tranh: Vy Tran
Nguyễn Đức Tùng
Năm Mươi Năm Thơ Việt Hải Ngoại
Nguyễn Đức Tùng sinh tại Quảng trị, lớn lên đi học tại Quảng trị và Huế.
Thuyền nhân. Định cư ở Canada. Tốt nghiệp bác sĩ y khoa tại đại
học McMaster
University, thường trú các bệnh viện Toronto.
Hiện sống và làm việc tại Vancouver.
Có bài đăng trên Da Màu, Diễn đàn thế kỷ, Văn Việt, Việt báo, Ngôn ngữ, Asymptote.
Nhà văn Nguyễn Đức Tùng sáng tác và viết nhiều thể loại. Riêng trong lĩnh vực phê bình văn học chứng tỏ là người có cơ hội, có khả năng hấp thụ các luồng văn học thế giới, và mang về cho mình một nguồn trí thức riêng đã tiêu hóa để áp dụng lên thế giới chữ nghĩa Văn Chương Tiếng Việt. Nguyễn Đức Tùng khi soi tác phẩm anh có khả năng đọc, mổ xẻ, tổng hợp, và phát triển được một con đường phê bình bắt sao và tóm gọn những điểm then chốt của tác phẩm, tác giả, của khuynh hướng văn học, trong tương quan với văn chương Việt Nam và văn chương thế giới, dù thỉnh thoảng có chút cả nể và lan man.
Tác phẩm đã xuất bản:
Thơ đến từ đâu,
Thơ cần thiết cho ai,
Đối thoại văn chương,
Bốn mươi năm thơ Việt hải ngoại,
Thư gởi con trai,
Thơ buổi sáng,
Bầy chim di trú.
Cuộc đời yêu dấu (Alice Munro, dịch),
1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Cộng đồng người Việt hải ngoại hình thành từ sau tháng 4 năm 1975, khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Đợt di tản đầu tiên gồm hàng chục ngàn người, quân nhân, viên chức, dân thường, đủ mọi lứa tuổi, tầng lớp. Suốt những năm dài sau đó, người Việt vẫn tìm cách bỏ ra đi, mà đỉnh cao là phong trào thuyền nhân những năm 1980. Càng về sau, đặc biệt sau những đợt thanh lọc của Cao ủy tị nạn Liên Hiệp quốc, năm 1990, trong khi số người vượt biển giảm đi, thì những hình thức ra đi khác lại tăng lên: ra đi có trật tự, HO, tị nạn giáo dục, tị nạn kinh tế, và nhiều hình thức khác. Nếu quan niệm một cách rộng rãi, từ năm 1975, phong trào bỏ nước ra đi chưa bao giờ dừng lại. Đó là tình trạng kết hợp giữa lưu vong và di dân. Hiện nay người Việt có mặt trên hầu hết các nước hay các thành phố trên thế giới, từ Bắc Mỹ đến châu Á, từ châu Âu đến châu Phi. Cấu trúc vô cùng phức tạp: người đi từ miền Nam, người đi từ miền Bắc, người tị nạn, người du học. Riêng tại Bắc Mỹ, Úc và Tây Âu, thành phần trung tâm của các cộng đồng là những người tị nạn, các thuyền nhân và con cháu họ. Khi mở rộng ra đến Đông Âu, Đông Nam Á, Nhật, Hàn, Đài Loan, cấu trúc ấy thay đổi và không ổn định.
Lưu vong vừa là hiện tượng xã hội vừa là một hiện tượng văn học. Trong khi người Việt hải ngoại là một cộng đồng được xác định về mặt địa lý, ở ngoài đất nước, thì tiếng nói của họ không chỉ phản ảnh đời sống của người Việt tại hải ngoại mà còn là tiếng nói của người dân bản địa và của người Việt trong nước, của dân tộc.
2. BA THỜI KỲ
Thơ là một diễn trình: diễn trình năm mươi năm. Tôi tạm thời phân chia thành ba giai đoạn hay thời kỳ văn học. Việc phân chia này chỉ có tính cách quy ước, vì các ranh giới giữa chúng không rõ ràng. Sau này hy vọng các nhà nghiên cứu văn học sử sẽ có cách tiếp cận khoa học hơn.
Thời kỳ thứ nhất: 1975-1989. Khởi đầu bằng sự sụp đổ của miền Nam dẫn đến dòng người di tản tháng 4 năm 75 và phong trào vượt biển tìm tự do bắt đầu từ cuối những năm 1970. Về mặt văn học, đây là giai đoạn của văn học lưu vong, chấn thương, hoài niệm. Về phương pháp sáng tác trong thơ, chịu ảnh hưởng của khuynh hướng lãng mạn và hiện đại của miền Nam. Về hệ tư duy, tiền hiện đại và hiện đại. Về hình thức của thơ hầu hết là thơ có vần với sự phát triển ban đầu của thơ tự do.
Thời kỳ thứ hai: 1989-2000. Đánh dấu bằng sự sụp đổ của Liên xô và các nước Đông Âu, trong khi phong trào vượt biển lắng xuống thì hiện tượng vượt tường của đồng bào miền Bắc từ Đông Âu qua các nước tự do Tây Âu tăng lên. Cùng thời gian, chính sách “đổi mới”của nhà nước Việt Nam làm bùng lên trong một thời gian ngắn nền văn chương cởi mở, xem lại, tự vấn và phản kháng, bắt đầu bởi tờ Văn Nghệ dưới sự lãnh đạo của Nguyên Ngọc. Thời kỳ ra đời của các tác phẩm nổi tiếng của Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Duy. Ở hải ngoại, thơ Việt Nam bước vào thời kỳ mới, chuyển sang khuynh hướng hiện thực, với hệ tư duy ngày càng mang tính hiện đại và những dấu hiệu đầu tiên của chủ nghĩa hậu hiện đại. Về hình thức, thơ tự do, trường ca và các bài thơ dài ngày một phát triển.
