THI SĨ PHÓ VỮA

Đầu Năm Lợn, Tháng Hai 2007, bọn Cộng Hà Nội trao cái gọi là " Giải Thưởng Nhà Nước" cho 4 Nhà Thơ Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Lê Đạt vì các tác phẩm mà bọn Cộng gọi là "có giá trị cao về văn học nghệ thuật, ca ngợi đất nước, nhân dân, góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc". Phải gọi cái "Giải Thưởng Nhà Nước Bắc Cộng" này là " Giải Thưởng Nhà Thổ" vì những lý do sau đây:

Năm 1958 ở Hà Nội, 4 người trên đây, cùng một số văn nghệ sĩ khác, bị Trùm Đồ Tể Văn Nghệ Tố Hữu kết tội "phản động, chống Đảng." Vụ này được gọi là vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Những người nổi tiếng nhất bị Tố Hữu vu cáo, chửi rủa, bắt đi tù năm ấy là Nữ sĩ Thụy An, các ông Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán, Phùng Cung.

Ông Phan Khôi không bị đi tù nhưng bị Tố Hữu chửi rất nặng lời; nó chửi đích danh ông Phan Khôi chứ không chửi bóng gió. Khoảng một năm sau ngày bị nhục mạ ông Phan Khôi qua đời. Năm 1980 nghĩa trang có mộ ông Phan bị giải tỏa, các con ông không đến lấy cốt ông mang đi nơi khác nên di cốt của ông bị mất. Nay người ta xây mộ ông ở làng quê ông nhưng trong mộ không có di cốt của ông.

Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng đình Hưng, Tử Phác, Quang Dũng, Hữu Loan không bị tù, chỉ bị chửi rủa, khinh bỉ, rồi bị đầy ải, bỏ đói. Trong thời gian dài đến 30 năm, những văn nghệ sĩ bị đầy ải cùng gia đình của họ sống rất khổ nhục. Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung đã qua đời, nay chỉ còn Hoàng Cầm, Lê Đạt, cả hai đều trên 80 tuổi.

Đấy là việc bọn Bắc Cộng làm năm 1958, bọn Bắc Cộng năm 2007 trao giải cho những người bị chúng kết tội, bị chúng chửi rủa, khinh bỉ, hãm hại, đầy đọa 50 năm trước. Bọn Bắc Cộng làm việc nhổ liếm đó mà không biết nhục, không biết xấu hổ. Kể tội chúng không biết nhục là thừa và ngớ ngẩn, bởi vì bọn Cộng sản thế giới, đặc biệt là bọn Bắc Cộng, có biết nhục là gì đâu. Nếu biết nhục, chúng đã không phải, và không thể là đảng viên Đảng Cộng.

Hoàng Cầm, Lê Đạt đều có Thơ, gọi là "Trường Ca, ca tụng Hồ chí Minh". Khi Phùng Quán từ trần, Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đang ở Hà Nội, ông đến dự đám tang Phùng Quán, ông kể trong Hồi Ký HỎA LÒ chuyện Hoàng Cầm đọc điếu văn, gọi Phùng Quán là "đảng viên trung kiên của Đảng, nhiệt tình làm trọn những công tác Đảng giao phó"; bà vợ ông Phùng Quán nói với ông Nguyễn Chí Thiện:

- Anh Hoàng Cầm làm nhục chồng tôi. Chồng tôi bỏ Đảng lâu rồi.

Sau khi "Giải Thưởng Nhà Thổ"được công bố, tên tuổi Hoàng Cầm, Lê Đạt được một số báo Hà Nội nhắc lại. Dưới đây là mấy câu Hoàng Cầm trả lời một cuộc phỏng vấn::

Hỏi - Tờ báo của các ông thời bấy giờ có bao nhiêu anh em cùng tham gia?

Hoàng Cầm - Tham gia chính thức để làm tờ báo Nhân Văn và tạp chí Giai Phẩm có 4 anh em, đó là Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Lê Đạt và Trần Dần, Trần Dần thỉnh thoảng ghé qua thôi, phần lớn công việc thuộc về 3 người. Nguyễn Hữu Đang là một nhà chính trị, nhà báo, rất có công. Ông ấy đã thiết kế kỳ đài cho cuộc mít-tinh ngày 2-9.1945, từng làm báo với ông Trường Chinh, ông Đang là Thư ký toà soạn báo Tin Tức đóng ở Phùng Hưng.

Hỏi - Cuộc sống của các thi hữu các ông thời ấy thế nào?

HC - Cuộc sống của chúng tôi cũng vất vả, nhưng không đến mức bi đát. Nhà nước đối xử với anh em chúng tôi không có gì ghê gớm lắm như người ta đồn thổi. Chúng tôi cũng tránh gặp gỡ bạn bè. Tôi còn nhớ thời đó anh Ngô Linh Ngọc vào thăm gia đình tôi vào dịp Tết, chỉ vào nhà vài phút, rồi hỏi tôi: "Tết này mày thế nào?" Tôi nói: "Chẳng có gì, chỉ có thế thôi". Thấy vậy, anh cho tôi 5 đồng rồi đi ngay.

Hỏi: Gần đây ông có viết gì không?

HC - Năm nay tôi không viết được gì, bây giờ chỉ ngồi vào viết 5 phút thôi là đầu óc cứ rối bù. Nhưng tôi đã viết xong cuốn hồi ký, tôi đã ký hợp đồng với họ, chỉ việc in nữa thôi. Hồi ký của tôi sẽ viết rất kỹ về Nhân Văn Giai Phẩm, vì đấy là dấu son trong cuộc đời tôi. Giờ tôi chỉ nghỉ ngơi thôi, nói một cách bi quan là chờ chết. Chỉ tiếc là các bạn tôi chết rồi mà không biết mình được thừa nhận. Ngưng trích.

Thi sĩ Lá Diêu Bông nói về "tác phẩm" và "Đảng":

Hoàng Cầm: Một tác phẩm hay bao giờ cũng chảy ra từ cái tâm trong sáng, còn cái tâm u tối không bao giờ có tác phẩm tử tế được. Trên thế giới cũng vậy, những nhà văn lớn đều có cái tâm lớn. Hơn nữa đây là lỗi do sự ấu trĩ của một số cá nhân của một thời, chứ không phải đường lối của Đảng, Nhà nước là như thế. Bệnh ấu trĩ là bệnh khó tránh khỏi ở một Đảng mới cầm quyền. Trên thế giới ở một số nước cũng vậy, làm sao mà tránh được. Không phải lỗi của Đảng mà cũng không phải là lỗi của Nhân Văn. Bây giờ nền kinh tế của ta đã trưởng thành, vững mạnh, người ta mới đủ bình thản để nhìn lại chuyện này. Đó là điều đáng mừng."  Ngưng trích.

Và đây là Bản Kết Tội do Tố Hữu công bố trên tờ Học Tập, Tạp chí Lý luận và Chính trị của Đảng Lao Động Việt Nam, Số Tháng 4.1958, trang 22-28. Trích:

Tố Hữu: Qua học tập, đấu tranh, dưới ánh sáng của Nghị quyết Bộ Chính Trị, tất cả những văn nghệ sĩ yêu nước, trung thực, đã nhận ra bộ mặt thật ghê tởm và những âm mưu thủ đoạn đen tối của chúng. "Cháy nhà ra mặt chuột". Đúng như vậy. Những con chuột dịch đã không thể giấu mình được nữa trong những mảng bóng tối của tình hình văn nghệ.

Bọn phá hoại dùng những thủ đoạn thâm độc, phao đồn tin nhảm, gieo hoang mang, gây mâu thuẫn giữa các văn nghệ sĩ. Chúng mua chuộc, phỉnh phờ, thậm chí dọa nạt một số văn nghệ sĩ lạc hậu và cả một số ít đảng viên thiếu trách nhiệm, thiếu kỷ luật, lôi kéo họ vào việc đả kích sự lãnh đạo của Đảng và đả kích những cán bộ phụ trách, những đảng viên tốt và những người ngoài đảng tích cực ủng hộ Đảng. Chúng truyền bá những tài liệu và những báo chí phản động. Dưới chiêu bài "chống giáo điều, máy móc", chúng gieo rắc những nọc độc của chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ, nhằm lôi kéo văn nghệ sĩ đi vào con đường nghệ thuật tư sản suy đồi. Trước những hoạt động có hại đó, số đông văn nghệ sĩ, kể cả một số văn nghệ sĩ đảng viên, đã mất cảnh giác hoặc bị động, không kiên quyết đấu tranh, thậm chí một số còn hùa theo chúng.

Nhận định sáng suốt của Bộ Chính Trị đã thức tỉnh tính cảnh giác cách mạng của mấy nghìn văn nghệ sĩ và cán bộ văn hóa tham gia học tập và đấu tranh. Trong trí nhớ của mỗi người, cả một số người đã từng bị lôi kéo, vào những hoạt động phản cách mạng, dồn dập hiện lên hình thù quái ác và những thủ đoạn gian xảo của bọn mặt người dạ thú. Chúng là những ai?

Là những tên đã quen nghề "tác động tinh thần" của địch, có tên như Thụy An đến bây giờ vẫn còn nức nở khen những tên Tướng giặc là "Đại tướng cao quý thơm tho" (!), khen những thằng bán nước là "lịch duyệt thông thái"(!). Là những tên đã từng làm chó săn cho giặc tham gia những trận càn quét hoặc chỉ huy những hệ thống chỉ điểm giết hại đồng bào và cán bộ.

Chúng là những tên phản trắc, có kẻ như Phan-Khôi một đời đã năm lần phản bội Tổ quốc, kẻ đã từng nhục mạ "người An-nam là chó, và đã là chó thì phải ăn cứt" để "thuyết phục" người khác đầu hàng địch, mà vẫn dương dương tự cho mình là "học giả tiết tháo", và được kẻ đồng bọn phong cho là "Anh hùng của ba trăm nô lệ" (!).

Chúng là những con buôn "mác-xít", "cách mạng" đầu lưỡi như Trương-Tửu, Trần-Đức-Thảo mà thực chất là những tên tơ-rôt-skit vô tổ quốc đã từng nấp dưới nách của địch chống lại cách mạng, suốt đời thù ghét những người cộng sản và tất cả những ai tin yêu Đảng vẻ vang đã lãnh đạo cách mạng thắng lợi, luôn luôn thù ghét phe xã hội chủ nghĩa và nuôi lòng căm giận tột độ đối với Liên–xô là trung tâm của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là hy vọng tươi sáng nhất của loài người.

Chúng là những kẻ đầu cơ cách mạng, như Nguyễn-Hữu-Đang, mượn màu cách mạng tô điểm cho dã tâm cá nhân, mưu đồ "vương tướng", và một khi không được thỏa mãn thì quay ra phản bội cách mạng, "ăn cháo đá bát", "đâm bị thóc chọc bị gạo", cam tâm làm đầy tớ cho những phần tử phản động trong giai cấp tư sản, kết bè kéo cánh với cả những tên chó săn tơ-rôt-skit, lập kế bày mưu, thừa cơ đục nước béo cò, dù có nhúng tay vào tội ác phản lại Tổ quốc, phản lại nhân dân, chống lại sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà, chống lại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng không từ.

Gặp nhau trong một mục đích chung, chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ, chống phe xã hội chủ nghĩa, chống Đảng lãnh đạo, tất cả bọn chúng đã liên minh thành một khối, phối hợp hoạt động phá hoại trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, trong các hội văn học nghệ thuật, một số cơ quan văn hóa, trong giới đại học, v.v… Những kẻ nguy hiểm ấy đã lạm dụng lượng khoan hồng của cách mạng. Nhân dân ta, Đảng và Chính phủ ta hiểu rõ những lịch sử xấu xa của chúng, nhưng đã không muốn nhắc lại, để cho chúng có cơ hội tự cải tạo; chẳng những thế, đã hết lòng giúp đỡ cho chúng đi vào con đường cách mạng, đi tới tương lai. Nhưng chúng đã lợi dụng thái độ rất nhân đạo ấy để che đậy tội ác, và làm thêm tội ác.

Chúng đã lôi kéo một số văn nghệ sĩ lạc hậu vào con đường trụy lạc về thể chất và tinh thần. Vũ khí của chúng là: từ những phòng trà đến những bàn đèn thuốc phiện, từ những cái liếc cái cười đến những cái giường sa đọa, từ những tin đồn nhảm đến những luận điệu phản động, những sách báo chửi rủa chủ nghĩa xã hội và các đảng cộng sản, v.v...

