yên, nhìn ngắm và chấp nhận đời sống, như một nghệ thuật của mơ mộng1. Tuyền diễn tả lại ý Nietzsche về hai khuynh hướng nghệ thuật trong bi kịch Hy Lạp : quan niệm Apollon và quan niệm Dionysos.

Liên minh của phần lớn những thi sĩ theo triều thơ tự do ở miền Nam là thơ Pháp. Do đó, lắm bài thơ, lắm thi sĩ cho ta cảm tưởng đang đọc một giai điệu mới qua tiếng Việt, nhưng nguồn thơ Việt đã mất dấu, đã đứt quãng. Đọng rớt vài hình ảnh đẹp, quái lạ, ghép vá bên nhau. Trong khi ở thơ Pháp, câu kéo, hình ảnh, và nhịp thơ như thơ Paul Eluard hay Jacques Prévert dù tân kỳ tới đâu, vẫn nhất quán giữa nội dung, ngôn ngữ và nhạc tính. Có lẽ những thi sĩ Việt ở giai đoạn chuyển thời này chưa tiêu hóa, khi đưa dòng thơ đa âm Pháp, mà họ chịu ảnh hưởng, vào khổ thơ độc âm tiếng Việt, hoặc họ quá vụ vào việc săn bắt thi ảnh, làm mất đi nhịp ý tưởng trong vận trình thể hiện nhịp điệu của ý thức. Sự thất bại của thơ Trần Thanh Hiệp là một ví dụ điển hình.

Quách Thoại, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa... là những người ít rơi vào cạm bẫy đó. Nhờ tài thơ của họ. Lý thuyết có thể mới, nhưng thiếu tài thơ, hồn thơ mới sẽ không linh.

Ngay từ đầu, Tô Thùy Yên đã chứng tỏ được hồn thơ mới với bẩm sinh thơ Yên. Hãy đọc bài Cánh đồng con ngựa chuyến tàu đăng trên tờ Sáng Tạo số 7, tháng 4.56 :

Trên cánh đồng hoang thuần một màu

Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi

Tàu chạy mau mà qua rất lâu

Tàu chạy mau tàu chạy rất mau

Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu

Cỏ cây cỏ cây lùi chóng mặt

Gò nổng cao rồi thung lũng sâu

Ngựa thở hào hển thở hào hển

Tàu chạy mau vẫn mau vẫn mau

Mặt trời mọc xong mặt trời lặn

Ngựa gục đầu gục đầu gục đầu

Cảnh đồng a ! cánh đồng sắp hết

Tàu chạy mau càng mau càng mau

Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ

Như giữa nền nhung một vết nâu.

(trích toàn bài)

So với bài Con tàu say của Vũ Hoàng Chương thời tiền chiến, thấy lạ hẳn. cảnh lắng tai nhịp sắt liền liền hay còi khuya vọng mãi tiếng ngân của men rừng say một con tàu ngả nghiêng thuở ấy, mới đến thế, gợi hình đến thế, vẫn còn là giấc mơ trong sương khói êm đềm. Chưa là con tàu vừa lạnh lùng, vừa thực, đang đâm toé ngày đêm vào cõi người như chuyến tàu của Tô Thùy Yên.

Cánh đồng con ngựa chuyến tàu không chỉ là phiến ảnh chụp nhanh. Con tàu lộm cộm thể tích, dùng tốc độ kéo theo cảnh vật đang ngủ lì. Thi sĩ sa thải mọi chất liệu dễ dãi gây khí hậu thơ : những hư từ, những tĩnh từ, thán từ... Bài thơ tuyền những danh từ như toa tàu đồ sộ, như cây cỏ dàn trải. Với một ít động từ gây chuyển động và tốc lực nơi thế giới liên giao từ hình ảnh, âm thanh đến ý thức.

Chữ ở đây không ngừng ở chức năng gợi hình, gợi ý. Chữ phá nổ mặt phẳng giấy, đưa hình vào ba chiều không gian để chạy đuổi vào chiều bốn của thời gian. Đừng tưởng Yên làm thơ tả chân hay hiện thực. Mọi sự thực, vật thực, cảnh thực đã là thực, cần chi thi ca môi giới cho nó hiện ra ? Thi ca không cần tả, vì thi ca không phóng sự. Thi ca là tiếng báo hiệu khi quên lãng bắt đầu. Thi ca vừa dịch biến, vừa lưu giữ cho tâm và mắt có lối noi trên viễn trình vũ trụ.

Tàu chạy mau mà qua rất lâu

nghĩa là gì ? tả chân ? hiện thực ? cảm giác ? Không. Đây chính là ý thức chớp loé của thi ca giữa sự va chạm của một không gian (con tàu) với một không gian (cánh đồng) ; của một không gian (con tàu) với thời gian (tốc độ). Lâu hay mau mang giá trị tương đối. Không phải giá trị tự thân hay vĩnh cửu. Lâu hay mau chỉ là cảm thức. Tàu chạy mau đối với mắt. Nhưng qua rất lâu đối với cánh đồng dài. Vì từ vô thủy, cánh đồng hoang đã chạy vô cùng nhanh, rượt đuổi không gian. Bất cứ tốc độ nào xẩy ra trên nó đều chậm rùa.