Thời kỳ thứ ba: từ năm 2000 đến nay. Khoảng những năm 2000 mở đầu với nhiều biến động trên thế giới, các cuộc xung đột mang tính quốc gia và khu vực, sự va chạm giữa hai hệ thống dân chủ và độc tài, sự trở lại của chiến tranh lạnh. Sự phát triển về công nghệ vượt bậc, đánh dấu bởi một nền văn học được truyền đi trên mạng internet, smartphone. Văn học liên mạng ra đời. Sau hai đợt thuyền nhân những năm 80 và tường nhân những năm 90, người Việt tiếp tục bỏ nước ra đi với các hình thức di dân mới, tới các nước châu Á như Nhật, Đài Loan, Đại Hàn, Thái Lan, Cambodia. Việc giao lưu giữa trong nước và ngoài nước, giữa các nước nơi người Việt định cư ngày càng tăng, mang lại những nội dung và phong cách mới của văn học và thơ ca, hiện nay không thể dễ dàng tổng kết được. Đặc điểm của thơ thời kỳ này là sáng tác hậu hiện đại, với hệ tư duy hậu hiện đại. Về hình thức, thơ tự do chiếm đa số. Về chất lượng, người làm thơ và tác phẩm ngày càng đông đảo thì chất lượng ngày càng kém và pha tạp. Các nhà phê bình và các tờ báo có uy tín ngày càng đánh mất tiếng nói của mình. Tuy nhiên trong đám cỏ dại vẫn có những bông hoa. Ngoài ra các tác giả trong nước không thể in trong nước được đều có thể đăng trên báo giấy, báo online, hoặc in sách ở hải ngoại, làm cho việc định nghĩa vùng văn học ở hải ngoại trở nên rộng rãi và khó khăn hơn.
3. TÂM THỨC LƯU VONG
Trong thời kỳ ban đầu, tâm thức lưu vong chính là lòng hoài niệm:
Chú nào ngồi hiên nhà ta chiều nay
Nghe mưa Sài gòn rạt rào thơm mát
Sau một ngày nắng lóa chín tầng mây
Những mái tôn cười ran hạnh phúc
Thơ Cao Tần, nụ cười héo hắt, tình ý dạt dào. Đây là đối thoại lạ lùng, giữa một người từ quá khứ, xa, và một người trong hiện tại, gần, xuyên không gian, thời gian. Và hình như muốn xuyên qua chia cắt hận thù. Nghĩ về quá khứ, những ngày hạnh phúc, giúp con người tăng cường lòng tự trọng, nâng cao bản lĩnh, mang lại nhiều can đảm để đối phó với sóng gió thực tại. Nhờ vào cảm giác về tính mục đích của đời sống, trên hành trình đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Khi bạn nghĩ về cơ cực của người thân ở quê nhà, sự hy sinh của cha mẹ thời thơ ấu, bạn tìm ra ý nghĩa của sự tự do. Bạn càng biết chắc về mục đích đời sống, càng sở hữu nhiều ý nghĩa, bạn càng bớt cảm giác hoang mang, thất vọng, hoài nghi. Thật ra, hoài niệm chỉ là một trong nhiều khuynh hướng, thậm chí không phải là khuynh hướng quan trọng nhất, của thơ hải ngoại.
Tìm tôi đèn thắp hai hàng
Lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây
Ngỡ hồn tu xứ mưa bay
Tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
Vần điệu, tiết tấu, nhịp đi, cách dừng lại, cách ngắt dòng mang theo các nguyên mẫu ký ức. Thơ lục bát có thể được viết rất mới như Du Tử Lê, hoặc Cung Trầm Tưởng, Viên Linh, Huy Tưởng. Hoài niệm là chu kỳ, và trong thơ, chu kỳ tựa lên nhạc điệu. Thơ hải ngoại, dù đó là thơ lưu vong của người tị nạn, hay thơ của di dân về sau, đều mang tâm sự của kẻ sống xa quê nhớ nước. Lòng hoài niệm có thể có tác động âm tính, gây nên buồn rầu u uất, ngăn cản con người tiến về phía trước, nhưng cũng có thể tác động dương tính: giữ thăng bằng tâm trạng, gây cảm giác phấn chấn, kích thích năng lực sáng tạo, tăng cường khả năng liên lạc, lòng yêu làng xóm, lòng trung thành, tình cảm thủy chung.
Mai Thảo vượt biển:
Biển sao sáng xuống lòng tối thẳm
Đụng cây neo lạnh buốt bên mình
Mới nhớ mình ngồi đó suốt đêm qua
Giữa nghìn con sóng tới
Giữa ngần ấy sóng xa
Giữa đất tận trời cùng giữa chỉ một mình ta
Trong khi con người tìm cách xuyên qua các biên cương, đi tìm Cái Khác, họ cũng mở rộng thêm khái niệm quê hương. Khái niệm quê hương của người Việt sống xa đất nước là nhân phẩm và khoan dung. Một cách lạ lùng, trong trạng thái tha hương, thơ tự nguyện trở thành một phần của cuộc sống, kẻ ghi chép của lịch sử, khi lịch sử không cần đến nó và thôi không tồn tại nữa. Thơ hải ngoại, vì tính chất tình nguyện ấy, mang trong nó số phận và sứ mệnh của lưu vong. Số phận, nên nó là thơ trữ tình, sứ mệnh, nên nó là thơ chính trị. Trong khi tự do cá nhân là thành tựu lớn lao mà nhân loại đạt được những thế kỷ vừa qua, thì cái giá phải trả của chủ nghĩa cá nhân không ai được quên: chỉ có tôi là trước tiên, người khác là thứ yếu, cộng đồng là thứ yếu, sự liên kết giữa các cá nhân là thứ yếu. Lưu vong, nếu là việc rời xa bản quán để tìm đến nơi tự do, lại chính là một cố gắng làm ngược lại với hiện tượng tách rời. Lưu vong vì tự do là cố gắng chống lại các trấn áp và chia rẽ, sự chia cắt con người khỏi chỗ đứng của họ, mảnh đất của họ, tôn giáo của họ, nơi thờ phượng và tình yêu của họ. Cảm giác thuộc về một tập thể là cảm giác tin cậy ấm áp, cần thiết cho sức khoẻ thể chất, tâm thần và tinh thần. Ý nghĩa của lưu vong vượt ra ngoài khả năng trả lời của một cá nhân, một tập thể, thậm chí của nhiều thế hệ. Chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi đó của đời sống, câu hỏi về ý nghĩa, bằng chính đời sống của chúng ta, và vì thế, bằng cách chung thủy với các lý do đã làm phát sinh quá trình tị nạn, và kéo theo nó, được nâng đỡ trên vai nó, quá trình di dân những năm về sau, của chúng ta. Lưu vong còn là một hiện tượng ngôn ngữ, cũng rắc rối như một vấn nạn quốc tịch. Tôi nối kết, do đó tôi tồn tại. Tan rã là đứt mạch các chuỗi nối kết. Tôi không còn thuộc về ai.