Không phải ngẫu nhiên mà Đài Phát Thanh và báo chí của Mỹ-Diệm đã hết lời khen ngợi chúng từ khi báo Nhân Văn và các tập Giai Phẩm xuất hiện dưới chế độ ta, và trên báo Văn cũng như trên một số sách xuất bản và tái bản lại thấy trồi lên những tư tưởng và những con người "Nhân Văn".

"Trong kia Nhân vị, ngoài này Nhân văn". Người ta không thể không đặt vấn đề: vì sao "Nhân vị" ở miền Nam và "Nhân văn" ở miền Bắc lại "đồng khí tương cầu" đến như vậy.

Sự phẫn nộ của nhân dân, của mấy nghìn văn nghệ sĩ và cán bộ văn hóa yêu nước, trung thành với cách mạng, với chế độ dân chủ cộng hòa, đã cháy lên ngùn ngụt như một ngọn lửa chiếu thẳng vào mặt những kẻ phá hoại:

"Chớ gọi bóng tối là ánh sáng, cũng chớ gọi ánh sáng là bóng tối."

"Chớ gọi sói là cừu, cũng chớ gọi cừu là sói."

Cuối năm 1956, nói đến báo Nhân Văn và các tập Giai Phẩm, Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ: "Đó là những hạt giống xấu gieo trên miếng đất của những tư tưởng sai lầm." Bởi vậy, vấn đề không phải chỉ là vứt bỏ những hạt giống xấu, mà còn là dọn lại đất cho tốt.

Cùng lúc này, mỗi chúng ta lại nhớ lời khuyên ấm áp và sâu xa của Hồ Chủ tịch trong đêm bế mạc Đại Hội Văn Nghệ Toàn Quốc lần thứ hai: "Mong anh chị em hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, và luôn luôn giữ lấy tính khiêm tốn." Ngưng trích.

Già Hồ khuyên văn nghệ sĩ nên " khiêm tốn " nhưng chính ông ta lại không " khiêm tốn " một ly ông cụ nào cả. Anh Già lưu manh Số Dzách. Nhưng thôi, chửi Hồ chí Minh mãi tôi cũng thấy chán. Tôi để quí vị đọc, quí vị chửi.

Hoàng Cầm viết về Trần Dần:

Lần đầu tiên tôi vào thăm anh, ( ở nơi Trần Dần bị giam ), với một món quà nhỏ: Một túm nhãn tôi mua ngoài phố. Anh vồ lấy ăn ngấu nghiến rồi cười oang oang: "Thi đua với các cậu làm thơ nhé!".

Thấy tôi rơm rớm nước mắt, anh hạ thấp giọng:

"Đừng buồn cho mình. Mình cũng nhiều khuyết điểm lắm: có tự kiêu, có nóng nảy, có tự do vô kỷ luật thật. Nhưng không bao giờ không trung thành với Đảng, dù bị mắc tiếng oan, dù bị kỷ luật. Và mình tin những cái độc đoán của một vài cá nhân rồi đây sẽ không còn nữa. Đảng là một khối sáng suốt. Tương lai chúng mình, Đảng sẽ đảm bảo, dù bây giờ Đảng có thể chưa hiểu mình."

Sau khi học tập nghị quyết của Đại Hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, cái tin vui từ lòng tôi tự dưng toả ra: Trần Dần chắc sẽ được về! Quả nhiên, một buổi chiều sang hè anh đã về. Tin đó đến với tôi không đột ngột lắm, vì tôi tin chắc ở ánh sáng Đảng Cộng sản Liên Xô, tin ở chân lý mà Đảng ta nắm rất vững.

Anh đã về. Gặp anh, tôi không nói gì được. Vẻ mặt anh vẫn vui, nhưng có hằn thêm những nét khắc khổ. Da mặt xanh, người gầy gộc. Nói chưa được một câu, anh đã cười, vẫn giọng cười hồn nhiên, khoe với tôi bốn bài thơ anh làm trong lúc bị giam, và khoe rằng sở dĩ anh được về là nhờ có sự sáng suốt của Trung ương Đảng.

Tôi đọc kỹ bốn bài thơ đó, và nhìn anh, kinh ngạc. Tôi không thể tưởng được rằng trong hoàn cảnh bị giam đau đớn thế, anh lại có đủ bình tĩnh làm những bài thơ sáng sủa chan chứa lòng yêu đời, yêu Đảng như thế này. Tôi thấy quí và kính phục người bạn mà tôi cho là rất anh dũng. Tôi khoan khoái đọc to mấy đoạn thơ của anh, anh ngửa mặt lên, tôi chợt nhìn thấy ở cổ anh có một vết sẹo dài nằm ngang cuống họng, thịt mới liền, còn đỏ tươi.

Tôi hiểu cả, không hỏi thêm anh điều gì… Trước mắt tôi, Trần Dần là một người có sức mạnh chống chọi với tủi nhục, với thành kiến, cả đến những lời vu cáo đanh thép nhất cũng rụng dưới chân anh như cỏ héo, anh là người chí tình, tha thiết, đã có những giây phút bốc lên quá nóng nảy cục cằn, đã tự do bừa bãi nhưng không lúc nào ngừng hoạt động vì tiền đồ rực rỡ của văn nghệ. Trước mắt tôi Trần Dần là một con người dũng cảm của Đảng, có thủy, có chung, người tin yêu Đảng vô bờ bến, người căm ghét những cái thối nát đang làm hại đến uy tín của Đảng, của quân đội. Trước mắt tôi lúc viết bài này là một chuyện kéo bè để vu cáo trắng trợn, một vụ án văn chương vô cùng oan ức, một tài năng và một tâm hồn trong sạch bị giày xéo. Trước mắt tôi là lòng tin vào ánh sáng của Đảng. Ánh sáng đó sẽ soi rọi vào bất cứ chỗ nào đang cần bảo vệ giá trị con người. Ngưng trích.

Những năm 1987, 1988, sống mòn mỏi trong Nhà Tù Chí Hòa, qua những tờ báo của Đảng Cộng sản, như Tuổi Trẻ, Công An người tù được đọc trong tù, do người nhà của tù nhân gửi vào, tôi được biết những văn nghệ sĩ Nhân Văn Giai Phẩm, sau 30 năm bị hành tội, nay được bọn Cộng sản Hà Nội coi là không có tội, tôi nhớ đến những cái tên Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Văn Cao, Hữu Loan, Quang Dũng từng được chúng tôi, một số người viết trẻ ở Sài Gòn, nói đến với sự kính phục trong những năm 1958, 1960. Tôi nghĩ những người ấy vì Tự Do mà phải chịu khổ trong bao nhiêu năm, nay bọn Cộng Hà Nội bị bắt buộc phải nhận là họ đúng, họ đã làm những việc những văn nghệ sĩ chân chính phải làm, họ viết theo trái tim, theo lương tâm và họ đã chịu tù đày, cực khổ. Nay họ có quyền ngửng cao mặt nhìn đời, những thằng chửi bới, hạ nhục, hành hạ họ năm xưa nay gặp họ là phải cúi mặt xuống.

Tôi đã nghĩ như thế cho đến khi tôi đọc GHI của Trần Dần. Tôi đọc GHI khi tôi sống ở Kỳ Hoa Đất Trích. Qua những gì Trần Dần "ghi" lại trong GHI, tôi thấy những Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao không có "tư cách", không có " khí phách, can đảm " như tôi tưởng. Chẳng bao giờ họ được, hay họ dám, ngửng đầu, cao mặt nhìn đời. Vì khi gặp tai họa họ đã đầu hàng, nhận tội, họ đã tận tình tâng bốc Đảng, họ đã tố cáo nhau, đổ tội cho nhau, họ đã chửi nhau thật tàn tệ, họ đã quỵ lụy van xin Tố Hữu tha tội, xin nó cứu vớt, nó ban ơn, xin nó cho được sống. Tôi không trách những văn nghệ sĩ Nhân Văn Giai Phẩm việc họ đầu hàng, tôi thương xót họ. Và tôi thương hại tôi, trong năm mươi năm trời tôi cứ yên trí các ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Văn Cao tư cách lắm, đáng phục lắm. Cho đếùn lúc đọc GHI, tôi mới thấy tôi lầm.

Trần Dần, trong GHI, tỏ ra rất khinh bỉ Quốc Gia VNCH và người Quốc Gia VNCH. Hôm nay tôi trích ở đây một số những gì Trần Dần đã "ghi". Mời bạn đọc và tùy bạn nghĩ, tôi chán, tôi tởm:

GHI. Trg 301. Trích:

Quán đưa tôi xem một bản tin miền Nam. Đâu như do một anh bạn nào bên Văn Hóa cho mượn.

Bản tin nói xấu tình hình văn học miền Bắc. Luận điệu mốc rồi, vẫn chỉ vu là: miền Bắc thiếu tự do! Tôi bị cité, cùng với HCầm, Phan Khôi, Thụy An (!) Ngồi với cái cỗ ấy mới hôi chứ!

Đặc biệt có một bài riêng về PhQ. Miền Nam nó đưa cái bài chống quan liêu của PhQ, bóp méo xệch đi, thành những miền Bắc đói với quan liêu hại dân! Nó làm như quần chúng no ở miền Nam. Làm như quan liêu ở miền Nam không có. Ôi chao. Ở đó quan liêu là cả một chế độ, không ai còn nói đến nữa! Vì, c’est 1 mal incurable! Ở chế độ ấy, quan liêu là một sự tự nhiên, không cần phải bàn!  Ngưng trích.

Hai văn nghệ sĩ bị Trần Dần "ghi" nhiều lời tàn độc nhất trong GHI là Văn Cao và Hoàng Cầm. Trên những trang GHI, Văn Cao, Hoàng Cầm tỏ ra rất đê tiện, bệ rạc. Đây là vài đoạn Trần Dần "ghi" về "Tiên chỉ Văn Nghêï Bắc Hà XHCN" Văn Cao:

GHI. Trang 270 – 271. Trích:

Văn Cao

Trong lớp học, lúc bị đánh dữ, Nguyễn Sáng có bảo tôi là: Văn Cao nó buồn lắm, không khéo nó tự sát mất, hôm qua nó đã nói ra mồm như thế rồi.

Vậy Nguyễn Sáng thành thật lo lắng. Tôi hiểu chất Văn Cao, nên đáng lẽ phải lo, thì tôi lại chỉ cười thầm.

Sau lớp, anh chàng vẫn còn giữ cái thế "tiên chỉ" trong sự thất thế. Anh nhận định, chê trách người này, ban khen kẻ kia. Chẳng hạn TPhác thì được ban chữ "propre", Lê Đạt chữ "digne". Hoàng Cầm bị ghét, có lẫn khinh. Tôi bị tiên chỉ ghét, oán và căm nữa. Hơn thế, Văn Cao còn hách dịch, đi hạch tội cả Hoàng Cầm.

…Mặt khác, đối lãnh đạo, Văn Cao lại có cái sen khác. Anh tỏ ra mình tiến bộ, và anh mè nheo, dựa trên cái thế Tiến Quân Ca. Lê Đạt đưa lên hình ảnh: "đối Đảng, anh chàng như một con đĩ, vì Đảng chót lỡ khi xưa có quan hệ với anh, có con có cái rồi, nay anh chàng cứ dắt con đến mà ăn vạ Đảng!"

…Khi kiểm thảo anh nói: "Đảng khai trừ tôi, thì đối với cái Tiến Quân Ca của tôi thế nào?" TPhác nói: "Rất lạ, là nó cứ nói với mình, rất cynique rằng, nó xưa nay vẫn là người tiến bộ, theo Đảng! Kỳ thế cơ chứ, bao nhiêu lần pum, ăn uống, nó nói những gì, bây giờ nó làm như không có cả. Mà nó lại rất thành thực cơ chứ!" Văn Cao quên thực hay sao? ĐđHưng bĩu môi, sì một cái: "Quên! Nó thiếu probité thì có."

Đang lúc kiểm thảo ở cơ quan thì tiên chỉ đi pum. Tất nhiên là lãnh đạo phải biết! Một tối anh mò đến Tố Hữu, Tố Hữu hỏi:

-- Có còn chống đối không?

-- Thôi rồi. Văn Cao nói.

-- Nhưng pum thì vẫn còn chứ? Tố Hữu hỏi độp một cái. Khác gì một cái tát.

Văn Cao choáng người, cười xòa, thú nhận và xuê xoa:

-- Có một lần. Hì…

-- Đã mắc chưa?

