NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

 

“Nụ Hôn Có Vị Mặn”

 

 

Khi nhận được lời mời dự hội nghị này, tôi không chọn những vấn đề Tự Do hay Ý Thức Hệ mà chọn Ngôn Ngữ vì, người thầy, người bạn lớn của tôi, ông Diễm Châu còn là một nhà ngôn ngữ. Chính ông bổ sung vào bài tham luận của tôi phần giống nhau thú vị giữa tiếng Việt và Indonesia, mà theo ông có lẽ thông qua ngôn ngữ của người Chăm.

Ðược tin ông Diễm Châu mất bất ngờ ngày 28 tháng 12 năm 2006, và an táng ngày 30 tháng 12 năm 2006 tại Pháp, tôi mong mình sẽ còn được viết nhiều về ông, như một cách tri ân một người đi trước, đã quan tâm, chỉ giáo gởi gắm và kỳ vọng nhiều về mình, cách đây hơn ba mươi năm. NTMN.

 

1. Những điều chia xẻ được:

 

Những ngày ở Jakarta và Bali để dự Ðại Hội Phụ Nữ Viết Kịch toàn thế giới lần thứ Bảy (Women Playwrights International 7th International Conference), tôi cứ nhớ đến vở “Nụ Hôn Có Vị Mặn của Biển” của cố nhạc sĩ Trương Quốc Khánh mà tôi đã được dựng cho đoàn Bông Hồng vào những năm đầu 1980. Nhân vật chính -do Mai Phương và Hoa Hạ thay phiên nhau đóng - là một cô gái có tri thức nhưng phải lao vào những công việc lao động tay chân trên con đường hoàn thiện và bảo vệ công lý cùng tình yêu của chính mình.

 

Càng xem và càng tiếp xúc với những người bạn cũ, mới này tôi càng hiểu ra tại sao mình nhớ về vị mặn của mồ hôi và nước mắt hoà trong vị ngọt của nụ hôn. Những nghệ sĩ gần như ném cả cuộc đời của họ vào canh bạc sân khấu và họ chấp nhận giữa cửa ăn và thua chứ không có cửa hoà. Có thể nơi quê nhà của họ và ngay cả nơi nước Nam Dương này vẫn có loại sân khấu chỉ để đơn thuần giải trí nhưng họ đã không đem tới đại hội này. Những vở diễn ở đây hoặc trang trọng, diễm lệ cho bộ mặt văn hóa của một quốc gia, hoặc đậm đặc sức công phá của loại sân khấu được thực trạng xã hội tác động vào và rồi nó cũng muốn tác động ngược lại xã hội dung chứa nó theo chiều hướng giúp nhau tốt đẹp hơn.

 

Ví dụ như vở “Ðảo Vignettes”của Marili Fernandez - Ilagan và Dessa Quesada (Philipines) bên cạnh việc vẽ lại cuộc sống của phụ nữ nơi đây thửơ bộ lạc sơ khai, còn muốn nhấn mạnh vấn đề hiện tại của các cô gái đẹp phải trôi giạt xứ người với mơ ước đổi đời nhưng thực tế luôn ngược với mộng mơ.

 

Ví dụ như Ann Lee (Malaysia) khi đưa ra vở “Công chúa Melakan” thì hình ảnh một cô công chúa Trung Hoa trong đó được xử dụng như một phương tiện để kinh doanh đổi chác vào những năm thuộc thế kỷ 15 cũng chỉ để nói về chuyện ASEAN và APEC.

 

2. Dân tộc và đương đại:

 

Hình ảnh gây sốc lớn cho tôi trong buổi họp mặt đầu tiên là những cái đầu không tóc của những cô gái trẻ khoẻ giữa khá nhiều mạng che mặt. Hỏi mới biết họ phải hy sinh tóc để tuân thủ ý đồ của một nữ tác giả. Tất cả đóng vai các nữ nông dân, người độc nhất được để tóc dài vì thể hiện vai một nữ nghệ sĩ. Trên nền những bó trấu rãi khắp sân khấu, những phụ nữ ấy đã cố tìm lại căn cước của mình vốn đã bị thất lạc vì sự kỳ thị và bạo động đã khuấy rối tâm sinh lý khiến phụ nữ trở thành những vật thể khổ đau. Tôi đặc biệt thích những động tác vỗ vào giữa những chiếc váy vì điều này gợi nhớ những nữ nông dân Việt Nam cùng hình ảnh hai phụ nữ dùng hai chiếc dùi trống gõ mạnh vào hai chiếc thùng phuy để mạnh mẽ hơn cuộc đối thoại xen kẻ với những tiếng hét “ngẩng mặt kêu trời” như một cách chất vấn thượng đế. Ðược biết đó cũng là những động tác múa truyền thống của vùng đảo Tây Sumatra.