mình em một ngôn ngữ
mình em một màu da
mình em một màu mắt
mình em một lệ nhòa
Hãy tưởng tượng ra em
ở nơi không định tới
Đó là đoạn mở đầu của bài thơ Hãy tưởng tượng ra em của Trần Mộng Tú, viết ngay sau tháng 4 năm 1975. Việc chọn dùng câu ngắn, có vần, lặp lại, làm cho bài thơ tựa ca khúc, đồng thời như lời kể. Tác giả giữ được sự thăng bằng giữa xúc động và lý trí, giữa ám ảnh quá khứ và cuộc sống hiện tại. Cuộc sống hiện tại có phải là một lựa chọn may mắn không? Lưu vong có phải là một lựa chọn? Rõ ràng là thơ của người nữ viết cho người nam, chàng đâu đó, sống hay chết, tự do hay tù tội. Tình yêu của người nữ trên xứ sở mới là sự phản kháng hai lần đối với cuộc đời, số phận của một người Việt lưu vong và số phận của người phụ nữ đánh mất tình yêu, trong cuộc chiến tranh tàn bạo. Bài thơ vừa độc thoại vừa đối thoại, kêu gọi đáp ứng. Trong khi đó, từ một nơi khác, trên quê hương, nhưng bên ngoài xã hội, một người đàn ông:
Đất lạ, người ta sống thế nào?
Trong lòng có sáng những trăng sao,
Có buồn bã lúc mùa trăn trở,
Có xót thương người qua biển dâu?
Những câu thơ của Tô Thùy Yên tôi đọc trong năm tháng xa lìa đã đánh thức, xô dạt, làm va đập trong tôi tình yêu thơ ca, tưởng đã chết, tình yêu đất nước, tưởng đã vô nghĩa. Tình yêu đất nước?
Những câu thơ nhiều hình ảnh mà ít ẩn dụ.
Nhưng thơ lưu vong không phải chỉ là thơ miền Nam nối dài. Từ trại tị nạn Hồng Kông, rất sớm, và sau bức tường Bá Linh, công đoàn Đoàn Kết, cách mạng nhung Tiệp Khắc, và nhiều sự kiện chấn động khác ở châu Âu, thơ và văn học hải ngoại còn được bổ sung bằng những cây viết tài hoa ra đi từ miền Bắc, với những quá khứ có thể khác, tâm sự khác, và tất nhiên, với văn phong khác: như Lâm Quang Mỹ, thơ của hội nhập, Thế Dũng, thơ của phản kháng, Đỗ Quyên, thơ của hồn Việt viễn xứ, như Châu Hồng Thủy, Đỗ Quang Nghĩa và nhiều người nữa.
Chữ lạ, ngang tàng, Thế Dũng:
Dăm ngôi mộ trong hồn. Hoa héo úa
Âm ti cười văng vẳng tiếng đa đoan
Mây như khói tóc ai chiều thu xõa
Liệm làm sao? Dĩ vãng chửa tro tàn!
Khả năng phản ảnh hiện thực thể hiện trước hết ở độ gần của tác giả và chiến tranh. Nhà thơ không có khoảng cách xa hay độ lùi thời gian an toàn có thể bị tổn thương tâm lý. Trong tình huống nghiệt ngã, văn chương không thể được đọc và viết như cũ, chúng phải được đọc như lời kêu thét của nạn nhân, lời khai của kẻ bị lăng nhục, như hiện thực bị bóc trần. Thanh Tâm Tuyền, trong trại cải tạo:
Tuột dốc té nhào trên hẻm
núi
Chết điếng toàn thân trong giây lâu
Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới
Ngày đang tàn hiu quạnh rừng sâu
(Thanh
Tâm Tuyền, Thơ ở đâu xa, 1990)
Cuộc nội chiến hai mươi năm chưa bao giờ rời bỏ chúng ta, sự chia rẽ dân tộc chưa được hàn gắn, dù hôm nay có nhiều người từ chối sự thật ấy. Người lính nhớ lại cuộc chiến mà họ thua trận:
Trường Sơn giờ đây ra sao nhỉ
đất nước còn đó cỏ hoa tươi
An Lộc liền tên cùng Quảng Trị
hỡi anh em vinh hiển đời đời
nhờ mi An Lộc thành bất tử
nhờ mi tên Quảng Trị vang rền
bút thép, mực máu, trái tim lửa
còn ghi tên lịch sử anh em
(Đỗ Quý Toàn, Đọc Dấu binh lửa của Phan Nhật Nam)
4. BÚT PHÁP MỚI
Bút pháp là hình thức. Ai làm chủ được hình thức thì làm chủ được thời gian. Một cách viết mới thường bắt đầu ở giọng điệu. Giọng điệu của thời bây giờ: hài hước, bất cần, đau buồn, thách thức, đầy ý thức về mình và về thế giới. Đó chính là khởi đầu của chủ nghĩa hậu hiện đại. Tất nhiên, thơ không phải chỉ là giọng điệu. Một nền thơ mới cần có thể loại mới, cấu trúc mới, chữ và hình ảnh mới, tư tưởng mới. Từ những năm giữa hai thế kỷ, thơ hải ngoại chuyển từ hệ tư duy hiện đại sang hệ tư duy hậu hiện đại. Đối với nhiều người, căn cước một quốc gia, căn cước cá nhân bị đánh mất. Ý thức tập thể trở nên hỗn loạn: điều này xáo trộn các khái niệm vốn có của quê nhà. Trước đó, ở miền Nam, sau một thời gian dài với những trăn trở tìm kiếm có tính nghệ thuật, triết học, nền văn học, trong đó có thơ, bước dần tới giai đoạn cuối của những câu hỏi siêu hình. Những năm trước 1975, các nhà thơ ngày càng tách rời khỏi đời sống, tự mình trở nên xa lạ trước cuộc chiến máu đổ thịt rơi trước mắt: văn học miền Nam bế tắc. Những vấn đề xã hội ngày càng cấp bách, chiến cuộc ngày càng lan rộng, thì hình như các nhà thơ, trừ một vài trường hợp đặc biệt, đều có khuynh hướng từ chối nhập cuộc. Thơ hải ngoại vừa kế thừa thơ miền Nam, vừa tìm cách vượt ra khỏi ảnh hưởng này của nó: thơ ngày càng hiện thực, ngày càng soi sáng, ngày càng ý thức.