Tàu chạy mau tàu chạy rất mau, ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu, cỏ cây cỏ cây lùi, ngựa thở hào hển thở hào hển, mặt trời mọc, mặt tròi lặn, ngựa gục đầu gục đầu gục đầu, tàu chạy mau càng mau càng mau... Những nhịp gấp vô tận và liên tiếp ấy làm lớn lên một con tàu đâm sà vào đầu óc ta, như thế giới vô thường chuyển dịch lôi kéo ta qua muôn nghìn định mệnh lá lay. Kẻ chạy theo, hay bị kéo theo, đều thở dốc, thở hào hển, chóng mặt, gục đầu. Chạy cho tới lúc mệt chết, hay do tỉnh ngộ mà đứng lại, con người mới nhảy khỏi vòng biến động trầm luân. Động tác ngã lăn ấy có thể là sự chấm dứt — chết — nhưng cũng có thể là một chuyển sinh hoặc tái sinh. Nó hiện hữu như ý thức bừng tỉnh : một vết nâu giữa nền nhung.

Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ

Như giữa nền nhung một vết nâu

Không gian và thời gian còn giá trị gì khi thiếu cái gạch nối là hiện hữu vô thức hoặc hiện hữu đã bừng tỉnh ý thức ấy ? Trong bài thơ của Tô Thùy Yên, cánh đồng là không gian, chuyến tàu chuyên chở thời gian, và con ngựa là hiện hữu vô thức. Hiện hữu vô thức này dùng tốc độ rượt tàu mở rộng ý nghĩa không gian và thời gian cho cánh đồng và chuyến tàu. Nhưng hiện hữu chỉ hiện hữu khi bừng tỉnh thành ý thức, qua cái ngã lăn ra một vét nâu, như một tự hữu lập thành. Thi ca đưa cái không thành có. Đưa vô sinh vào duyên sinh. Duyên sinh là kết hợp những yếu tố chưa thành làm ra cuộc sống có kiến trúc.

Ít nhà thơ nào nói rõ về mình và con đường thơ của mình như Yên :

Tôi là Tô Thùy Yên là thi sĩ là người chép sử tương lai

Vốn học hành dang dở nên ra đứng bờ cuộc đời ngó xuống hư vô

Khi mùa hạ đốt bùng lên những hàng phượng

...

Có sống ngoài chiến khu nên rời bỏ Việt Minh

Đến cất lời ngợi ca cuộc đời xứ sở anh em ái tình thịnh trị

...

Cha mẹ tôi cho con tính tình rộng rãi. Tôi cho thêm tôi một chút ngang tàng

...

Còn làm thơ theo ý riêng tôi nghĩa là dịch thuật tâm hồn nghĩa là nói về con cháu chúng ta

Nghĩa là ngợi ca loài người hiền hậu

Nghĩa là thúc giục đám đông nổi loạn chống cường quyền

Nghĩa là nghe ngỏng nơi đại dương còn thiêm thiếp cuộc sửa soạn âm thầm của bao cơn sóng cuồng vạm vỡ

Nghĩa là có mặt trong mọi hành vi lớn nhỏ của đời mình

Nghĩa là giúp mọi người sống đủ hai mươi bốn giờ mỗi ngày nghĩa là giúp họ tìm thấy họ

(trích Tôi, Sáng tạo số 11, tháng 8.57)

Để giúp họ tìm thấy họ, thi sĩ có mặt không chỉ bằng lời mà bằng hành động.

Tôi ra giữa công trường cất tiếng kêu oan

Nhân loại ngây thơ đời đời chịu tội

Sắt đỏ cày nhăn trán mịn màng

Lúa đầy đồng người gặt thiếu ăn

Chủng nó đòi thủ tiêu thi sĩ

Tôi là thi sĩ tôi yêu

(trích Tôi lên tiếng, Sàng Tạo số 8, 5.57)

Yêu là sống, sống là bảo vệ trước mọi kích động căm thù và bạo lực. Thi sĩ hòa mình vào đám đông. Không sợ hãi. Một đám đông có ý thức nhờ đám đông khởi dựng từ đơn vị người :

Chúng nó hành hình thủ tiêu ám sát

Tôi là một người là một đám đông

(trích Tôi lên tiéng, nt.)

Trong tự ngã của thơ Yên luôn chứa chấp cái tổng ngã của đời và người. Yên dùng rất nhiều chữ tôi, nhưng không thấy riêng lẻ. Chữ tôi đã thành ta hòa đồng. Nụ cười của Yên nhếch trên đôi môi khác :

Chúng ta cười trên môi bằng hữu

(trích Tôi lên tiếng, nt.)