-- Chưa..Hì..Buồn quá thì lại đi..hì..chứ chưa mắc..! Hì…

Văn Cao về, kể lại chuyện ấy, có vẻ khoe cái sự thân mật của mình với Đảng, đến cái độ ấy. Ngưng trích.

"Pum". Tiếng lóng để goi việc hút thuốc phiện, từ tiếng "phum: fumer" của Pháp.

TPh: Phan khôi: Phan Khôi, Tử Phác, NgSáng: Nguyễn Sáng, HCầm: Hoàng Cầm, VCao: Văn Cao, THữu: Tố Hữu, PCung: Phùng Cung, Pqúan: Phùng Quán, HLoan: Hữu Loan, NđT: Nguyễn đình Thi, LĐạt: Lê Đạt, ĐđHưng: Đặng đình Hưng

Đây là đoạn Trần Dần "ghi" về Văn Cao và Hoàng Cầm:

GHI. Trg 264-265. Trích:

Một cuộc hội đàm bỉ ổi

TPhác kể về V Cao và HCầm. Lắm chuyện lạ.

HCầm từ lớp về, đâm buồn, và hối là đã tố bạn. Anh ta lại đi pum, nhà người anh họ, nhưng theo anh ta nói vì "đến bất ngờ, họ kéo vào!" (Chú ý: bất ngờ mà lại bất ngờ những hai lần!)

Trong lớp, anh ta "tố" tợn, chắc tính từ nay về là "dựa hẳn" lãnh đạo. Còn bạn bè cũ phen này là đi toi cả rồi. Song trở về thì thấy khác! Sờ vào lãnh đạo cũng chưa thấy cái mấu nào mà víu cả! Mặt khác, VCao vẫn thấy "đình huỳnh"! Khả dĩ vẫn có thể là một cái tay vịn. Khổ thân cái kiếp anh chàng, suốt đời cứ quanh quẩn tìm cái cọc cho cái thân thể dây leo của mình. HCầm bèn tìm cách "trở về" với tiên chỉ. Cũng phải nói thêm rằng ít lâu nay, thái độ của PCung (thằng Đang nó bảo: đéo mẹ thằng HCầm, nó khai bố láo cả) hay của HLoan 2 lần chửi xỏ (thằng HCầm hèn nhát!), những cái đó làm cho HCầm "nghĩ ngợi", nhụt cả kết quả lớp học…Anh chàng một hôm viết thư cho VCao, đại ý nói muốn thanh minh về chuyện lớp học, song nhà VCao thì nguy hiểm, bèn mời VCao đến nhà mình.

VCao nhận được thư ấy, không biết nghĩ sao, bèn đi gặp NđThi, đem việc ấy ra báo cáo, và xin chỉ thị "xem có nên đi gặp HCầm hay không?"

Dĩ nhiên NđThi không thèm ngăn cản một cái việc chẳng có gì là nguy hiểm mà phải xin chỉ thị ấy!

VCao đến gặp HCầm, phố Lý Quốc Sư.

Một cuộc "hội đàm" bỉ ổi bắt đầu. HCầm khúm núm, nhận là mình dát, bị đánh quá, mụ đi như "một con đồng", họ hỏi đâu thì cứ phun ra tuồn tuột, không còn nghĩ ngợi gì cả nữa. Thế cho nên, khi về HCầm "không dám đi gặp anh em", sợ bị trách, ngượng mặt! Tóm lại, tức là sau khi đã thành khẩn thú tội trước Đảng trong lớp học, thì bây giờ HCầm lại "thành khẩn thú tội trước Tiên chỉ VCao".

VCao lên mặt hách. Anh hạch tội HCầm, chẳng hạn – pum thì có phải là chống đối đâu, sao lại khai? Anh lại bảo là HCầm tố điêu, để che giấu cái việc có "Đảng phái chính trị", đánh lạc lãnh đạo đi về hướng anh! HCầm thì nói hiện tượng, TDần thì nâng lên "nguyên tắc", đều là cái "âm mưu che đậy cái tổ chức chính trị ấy". Anh lại nói việc ấy anh đã báo cáo lãnh đạo.

Cuối cùng, VCao bảo thẳng vào mặt HCầm rằng tính mày hay mách lẻo thì nhớ cho kỹ nội dung buổi gặp hôm nay đấy, có mách thì mách cho đầy đủ.

Cuộc hội đàm bẩn thỉu ấy xong rồi, không biết VCao có về báo cáo lãnh đạo hay không?..Nhưng HCầm thì có; anh ta gặp NđThi, báo cáo ra sao không rõ, nhưng cũng có thể đoán được là anh ta chắc không báo cáo đúng về riêng cái phần của anh!

TPhác kết luận: Cả hai thằng đều như hai con đĩ rạc, đĩ rời cả. Bẩn hết chỗ nói!  Ngưng trích.

Các văn nghệ sĩ Nhân Văn Giai Phẩm Bắc Cộng gọi nhau là " con đĩ " dẻo quẹo, không chút ngượng mồm, không những chỉ " đĩ " thường mà là "đĩ rạc, đĩ rời". Và họ chửi "đéo mẹ nhau" ngon lành, ngọt sớt.

Hoàng Cầm bị Trần Dần chửi nặng nhất trong GHI. Nhưng Trần Dần cũng gục đầu nhận tội không khá gì hơn những gì y kể về Hoàng Cầm. Đây là đoạn Trần Dần " ghi" về chuyện bọn họ nhận tội:

GHI. Trang 257. Trích:

Anh nào anh nấy lăn vào viết. Lắm hình dung từ, lắm tiếng tự phê đao búa! Ví dụ LĐạt, có mấy câu mở đầu bài "mấy người tự tử" là câu "Nhân đọc báo Nhân Dân số 822," mà LĐạt lại tự phê là: "Đó là âm mưu tôi dùng Đảng để đánh Đảng"! Nghe mà khó tin thay!

H Cầm tự phê cũng gớm, đúng là " bác phó vữa", rất nhiều chữ nghĩa trang kim" lóng lánh. Nào: dán nhãn hiệu dân tộc, nào: thuốc độc tẩm đường, nào: bôi đen bọc giấy bóng kính.

Tôi cũng không kém. Bao nhiêu hình dung từ phản cách mạng, phản động, phản Đảng, phản bội, chống chế độ, xét lại, tờ-rốt-kít. Không còn thiếu chữ gì. Giặc-bút, viên đạn xét lại, mũi tên độc địa của chủ nghĩa cá nhân đồi trụy, chủ nghĩa vô chính phủ và đầu óc làm phản vv..Tôi sáng tác nhiều chữ nữa để mà miêu tả chân tướng mình, cho nó hết lòng một thể.

Chắc các đồng chí lãnh đạo đọc một loạt kiểm thảo của bọn tôi lần này thì phải bựt cười lắm đấy! "Trước kia thì nói nhẹ chúng cũng không nghe. Bây giờ thì chúng lại tự sỉ vả gấp triệu lần sự phê bình của lãnh đạo!"  Ngưng trích.

Như đã viết : tôi để quí vị đọc bài này có những nhận xét, những ý kiến của quí vị về những người thuộc cái gọi là Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội. Tôi đã viết về vụ NVGP mấy lần từ ngày tôi sang Kỳ Hoa, hôm nay tôi chỉ viết thêm vài ý nhỏ :

Tôi không hiểu tại sao Ông Già Tám Bó Lẻ Bốn Que Hoàng Cầm, đến năm nay, năm 2007, vẫn còn nói những lời ngô nghê, ngu ngốc về cái gọi là Đảng:  "Hơn nữa đây là lỗi do sự ấu trĩ của một số cá nhân của một thời, chứ không phải đường lối của Đảng, Nhà nước là như thế. Bệnh ấu trĩ là bệnh khĩ tránh khỏi ở một Đảng mới cầm quyền. Trên thế giới ở một số nước cũng vậy, làm sao mà tránh được. Không phải lỗi của Đảng mà cũng không phải là lỗi của Nhân Văn."

Những năm 1950, 1960, tôi vì không biết rõ, vì tôi kinh sợ trước hào quang huyền bí và sức mạnh khủng khiếp của cái gọi là "Đảng Cộng Sản" nên tôi không dám kết tội nó, tôi không dám cả nói gì về nó, nhưng nay đã là năm 2007 của Thế Kỷ 21. Đã 20 mùa lá rụng phụ nữ Nga ngồi xổm đái lên tượng Lenin, Stalin, Chủ Nghĩa Cộng Sản, Khoa Học cũng như Man Dzãï, đã bị Loài Người quẳng vào Hố Phân Lịch Sử, những tội ác ghê rợn của bọn đảng viên Đảng Cộng Quỉ bị phơi bầy, bọn đảng viên Cộng sản bị nhân dân thế giới ghê tởm như những con chó ghẻ, tôi ngạc nhiên khi thấy tại sao lại còn có người từng bị bọn Cộng chửi như chửi chó, coi rẻ hơn chó, mở mồm ca tụng Đảng, nói lời chạy tội cho Đảng. Không lẽ tác giả Bên Kia Sông Đuống, khi tuổi đời Tám Bó, vẫn không biết rằng "Đảng" là mấy thằng Đầu Xỏ nắm Đảng. Khi Stalin ra lệnh giết người Nga," Đảng" là Stalin, khi Tố Hữu nhục mạ bà Thụy An, ông Phan Khôi, "Đảng" là Tố Hữu. Nếu chỉ hai, ba thằng cà chớn khống chế được "Đảng", dùng "Đảng" giết người, thì đó là cái "Đảng khốn nạn nhất" trong lịch sử Đảng Phái của Loài Người.

Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Tử Phác, Văn Cao, Quang Dũng phải nhận tội, phải van xin Tố Hữu tha tội để còn được có chân trong Hội Nhà Văn, để có lương, được cấp gạo, để vợ con họ không bị chết đói ở giữa lòng Hà Nội. Nhưng không phải tất cả những văn nghệ sĩ Nhân Văn Giai Phẩm đều quì gối, cúi đầu trước Tố Hữu. Hữu Loan không cần sống bám ở Hà Nội, bỏ về quê ông ở Thanh Hóa, bà Thụy An, các ông Nguyễn hữu Đang, Phùng Quán, Phùng Cung đi tù không một lời xin khoan hồng, không cả một lời than van, ông Phan Khôi ôm hận xuống mồ.

Nguyễn Công Hoan, bám đít Tố Hữu, làm thơ chửi ông Phan Khôi:

Lô-gíc trước cam làm kiếp chó
Nhân Văn nay lại hít gì voi!

Năm 1956 ông Phan Khôi là Đại Biểu Nhà Văn Bắc Cộng sang Bắc Kinh dự Lễ Kỷ Niệm Văn Hào Lỗ Tấn. Nếu Lỗ Tấn còn sống dưới thời Mao Trạch Đông chắc hơn bắp rang là ông bị Mao bỏ tù vì tội phản động, nếu Các Mác mà sống dưới thời Stalin rất có thể ông bị Sit cho đi tù mút chỉ vì " tội hiểu sai Chủ Nghĩa Mác."

Khi đến viếng mộ ông Lê Chất, một công thần triều Vua Gia Long, ông Phan Khôi làm bài thơ trong có hai câu:

Ấy dũng, ấy trung là thế thế
Mà công, mà tội ở mô mô!

Khi biết di cốt ông Phan Khôi bị mất, cảm khái tôi làm mấy câu Viếng Ông:

Ấy bút, ấy văn là thế thế
Mà xương, mà thịt ở mô mô!

Năm 1945 ông Phan ra Hà Nội, rồi ông lên Việt Bắc, năm 1954 ông trở về Hà Nội, ông qua đời ở Hà Nội, thân xác ông mất tích trong đất Bắc. Từ 1925 đến 1940 ông Phan nhiều lần ra Bắc, vào Nam, yên bình trở về sống ở làng quê ông, đến năm 1945 ông đi theo Việt Minh và ông không trở về quê ông nữa.

Một đi vĩnh biệt Sông Hàn
Có về đâu nữa, Điện Bàn ngàn năm!

2/2007


 

LÍNH VIẾT THUÊ

 

Tháng Hai 2007, Hà Nội làm cái trò gọi là “ Tặng Giải Thưởng Văn Học ” cho các “nhà văn” Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm,  vì các tác phẩm “có giá trị cao về văn học nghệ thuật, ca ngợi đất nước, nhân dân, góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Họ gọi Giải này là Giải Nhà Nước, tiền thưởng của Giải là 80 triệu đồng tiền Hồ.

Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm không phải là nhà văn, bốn người là nhà thơ, họ làm thơ nhiều hơn họ viết tiểu thuyết, cả bốn người từng bị bọn họ, cầm đầu là Tố Hữu, kết “ tội phản động, chống sự lãnh đạo của Đảng, đòi văn nghệ không phục vụ Đảng, văn nghệ sĩ phải được tự do sáng tác.” Trong bốn người chỉ có Phùng Quán bị đi tù khổ sai, ba người kia chỉ bị chế độ lên án, chửi rủa, đuổi ra khỏi cái gọi là Hội Nhà Văn, không cho viết, không đăng bài viết, không cho xuất bản tác phẩm, bỏ đói và bỏ cho chết đói ở Hà Nội.

Chiến dịch gọi là Xử Tội Bọn Văn Nghệ Sĩ Nhân Văn Giai Phẩm diễn ra ở Hà Nội năm 1958 – năm nay, 2007.  50 năm sau, Hà Nội tặng giải cho 4 Người Làm Thơ bị bọn Cộng cầm quyền năm 1958 kết tội phản động, phản Đảng, phản nhân dân. Làm như thế chẳng khác gì bọn Cộng Hà Nội 2007 đái lên mặt bọn Cộng Hà Nội năm 1958. Nhiều tên theo đít Tố Hữu, há mõm sủa những văn nghệ sĩ Nhân Văn Giai Phẩm, nay còn sống.

Năm 1958 bọn Cộng Hà Nội chửi rủa những người đó, năm 2007 cũng bọn Cộng Hà Nội ca tụng những người bị chửi rủa đó, với những lời bốc họ là những văn nghệ sĩ có những  tác phẩm “có giá trị cao về văn học nghệ thuật, ca ngợi đất nước, nhân dân, góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.”

Có 32 tác giả đã qua đời được họ truy tặng, trong số có 5 văn nghệ sĩ sáng tác, có danh trước năm 1945: Thâm Tâm, Yến Lan, Vũ Bằng, Hồ Dzếnh, Trần Huyền Trân. Không thấy nói gì đến những Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Hoài Thanh, Quang Dũng, Nguyễn Huy Tưởng, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ, Nguyễn Bính..vv..

            Tôi thấy  không có gì đáng nói về cái trò tôi gọi là “ Nhổ Liếm, Liếm Nhổ ”. Nay chúng chửi người ta, mai chúng tâng bốc người ta. Tôi từng thấy Phùng Quán được gọi là “ người đảng viên ưu tú, người con yêu của Đảng,” rồi cũng Phùng Quán bị tên Chế Lan Viên lôi cả ông bố ra chửi:

_ Bố nó làm mật thám cho Tây nên không ai thấy lạ khi nó tráo trở như vậy.

Chỉ nhân dịp chúng diễn cái trò “ nhổ, liếm ” năm nay, năm 2007, tôi mời quí bạn đọc mấy bài thơ gọi là Thơ Chân Dung Văn Thi Sĩ của Xuân Sách, một người làm thơ ở Hà Nội. Qua mấy lời thơ này quí vị có thể thấy bộ mặt thật, con người thật – bỉ ổi, hèn mạt, đáng thương – của những văn nghệ sĩ đi theo Cộng Sản.

 THƠ CHÂN DUNG của XUÂN SÁCH về:

Nguyễn Tuân

Vang bóng một thời đâu dễ quên

Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên

Chén rượu tình rừng cay đắng lắm

Tờ hoa lại  trút lệ ưu phiền.

Xuân Diệu

Hai đợt sóng dâng một khối hồng

Không làm trôi được chút phấn thông.

Chao ơi ngói mới nhà không mới

Riêng còn chẳng có, có gì chung.

Huy Cận

Các vị La Hán chùa Tây Phương

Các vị già quá, tôi thì béo

Năm xưa tôi hát Vũ Trụ Ca

Bây giờ tôi hát đất nở hoa

Tôi hát chiến tranh như trẩy hội

Đừng nên xấu hổ khi nói dối

Trời mỗi ngày lại sáng, có sao đâu.

Nguyễn Bính

Hai lần Lỡ bước sang ngang

Thương con bướm đậu trên dàn mồng tơi

Trăm Hoa thân rã, cánh rời

Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.

Phùng Quán

Hồn đã vượt Côn Đảo

Thân xác còn trong lao

Bởi nghe Lời Mẹ dặn

Nên suốt đời lao đao.

Tố Hữu

Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng

Mắt trông về tám hướng trời xa

Chân dép lốp bay vào vũ trụ

Khi trở về ta lại là ta

 

Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát

Trông về Việt Bắc tít mù mây

Nhà càng lộng gió, thơ càng nhạt

Máu ở chiến trường, hoa ở đây.

Hoàng Cầm

Em ơi, buồn làm chi!

Em không buồn sao được.

Quan họ đã vào hợp tác

Đông Hồ gà lợn nuôi chung.

Bên kia Sông Đuống em trông

Còn đâu thấy Lá Diêu Bông, hỡi chàng!

Trần Dần

Người người lớp lớp

                            xông ra trận

Cờ đỏ

                        mưa sa

                                    suốt dặm dài

Mở đột phá khẩu

                                    Tiến lên

                                                Nhất định thắng

Lô cốt mấy tầng

                                    đè nát vai

Dẫu sông núi,

 cỏ cây làm chứng

Hồn vẫn treo trên

                                                Vọng Hải Đài. 

Tô Hoài

Dế mèn lưu lạc mười năm

Để O Chuột phải ôm cầm thuyền ai

Miền Tây sen đã tàn phai

Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.

Tháng Giêng 2007, Thi sĩ Nguyễn Đức Liêm ấn hành thi phẩm « Mái Tóc Điểm Sương «. Tôi xin phép Thi sĩ cho tôi trích những câu Thơ ông viết về một số văn nghệ sĩ ở Hà Nội.

Trích «  Mái Tóc Điểm Sương ». Thơ Nguyễn Đức Liêm.

* Bỗng mê cãi giọng Quảng Nôm

Ngũ Hành Sơn nổi gió nồm Phan Khôi.

* Biết thân biết sợ lõi đời
Mưu sinh thoát hiểm phùng thới Nguyễn Tuân.

* Bàn tay Xuân Diệu đi tuần

Trên lưng Huy Câän phân vân hay cù.

* Chúng chê Tú Mỡ vụng tu

Sao không phản ánh đòn thù “anh Tam”.

* Tiến sang tây quát lên vang

Ngậm tăm Quang Dũng phi tang đôi bờ

* Hữu Loan trợn mắt ngu ngơ

Đẩy xe ba gác treo cờ hoa sim

* Sống nhồi tim chết đứng tim

Cục u lịch sử gọng kìm trung ương

* “Le mal du siècle” khẩn trương

Liên danh Đức Thảo Mạnh Tường cân phân

* Phủi tay công quả nhân dân

Người người lớp lớp Trần Dần truân chiên

* Bõ công o chuột cửa quyền

Nghĩa Đô lên giọng Nguyễn Sen Tô Hoài

* «  Đàn anh «  Tố Hữu đăng cai

Trăm năm trong cõi quan tài Stalin

* Điêu tàn biến Chế Lan Viên

Trường thơ loạn đỏ máu miền Chiêm nương

* Nam Cao viết lại điển chương

Vượn ơi mày chỉ đoạn trường theo tao.

* Vang lừng trên sóng Văn Cao

Thoái âm ba úa tiến đào nguyên tươi

* Hoàng Cầm kiêm lá lôi thôi

Diêu bông đối đãi cung trời làng Sen

* Bóng Lê Đạt chữ mon men

Trường ca bác chú bõ bèn gì chăng

* Mặc cho họ mất thăng bằng

Nguyễn Hữu Đang đứng thẳng băng trời trồng

* Nguyễn Huy Thiệp đục hơn trong

Hay ho bắt tẩy con mòng phàm phu

* Đánh văn bạch thủ chưa ù

Hẫng tay nhục thể Dương Thu Hương sầu

* Cầm thơ nẩy mực muôn mầu

Trắng tinh Phùng Quán niệm câu đen tuyền

* Hột cơm tù đến ho hen

Slogans Nguyễn Chí Thiện nhen nhúm bừng

* Ngựa đua ngã ngựa lăn đùng

Già không nên nết Phùng Cung truy bài

* Dám thưa quí vị độc tài

Ngồi ôm quá khứ vị lai đến giờ.

                                          Ngưng trích

Người dân Hà Nội, về chính trị thù nhất là Lê Duẩn, về văn nghệ, họ thù và khinh nhất Tố Hữu. Dưới đây là một số nhỏ những bài thơ người Hà Nội làm chửi Tố Hữu:

 

* Từ ấy nước tôi tràn lũ lụt
Màn trời, chiếu nước, khắp muôn nơi
Làng tôi là một đồi hoang hoá
Hết sạch hương và bặt tiếng chim ca ...

*Từ ấy trong tôi bừng chính trị
Một trời mưu kế cháy trong tim
Hồn tôi là một hầm giam giữ
Máu người dân và xác các nhà văn

* Tôi đã là cha của mọi thằng
Là anh của một lũ háo danh
Là em của bọn người cơ hội
Không lương tâm, lừa dối mị dân

* Tôi quyết trèo lên cổ giống nòi
Nhân Văn Giai Phẩm đánh không thôi
Từ :Đang, Cao ,Thăng, tới Cầm, Tuân, Bão...*
Kìm kẹp tang thương trọn kiếp người

* Tôi buộc người dân sống đoạ đày
Để tiền trượt giá, có như không
Để người dân sống trong cùng khổ
Không áo cơm, cù bất cù bơ ...

*Xác Tố Hữu đã vô quan tài
Bao người theo tiễn đưa lên đài...
Ai cũng khen thơ  thật là hay...

Thịt với da tim óc dính liền
(Bao đời nay có ai như vầy )
Ôi quái thai thời đại, thật là siêu ...

 Tố Hữu chết, so sánh với cái chết của Trần Độ, cựu chiến binh Hoàng Giáp viết:

Người đời vẫn gọi ông
Là tướng công Trần Độ
Người đời lại gọi hắn
Là “cho” - thêm sắc vào* ( cho+sắc: chó)
Lễ tang ông không mời
Dân vẫn ào ạt tới
Lễ tang hắn cử người
Mà vắng ngơ vắng ngắt

Tài liệu ông, chúng bắt
Dân phát tận mây xanh
Tài liệu hắn, chúng đọc
Dân sửa lại chức danh...

Cay đắng nhất là bài thơ cuối cùng Tố Hữu gửi lại cho đời, bị cánh nhà thơ, nhà báo Hà Nội sửa lại bằng cách thêm một dấu “sắc” vào hai chữ “cho”;

Thơ Tố Hữu:

Xin gửi bạn đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro,
Thơ gởi cuộc đời, tro bón đất
Sống là CHO và chết cũng là CHO.

Thơ Nhại:
Xin gửi bạn đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro,
Thơ gởi cuộc đời, tro bón đất
Sống là CHÓ và chết cũng là CHÓ (!)
Ngưng trích


Tôi được biết hai ông Vũ Bằng, Hồ Dzếnh, hai ông được bọn Cộng Hà Nội “vinh danh”. Bức hình của Ô. Vũ Bằng quí vị thấy trên trang báo này được chụp khoảng năm 1950 ở Hà Nội, thời gian Nhà văn trẻ tuổi, đẹp trai. Tôi từng viết “ Nhà văn Vũ Bằng không phải là Việt Cộng Nằm Vùng ở Sài Gòn.” Ông bị bọn Cộng Hà Nội “ nhận vơ “ ông là “ người” của chúng. Năm 1954, Ô. Vũ Bằng mắc nợ một số tiền khá lớn, người chủ nợ là người quen, đối xử với ông quá tốt,  di cư vào Nam, ô. Vũ Bằng thấy ông phải vào Sài Gòn làm việc lấy tiền để trả nợ. Chắc năm ấy, như nhiều người, ông Vũ cho rằng chỉ 2 năm sau là có Tổng Tuyển Cử, đất nước lại liền một giải từ An Nam Quan cho đến Mũi Cà Mâu, nên ông bỏ hết vợ con ông lại Hà Nội, ông một mình vào Sài Gòn.  Ở Hà Nội vợ con ông có tòa nhà lớn. Vì tòa nhà này mà ông mắc nợ. Khi để vợ con ở lại, ông Vũ cho rằng vợ con ông sẽ là chủ tòa nhà ấy, nhưng ông lầm, bọn Cộng sản vào Hà Nội chúng lấy làm của công tất cả những tòa nhà lớn mà có ít người ở, chúng cho người vào ở chung trong những tòa nhà này.