Cao Đông Khánh:
Trời đất xa hơn chiều cao tưởng tượng
mô phỏng đời người duyên nợ truân chuyên
một hôm đại hãn vượt trùng vây ra biển
ở biển tôi vào chẳng thấy được bao dung
Thời tiết chật hơn chiều sâu trí nhớ
vượt ngục vượt biên vượt biển xuyên bang
khuya hôm đó có người bị xử tử
Thơ là tưởng tượng. Nhưng đó là sự tưởng tượng cần thiết cho đời sống con người, nuôi dưỡng trong họ những nối kết tâm linh và văn hóa, vốn đã bị bẻ gãy và đang ngày càng bẻ vụn. Tôi muốn nói về thi pháp của sự tan vỡ, như là một trong các tâm điểm của thơ ca hôm nay. Thời nào cũng thế, người đọc trung bình bao giờ cũng chống lại sự thay đổi, sự làm mới. Ngôn ngữ của thơ thật sự bao giờ cũng là thứ ngôn ngữ không thể đoán trước được, và bao giờ cũng là một thử thách cho người đọc. Sự đổi mới trong thơ hải ngoại, sự thành công và thất bại của nó, trước sau cũng sẽ có quan hệ đến điểm này.
Đỗ Lê Anhdao:
Đàn bà mà không mặc áo lót là không biết làm vợ”
người đã từng bảo tôi điều này
là người tình đầu tiên:
bảnh bao, quyến rũ, người Việt Nam
anh ta tự hào xưng mình có trách nhiệm bảo tồn truyền thống dân tộc
trung thành với gói thuốc 555 và cà phê phin Pháp
người tình nhắc tôi thường xuyên
phụ nữ Việt Nam tứ đức
công, dung, ngôn, hạnh
nhưng riêng anh thì vẫn lui tới mấy “quán cà phê bikini” đều đều
Những cách tân trong thơ hải ngoại trải rộng khắp từ khuynh hướng đến bút pháp. Đọc thơ là một kinh nghiệm đặc biệt mà các hoạt động khác không thể mang lại. Thơ dẫn bạn trực tiếp đến sự trải nghiệm trong hiện tại, mặc dù nhà thơ có thể nói về một nơi chốn khác, một thời gian khác, những nhân vật mà bạn chưa hề biết. Từ Cao Tần, thơ mộng, đến Nguyễn Đăng Thường, một trong những nhà thơ hậu hiện đại đầu tiên, với phong cách giễu nhại:
Ngày trở dìa anh bước lia
Trên quãng đường kia tới bên quán bia
Nắng vài tia đàn tiên vú chìa mời đón người dìa
Vợ tò mò ra trước hiên
Đứng ngó người xưa ngỡ trông thấy ma
Tiếc rằng ta không có chổi chà vì muốn tặng quà
Ngày trở dìa trong quán bia
Anh kể chiện nghe chiện đời sống mĩ
Rất mê li ngày đi chém thuê đêm nằm nhìn quê
Chiều ngại ngần rơi xuống chân
Ngoài sân tối mù đường phố âm u
(Ngày trở dìa)
Đỗ Kh., một trong những nhà thơ thực hiện cách tân sớm nhất trong thơ Việt:
Tôi thích ngồi sau em trên
yên xe
Lăng quăng những con đường Hà Nội
Rất sóc hoàng lan
Hoa sấu vòng vèo
Rù rì Quán Sứ mùi hoa đại
Đêm rất yên lành nhà máy điện
B52 giờ là một thứ rượu đàn bà
Nhẹ như những ngày phụ nữ giương tên lửa
Tôi thích ngồi ôm em sau
yên xe
Cổ em mát và đít em rất ấm
Một tay tôi đỡ ngực em chùng xuống nặng
Còn tay kia thõng
Như đang cầm M16 bằng băng đạn
Chạy ra cầu Bình Lợi xem một vòng
Chiến xa Bắc Việt kìa sắp đến
Nhưng lịch sử chẳng bao giờ tái diễn
Không phải thơ cách tân nào cũng giễu nhại như thơ Đỗ Kh.. Có những thi sĩ rất mới mà trữ tình, đằm thắm. Thường Quán sử dụng ký ức, nhưng thách thức và khám xét bản chất của ký ức ấy, làm cho chúng sáng lên bởi cọ xát. Anh là tiếng nói của thơ đương đại. Có lần, anh gởi cho tôi mấy dòng thơ phóng túng, ngẫu cảm, mà rất chi Thường Quán.
NĐT, ah!
Bạn tới
trao cỏ cây
chẳng đi lấy bình tích
chẳng đưa tay tháo gỡ
chỉ ngồi, chỗ ngồi đấy
khoanh nắng
(thì đúng là trên đùi, bạn ghi nhận)
nguyên vẹn cũ càng
vì ngày mai
kẻ ấy biết
Bạn đã bắt đầu nhận ra chất giọng ấy, của người thơ ấy, phải không?
Sự lặp lại, nhẩn nha. Sự đọc chậm. Lặp lại là hình thức tồn tại của thơ ca trong thời gian. Ý thức về sự thiếu sót của ngôn ngữ, về sự bất toàn của khả năng giao tiếp, khởi đầu từ ý thức từ chối lòng tin vào các sự thật được phô bày, truyền tụng. Đối với nhà thơ, các sự kiện không phải là sự thật, chính cảm nhận của con người đối với các sự kiện ấy mới là sự thật. Thơ Thường Quán tiêu biểu cho điều ấy. Vì vậy người đọc muốn lắng nghe anh.