Đặt tín hiệu của niềm vui và hạnh phúc lên môi bằng hữu, riêng mình đau nỗi đau người, vì Yên là người thi sĩ hóa thân trong dòng thi ca báo động

Tôi vùi mình xuống cô đơn như quả mìn nổ chậm

Cuộc sổng biến thành một báo động triền miên

(trích Đêm hè, tạp chí Thé Kỷ Hai Mươi số 1, tháng 7.60)

... Cơn giông đày cổ họng, anh đứng gác trên một đỉnh cao kiêu hãnh và báo to lên những gì xuất hiện đằng xa...

(trích Nhân nói về một danh từ riêng, Sáng Tạo số 24, tháng 8.58)

Báo động sự uy hiếp đang chà nát cõi sống :

Niềm bí ẩn của tôi là đã sống

quả địa càu nhầy nhụa bóng âm u

ảnh mặt trời những tên đao phủ án

chúng nó bảo đêm là ánh sáng mun

thứ mặt trời đen mới thật mặt trời

phải chọc mù đui những cặp mắt tinh

chúng nó bảo ích lợi gì trí thức

mọi người phải cùng xanh đỏ như nhau

mặc đồng phục cho linh hồn tất cả

bảo xác chết làm phân bón hòa bình

chúng nó giết người trong nhà ngoài ngõ

chúng nó giết người như dọn rừng hoang

một tiếng thôi tư bản hay vô sản

không ai đứng ngoài cuộc báo thù này

nát thân tôi đường mã tấu hai phe

tôi ngã quỵ đôi bàn tay sạch sẽ

(trích toàn bài Ngoại cuộc, sđd. nt.)

Báo động không là tố cáo suông, hay hiệu triệu bằng ngôn ngữ sách động. Thi sĩ khổ luyện ngôn từ :

tôi giựt giành đổ máu với tôi

từng chữ một

những tên cai ngục

ngôn ngữ bất đồng

với thứ linh hồn quốc cấm

tôi tù tội chung thân

giữa bốn tường không khí

...

bằng mỗi lời độc nhất

tôi kê tai tiết lộ với từng người

những điều không lập lại

bài thơ như lá sâm

...

(trích Thi sĩ, sđd. nt.)

Tôi mọc trên địa cầu

Nên các cành huyết quản

Rút nhựa đời không thôi

Làm trải tim chín đỏ

Tôi nằm há miệng chờ

Trái tim muồi rụng xuống

Gặp môi tôi phì nhiêu

Đóa lời ca trổ ngát

(trích Bài học về vạn vật, Sáng Tạo số 22, tháng 7.58)

Một lời ca tràn đầy tin tưởng :

Chúng tôi còn sổng như mặt biển

Chúng tôi còn sống như trời mây

Bởi vì đã đi nên sẽ đến

Người và bóng tối sẽ chia tay

Ở ngã ba tưong lai gần gũi

Người còn sống không che mặt mũi

Phơi bày tấm lòng lên nụ cười

...

Chúng tôi còn sống còn cung tay

Người giơ tay đúng tầm hạnh phúc

La đà như trái chín gần rơi

(trích Tuyên ngôn, Sáng Tạo số 6, 3.57)

Đãi đời bằng nụ cười, nhưng với dối trá, bất công, thì cung tay bắn tới, để hạnh phúc la đà vào tầm tay người. Trong tình yêu, Yên yêu thương trọn vẹn, bất kể người yêu hậu ý gì :

Tôi tin chi hồ ly khi yêu em

(trích Tình anh em, Sáng Tạo số 3, 12.56)

Ta xuất hiện như tên tù tẩu thoát

Trọn gia tài : một huyết thống phiêu lưu

Ta hát lớn những tru sầu chất ngất

Lời vỗ về cao hết độ ngu ngơ

Ta gặp em như gặp người thứ nhất

Em gặp ta như gặp kẻ cuối cùng

 

Những đêm đó, một vành trăng đã khuyết

Làm hoang đường những mộng mị trăm năm

...

Thà làm kẻ si tình hát điên loạn

Hơn làm người thành đạt thời nhiễu nhương

Ta sống cuộc đời ta không sửa soạn

Như nhan sắc em cần chi điểm trang

Ta cứ coi em như hoàng hậu góa

Dẫu biết thừa em vốn gái lê dân

Còn ta đây : một vĩ nhân tàn tạ

Chẳng làm nên công nghiệp đáng lưu danh

...

Nghề ngông cuồng tập mãi cũng thành quen

(trích Chuyện tình người lỡ vận, Văn số 188, 15.10.71)

Không phải tới đầu thập niên 70, thơ Yên mới mang nỗi buồn hiu hắt. Ngay ở dòng thơ đầy lạc quan và chiến đấu giữa thập niên 50, nét cô đơn vẫn hiện hữu. Thi sĩ nào mà không cô đơn nhỉ ? Nhưng có nhiều thi sĩ lấy cô đơn làm bệnh, lấy cô đơn để nũng nịu, để lập dị, hoặc làm kế gọi kêu thương hại. Ở Yên thì không. Cô đơn có thực, kín đáo cho riêng mình. Yên ít muốn xé to chuyện đó. Vì Yên phải chiến đấu với nó hằng ngày, ngang với cuộc chiến đấu trong xã hội.