Một nữ tác giả khác đã cùng với hai cô gái dùng những dụng dụ cào, xàng, bẩy đá cho thấy từ những giọt mồ hôi lao động của đời sống thật, với những cảm xúc chân thành cho quê hương và những số phận vô danh cùng khổ, ta có thể làm nên được những tác phẩm nghệ thuật chinh phục được những người khác không gian văn hóa, chính trị và tôn giáo.

 

Sau khi diễn, tác phẩm của Sân Khấu Nữ Công Nhân này được vài nước mời dự vài liên hoan sân khấu trong năm tới có lẽ vì tính dân tộc hoà cùng nét đương đại của nó. Ðiều đáng thán phục là những cô gái làm ra những tác phẩm này chưa ra khỏi nước, thậm chí không biết cả ngoại ngữ, nên không thấy họ ảnh hưởng chút nào từ nước ngoài mà có thể nói ngược lại, tôi được thấy vài sáng tác nơi khác có thấp thoáng ngôn ngữ giàu tính biểu tượng của họ.

 

3. Những người đàn ông nghĩ về họ:

 

Sợ những lời có cánh trong các bài diễn văn chỉ mang tính ngoại giao, tôi cố làm một cuộc phỏng vấn riêng những nhân vật nam có mặt tại Ðại Hội

 

Ông Sutiyoso, Thị Trưởng Jakarta cho biết điều ông mừng nhất là sau ba năm ban tổ chức vất vả mở rộng nhiều trại sáng tác trên toàn quốc, hiện nay phong trào viết kịch trong nước mạnh hơn, quan hệ sáng tạo tri thức với thế giới và văn hóa đối thoại cũng được nâng cao.

 

Ông Marco Kusumawijaya, Chủ tịch Hội đồng Nghệ Thuật Jakarta cho rằng từ thưở khai thiên lập địa, phụ nữ vốn có vai trò chủ đạo trong việc phát triển xã hội. Môầt số tôn giáo khiến cho phụ nữ yếu đi, và bây giờ, đã đến lúc các chị em tìm lại thế mạnh của mình.

Trong tiệc chia tay, ông Jero Wacik, Bộ Trưởng Văn Hoá và Du Lịch ca ngợi hiệu quả tạo được “cầu văn hóa” của những phụ nữ viết kịch toàn thế giới, loại “cầu” khởi nguồn từ những sáng tạo dựa trên cảm xúc nhân bản và thẩm mỹ trên đất mẹ.

Người được xin chữ ký nhiều nhất trong đại hội này là Nawal El Saadawi (Ai Cập). Sau khi được ông Sutiyoso mời ra bắt đầu đêm dạ vũ khai mạc, bà dí dỏm tuyên bố: “Có lẽ ngày hôm nay là ngày hạnh phúc nhất đời của tôi. Lâu nay chính quyền bỏ tù, đóng cửa báo, trục xuất tôi. Giờ tới đây không những tôi được dự tiệc chung mà lại còn được khiêu vũ với chính quyền.”

 

Khi vở “Cô gái điếm và ngài Tổng Thống” vừa dứt, người đầu tiên bước lên cảm tạ tác giả kiêm đạo diễn Ratna Sarumpaet chính là vị chức sắc tôn giáo lớn nhất của thành phố .

 

Riêng Việt Nam là nước độc nhất có người của Sứ Quán đến dự trong buổi trình bày của mình.

 

4. Và họ nghĩ về đàn ông:

 

Ða số những đại biểu đến từ các nước đều có chung một tâm nguyện như Mumbi Kaigwa (Kenya). Ðẹp như một người mẫu với làn da đen bóng, chân dài, tóc tém sát với một đuôi bím nhỏ trên trán, chị tâm sự: “Tôi làm nghề này hoàn toàn không phải vì tiền mà chỉ với một khát vọng tìm kiếm và kể lại sự thật”.