Bên cạnh các tên tuổi lớn từ miền Nam như Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Trần Dạ Từ, Minh Đức Hoài Trinh, Nhã Ca, Viên Linh, những người bắt đầu làm thơ từ sau 1975 và một số viết từ trước 1975 nhưng vẫn tiếp tục sau đó, đã tạo ra khuôn mặt của thơ hải ngoại: Du Tử Lê, Cao Tần, Mai Trung Tĩnh, Thanh Nam, Đỗ Quý Toàn, Nh. Tay Ngàn, Mai Thảo, Nguyễn Đăng Thường, Trần Mộng Tú, Cao Đông Khánh, Luân Hoán, Viên Linh, Đỗ Kh,. Khế Iêm, Thi Vũ, Lê Thị Huệ, Thường Quán, Huy Tưởng, Nguyễn Xuân Thiệp, Trịnh Y Thư, Ngu Yên, Nguyễn Hoàng Nam, Vũ Hoàng Thư, Đỗ Quyên, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Thị Thanh Bình, Tôn Nữ Thu Dung, Phạm Cao Hoàng, Lữ Quỳnh, Trần Trung Đạo, Lê Đình Nhất Lang, Đinh Linh, Vương Ngọc Minh, Vũ Quỳnh Hương, Nguyễn Hàn Chung, Lâm Quang Mỹ, Thế Dũng, Đỗ Lê Anh Đào, Lưu Diệu Vân, Bắc Phong, Uyên Nguyên, Nguyễn Linh Quang, Phan Ni Tấn, Nguyễn Hưng Quốc, Phan Xuân Sinh, Đức Phổ, Lưu Nguyễn, Nguyễn Đức Bạt Ngàn, Trần Thị Nguyệt Mai, Vi Lãng, Như Quỳnh de Prelle, Phan Quỳnh Trâm, Hoàng Xuân Sơn, Khánh Phương, Hà Nguyên Du, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Thận Nhiên, Đinh Trường Chinh, Phan Huyền Thư, Trần Hạ Vi, Nguyễn Lương Vỵ, Bùi Mai Hạnh, Võ Thị Như Mai, Hoàng Thị Vinh, Đặng Tường Vy, Phan Tấn Hải, Nguyễn Thanh Châu, Đinh Cường, Pháp Hoan, Đỗ Quang Nghĩa, Nam Dao, Nguyễn Đức Tùng. Danh sách không đầy đủ, còn dài hơn thế.
Mối quan hệ giữa người lưu vong đối với quê hương là một quan hệ chặt chẽ về tinh thần nhưng khó khăn. Việc đăng tải các tác phẩm ở trong nước có thể được xem như một chỉ dấu cho quá trình hòa giải giữa những người khác quan điểm, hay là chỉ dấu cho sự dấn thân trở lại đối với các vấn đề Việt Nam. Tùy theo quan điểm của người tiếp cận mà việc xuất hiện như thế có thể được xem là dấu hiệu tích cực hay tiêu cực, được ủng hộ hay bị đả kích tơi bời. Sự thay đổi còn diễn ra do những người di dân ngày nay càng lúc càng thực dụng, họ không ra đi vì các lý do chính trị như người vượt biển. Như vậy thơ hải ngoại, sự khác biệt, sự hội nhập, là những vấn đề khá mới mẻ đối với giới nghiên cứu văn học Việt Nam.
5. HỘI NHẬP VÀ GIAO LƯU
Hội nhập với thế giới và giao lưu với trong nước là hai tính chất quan trọng của văn học và thơ hải ngoại.
Biểu tượng trung tâm của thơ hải ngoại ngay sau năm 1975 là hồi ức và suy nghĩ của những người sống sót, đi tìm tự do. Nếu biểu tượng của văn học phản kháng trong nước hiện nay là sự phản kháng, thì thơ hải ngoại đi song song với dòng chảy ấy. Sự ám ảnh về tự do và nô lệ tất sẽ dẫn đến nỗi ám ảnh về quê hương, về những rào cản giữa người lưu vong và bản xứ, về những kinh nghiệm tổn thương của tù đày, vượt biên, nghèo khổ, những ngày đầu tiên trên đất khách.
Hội nhập vào xã hội mới là một quá trình khó khăn đối với tất cả những người di dân và tị nạn, nhưng đặc biệt với người Việt Nam, vì nhiều lý do chính trị, xã hội, văn hóa. Tuy không còn chết chóc, tù đày, đói kém, những thành phố châu Âu và Bắc Mỹ nơi họ tới, bất chấp sự chào đón ban đầu thân thiện của chúng đến đâu, vẫn chứa đầy các thách thức nghiêm trọng.
Tô Thùy Yên, sau mười ba năm tù tội, đến Mỹ:
Nước Mỹ này quá rộng và quá buồn
Anh không còn muốn tự định liệu
Tốc độ cao gài cố định mặc
Đường trường lái băng đêm
Như tự nguyện thất giạt
Mối quan hệ căng thẳng giữa người mới đến và vùng đất mới còn tăng lên gấp đôi vì ám ảnh của cuộc chiến, vì khác biệt về quan điểm đối với cuộc chiến tranh ấy, và tất nhiên, như bao giờ cũng vậy, những khác biệt về văn hóa và các giá trị gia đình. Người ta thường nói đến thế hệ thứ nhất, rời Việt Nam khi đã trưởng thành, thế hệ thứ hai rời Việt Nam khi còn thiếu niên, thế hệ thứ ba sinh ra ở nước ngoài.
Khi thế hệ thứ ba tỏ rõ khả năng hội nhập mạnh mẽ của chúng, cũng là lúc xảy ra thách thức lớn đối với mỗi gia đình và các cộng đồng: mối dây liên lạc giữa thế hệ thứ ba và quê hương cũ, cội nguồn xưa cần được duy trì như thế nào, sợi dây ấy cần được buộc chặt đến đâu, buông lỏng đến đâu. Quá trình hội nhập xảy ra khác nhau về cả hai phía, ở người Việt Nam, tùy thuộc bạn là người Nam hay người Bắc, cựu quân nhân hay học sinh, người thành thị hay người nông thôn, người Kinh hay người Thượng thiểu số; về phía quốc gia đệ tam, tùy thuộc bạn ở đâu, châu Âu hay Bắc Mỹ hay Úc, và ở Bắc Mỹ, Hoa Kỳ hay Canada. Điển hình ở quá trình hội nhập ở Mỹ thường được gọi bằng chữ melting pot, tức là nồi nấu chảy, những người mới đến lập tức vứt bỏ những giá trị cũ của họ, các truyền thống chính trị, lịch sử văn hóa và học hỏi mau lẹ các giá trị của một xã hội dân chủ, vì họ phát hiện ra chúng có lợi cho họ một cách thực tế. Những thuyền nhân xưa vẫn giữ lòng chung thủy:
Nửa khuya đợi bạn từ xa tới
Cửa mở cầu thang để sáng đèn
Bạn tới lúc nào không biết nữa
Mưa thả đều trong giấc ngủ đen
(Mai Thảo)
Sự thương thảo giữa quá trình lưu vong và sự trở về, cầu thang mở sáng đèn như một ẩn dụ của tình yêu, bạn như một ẩn dụ của quê hương. Tiếng nói được cất lên từ những vùng địa lý và chính trị khác nhau bắt đầu bắt được những tần số tương ứng ở nơi khác, đó là những mô tả về thiên nhiên, sự vật, và con người trong những hoàn cảnh khác nhau. Nhưng phản ánh hiện thực vào trong thơ không thuần túy chỉ là hiện thực, chúng bao giờ cũng là thái độ của nhà thơ đối với hiện thực ấy. Cũng như một bài thơ tả cảnh, cảnh vật bên ngoài thực ra là tâm cảnh, là bức họa của tâm trí. Tương tự như thế, những bài thơ có đề tài thời sự chính trị, hay có xúc cảm chính trị xã hội thường che giấu cảm xúc cá nhân.