Cô đơn bằng Thượng Đế

Yếu đuối như linh hồn

Làm sao tôi trèo lên

Vực thẳm tờ bản thảo

Trắng như giá băng

...

Có đọc thuộc thánh thư

Linh hồn tôi vẫn vậy

Tôi vẫn không thể lạy

Dù đứng trước hư vô

 

Đầu tôi trơn và cứng

Thượng Đế làm sao ngự

Tôi đành trốn chủ nợ

Định mệnh đòi linh hồn

 

Năm tháng nhúng hoàng hôn

Đến rã rời thể xác

Tôi thấy đã mất mát

Tất cả trừ cô đơn

 

Cuộc sống nhiễm lầm than

Nằm liệt trên buồn bã

Thượng Đế điềm nhiên lạ

Tôi đánh liều cười khan

(trích Thân phận của thi sĩ, Sáng Tạo số 26, 11.58)

Đèn le lói vết thương tươi

Trời da thi thể mưa ngùi chấm than

Hiên ga nhỏ giọt cường toan

Xuống tim quằn quại hàng hàng ưu tư

...

Làm gì đây để giải khuây

Ngó tay mới biết mình gầy hơn xưa

(trích Trời mưa đêm xa nhà, Sáng Tạo số 31, 8.59)

Biển động kinh không ngớt

Nóc nhà thờ hoảng hốt túa âm thanh

...

tôi mang khắp hình hài những vết bỏng

đi suốt hoàng hôn không hỏi chào ai

tôi chọn nơi nhiều đau khổ làm quê hương

nhưng chẳng nhận đồng bào bất cứ kẻ nào

(trích Tội trạng, Thế Kỷ Hai Mươi số 1, 7.60)

Sao thế ? sao chẳng nhận đồng bào bất cứ kẻ nào ? Nhận là theo phe. Theo phe tất cuồng tín. Cuồng tín là đem lỗ rún mình làm lá cờ khởi nghĩa. Khởi nghĩa như thế thì còn chi dám chọn nơi nhiều đau khổ làm quê hương để trân trọng hay cứu quê hương đó ? Ở đây, có lẽ Yên đã thấm nhuần lời nguyện của Bồ Tát Địa Tạng : «Ta thề chưa thành Phật, khi còn một kẻ khổ đau trong Địa ngục !». Mà địa ngục là địa ngục trần gian chứ gì.

Chọn chốn đau khổ để vào, là niềm bí ẩn của thi sĩ. Nếu không, thi sĩ làm chi ? Nếu không, người là một tên bụng phệ, mang gọng kiếng vàng, ngồi xe sang, bên một người vợ đẹp ngày càng già càng xệ càng bệu má ba cằm than thở mỏi xương nhức gối. Làm sao thấy được những điều thi sĩ thấy :

...

Tôi nhìn qua ý thức thấy hư vô

...

Hoa cúc mở toang những cánh cửa vàng

...

Tình yêu là khuôn mặt dịu dàng nhất của cô đơn

...

Thiếu đau khổ người ta thành múa rối

...

Tôi ngất ngây như đĩnh núi kiêu hùng

Mái đầu già băng tuyết vạn niên

Hung hãn như dòng sông khởi sự hành trình

Tôi đập nát những tĩnh từ sầu nhớ tiếc thưong

(trích Thái độ, Sáng Tạo số 2, 8.60)

Vẫn biết tháng ngày chảy trong huyết quản

Và tháng ngày đâu có cội nguồn mà sẽ trở về

Vẫn biết chỉ ở trong cõi đời đã là phạm tội

...

Nhưng vốn võ trang bằng hiên ngang hãnh diện

Nên chiến cuộc giữa tôi và Thượng Đế kéo dài

đến một trăm năm

(trích Ký thác, Sáng Tạo số 17, 2.58)

Chiến đấu để tái sinh

tôi thổ huyết cuồng mê như núi lửa

thiêu hủy hình hài ăm ắp chất cô đơn

rồi trời đất hừng đông như trứng vỡ

tôi đã đầu thai thức dậy đỏ sơ sinh

(trích toàn bài Kiếp khác, Thế Kỷ Hai Mươi số 1, 7.60)

Chỉ ở trạng thái thoắt sinh từng ngày, con người mới thoát khỏi sự lão suy sinh từ vị kỷ, vụ lợi, ganh tị, bạo hành

Đứa bé trốn đi linh hồn râu tóc trắng

(trích Vie posthume, Sáng Tạo số 2, 8.60)

Kẻ nào trốn lánh đời sẽ tức khắc già sụm. Đâu chờ tới tuổi 70 mới râu tóc trắng. Râu tóc có thể trắng từ năm 15 hay 30 tuổi rồi. Còn lại chỉ là cái sống lâu — dễ hóa sống thừa. Dù sẽ được lên lão làng. Mà lão làng để làm gì ?