Những ngày như lá, tháng như mây..Ở Sài Gòn, ông Vũ lấy vợ, cho ra đời năm, bẩy anh chị nhô. Hai mươi năm sau, bọn Nón Cối Dép Râu Lính Cái Đít To Hơn Cái Thúng lểnh mểnh khiêng ảnh Già Hồ vào Sài Gòn, bà Quỳ, bà vợ bị bỏ lại, ở Hà Nội, đã qua đời, một anh con của ông Vũ là bộ đội, tìm đến nhà ông Vũ. Anh con bộ đội Cụ Hồ gây sự với vợ con ông Vũ làm ông rất bực mình. Ông không về thăm Hà Nội, dù chỉ một lần. Ông là một trong những người được “ Bác Hồ làm cho sáng mắt, sáng lòng khi Bác dzô Sài Gòn”. Tôi mến ông Vũ vì văn tài của ông, tôi thương ông nhưng tôi thấy ông bị đắng cay mà không còn viết được, không cả than thở được, cũng là đáng lắm: Trong nhiều văn phẩm của ông, đặc biệt là trong “ Thương Nhớ Mười Hai, 40 Năm Nói Láo” có nhiều đoạn ông đả kích chế độ Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, và ca tụng ngầm bọn Bắc Cộng.

Một ông văn nghệ Sài Gòn nữa bị bọn Cộng Chồn “nhận vơ” là “ người “ của chúng là ông Thượng Sĩ Nguyễn Đức Long. Ông Thượng Sĩ viết báo, có danh, từ những năm 1950 ở Hà Nội. Ông viết nhiều bài phê bình chỉ ra những cái dở, cái sai, cái tồi trong những tác phẩm của Nguyễn Tuân. Từ năm 1960 ông viết ít, các văn nghệ sĩ Sài Gòn vẫn kính mến ông, coi ông là đàn anh. Tôi gặp ông lần cuối khoảng năm 1981, 1982, ông buồn, ông nói:

 

- Tôi biết tôi sắp đi rồi. Tôi chỉ mong trước khi tôi chết, tôi được sờ tay lên cái xác chết của thằng khốn nạn này.

Thằng khốn nạn “ Nhà Phê Bình Thượng Sĩ nói đây là “ Thằng Việt Cộng.

 

Năm 2000, sống ở Kỳ Hoa, tôi nghe nói trong giới văn nghệ sĩ Sài Gòn – còn ít, nhưng còn ít vẫn là còn – có tin đồn Thượng Sĩ Nguyễn Đức Long là “ Việt Cộng nằm vùng,” tôi hỏi về Sài Gòn và được biết trong giới làm báo, làm bung, làm bổ Sài Gòn có anh cà chớn Nguyễn Ngọc Lương, biệt danh là Lương Thịt Chó, một anh vô tài, bất tướng, vô duyên, dính trấu bọn Việt Cộng sao đó nên bị Cảnh Sát Quốc Gia bắt, đi tù mấy niên. Sau 1975  Nguyễn Ngọc Lương bị VC bỏ rơi nên đói dzài, đói dzẹt. Không biết tại sao Nguyễn Ngọc Lương Thịt Chó lại cấp cho ông Thượng Sĩ cái giấy chứng nhận ông là “ cảm tình viên của Cách Mạng, từng giúp đỡ cách mạng”, “ Cách mạng” Lương Thịt Chó nói đây chắc là cá nhân y. Có thể trước 1975 ông Thượng Sĩ có chi cho Lương Thịt Chó Cách Mạng vài khoản tiền còm. Và thế là ông Thượng Sĩ bị mang tiếng là “ Việt Cộng nằm vùng.” Có thể vì cái oan ngất trời này mà ông uất lên, ít lâu sau khi bị nghi ngờ ông Thượng Sĩ qua đời. Nói rõ là làng báo Sài Gòn Xưa có 2 Nguyễn Ngọc Lương, một là Lương Thịt Chó Cầ Chớn được nói ở đy, Nguyễn Ngọc Lương thứ hai là người đàng hoàng, nhiếp ảnh viên, cung cấp hình ảnh chiến trường cho các báo Mỹ, nhà ở Ngã Tư Bẩy Hiền.

 

Nguyễn Ngọc Lương Thịt Chó, nghe nói,  cũng đã qua đời.


Tôi nghe Thi sĩ Đinh Hùng kể chuyện những năm 1945, 1946, ở Hà Nội, ông Hồ Dzếnh tỏ ra rất thân Cộng, ông viết nhiều bài ca tụng Hồ chí Minh, nhưng bọn Việt Minh cứ lờ đi, không để ý gì đến ông. Cùng thời đó, cũng theo lời kể của Thi sĩ Đinh Hùng, nhà văn Ngọc Giao yêu một phụ nữ tên là Ngọc, nhưng người đẹp không đáp ứng tình yêu của ông Ngọc Giao. Các văn nghệ sĩ Hà Nội có câu đối:

Hồ Dzính dzính Hồ, Hồ chẳng dzính

Ngọc Giao giao Ngọc, Ngọc không giao.

 

Khoảng năm 1950 ông Hồ Dzếnh vào Sài Gòn, làm trong tòa soạn Nhật báo Thần Chung. Sau Hiệp Định Geneve, ông bỏ Sài Gòn để trở về Hà Nội. Khi Việt Minh đã vào Hà Nội nhưng Hải Phòng vẫn còn chính quyền Quốc Gia, tôi từ Sài Gòn lên phi cơ bay ra Hải Phòng để về thăm Hà Nội. Vài người gửi tôi mấy bức thư tôi mang ra Hà Nội đưa tay cho ông Hồ Dzếnh. Buổi sáng hôm ấy, khoảng 9 giờ tôi đến Tiệm Sách Bình Minh ở Phố Huế. Bà chủ tiệm chỉ cho tôi thấy ông Hồ Dzếnh vừa đi ra đường. Tôi chạy theo ông. Ông bận áo nỉ đen, đội mũ cát-két kiểu Trung Cộng. Tôi nói tôi vừa từ Sài Gòn ra, tôi đưa ông mấy lá thư. Ông cám ơn và nói giờ này ông đến Ga Hàng Cỏ để lên đoàn tầu đưa văn nghệ sĩ đi “tham quan” Đường Xe Lửa Hà Nội-Lạng Sơn vừa mở lại sau nhiều năm bị cắt đứt vì chiến tranh.

 

Đấy là lần cuối tôi gặp ông Hồ Dzếnh. Dòng thời gian cứ thế trôi đi..Hai mươi năm sau, cháu tôi, dậy học ở Hà Nội, vào Sài Gòn, kể chuyện:

- Bạn cháu là nhân viên tòa báo. Mỗi tháng nó phải viết một số bài, đăng hay không nó không cần biết, nó có tiền, nó mua bài người khác viết để nộp cho cơ quan. Tối hôm ấy cháu đang ngồi nói chuyện với nó trong nhà thì có ông già đến. Ông già tóc bạc trắng. Nó ra cửa tiếp. Ông già đưa cho nó tập giấy, nó lấy tiền dưa cho ông già. Ông già đi, bạn cháu hỏi cháu:

- Mày biết ai đấy không?

Rồi nó nói:

- Hồ Dzếnh. Lính Viết Thuê của tao đấy.

Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện nói:

- Chúng nó khinh Hồ Dzếnh, chúng nó không thèm bắt!

Bài thơ Mầu Cây Trong Khói của Hồ Dzếnh, được Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước phổ nhạc, lấy tên là Chiều, là bài thơ tuyệt nhất về Thuốc Lá và Khói Thuốc Lá.

Mầu Cây Trong Khói

Trên đường về nhớ đầy..

Chiều chậm đưa chân ngày,

Tiếng buồn vang trong mây,

Chim rừng quên cất cánh

Gió say tình ngây ngây

Có phải sầu vạn cổ

Chất trong hồn chiều nay ?

 

Tôi là người lữ khách

Mầu chiều khó làm khuây

Ngỡ lòng mình là Rừng

Ngỡ hồn mình là Mây

Nhớ nhà châm điếu thuốc

Khói xanh bay lên cây.

 


Tội nghiệp Hồ Sính Sáng, ông khôngcung trầm nhưng ông tưởng bở, ông tưởng bọn Cộng chúng nó hay, chúng nó tốt, chúng nó đúng nên ông đem thân về với chúng nó. Hai mươi năm trời sống ở Hà Nội ông không làm được một bài nào có thể tạm gọi là Thơ. Nếu trong 20 năm ấy ông sống ở Sài Gòn Tự Do chắc gì Thơ ông đã kém Thơ những Thi sĩ cùng thời với ông như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng. Tôi cũng tiếc cho ông Nguyễn Bính như tôi tiếc cho ông Hồ Dzếnh.


Những năm 1952, 1953, có người thiếu nữ ghi trong Nhật Ký của Nàng 4 câu Thơ Hồ Dzếnh:

Tôi vui lòng sống trong im

Hồn theo cánh gió, lời chim tới Người.

Yêu là khó nói cho suôi

Bởi ai hiểu được sao trời lại xanh.


 

CHÍNH TRỊ GIA SỌT RÁC
NHÀ HIỆP SĨ VĨ ĐẠI

Những năm 1960  ở Xứ Bắc Việt Nam có hai người làm Thơ xuất chúng: NGUYỄN CHÍ THIỆN và PHÙNG QUÁN, hai Thi Sĩ cùng tuổi, cùng thời, cùng làm Thơ hay, cùng bị bọn Cộng Sản Ác Ôân thù hận, hành hạ, muốn giết, bỏ tù trong nhiều năm.

Hai Nhà Thơ có nhiều chuyện giống nhau trong Đời, có nhiều điểm khác nhau trong THƠ. Người bốc Hồ chí Minh là “Nhà Hiệp Sĩ Vĩ Đại” của dân tộc, Người chửi Hồ chí Minh là “Chính Trị Gia Sọt Rác.”
 Mời quí vị đọc Thơ của hai Thi sĩ và có những nhận định của quí vị, tôi trích mấy bài Thơ của hai ông ở đây, tôi sẽ chỉ viết thật ít ý kiến của tôi về hai ông. 

Phùng Quán.
Chân trời Cộng sản
Tuổi thanh niên.
Các anh, các chị ơi
Chân trời tôi tới nơi
Là chân trời Cộng sản
Ước vọng của loài người.


Nguyễn Chí Thiện
Sẽ Có Một Ngày
Sẽ có một ngày con người hôm nay
Vất súng, vất cùm, vất cờ, vất Đảng
Đòi lại khăn tang, quay ngang vòng nạng
Oan khiên !
Về với miếu đường, mồ mả, gia tiên
Mấy chục năm trời bức bách lãng quên
Bao hận thù độc địa dấy lên
Theo hương khói êm tan, tan về cao rộng
Tất cả bị lùa qua cơn ác mộng
Kẻ lọc lừa, kẻ bạo lực xô chân
Sống sót về đây an nhờ phúc phận
Trong buổi đoàn viên huynh đệ tương thân
Đứng bên nhau trên mất mát quây quần
Kẻ bùi ngùi hối hận
Kẻ bồi hồi kính cẩn
Đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên: Tã trắng thắng Cờ hồng!
Tiếng sáo mục đồng êm ả
Tình quê tha thiết ngân nga
Thay tiếng tiến quân ca
Và quốc tế ca
Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la.

Phùng Quán
Người Hiệp Sĩ Vĩ Đại Của Nhân dân

..Ba Đình nắng thu vàng rực rỡ, một biển người vừa bước tù đêm dài trăm năm nô lệ ra bình minh Độc Lập Tự Do, cờ hoa trong tay và câu hát trên môi.. Người Hiệp Sĩ Vĩ Đại của nhân dân cùng khổ và hai triệu người chết đói, bước vào tuổi năm mươi lăm, râu đen, mắt sáng, lễ phục kaki..đứng trên lễ đài, mở đầu bản Tuyên Ngôn Độc Lập bất hủ: “ Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng..”

Nguyễn Chí Thiện.
Chính Trị Gia Sọt Rác.