Thơ hải ngoại vẫn còn là sự nối kết mạnh mẽ của tâm hồn người Việt xa tổ quốc. Chúng ta vẫn tìm thấy nhau trong tiếng nói lặng lẽ, cất lên từ những phận đời, buồn hay vui, thành công hay thất bại, bằng tiếng Việt và cả bằng tiếng Anh và ngôn ngữ khác. Thơ hôm nay dù chất lượng không đồng đều, chưa có những tác phẩm xứng đáng với mong đợi, thì cũng phần nào nói lên được tâm trạng và khát vọng của người Việt, nói lên cố gắng giữ gìn những giá trị văn hóa của dân tộc và những giá trị nhân bản của miền Nam tự do. Chính sự thay đổi về nội dung của thời đại, các xung đột mới, những vấn đề mới về chính trị và văn hóa, buộc thơ phải thay đổi.
Chúng ta cần sẵn sàng hơn nữa trong việc tiếp nhận các giá trị thơ ca thế giới, tham gia vào sâu hơn nữa các hoạt động của nền thơ bản xứ, da trắng, da đen, da vàng. Người Việt hiện có mắt khắp nơi, thế mà sự tiếp cận văn hoá b ản địa của chúng ta hãy còn hời hợt, về văn học và văn hóa, về thơ và nghệ thuật. Đó là điều đáng tiếc.
Thơ hôm nay cần những diễn đàn có uy tín, sự giao hòa với các nhà thơ thế giới và trong nước, cần tiếng nói của các nhà phê bình. Vượt qua tâm lý làng xóm, bè phái, tâm lý cây đa cây đề, người Việt hôm nay, với lòng yêu tiếng mẹ đẻ, cần tiếp nhận nhiều hơn nữa các khuynh hướng văn học và thơ ca thế giới, làm mới ngôn ngữ của mình, đưa thơ Việt Nam tới gần tiếng nói chung của nhân loại. Để làm được như vậy, thơ ấy cần phải mới, lạ, hay, phải phản ảnh tâm hồn người Việt hôm nay trong bối cảnh của một xã hội vừa thăng tiến về văn minh vừa hỗn loạn về văn hóa, tiếng nói của những con người đông đảo và cô độc, hiện đại và đầy lo âu, chán nản và cũng đầy tình yêu cuộc sống. Yêu cuộc sống tức là yêu tự do và yêu sự thật. Lê Thị Huệ:
Sự thật làm tim tôi khó thở
chết ngất in một năm mù mịt giữa xuân thì
sống dậy thấy mình thành người đàn bà quá quắt
chỉ ân ái với sự thật
Hai mươi năm tôi chọn làm kẻ bòn hương cho sự thật
với tấm lòng mối lái cải lương
say sưa ca hát qua những phỉnh phờ
trên môi những người khôn khéo lời
trong mắt những người gian ngoan ngọt
Tấm thảm đỏ giữa đời không sự thật
Tôi qua sông nhưng lẻ loi
chọn cô đơn làm lữ hành
nước mắt có khi rơi xuống
giữa những cơn xử trảm của kẻ tưởng như bạn
đòi xẻo lưỡi tôi vì đã nói lên sự thật
Đốm lửa nhỏ nhoi
đã kiên trì đi cùng tôi qua suốt kiếp
có khi tôi phải tự ấm một mình
để không quỵ ngã giữa những cơn say
sự thật
(trích Kẻ ám ảnh sự thật, 1995)
Những hình ảnh chồng chất lên nhau trong một bài thơ hiện đại và hậu hiện đại phản ánh sự khổ đau và tai ương của cá nhân, vừa cụ thể trong một hoàn cảnh lịch sử vừa siêu hình như một câu hỏi. Khuynh hướng mỉa mai, hài hước, cái nhìn từ bên lề được thúc đẩy bởi chủ nghĩa hậu hiện đại làm cho nhà thơ có khả năng đứng trên lịch sử hay đứng ngoài lịch sử, từ chối tham dự vào lịch sử như nạn nhân. Các nhà thơ hải ngoại không phải là những người nổi tiếng trong khả năng mô tả những hoàn cảnh cực độ, khổ đau của người dân trong nước, cho đến nay họ vẫn ít có những bài thơ thật xuất sắc thật xúc động về đề tài này. Họ cũng không nổi tiếng về những đề tài chính trị, những bài thơ cổ vũ đấu tranh. Tuy nhiên một người đọc thơ cần hiểu rằng một nền thơ có những xuất phát riêng biệt, ngược với một nền văn học tuyên truyền, nó chỉ có thể đối kháng với các lực lượng đối lập bằng phương pháp tự vệ, tức là tự biện hộ cho nó, và để đối lập với cái ác, nó chỉ có khả năng tốt nhất khi trình bày tình yêu và của cái đẹp. Vai trò của cá nhân mỗi người là hết sức quan trọng. Thơ Việt hải ngoại ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, sau bao nhiêu biến động lịch sử, trong không khí làm việc tự do, nhưng thiếu một môi trường thuận lợi, một đất nước; các diễn đàn lưu vong không thể sánh được, ví dụ với không khí thời miền Nam trước đây. Tuy nhiên các nhà thơ bằng những cố gắng riêng rẽ của mình đã tạo ra những bút pháp mới, hình thức mới, dần dần xây dựng một hệ thẩm mỹ khác hẳn với thời kỳ trước 1975. Thơ Việt hải ngoại hầu hết là thơ trữ tình, ngắn, chuyển động từ thơ có vần sang thơ tự do, ngôn ngữ ban đầu khá cũ, về sau dần dần thoát ra được, ngày càng tươi mới. Chúng ta muốn đi tìm tình yêu ở chốn hận thù, sự thăng hoa ở nơi dung tục, đi tìm mơ ước ở nơi triệt tiêu mơ ước, đi tìm tự do trong nhà tù. Hầu hết những điều chúng ta tìm thấy trong thơ ca, không thể tìm thấy ở một nơi khác. Thơ phản kháng như linh hồn của thơ hôm nay, bất kể hải ngoại hay trong nước, hoặc viết ở trong nước nhưng xuất hiện ở hải ngoại.