Cuộc đời cao lớn thế

Người vừa kích thước chăng

(trích Những ý nghĩ vào buổi chiều bãi biển, Sáng Tạo số 24, 8.54)

Bởi thế, có lúc Tô Thùy Yên muốn bỏ cả điều linh thiêng nhất : Bỏ làm thơ ?

... Anh định ngày rất gần đây sẽ thôi làm văn nghệ,

tôn giáo của những anh hùng bất lực...

(trích Phương, Sáng Tạo số 2, bộ mới, 8.60)

May Yên không thực hiện ý định này. Nhưng phát hiện kia không kém phần chính xác : «Văn nghệ là tôn giáo của những anh hùng bất lực» !.

Bẵng đi gần mười năm (hoặc giả tôi thiếu tài liệu), từ 1970 trở đi, thơ Yên mới lại xuất hiện đôi lần trên tạp chí Văn. Và lần này, thơ đã chín. Hàm ẩn nhưng mỹ miều so với thời thơ 56-60. Cùng với Yên nguồn thơ Việt khởi sắc cường lưu. Những bài thơ không thể trích, vì nhất quán toàn bài. Chữ nghĩa kéo đi như dòng sông lớn mịt mù điểm biến. Mỗi bài là một tấm lụa, một bình minh tinh khôi.

Tôi mong nhũng người làm thơ trẻ bây giờ nghiền ngẫm thơ Yên trước khi đặt bút sáng tác. Để tránh tình trạng lạm phát chữ nghĩa, lạm phát ảo tưởng, lạm phát «thiên tài». Ngày nay, thơ đang ùa tới các tòa soạn báo chí, hay in đầy thị trường như những xác ve mỏng mảnh dễ thương, nhưng khô chết. Đến cái tiếng inh ỏi gọi sầu cũng bặt. Loại thơ, đọc lên nghe du dương mà nhạt thếch. Đọc xong chả thấy gì an ủy cho cuộc sống vốn đã nhạt nhàu bi thảm. Người đọc hết bật mình giẩy nẩy, tim thôi xôn xao đất trời. Đâu rồi những bài thơ mở toang lịch sử, ngọt rót ân tình ? Phần lớn thơ ngày nay như bài nhạc cải cách, khúc hát cải lương. Qua đó, thi sĩ nghèo nàn sống với dăm ba chữ trùng phức : anh, em, đổ vỡ, chia lìa, cộng nô, người xưa, kháng chiến, anh hùng, lãnh tụ, liệt sĩ, trại tù, lưu vong, mất nước, giai cấp, đấu tranh, cách mạng, gươm súng, Kinh Kha say rượu đi du lịch, hay Phạm Tuân bay lên vũ trụ...

Thơ Tô Thùy Yên tuyệt dứt chất cải lương hay tân cổ giao duyên. Bằng nhịp điệu của ý thức mới, Yên xua chữ như đạo quân xông trận, đột kích những tư trào xâm lược đang cấy chất vong bản vào não trạng và thi tính Việt.

Nhạc tính làm chân đứng cho thơ. Nhưng gần đây nhạc tính của thơ đã thành một tiếng ru rè đưa ta lên cơn đồng thiếp, làm ma túy cho ngôn ngữ huyễn vọng. Chữ dùng đã mất nguyên ngôn, trơ lì nơi trùng phức, chằm vá. Thơ cũng như một số bài tân nhạc, nghe câu đầu đã đoán ra làn điệu tiếp sau, dù người nghe không là nhạc sĩ. Hàng trăm bài thơ sản xuất hôm nay, đọc xong câu đầu biết toàn bài nói gì.

Thơ Tô Thùy Yên không thế. Thi tính phát từ chữ. Mỗi chữ một tứ. Tứ đưa ngôn ngữ khởi nhịp, ùa đuổi ý thức. Ý thức may lành những mảnh nhân sinh tan vỡ. Ở bất cứ bài thơ nào, chủ đề nào. Dù đó nói về một Góa phụ

Em độc thoại lời kinh ánh xanh

Trăng lu khuya mỏi nén nhang tàn

Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa

Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn

 

Ngọn đèn hư ảo chong linh vị

Thẳp trắng thi gian mái tóc em

Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh

Hồn xa con đóm lạc sâu đêm

 

Cỏ cây sống chết há ta thán

Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh

Thảng như con ngựa già vô dụng

Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.