Hôm Nay 19 Tháng 5
Tôi nằm
Toan làm thơ chửi Bác
Vần thơ mới vừa phang phác
Thì tôi thôi
Tôi nghĩ Bác chính trị gia sọt rác
Không đáng để tôi
Đổ mồ hôi
Làm thơ
Dù là thơ chửi Bác
Đến thằng Mác
Tổ sư Bác
Cũng chưa được tôi nguyệch ngoặc vai câu
Thôi hơi đâu
Mặc thây bọn văn sĩ cô đầu
Vuốt râu, soa đầu, mơn trớn Bác
Thế rồi tôi đi làm việc khác
Kệ cha Bác.

Phùng Quán
Vì thắng lợi cuối cùng của Đảng.

Dạo ấy mình viết thâu đêm. Viết tiểu thuyết, làm thơ, viết trường ca..hăng lắm. Các phòng bên cạnh thì tám, chín giờ tối đã tắt đèn, đi ngủ. Một hôm mình viết mấy câu thơ dán trước cửa phòng:
Đêm đã khuya. Các phòng đều ngủ lịm
Riêng phòng tôi vẫn ngời ngợi ánh đèn
Các vì sao ngơ ngác hỏi trời đêm:
- Ai trong đó?
- Một người Cộng sản.
Vì thắng lợi cuối cùng của Đảng
Đèn sáng thâu đêm, viết sách, làm thơ.

Nguyễn Chí Thiện
Đảng
* Đảng cực kỳ bất nhân
Dân cam đành yên phận
Những từ: Dân Chủ, Nhân Dân
Tự Do, Hạnh Phúc ..vân vân
Những từ Đảng đã bôi bẩn
Nghe lắm chỉ càng căm giận,
* Đảng sát nhân
Bắt nhân dân
Phải ngợi ca
 Là ân nhân
Đảng coi dân
Như hòn phân
Bón chế độ.
* Đảng đã cho tôi sáng mắt, sáng lòng
Trước như trẻ thơ tôi nào biết được
Cộng sản là quân bất nhân tàn ngược
Thắt cổ dân đen đủ các loại tròng.
* “Đảng ta là đạo đức”
 Bác Hồ nói đúng thực!
Búa đanh nện vào ngực
Bắt làm đủ định mức
Người thời hộc máu tươi
Chết sau vài hôm trời
Người đau thành ho lao
Sống cũng chẳng là bao
Nhưng phải vững cao trào
Thi đua trong cải tạo
Đảng ta rất nhân đạo.
Bác Hồ không nói láo.

Phùng Quán
Trường Ca Võ Thị Sáu.
Trích:
Xa xa vọng vào tai
Tiếng chim rừng chiêm chiếp
Aùnh sáng hiện lờ mờ
Lọt vào ngục đá xám
Aùnh sáng báo đến giờ
Quân thù đưa đi bắn.
.. .. ..
Sáu nghiêng đầu chải mái tóc rối tung
Má trinh nữ bỗng ướt đầm lệ nóng.
.. .. ..
Sáu xuống xe đi giữa hai hàng súng
Tiến thẳng ra đứng trước cọc hành hình.
Mắt sáng át lưỡi lê và thép súng
Chúa Đảo Giắc-ti chỉ huy cuộc hành quyết
Hỏi : “ Muốn gì trước khi chết?”
- Tôi muốn nói với đồng bào
Mím môi nuốt nghẹn ngào
Sáu nói từng lời rắn rỏi:
- Chúng nó giết tôi năm nay mười bẩy tuổi
Nghĩ đến Tổ quốc tôi không sợ kẻ thù.
Nhất định có ngày bộ đội của Bác Hồ
Sẽ đến giải thoát chúng ta khỏi lao tù, ngục tối.
Cha đạo đến đọc kinh, rửa tội
Cho ngày mai con được ở Thiên Đường.
Sáu gạt đi và bảo rằng:’
- Tôi không làm gì có tội.
Rồi chỉ đao phủ vây quanh như hổ đói:
- Chính bọn kia mới có tội tầy trời!
Ăn gan, uống tủy, hút máu người
Máu chúng tôi ngập cầu Ma Thiên Lãnh!
Xác chúng tôi chất đầy ngục đá lạnh
Xương nối nhau phơi trắng rợn Hàng Dương!
Chính bọn chúng mới tội ác vô cùng
Chúng nó chết đời đời ở địa ngục!
Chúa đảo thét: - Bịt mắt!
Sáu ngửng cao đầu: - Tôi không cần bịt mắt!
Chúa đảo xô đến giật mái tóc
Phủ trùm lên đôi mắt Sáu long lanh
Ôi đôi mắt, bọn đao phủ nhìn vào thấy sợ!
Sáu hất mái đầu tóc xõa bay lên.. ..
Giọng cao vúr nói với bầy đao phủ:
- Bắn tao đi!
Tao mở to mắt để nhìn đạn chúng mày!
Bắn tao đi!
Trán tao, ngực tao đây!
  Bầy đao phủ rùng mình run tay súng.

Nguyễn Chí Thiện
Tử Hình.

Tòa tuyên án tử hình
Là cấm gặp gia đình.
Ngay cả ngày hành hình
Gia đình cũng không biết!
Những người mang án chết
Là xà-lim cùm miết
Họ ăn uống cũng hệt
Như những tù tầm thường
Cơm nước muối thảm thương!
Sớm hôm đi pháp trường
Phải xốc nách dìu ra
Cùm lâu bước muốn ngã
Ba bốn điếu thuốc lá
Một ca con nươcù trà
Hai bánh ngọt bày ra
Tiêu chuẩn trước khi chết
Phần nhiều bỏ lại hết
Họ ngồi trong xe hòm
Mắt bịt vải đen ngòm
Tay khóa quặt ra sau
Xe băng băng rất mau
Chở họ tới nơi bắn
Một cục giẻ đã sẵn
Thường thường là giẻ bẩn
Được tọng vào tận họng
Bằng que thông nòng súng
( Phòng chửi bới lung tung.)
Đôi khi lợi bị thương
Một dòng máu ứa ra
Dây thừng được mang ra
Những người ốm, người già
Bị trói ghì cật lực
Trói đã đủ chết thực
Bắn chỉ là thủ tục!
Bản án đọc kết thúc
Đội bắn bắn lập tức
Sáu viên đạn vào ngực
Dây thừng được chặt đứt
Xác chết liền đổ lăn
Tên đội trưởng đội bắn
Tay lăm lăm súng ngắn
Mũi giày đá vào mặt
Lật hất phía thái dương
Bắn một phát thông thường
Gọi là phát nhân đạo!
Pháp y liền bước vào
Khám thi thể qua loa
Đội bắn đeo mặt nạ
Phòng xa bị trả thù
Lên xe về trại tù
Hưởng vại bia bồi dưỡng.

* Khi bắt đầu viết bài này, một Ngày Tháng Tư 2007 Virginia is for Lovers  có Tuyết, tôi định sẽ chỉ viết rất ít ý kiến của tôi về hai Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện, Phùng Quán và về Thơ của hai Ông.

Viết đến đây tôi thấy Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện đã nói hết ý của tôi dzồi, đã nói hết ý của tôi mà còn nói hay hơn tôi nhiều nữa ; bi giờ tôi có viết gì về Thơ của Hai Ông, về bọn Cộng Sản Ác Ôn Côn Đồ Cùng Hung Cực Ác Vô Ác Bất Tác Ác Quán Mãn Dzoanh cũng chỉ là Thừa, đã Thừa mà còn Nhai lại Ý Thơ của Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện.

Tôi thấy tôi không viết gì cả là hay hơn, nhưng thưa quí vị, đây là Bài Thứ Nhất, còn Bài Thứ Hai, rất có thể trong Bài Tới tôi sẽ viết vài ba ý nghĩ của tôi. Như dù đã viết dzồi, đã chán ngấy, tôi vẫn phải viết dăm hàng về chuyện « Liệt sĩ Võ thị Sáu» bị xử tử ở Nhà Tù Côn Đảo. Theo tôi biết, và nhiều người biết, Nhà Tù Côn Đảo là nơi giam những người tù bị những tòa án nội địa kết án tù nhiều năm; những người tù bị án tử hình đều bị xử tử ở trong đất liền, Nhà Tù Côn Đảo không thi hành án tử hình người tử tù, những người tù có án tử hình không bị đưa ra tận Côn Đảo để chịu án. Tả cảnh người tù bị xử tử ở Côn Đảo là không biết gì về Tù Côn Đảo. Lại nữa làm thơ bốc thơm người nữ tù « kiêu hùng » một cách quá đáng như Phùng Quán bốc Võ thị Sáu là ngu,  sự ngu ngốc của người làm thơ cho người đọc thấy thái độ hành xử của viên chức Pháp với người tử tù Việt Nam  có tính nhân đạo, có lễ độ, có luật lệ. Những năm 1980 trong một quyển sách Văn của bọn Hà Nội tôi thấy có bài tả cảnh «Nữ Tử Tù Võ thị Sáu trên đường ra bãi bắn ở Côn Đảo, đang đi dừng lại, cúi xuống hái bông hồng dại bên đường tặng người lính Bắc Phi sắp bắn đương sự.» Cái gọi là bài Văn Bựa Văn Bịp Văn Bồi này làm tôi ngạc nhiên, nó làm tôi nghĩ : « Tại sao chúng nó lại có thể ngu đến như thế này? Thằng viết bài này ngu đã đành nhưng phải có nhiều thằng khác không đến nỗi ngu như thằng này chứ, phải có thằng biết viết như thế này là ngu chứ ! Không lẽ chúng nó ngu quá và chúng nó ngu hết ! »

* Nhưng thôi.. Dẹp cái Ngu, cái Bẩn của bọn Cộng sản đi. Chúng ta nói với nhau những chuyện đẹp đẹp, thơm thơm cho đời ta có chút hương, dù là hương sầu muộn.. Chao ơi..Các Thi Sĩ làm Thơ tuyệt diệu hảo từ..Thơ sao Hay quá là Hay. THƠ như dzậy mới là THƠ. THƠ viết HOA cả Ba Chữ. Cảm khái vì các Thi sĩ làm Thơ, tôi cũng bắt chước mần Thơ. Mời quí vị sau khi đọc Thơ Nguyễn Chí Thiện, Thơ Phùng Quán, đọc Thơ Công Tử Hà Đông để thấy rõ hơn thế nào là Thơ, thế nào là Thẩn.

*
Một máy com-piu, một kí-bồ
Thập niên tị địa Hoa-dzinh-tô.
Bút cùn nhưng bút ngòi chưa gẫy
Bình cạn xong bình mực chửa khô.
Khinh Hồ nên phạng Hồ lộn cống
Ghét Cộâng bèn phang Cộng lọt chồ.
Yên chí. Ngày mai trời đẹp lắm
Cờ Vàng ta trở lại Thành Đô.

* Nàng.., Nàng ơi..Tuyết trắng đêm qua..
Sao có Tuyết chỉ một mình Anh biết..!

Đêm Mùng Bẩy, Ngày Mùng Tám Tháng Tư mà Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích... có TUYẾT – Snow - Tại sao kỳ thế?

Tại sao năm nay Tháng Tư Virginia có Tuyết? Hai triệu năm trước không biết có không, nhưng biết chắc như bắp từø một triệu năm trở lại đây không năm nào Tháng Tư Virginia có Tuyết.

Sế sì câu hỏi lại phải được đặt ra là
“Tại sao Tháng Tư 2007 Virginia Xứ Tình nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, có Tuyết?”

Tại vì: Ngày xưa Thái Tử Yên Đan bị cầm tù ở đất Tần, Thái Tử nóng lòng muốn được trở về quê hương Yên Quốc để bảo vệ Tổ Quốc chống lại Bạo Tần nhưng, như đã nói, Thái Tử bị Tần Vương cầm tù ở nước Tần.

Tần Vương Thủy Hoàng ác ôn côn đồ nói :

- Bao giờ Tháng Tư đất Tần có Tuyết, Quả nhân sẽ cho Thái Tử về nước Yên.

Than ôi..Tháng Ba Hè về, Phượng nở, Vải chín, Ve kêu.. Tháng Ba Xứ Ba Tầu trời đã nóng như thiêu, làm sao Tháng Tư Xứ Ba Tầu có Tuyết?

Thái Tử Đan ngửa mặt lên trời, hú lên một tiếng...

Tiếng hú bay lên, xé trời, ..và trời Tần xuống tuyết..