Chúng
ta yêu nhau, yêu bằng hữu
Kinh ngạc và thích thú biết bao
Chớp mắt. Thấy mình có trong nhau
Mở cửa. Thấy anh em đông đủ
Bắt tay, chào hỏi. Thấy thành phố
Bước đi, trò truyện. Thấy quê hương
Hất mặt, vươn vai. Thấy bầu trời
Hít hà. Thấy thời đại mình thở
Trần Dạ Từ. Thơ phản kháng là tiếng nói của nhân dân, của người dân, mà nhà thơ là người đại diện của họ. Ai đề cử nhà thơ là người đại diện ấy? Chính văn chương của họ, xúc cảm, tài năng của họ. Dù sự thể hiện khác nhau do những điều kiện xã hội chính trị, tôi cho rằng những nhà thơ sau đây, ít hay nhiều, bằng tác phẩm của mình, đã đứng vào danh sách những nhà thơ có tác phẩm mang tính chất phản kháng: tất cả những người viết quan tâm đến thế sự, đến Tổ quốc, đến số phận đau thương của những hoàn cảnh riêng lẻ, những người tù, những nạn nhân của cướp biển, những kẻ bị tra tấn. Do những điều kiện khách quan của đời sống hải ngoại, do kế thừa những thành công và thất bại của nền thơ miền Nam, như tính sáng tạo ngẫu hứng và sự thiếu lý luận phê bình, các nhà thơ ở hải ngoại, tuy có nhiều thành tựu về sáng tác, đã không tận dụng được ở mức tối ưu chất liệu thơ ca qua những khúc quanh như di dân, vượt biển, tù đày, những năm tháng gian nan đầu tiên ở xứ người. Sự dừng lại quá lâu ở các hình thức cổ điển đã hạn chế sự phát triển thi pháp. Trong khi đó, ở những bứt phá, làm mới, thậm chi nổi loạn về ngôn ngữ, sự thành công chưa ở mức thuyết phục, còn giới hạn ở những thay đổi bề mặt có tính kỹ thuật. Các nhà thơ “song ngữ”, làm thơ vừa tiếng Việt vừa tiếng Anh, như Đinh Linh, Trịnh Y Thư, Thường Quán, Đ ỗ Lê Anh Đào, Lưu Diệu Vân, Phan Quỳnh Trâm, Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Đức Tùng… là một đặc điểm của thơ hải ngoại. Bút pháp của họ, cùng với các nhà thơ người Việt nhưng chỉ viết tiếng Anh, như Ocean Vuong, Phong Nguyen, Mộng Lan, Lại Thanh Hà, sẽ để lại dấu ấn tr ên thơ Việt.
Mùn phùn, phất lệ,
Ðơn điệu, đu đưa,
Ðã làm nhèm nhẹp bao nhiêu cặp vú lép?
Làm sao để giải phẫu hoàn toàn
Vành tai tiếng Việt?
Đinh Linh. Anh gần như là một người Mỹ, trong thơ ca và ngôn ngữ, trong đời sống và hành trạng của anh, thế nhưng anh vẫn dành nhiều suy nghĩ và những xúc cảm cho đất nước bên kia Thái Bình Dương, vì vậy những chủ đề trong thơ anh và các thủ pháp nghệ thuật đều đan quyện vào nhau như một tấm thảm dệt nhiều màu sắc, tiếng Anh xen lẫn tiếng Việt, trào phúng xen lẫn trữ tình, phớt tỉnh mà sâu sắc, vui chơi mà rầu rĩ, đầy chất lang thang vô sở xứ mà vẫn mang chất lưu vong lưu lạc hơn là kẻ du ca. Trịnh Y Thư, thơ mộng hơn:
Once upon the time, I was here
the land of many legends and myths
piercing through history like a raging arrow.
Somewhere under the scorching sun
standing still like a fool, the perfect outcast
looking for a perfect return in the dust-riddled city.
Treacherous and excruciatingly hard life seems
whirling in a frenzied circle just like anywhere else on earth,
but so astoundingly I remain untouched — for reasons
I cannot fathom — as if my existence were trapped
in a boundless dimension.
(trích The Landscape of Forgetting)
Xưa kia, ta đã ở đây
miền đất của bao huyền thoại và truyền thuyết
xuyên qua lịch sử như mũi tên mãnh liệt.
Đâu đó dưới mặt trời rát bỏng
đứng lặng ngây hệt một gã khờ, kẻ bị bỏ rơi
kiếm tìm sự trở về hoàn hảo nơi đô thị đầy bụi bặm.
Nghiệt ngã đớn đau và bất trắc cuộc sống dường như
xoay vần trong vòng quay điên cuồng, cũng giống trên trần gian bất cứ nơi nào
nhưng kinh ngạc sao vẫn còn ta nguyên vẹn — bởi những lý do
ta không thể tìm ra — như thể sự tồn tại của ta bị mắc kẹt
ở một chiều kích khôn cùng.