(trích Góa phụ, tạp chí. Văn, 21.5.74)

Hay tả một đoàn quân qua sông

Đò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện

Mưa lâu trời mốc buồn hôi xưa

Con đường đáo nhậm xa như nhớ

Chiều mập mờ, xiêu lạc dáng cò

Quán chật xanh lên rừng lính ướt

Mặt bơ phờ dính gió bao la

Khí ẩm mù bay, mùi thuốc khét

 Chuyện tình cờ nhúm ấm cây mưa

Vang lên những địa danh huyền hoặc

Mỗi địa danh nồng một xót xa

Giặc đánh lớn — mùa mưa đã tới

Mùa mưa như một trận mưa liền

Châu thổ mang mang trời nước sát

Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên

Tiếp tế khó — đôi lần phải lục

Trên người bạn gục đạn mươi viên

Di tản khó — sâu dòi lúc nhúc

Trong vết thương người bạn nín rên

Người chết mấy ngày chưa lấy xác

Thây sình mặt nát lạch mưong tanh...

Sông cái nước men bờ sóng sánh

Cồn xa cây vướng sáng mơ màng

Ảo quan phong quốc kỳ anh liệt

Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang

Quê xa không tiện đường đưa tiễn

Nghĩa tận sơ sài đám lạnh tanh

Thêm một chút gì như hối hả

Người thân chưa khóc ráo thâm tình...

... Nao nao mường tượng bóng mình

Mịt mùng cõi tới u minh tiếng rền

Xuống đò, đời đã bỏ quên...

Một sông nước lớn trào lên mẳt ngời

(trích toàn bài Qua sông, Văn số 190, 15.11.71)

Hiu hắt thơ Đường trong Chiều mập mờ, xiêu lạc dáng cò, nhưng rất thời đại và việt nam, trên mặt bơ phờ dính gió bao la. Thơ thiên tài với mùa mưa như một trận mưa liền. Âm hưởng lạ kỳ qua chiều rộng của mùa mưa, tới chiều cao nơi trận mưa liền. Tạo dựng nên vũ trụ mù tăm của cuộc chiến, với ý nghĩa xác thân của những thế phận nhiễu nhương... Ta sẽ cảm nhận thân thiết với thi sĩ, khi chưa quên nghĩa chữ là bốn phương và trên dưới (không gian), và xưa qua nay lại là trụ (thời gian) qua từ ngữ vũ trụ nhắc nói thường ngày.

Từ chiến trường khốc liệt ba mươi năm, thơ đẻ ra khá nhiều trên hai miền chia cắt. Đa số vẫn là thơ sát khí, thơ chính luận. Những bài thơ tuyên truyền chiến tranh hay phản đối chiến tranh. Hiếm thơ xao xuyến thân phận người giữa cuộc chiến. Con người chưa được sống, vì ngày, tháng, rồi năm cứ hoài mãi ước mơ thôi. Bên cạnh sự giết người như một lý tưởng.

Trong thơ Tô Thùy Yên, dù nơi chiến trận, con người hiển hiện, mặc bao thúc bách, trấn áp trước họng đỏ ngông cuồng của lịch sứ.

Dựng sủng trường, cởi nón sắt

Đơn vị dừng quân trọn buổi chiều

...

Mấy kẻ gặp nhau nào có hẹn

Nên gặp nhau không giấu nỗi mừng

Ta gạn dăm lời thơ tặng bạn

Dẫu từ lâu bỏ việc văn chưong

Thiệt tình tên bạn ta không nhớ

Nhưng mà trông mặt thấy quen quen

Hề chi, ta uống cho say đã

Nào có ra gì một cái tên...

Tới đây toàn những tay hào sĩ

Sống chết không làm thắt ruột gan

Cũng không ai nhắc về thân thế

Có vợ con mà như độc thân

...

Người thuở trước tìm vàng khẩn đất

Tiêu xác thân, để lại oan hồn

Ngày nay, ta bạn đến đây nữa

Đất thì không khẩn, vàng không tìm...

Bạn nhủ ta : đừng hỏi khó

Uống mất ngon vì chuyện loạn tâm

Ta chắt cho nhau giọt rượu sót

Tưởng đời sót chút thiếu niên đây

Giờ cất quân, đưa tay bắt

Ước cõi âm còn gặp để say.

(trích Anh hùng tận, Văn số 190, 15.11.71)

Say rượu đáng thương hay đáng trách ? So với sự say sưa chinh chiến, say sưa cách mạng, say sưa chủ nghĩa, say sưa giết người, say sưa làm tổ sư đạo đức giả ?

Bạn có nghe, này bạn có nghe

Ở bìa rừng bên gió sửa soạn

Tuần du — cuộc tuần du bất tận

Bạn có nghe, này bạn có nghe

Giữa tầng trời cao chim giục giã

Từng giàn như những thủy triều sôi

Bạn có nghe, này bạn có nghe

Trên đỉnh non nhòa, mây xôn xao

Về nơi hẹn nào không định trước

Bạn có nghe, này bạn có nghe

Vũ trụ miên man chuyển động đều

Chim đã bay quanh từ vạn cổ

Gió thật xưa, mây thật già nua

Nên với một đời bao biến đổi

Mà trong vô hạn có chi đâu

Ly rượu rót mời, xin uống cạn

Bài ca ta hát đến đâu rồi

Xỉn hát nốt — còn đi kẻo muộn

Cho úp ly — bóng xế đường dài

Bìm bịp chiều chiều kêu nước lớn

Đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê

Đến ngã ba, đành theo một lối

Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia

(trích Đãng tứ, Văn 190, 15.11.71)