Đêm Tháng Tư 2007 cô đơn nơi Xứ Người, nhớ những Ngày Tháng Tư, những Đêm Tháng Tư Năm Xưa ở Quê Hương, Tim đau Dzao cắt, Gan Muối Ớt xát, không sao Ngủ được, Công Tử Hà Đông Thái Tử Yên Đan Thế Kỷ 20 cầu xin thiết tha dza diết:

- Xin cho Con đêm nay thấy đất trời Virginia có Tuyết. Xin cho con thấy Lời Xin của Con được Nhiệm: Bọn Cộng Sản Khốn Nạn ở Nước Con sẽ bị, sắp bị Đồng Bào của Con nắm đầu, lôi cổ ra trước Chợ Bến Thành, đánh cho mỗi thằng năm, bẩy cái bạt tai, nhổ vào mặt mỗi thằng năm, bẩy bãi nước miếng, đá đít, đuổi đi..

Đêm Mùng Bẩy Tháng Tư 2007, ở Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, Công Tử Hà Đông, Người Lưu Vong Già Lão Khuôn Mặt Cằn Cỗi in hằn những Vết Roi Đời, đã xin như thế đấy.

 

CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG 


 

CHỈ MẶT "NGÀI NGÔ"

“Ngài Ngô“ đây là Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, người “chỉ mặt Ngài Ngô “ là Trần Dần, một văn nghệ sĩ Bắc Cộng Xã Hội Chủ Nghĩa, nhân vật nổi nhất trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm những năm 1957, 1958 ở Hà Nội. Trần Dần là người viết nhiều chuyện nhảm nhí nhất trong bọn NVGP về miền Nam, về chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, bài thơ dài trong có đoạn “Chỉ Mặt Ngài Ngô “ là một trong những bài Trần Dân viết về Quốc Gia VNCH trong những ngày đương sự còn được Tố Hữu để cho viết, cho đăng báo.

NGUYỄN HỮU ĐANG, nhân vật Nhân Văn Giai Phẩm bị Tố Hữu đầy đọa nặng nhất: 18 năm tù.

Chuyện xưa rồi, đã 50 năm kể từ ngày Thi sĩ Bắc Cộng Trần Dần làm bài thơ “Chỉ mặt Ngài Ngô “. Nhưng chuyện đó mới với tôi, 50 năm tôi mới được đọc bài thơ cà chớn của Trần Dần, 50 năm tôi mới biết “con người thật, con người hèn mạt“ của ba nhân vật Nhân Văn Giai Phẩm tôi từng thán phục. Ba nhân vật ấy là Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt.

Phùng Cung, tác giả truyện ngắn “Con ngựa già của Chúa Trịnh“, bị Tố Hữu kết tội phản động, bị đưa ra “đấu tố “ Những người kết tội Phùng Cung lại là những ông bạn văn thân thiết của đương sự.

Đây là lời kể của Phùng Hà Phủ, người con trai của Phùng Cung:

Phùng Hà Phủ viết, đăng trong bài Tựa tác phẩm “ Thơ và Truyện “ của Phùng Cung:

Theo bố tôi kể "khi xảy ra chuyện", buổi sáng đó bố tôi được triệu tập tới cơ quan để họp. Đến nơi bố tôi thấy mọi người  đều có ý lảng tránh ông, không bắt chuyện với ông. Ngay cả những ông bạn rất thân thường lui tới nhà cũng quay mặt không chào, không nhìn ông. Ngay buổi sáng đó bố tôi bị đem ra kiểm điểm trước cuộc họp, mà thực chất gần như một buổi đấu tố thời "cải cách" của Liên Hiệp các Hội Văn Học Nghệ Thuật, có cả đại diện bên Văn Nghệ Quân Đội.

Chủ trì cuộc đấu tố bố tôi là các ông Võ Hồng Cương, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh... Cảm tưởng đau xót và ngỡ ngàng nhất của bố tôi là những ông bạn văn chơi thân với bố tôi đều tham gia vào cuộc "đấu tố". Ông Trần Dần là người đứng lên mở đầu cuộc "tố", rồi hai ông Lê Đạt và Hoàng Cầm theo nhau “làm chứng dối.” Tội chính mà bố tôi bị "tố" là “ mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình, lôi kéo người khác về hùa để lăng mạ lãnh đạo“, và còn viết nhiều truyện chưa in khác - Tất cả nội dung các truyện bố tôi viết đều bị kết tội là tập trung đả kích lãnh tụ và Đảng Cộng sản như: Dạ ký, Chiếc mũ lông, Quản Thổi, Kép Nghế...  Việc bố tôi bị bắt sau đó là do tham gia làm báo Nhân Văn nhưng theo mẹ tôi thì còn nhiều lý do khác nữa. ( ,, ,, ,, )

Từ ngày ra tù, về nhà, bố tôi sống như người bị câm, hầu như không quan hệ với ai ngay trong các bạn văn quen biết cũ. Những người trực tiếp "tố" bố tôi ngày xưa đều cảm thấy hối hận về việc làm của họ, nhiều người xin lỗi bố tôi.

Ngày bố tôi và bác Phùng Quán tổ chức lễ mừng "Sống Dai" cho ông Nguyễn Hữu Đang, ông Đang là cán bộ văn nghệ, ông bị tù 18 năm - Lúc này ông đã 81 tuổi, bạn bè văn nghệ đến dự lễ mừng rất đông. Ông Lê Đạt cũng đến, ông đứng cạnh bố tôi và nói với bố tôi:

- Cung ơi, dù có thế nào tao vẫn là bạn mày, tao có lỗi với mày. Có gì, mày cứ gọi tao ra mà mắng.

Từ đó về sau, mối quan hệ của bố tôi với các ông bạn cũ có phần cởi mở hơn. Sau nầy, ông Hoàng Cầm cũng trở lại nhà tôi và ngỏ ý muốn nối lại tình thân với bố tôi như xưa. Còn ông Nguyễn Hữu Đang, gia đình bố tôi là chỗ để cho ông lui tới thường xuyên, ông không có gia đình, ông coi bố mẹ tôi như anh em ruột. Ngưng trích.

Bọn Cộng Hà Nội, gọi đích danh thủ phạm là Tố Hữu, ác độc thuộc loại Ác Quán Mãn Doanh, tức Thiên Hạ Đệ Nhất Ác. Chúng hành tội một người, nhưng chúng không đứng ra kể tội người ấy, chúng để cho những người bạn thân của nạn nhân kể tội nạn nhân. Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt đã làm cái việc hèn mạt ấy với hy vọng họ làm thế để Tố Hữu nó tha tội cho họ, nó để yên cho ho, và vợ con họ sống. Trước khi vào cuộc đấu tố Phùng Cung, ba người Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt phải bàn tính với nhau trước, phải làm cái việc gọi là “phân công“: Trần Dần mở đầu, tiếp theo Hoàng Cầm, Lê Đạt, mỗi người sẽ nói những gì để kết tội Phùng Cung. Nhưng làm cái việc hèn mạt ấy họ chỉ bị người đời thấy là họ hèn mạt, Tố Hữu nó vẫn đánh, vẫn đì, vẫn hành hạ họ đến nơi, đến chốn.

Tất cả những người Nhân Văn Giai Phẩm: Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Tử Phác, Đặng Đình Hưng đều phải viết bản Tự Kiểm, tức Tự Kết Tội, Bản Thú Tội. Có hai người không tự thú tội: Phan Khôi, Hữu Loan.

Bản Thú Tội của Trần Dần. Trích:

Sự hung hăng của tôi buộc lòng trên phải có những biện pháp tương xứng. (...) Thời gian này, tôi làm một số thơ về tình yêu, về việc xin ra Đảng… giọng ai oán Đảng và lu loa kêu oan! Bài “Nhất định thắng” sinh ra trong cái nôi những tư tưởng chống đối như thế. Dưới chiêu bài “phát hiện những mâu thuẫn xã hội”, “chống công thức, tìm cái mới”, bài “Nhất định thắng” bôi đen miền Bắc. Thất nghiệp, hàng hóa ôi ế, người đi Nam, hai năm không thể thống nhất được v.v… Cái điệp khúc “mưa sa trên màu cờ đỏ” nó nhấn mạnh: “Đảng là nguyên nhân của cái xã hội thê thảm này.” Còn bài “Anh Cò Lấm”, tôi vu cáo cho Đảng là “phao phí con người” trong số đó có tôi. “Một bài thơ chưa có đề”. Tôi đánh “Những nhà thơ ti tỉ đờn bầu” (ám chỉ trường thơ Tố Hữu). Cho là xoàng cả. Chỉ có tôi là nhà thơ “Vận tải trên mọi mặt trận của quần chúng hàng tấn cả gan”. Tôi tự xưng hùng xưng bá trong thơ ca như vậy.

Tôi tưởng tôi là một người có óc suy nghĩ độc lập; nhưng sự thực tôi chỉ là một con bài, một con rối mà bọn xét lại, bọn tờ-rốt–skít, bọn đế quốc xử dụng tuỳ thích.

Tôi tưởng tôi là một thứ martyr vì dân vì Đảng; nhưng sự thực tôi dối dân, dối Đảng, tôi là một kẻ tội đồ, mà dân ta, Đảng ta còn chưa trừng trị.

Tôi tưởng tôi là một nạn nhân của quan liêu; nhưng sự thực tôi là một kẻ tội nhân, ngỗ nghịch và mưu cơ đã gây ra nhiều tội lỗi đối Đảng, đối nhân dân, đối bạn bè, đối văn học.

Tôi tưởng tôi theo chân lý, bênh vực cho những lý luận mới mẻ nhất, tiên phong nhất của lịch sử; nhưng sự thực tôi đã chạy theo những thuyết phản động, muốn hay không, tôi đã là một thứ tay sai đắc lực của bọn xét lại tờ-rốt–skít - bọn đế quốc!

Tôi tưởng con đường tôi đi là con đường hy sinh cao cả, “chemin de calvaire” sự thực đó chỉ là  con đường tội lỗi nhơ bẩn mà hình phạt tôi phải chịu vẫn còn chưa xứng tội!

Bản Thú Tội của HOÀNG CẦM. Trích:

Đã sẵn cái nhìn đen tối, vào chế độ, lại sẵn một mớ luận điệu phản động chống lại đường lối chính sách của Đảng, nhất là về mặt văn nghệ, bên cạnh một vài vấn đề thắc mắc thật về đời sống và sáng tác của văn nghệ sĩ, lại có nhiều thắc mắc giả tạo do những luận điệu trên kia đẻ ra, do không chịu học tập chính sách, không chịu tìm hiểu đâu là lẽ phải, lại lấy lòng mình làm chân lý, lấy sách Nho giáo làm chân lý, thì cái việc tự thân tôi hăng hái nhảy vào làm báo Nhân Văn là một hành động có ý thức. – Tôi đã chủ động dựa vào tên Đang, tên Phan Khôi, là nhằm phê bình đả kích vào lãnh đạo văn nghệ.

Thế là tôi đã bỏ hết công tác ở cơ quan Hội Văn Nghệ để làm báo Nhân Văn. Tôi đã là một tên đào ngũ, bỏ hàng ngũ Cách mạng, đi làm một tay sai lợi hại cho tư bản phản động. Từ một người có vẻ hiền lành, “nho nhã”, kéo lê cái xác thịt hưởng lạc, hiếu danh, hiếu sắc, thèm tiền, trong các tiệm trà, tiệm cà phê, tửu quán, đầu óc vẩn đục đen tối bởi những ý nghĩ phản động, tôi đã rất nhanh chóng biến thành một con rắn độc cắn lại Cách mạng.(...)

Bài “Con người Trần Dần” khi in ra đã kích động vào tất cả những cái hèn yếu, bẩn thỉu sẵn có ở một số thanh niên nam nữ, gây ra một không khí bi quan, gây ra hoài nghi đối với chế độ, hờn oán quân đội. Bài báo đó lại nguy hiểm ở chỗ nó len lỏi, ngấm sâu vào tình cảm người đọc, như một chất độc êm đềm giết chậm tâm hồn người đọc. Bởi vì trong cách viết, tôi đã dụng tâm xử dụng kỹ thuật mà lâm ly hoá cảnh ngộ Trần Dần, từ một cánh cửa bình thường trong phòng làm việc của quân đội, tôi đã hình dung ra cái cửa nhà tù đen tối, từ một cô K. mà tôi biết là cũng không trong sạch, thuỳ mị, ngây thơ gì đâu, tôi đã tạo thành một cô K. tốt đẹp, một người “vợ lý tưởng”. Hình ảnh cô K. trong bài đó ve vuốt tâm hồn những cô gái lạc hậu, thêm cho họ sức mạnh đòi quyền tồn tại những cái sa đoạ ở giữa chế độ này. – Bài báo này, cộng với một loạt bài thơ tình của tôi và của Lê Đạt, đã mở cửa cho những cái rác bẩn của xã hội cũ ngóc lên: những trai gái đi ve vãn nhau trên Hồ Tây, trong vườn Bách thảo, cao bồi, lưu manh, gái điếm. Bài báo đó là một tiếng gọi của tình yêu bất chính, lời gửi gắm của một tâm hồn đồi truỵ, tiếng kêu lâm li thống thiết của một con đĩ thập thành khăng khăng đòi được làm đĩ mười phương. Có thể nói bài báo đó là một đòn phá hoại đánh vào tâm hồn quần chúng, vào đời sống xã hội và đời sống chính trị của nhân dân.