 

Khi một đồng nghiệp từ Malaysia giả trang làm một đại biểu đàn ông để giễu cợt sự bảo thủ ngờ nghệch của những người đàn ông nắm giữ quyền lực, Ratna Sarumpaet nhắc nhở ngay: “Ðừng quên nếu không có chính quyền hổ trợ, đại hội này sẽ không tiến hành được đâu!”. Nhắc vậy thôi nhưng trong tác phẩm của mình Ratna cho một chính khách là khách làng chơi bị cô gái điếm bắn chết từ đầu vở khiến tổng thống phải thanh lọc lại hàng ngủ và thay đổi ngay thành phần nội các. Biết mình sẽ bị tử hình, cô điếm không xin ân xá mà chỉ xin gặp Tổng thống và vị chức sắc tôn giáo lớn nhất của thành phố trước khi chết.

 

Cả khán phòng gần như đứng dậy vổ tay vang dội trong lớp cuối khi vị lãnh tụ tôn giáo ấy vào ngục “song thoại” với cô điếm. Con số ba triệu trẻ em ở Indonesia phải làm việc sớm như những công nhân trong lĩnh vực sex một cách hợp pháp khiến Ratna viết vở kịch đưa ra giả định (rất nhiều khả năng có thực) về một chính khách là khách làng chơi và bị giết.

 

Tiến Sĩ Glecy Atienza (Philipines) tâm sự để có được tri thức nhân loại cô đã phải sống một cuộc đời độc thân khổ hạnh. Trong cô luôn có nỗi khát khao được phát triển hơn nữa để vươn tới tầm thế giới. Cô chẳng thể bỏ nước ra đi dù bối cảnh xã hội trì trệ kìm giữ sáng tạo của các nữ trí thức; dù những người đàn ông nắm quyền, tiền cố tình không công nhận và tin dùng các cô như những người đồng hành cùng góp tay chăm lo cho một thế hệ tương lai, đặc biệt trong các chương trình xử dụng sân khấu như một phương tiện để phát triển cộng đồng.

 

5. Cọng hưởng với những tri âm:

 

Những thuận lợi của những phụ nữ viết kịch hiện tại trên khắp thế giới nằm ở chỗ họ đã không “một mình bước tới”. Nhưng điều đó không có nghĩa lúc nào họ cũng được gặp những cọng sự tốt và những người thấu hiểu. Khá nhiều chị em cho biết đã gặp trường hợp như cô tiến sĩ trên. Nhiều người đàn ông trong giới không công nhận và hổ trợ thật sự cho các chị nếu không muốn nói luôn âm thầm ở một thế đối kháng hoặc đòi hỏi một cái giá phải trả và buộc các chị phải thần phục cho một sự “bảo kê” nào đó. Chỗ tựa lớn của các chị vẫn là những khán giả, đồng nghiệp tri âm và đôi lúc là gia đình.

 

Sau 18 năm chuyên tâm vào kịch nước ngoài, nhân một nữ công nhân có đồng lương quá thấp lại bị sát hại sau khi bị áp bức, Ratna mới tỉnh ra mà chuyên tâm vào những đề tài trong nước. Chính cuộc gặp gỡ Ratna vào năm 2001 ở Manila đã thúc đẫy tôi cùng các sinh viên chuyển một học kỳ độc thoại từ những kịch bản nước ngoài sang một “Ðêm Việt” gồm những độc thoại là tiếng nói nội tâm của những nhân vật trong văn học sử Việt Nam.

 

Sau những trao đổi từ đại hội này, dường như vẫn còn ám ảnh trong tôi băn khoắn năm nào của ông Nguyễn Minh Triết : “Chúng ta thiếu vắng những tác phẩm lay động lòng người”

 

Phần tôi, ấm áp biết bao khi ngay sau đó được gặp Nhật Linh, cô bạn đã cùng tham gia chương trình sân khấu diễn đàn của IOGT trước đây ở Nha Trang và Hà Nội. Linh rủ rê tham gia chương trình “Dân ta biết sử ta” trong những ngày sắp tới và cho biết những khó khăn của Linh trong chương trình trước đó chỉ là “chuyện nhỏ” so với khá nhiều đồng thuận hiện nay. Cuộc gặp gỡ khiến tôi tin tưởng hơn khả năng tổ chức một đại hội cho phụ nữ viết kịch thế giới tương tợ do Việt Nam đăng cai. Chỉ cần nhiều bàn tay góp lại cho cộng đồng xã hội và sân khấu để những thế hệ sau đồng phát triển; nếu cần, có thể xóa đi dấu ấn riêng mình.

 

Nguyễn Thị Minh Ngọc

 

(bản gốc, khác, so với bản đã đăng trên báo Người Lao Động):
http://www.nld.com.vn/tintuc/van-hoa/175890.asp)

 

 

đọc các sáng tác khác của Nguyễn Thị Minh Ngọc trên gio-o