Tiếc là có phân vân. Tuy phân vân là cảm tính bi lụy nhất thời, vì đã biết lối đi mình dưới vòm trời sử thi :

Ra đi như một bình minh lạ

Trên kỷ nguyên chưa kịp hiện hình

Thi sĩ Bắc, Nam đều chết rạp

Ba trăm năm lịch sử làm thinh

(trích Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai, Văn 207, 1.8.72)

Thời nào lãnh tụ vừa ngu dốt vừa mê muội, thì lịch sử làm thinh. Sông Gianh rồi Bến Hải, ba trăm năm cứ y một

Cuộc cờ kỳ lạ không bày tướng

Ăn sạch quân, trừ tính được thua

Hỏi ai tráng sĩ mài gươm nhọn

Xin nhớ đời không mỗi sắc vua

(trích Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, Văn 207, 1.8.72)

Còn chi nơi sử xanh ngoài âm thanh của đá ?

Trên dốc thời gian, hòn đá tuột

Lăn dài kinh động cả hư vô

(nt.)

với nỗi tiếc thương

Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi

Trên mồ ta, trăng phải lang thang

(nt.)

vì giờ ngọ đã qua, giờ hoàng đạo đi xuống, đưa ngày và đời vào hoàng hôn thế kỷ

Hoàng hôn xô bóng ta trên cát

Ta lớn lao và ta cô đơn

...

Dưới bóng bao trùm hạt cát tỏa

Đền rêu, miếu cỏ lạnh ma hoang

(trích Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai, nt.)

Nhưng Yên không chết đâu. Bao lâu vũ trụ còn, thi sĩ cứ hiển linh. Ngược lại cũng đúng, còn thi sĩ, vũ trụ còn sinh sôi. Vì thi sĩ là kẻ tái sinh sự lãng quên ra mầm nhú mỹ miều. Lịch sử không thi sĩ là lịch sử mù. Nhờ thi sĩ, biết bao điều được sống mãi nơi thơ mộng và trí nhớ. Trí nhớ chồng trí nhớ, cái «gien» người mới không mất những gì đã tụ hội từ vô thủy.

Tô Thùy Yên tồn tại mãi với triều thơ sang giàu chữ và ngữ điệu lồng lộng thi ca. Huống chi, Yên từng xác định :

Sống trên đời, chuyện ghê gớm quá

Vậy mà ta sống có kỳ không

(trích Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, nt.)

Ta uống giếng hoang, ăn trái lạ

Tâm hồn mãi mãi mới tinh khôi

(trích Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai, nt.)

Yên vừa nắm bắt được giữa lòng tay một tịch mịch mùi

Buổi trưa như buổi trưa nào đó

Tiếng võng đưa đưa tịch mịch mùi

(trích Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, nt.)

Buổi trưa là tiếng tố cáo hoàng hôn — sự đi xuống, chất tàn tạ. Tiếng võng là biến dịch — sự sống chuyển hóa. Tịch mịch là lặng yên. Còn tịch mịch mùi ? Hiểu cách nào cũng đẹp.

Hiểu theo triết học, thì giờ mùi (13-15 giờ) là giờ khởi sự đưa ngày lên đường vào hoàng hôn tàn tạ. Yên lặng sự khởi đầu ấy, hoàng hôn không bao giờ tới. Nỗi chết của ánh sáng không còn hiện ra.

Hoặc hiểu mùi như hương thơm, thì nỗi tịch mịch kia lý thú biết bao. Nơi tận cùng cô tịch, bỗng một làn hương thoảng tới, ngào ngạt tái sinh. Còn mùi là chín, tịch mịch vượt nỗi quạnh hiu riêng, để xòa ôm cảnh rộng thinh bát ngát của như nhiên phiếu diễu như một niềm trời.

Nhưng phép cảm thơ, đối với những dòng thơ lớn, lắm khi chẳng cần thiết phải chẽ sợi tóc làm tư vạch tìm ngữ nghĩa như thế. Hãy ngâm lên ! Ngân lên cái khí thơ ngút trời, và chất thơ lạ đời đang xao xuyến tim, và xôn xao nghìn tinh đẩu… Chẳng hạn những câu :

Mùa mưa như một trận mưa liền

...

Tàu chạy mau mà qua rất lâu...

...

Tiếng võng đưa đưa tịch mịch mùi ...

...

Dưới hồn ta tịch mịch long lanh

...

Đã buông trong bạt ngàn xanh ngắt ...

Gió thật xưa mây thật già nua

...

Mầm cỏ ngoi ngoi lên rạo rực

...

Biển đưa trăng lăn vào đá tiếng ru.