Viết bài đó, tôi định làm cho cả cụ Hồ, cả Trung Ương cũng phải thương xót cảnh ngộ Trần Dần, mà trừng trị người nào đã gây ra cảnh ngộ đó. “Người nào” đây, trong óc tôi, là đồng chí Tố Hữu. - Thật là “vừa đánh trống vừa ăn cướp”. Người đáng trừng trị chính là Trần Dần, và hơn nữa, là tôi. – Tôi đã gây ra một tội ác nghiêm trọng trong lịch sử văn học, dưới chế độ này.

Tôi động viên Phùng Cung viết chuyện, và khi Phùng Cung viết “Con ngựa già của chúa Trịnh” đưa tôi xem bản thảo đầu tiên, tôi có góp ý kiến vào việc diễn tả “chỗ con ngựa vào cung vua”, nên tả cho nó đáng ghét hơn. Khi Phùng Cung đưa bản thảo lần thứ hai, tôi chữa văn và thêm nhiều câu diễn tả cảnh đẹp, diễn tả con ngựa ngày càng béo…

Cả hai việc trên này đều xuất phát từ một quan điểm phản động dùng lịch sử của tôi. Mượn chuyện lịch sử, mượn cổ tích, thần thoại để đả kích chế độ. – Đó là một thủ đoạn văn học bất chính đối với cách mạng. (...)

Từ khi làm báo Nhân văn, tôi đứng hẳn về lập trường tư sản phản động. Ý thức chống lại chế độ đã tỏ rõ trong những bài viết, trong việc đi lôi kéo người này người khác, nhận thường trực, nhận mọi sự phân công của tên Đang về bài vở. Chủ động trong việc chọn đăng sáng tác văn thơ, tán thành và phụ hoạ với các bài khác từ số 1 đến số 5. Tư tưởng tôi trong thời gian đó hoàn toàn là tư tưởng thù địch chống Đảng, chống chế độ, chống chủ trương chính sách của Đảng. – Tôi tán thành và phụ hoạ với những luận điệu chống vô sản chuyên chính, đòi tự do dân chủ tuyệt đối, đòi trăm hoa đua nở bừa bãi. Khi ở Ba-lan và Hung-ga-ri xảy ra biến động, tôi cũng nghĩ: “ Đây là cách mạng của quần chúng chống lại hệ thống quan liêu”, khi nghe tin quân đội Liên Xô giúp nhân dân Hung đánh tan bọn phản cách mạng tôi cũng cho là: “ Liên xô can thiệp vào nội trị nước khác, Liên xô vẫn là hệ thống Staline”. Đầu óc tôi vẩn lên và đen tối một mối thù hằn dân tộc.

Nhưng, Đảng đã lãnh đạo nhân dân nổi lên đấu tranh chống Nhân Văn, và Chính phủ đã cấm báo Nhân Văn, chứ nếu để một thời gian nữa, thì tôi còn đi quá xa vào con đường phản quốc, phản dân, phản Đảng.

Bản Thú Tội của LÊ ĐẠT. Trích:

Về Hà Nội tôi rất ghê tởm Thuỵ An. Nhưng sau khi bài thơ “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” của tôi được đăng báo, Thuỵ An tìm gặp tôi rất niềm nở, mời đến nhà, nói có nhiều sách báo mới.

Một thời gian dài tôi không đến. Nhưng từ sau khi “Cửa hàng Lê Đạt”, tôi bị khai trừ khỏi Đảng, tôi bắt đầu lui tới nhà Thụy An. Thuỵ An bảo tôi: “Kể tôi cũng phục ông thật, Đảng mài người như thế mà ông vẫn giữ được caractère của mình”. Rồi Thuỵ An khen thơ tôi, nói nữ sinh, công nhân rất thích. Thuỵ An luôn luôn mời tôi đến nhà, đọc thơ và khen nức nở. Thuỵ An bảo: “Thơ này dịch ra ngoài thì kém gì thơ thế giới”.

Tôi lại càng oán lãnh đạo hẹp hòi, dìm mình, càng thích Thuỵ An. Tôi đi tuyên truyền cho Thuỵ An là người tốt, là một cây bút phụ nữ xuất sắc ở miền Bắc tôi thường nói “đàn bà dễ có mấy tay”. Thuỵ An đưa vợ tôi đi may áo, đi mua vải, may áo cho con tôi và đi lấy cả một chiếc giường cũi cho con tôi. Thuỵ An nghiễm nhiên trở thành thân thuộc với cả gia đình tôi.

Mỗi lần tôi gặp Thuỵ An sau khi nói chuyện về giới tư sản, tiểu thương bất mãn, những người chuẩn bị đi Nam, các tin Đài BBC, chuyện về hiệp thương, mụ lại kể chuyện Tassigny, chuyện các phóng viên chiến tranh, các tiểu thuyết tư sản, và sau hết đả kích vào sự lãnh đạo của Đảng cho là hạn chế sự phát triển của tài năng. Mỗi lần ở nhà Thuỵ An ra là mỗi lần tôi thấy mình tài giỏi thêm, oán Đảng thêm và chán nản thêm. Có lúc Thuỵ An lại hỏi dò tôi về từng người, về các đồng chí Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Tế Hanh, v.v… Lòng tin tưởng vào Đảng của tôi mất dần cho đến khi Thuỵ An nói đến “những con người không đất đứng” tôi cũng tự hỏi “đất đứng của mình ở đâu”.

Nhận định của tôi đảo ngược hết cả. Tôi luôn luôn đem tin BBC về cơ quan nói lại với anh em, làm cái loa cho mọi luận điệu tư sản phản động như về vấn đề thuế, tôi nói “Lãng phí nhiều quá, chỉ gõ vào đầu dân”. Tin sửa sai thành công tôi không tin, nhưng tin chuyện “miền Nam biểu tình nhiều quá nên ngoài này ta hoãn việc biên chế ”. Lúc đó nghĩ đến việc bị khai trừ khỏi Đảng tôi cho là tốt, càng đỡ bị gò bó, càng tự do.

Xuất thân từ giai cấp tư sản bóc lột, vào Đảng với động cơ địa vị, coi thường quần chúng lao động, không chịu kiên quyết tiêu huỷ tư tưởng giai cấp cũ của mình, nên óc cơ hội kiếm chác của tôi càng ngày càng phát triển, nhất là từ sau hoà bình sống giữa vòng vây của giai cấp tư sản.

Lấy vợ cũng cơ hội, kiếm chác “lập trường” trên đời một người cốt cán rồi đến lúc về Hà nội lại hiện nguyên hình giai cấp bóc lột, khinh công nông, ruồng rẫy vợ, cho vợ không xứng đáng với mình.

Đồng chí Tố Hữu đối với tôi rất tốt, luôn luôn nâng đỡ tôi, nhưng tư tưởng “háo hức kiếm danh” đã khiến tôi nhìn đồng chí như một bức tường cản bước tiến của mình, tôi quên hết cả những điều tốt của đồng chí Tố Hữu, hằn học đả kích hòng dìm đồng chí xuống để nâng mình lên.

Từ một số hiện tượng cá biệt tôi phủ nhận bản chất của Đảng, cho Đảng là phong kiến là “dressage” là mài rũa con người không biết rằng sự mài rũa đó, sự “dressage” đó là mài rũa, là uốn nắn, là khống chế cái phần phản động, phần thú tính trong tôi.

Chống sự gò bó đó tôi đã mở cửa cho những phần phản động, phần thú tính trong tôi chồm dậy. Tôi đổ cho Đảng hạ thấp con người, nhưng chính tôi hạ thấp tôi xuống, tôi chống sự lãnh đạo của Đảng mà tôi cho “nô lệ hoá ” con người, để tôi thực sự trở thành nô lệ cho tư tưởng của giai cấp tư sản lạc hậu. Dưới nhãn hiệu chống “bè phái lãnh đạo” tôi đã tập họp thành một nhóm một bè phái thực sự chống Đảng. Tôi nêu những chiêu bài trống rỗng để lừa bịp quần chúng, để tấn công vào Đảng. Ngưng trích.

Đọc chuyện những người Nhân Văn Giai Phẩm, tôi lấy làm lạ về việc đã hèn mạt phản bạn, đã đểu giả làm hại người mong yên thân mình, hai “văn nghệ sĩ” Hoàng Cầm, Lê Đạt vẫn có can đảm đem mặt đến gặp Nhà Văn Phùng Cung khi ông này đi tù 12 năm hồn xác tàn tạ trở về mái nhà xưa. Tôi chán ngắc khi thấy những người như Trần Dần làm Thơ Jờ Joạcx và hung hăng con bọ sít chửi bới người thiên hạ:

Trần Dần
Tôi đứng mênh mông
chỉ mặt "Ngài" Ngô

* Đoạn thơ này trích trong bài thơ dài "Cách Mạng Tháng Tám" của Trần Dần, in trong tập thơ Cửa Biển của 4 người: Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ Mới, Hà Nội,  phát hành.*

Tôi công dân nước cộng hoà mười một tuổi.
Tôi đứng mênh mông chỉ mặt Ngài Ngô,
Ngài nói: được lòng dân, thắng lợi.
Tự do, tự diếc, gì gì…
Nhưng thưa Ngài -
Sao Ngài phải rúc vào bóng tối suối A-chê,
Ngài moi ruột từng người phụ nữ
từng em bé dại, tay không –
mà tội ác Ngài vẫn phơi ra ánh sáng?
Sao ảnh Ngài in giấy Mỹ trắng thơm,
người dân lại phơi ngài ra cửa liếp
cho mọt phên gậm nát, nắng mưa thui?
Tại sao những em bé chăn trâu lại
đánh rớt Ngài trên đống cứt?
Ngài hãy hỏi mỗi con đường, góc phố
đã xấu hổ ra sao vì sống dưới quyền Ngài?

Những tờ báo ngợi ca Ngài sao nhỉ
Ngài phải giở trò du côn đánh đập người ta?
Những gánh hát chắc hát Ngài hay lắm
Ngài phát run lên khoá miệng cả lời ca!
Ngài thắng lợi: bao nhiêu đồng cỏ dại!
cánh tay nông dân ôm ghì đất mẹ ra sao?
Tố cộng - Ngài bắt được những hai người ở Gia Định cơ à?
Nhưng - sao Tổng thống mặt xanh như chàm đổ
khi chân chị Diệu bước về thành?
Sao ở vùng Cái Nước, Bạc Liêu
Ngài uất ức, thổ ra từng chậu máu
Lùng vây: - không bắt được người nào?
Ngài hãy hỏi những thùng phiếu giả
chúng chửi Ngài mấy cót mấy nia?
Ngài đã thắng bốn vị Thần Khoái Lạc.
Nhưng - gia quyến Ngài
mở mấy tiệm, mấy sòng thêm?
Sao những R.O. phun loạn khói Sài Gòn?
Sao những tấn mủ, hàng tấn lim la
vẫn khệnh khạng ra vào dinh Tổng Thống?

Và các vị Mỹ say bí tỉ
ôm đàn bà cởi truồng
nhẩy trước mặt Ngài xem?
Ngài lắm súng - lại sẵn lòng tàn bạo.
Không bao giờ Ngài từ chối máu dân ta.
Nhưng - Chợ Lớn, sao Ngài không dám bắn
300 công nhân khai hội chửi Ngài
Và khắp miền Nam dưới mũi lê Ngài
sao nẩy nở lắm ca dao hay thế?
Khen ngài là – bán nước
Tặng Ngài tên - con chó gặm xương?

Ngưng trích

Tôi không còn lời gì đế nói về con người Trần Dần và bài thơ ngớ ngẩn này.

Công Tử Hà Đông