Mà thơ Tô Thùy Yên là như vậy đó.

Sau chính biến 75, nhà cầm quyền cộng sản lùa đi tù cải tạo ba triệu dân miền Nam. Trong đó có nhà thơ Tô Thùy Yên. Yên bị hành hạ đằng đẳng mười ba năm. Đối diện với thú tính, đối diện với ngục tù, lời đáp của Yên là Thơ. Yên sống thơ hơn bao giờ. Yên đảm lãnh Thơ cho một dân tộc đang mất Thơ trong đời và trong trí. Sống Thơ qua từng nghìn câu. Như bài «Ta về» dài 300 câu, sáng tác sau khi đi tù cải tạo về, có thể đại biểu cho thi ca Việt Nam hạ bán thế kỷ XX. Lớn lao quá — thơ và thi nhân — giữa thời khổ hạnh, khi tiếng tru loài sói được công nhận như «tiếng người». Không bi lụy mà bi tráng. Không hằn thù mà nhân văn. Không ngoại tộc vì thi tưởng chín hồng sau mười nghìn năm người Việt khai quốc.

Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

Cám ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui từ mỗi lẻ loi

(trích Ta về)

Thơ đọng vào chữ mỗi sáng danh. Chữ mỗi đánh bạt chữ mọi đang chủ tể ý thức hệ nô lệ bầy đoàn. Thứ ý hệ muốn biến Yên và những người như Yên thành :

Mười năm mặt xạm soi khe nước

Ta hóa thân thành vượn cổ sơ

(trích Ta về)

Nhưng. Nhưng thi tính và tư tưởng Việt là con đê hà lan chắn ngăn mọi triều nước ngoại xâm hung hãn :

Ta về một bóng trên đường lớn

(trích Ta về)

Mười năm ta vẫn cứ là ta

(trích Ta về)

Không về trong tư thái tiến quân hay phục quốc kiểu «Tiến về Hà Nội» thảm sát Thăng Long. Không. Tô Thùy Yên nhân hậu như một lần quê hương. Nơi mà «mỗi lẻ loi» hàm chứa bát ngát tình yêu

Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn

Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà

Hoa mận, hoa tầm xuân vẫn nở

Trong vườn không hết những mùa hoa

...

Chút rượu hồng đây, xin nước uống

Giải oan cho cuộc biển dâu này

(trích Ta về)

Dâu biển đổi dời phũ phàng man rợ đến mấy, người thi sĩ vẫn thủy chung với Tinh cũ, Nước xưa — những chưa hề và không mất mát. Cái đó mất, cái mình đây cũng mất. Cho nên phải gìn giữ, dù xót xa vô tận

Tình xưa như tuổi già không ngủ

Bước chạm khuya từng nỗi xót xa

(trích Ta về)

Cái Kiến tính THẤY của người thi sĩ khiến họ trở thành người canh gác vũ trụ. Vũ trụ trong nghĩa Không—Thời ta vừa nhắc trên kia. Họa hoằn là thi sĩ, bọn lãnh tụ chính trị hay tướng lĩnh làm sao thấy được

Đau khổ riêng gì nơi gió cát

Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm

(trích Ta về)

Bi kịch không hoàn tất bi kịch, khi dòng thơ bi tráng hóa thân vào mỗi gốc cây, trạm chuyển hóa mối đại thức giữa đất và trời :

Cây bưởi xưa còn nhớ trắng hoa

(trích Ta về)

Và biết đâu Kẻ cứu tinh nòi giống không là một Thi sĩ ? Không là dòng Thơ Tô Thùy Yên ? Một Nguyễn Du khác.

Ta về cúi mái đầu sưong điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

Khung đời nhị nguyên (dualisme) tan vỡ qua thế phận Kiều của «trăm năm trong cõi người ta : chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhan» vừa khép lại. Cùng với Yên hiển hiện mối dung thông bất nhị (non-dualité) lúc «nghe nặng từ tâm lượng đất trời». Thi sĩ chan hòa với cỏ cây, nhân tình thế thái, biến thiên vũ trụ, bằng niềm rộng thinh vô ngã. Cừu thù lắng bặt, dù chưa từng khuất phục, đầu hàng. Thi sĩ là sức vượt mọi lằn ranh, làm ngợp ngát hư không. Thi sĩ gọi tuổi qua màu sương của tóc. Nơi đáy thời gian (vô thường) ấy, cái ta rã tan thành không gian vô ngã. Nhờ thế, và từ đó, duyên sinh mối từ tâm vô cùng tận giữa đất trời. Đơn giản và cũng hệ trọng thay cuộc đại ngộ, mà biết bao người trải nghìn kiếp tu không chứng.

Paris, 4.1.1989

Thi Vũ
(trích «Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam 1945-1985» – Thi Vũ,
NXB Quê Mẹ, Paris 1993)

 

 



[1] Nỗi buồn trong thơ hôm nay, Thanh Tâm Tuyền, Giai phẩm Văn Saigon, 9.11.73.