(trong Miền Lãng Quên, Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Bảo Chân)
Với sự phát triển của truyền thông xã hội, ranh giới của văn chương mở rộng. Sau các báo giấy như Văn, Văn Học, Làng Văn, Khởi Hành, Nắng Mới, Thế Kỷ 21, Hợp Lưu, Việt, Chủ Đề, sự đóng góp của các trang mạng là rất lớn: Văn học nghệ thuật, Talawas, Da Màu, Gió- O, Diễn Đàn Forum, Tiền Vệ, Diễn đàn Thế kỷ, Văn Việt, các trang online của báo như Việt Báo, Người Việt, Thời báo (Canada), và các trang của các nhà thơ như Du Tử Lê, Nguyễn Xuân Thiệp, Vũ Hoàng Thư, Phạm Cao Hoàng, Tôn Nữ Thu Dung, Trần Thị Nguyệt Mai…. Gần đây xuất hiện trở lại hai tờ báo in trên giấy là tạp chí Ngôn Ngữ do nhà thơ Luân Hoán chủ trương và tạp chí Văn Học Mới của nhà thơ Hà Nguyên Du, là những cố gắng đáng trân trọng. Dù được viết theo phong cách nào, thơ hải ngoại cũng chứa đựng yếu tố quan trọng: kẻ làm chứng của thời đại mình. Các yếu tố thơ ca hướng tới việc xây dựng cảm xúc và tư tưởng ở người đọc dựa trên các sự kiện cá nhân hoặc cộng đồng. Ngôn ngữ thơ phát triển trong mối quan hệ với việc xây dựng các ẩn dụ văn chương. Tiếng Việt trong sáng, chính xác, cụ thể. Ngôn ngữ ấy được người Việt lưu vong mang đi qua các biên giới và giữ gìn cẩn thận cho đến hôm nay. Theo quy luật tự nhiên, một số chữ, một số cách nói sẽ trở nên cũ và bị loại bỏ, một số chữ mới, cách nói mới từ các sinh ngữ khác và từ trong nước, sẽ được tích hợp vào một cách tự nhiên, không cố gắng, không áp đặt. Thơ là phần tinh hoa của một ngôn ngữ, không những thế ở đó một ngôn ngữ mới được tạo lập. Ngày trước, người Việt đã có trường ca, truyện thơ, kịch thơ, thơ tự sự, ngày nay hầu hết thơ được viết là thơ trữ tình, tuy vậy các cố gắng mở rộng thể loại rất cần được khuyến khích. Một bài thơ hay cần phải là một bài thơ vừa hay vừa lạ. Tôi yêu thích một bài thơ vì tôi tìm thấy ở đó những cảm xúc mà tôi có thể có, hơn thế nữa, chúng được trình bày một cách mới mẻ. Hơn thế nữa, nhà thơ ấy có thể mở cho tôi một cánh cửa, và giữ cho ngôi nhà thơ ca của mình những tư tưởng sâu sắc, thuyết phục, mà tôi có thể chia sẻ, như lòng yêu nước, sự can đảm, tình yêu tự do. Một bài thơ dùng những chữ đẹp, nhưng không có tư tưởng, chỉ là loại thơ trang trí, và tôi sẽ không quay trở lại. Những nhà thơ tôi trích dẫn chắc chắn không đầy đủ. Có nhiều nhà thơ và những bài thơ hay mà chúng ta không thể đề cập tới trong một bài luận ngắn, nhưng những nhà thơ được trích dẫn đều có chung một điểm là tính cách nhân chứng đối với thời đại họ đang sống. Tính chất làm chứng ấy quyết định giá trị của thơ trong bối cảnh của người Việt ở xa nhưng lúc nào cũng hướng về xứ sở. Đó là tiếng nói của người không thể giữ im lặng, đó là lòng xúc động không thể cất giấu được nữa. Đó là sự phẫn nộ và yêu thương, nỗi buồn và hy vọng.
6. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỂ LOẠI
Các thể loại trong thơ hải ngoại được phát triển. Trong khi thơ có vần, thơ bảy chữ, thơ lục bát tiếp tục được sáng tác thì thơ tự do ngày một trở thành thể loại quan trọng nhất. Hình thức và thể loại của thơ giúp định hình các ý tưởng, sắp xếp và trình bày các ý nghĩa. Thơ là ngẫu hứng và phá cách, là sự buông thả của cảm xúc, nhưng thơ cũng nối kết các hiện thực, mang con người trở lại với nguồn gốc.
Nhiều người làm thơ Haiku như Thi Vũ, Vũ Hoàng Thư, Pháp Hoan, gây được tiếng vang.
Trên phố
xá đông người
cơn mưa chiều thứ bảy
thấm dần vào áo tôi
(Pháp Hoan, Vancouver
03/2024)
Đặc biệt thể thơ dài, trường ca, hay trường thi, là một nhánh riêng, hứa hẹn. Điểm riêng biệt của trường ca là biết suy nghĩ. Tất nhiên đó không phải là suy nghĩ theo kiểu lý trí thuần túy, kiểu thơ trí tuệ. Đó là một hình thức suy nghĩ bằng hình tượng, toàn bộ cảm xúc thân xác.
Chính vì vậy trường ca đi xuyên qua vật thể, tâm hồn, lý trí hay tinh thần. Theo sau các bài thơ dài của Cao Đông Khánh, có Du Tử Lê với trường ca Mẹ về biển Đông, một thi pháp gần văn xuôi, một thành tựu nghệ thuật:
tôi tìm
ra nhà quàn dễ hơn mình tưởng
ngôi nhà trắng. Những chiếc ghế sắt cũng mầu
trắng
đường xe chạy uốn cong hình móng ngựa khoảng
sân trong có nhà bán
hoa,
mấy tháng trước còn xanh những cây phong
nay lốm đốm đỏ
vòi nước từ chiếc bồn trước cửa toà nhà chính
phun hoài như thế chẳng biết đã bao năm
buổi sáng, ngồi nép trên chiếc ghế sắt, tôi
nói với Sơn
về sự đổi mầu của lá phong
khu rừng đỏ. Những ngày học ở Indianapolis.
1969
ly cà phê. Điếu thuốc rút từ bao Winston của
Sơn
mẹ tôi nằm trong chiếc quan tài mầu dưa úa.
Các chị tôi nhắm mắt
chọn cho dù giá tiền khá đắt
Tiếp theo sau, hay cùng thời, nhiều người khác viết trường ca, như Trần Nghi Hoàng, với chất trữ tình bi phẫn, Đỗ Quyên, hậu hiện đại, với Lòng hải lý, Đống chữ, Ba người nữ một mùa thu, gần đây nhất là trường ca Quần-đảo-tráo-tên. Thơ anh tiêu biểu cho thi pháp hậu hiện đại- collage:
chia 50 con theo mẹ lên non
làm gì ra sao trường-ca-ca đang lu bu không đủ thời gian bàn thảo
50 con theo cha xuống bể
gây dựng duy trì bảo vệ cương vực hải đảo đại dương
số con cái này hẳn sức dài vai rộng thông lẹ kiên cường
hậu sinh hòa hợp hòa giải Binh chủng đặc công nước và Lực lượng người nhái cũng chỉ xách phao bơi theo mệt nghỉ
Phật độ lãnh hải cơ ngơi mọi sự khá chuẩn và ổn
suốt mấy ngàn năm ngót trăm triều đại hậu vua Hùng
phỉ phui xui là mới gần đây thôi từ nửa sau thế kỷ trước thiên hạ tranh chấp mấy cái bãi rạn đá chìm phân chim còn thúi hoắc hóa thành mỏ vàng hơi
những giếng dầu trụ vững giữa khơi xa
Thế Dũng, từ nước Đức, viết rất, dài say đắm dữ dội về các vấn đề đất nước và người Việt lưu vong. Nguyễn Đức Tùng với tuyển tập Bầy Chim Di Trú, xuất bản ở Cali mùa hè năm 2023, là tuyển tập bảy trường ca dựa vào các nguồn cảm hứng lịch sử đương thời với tư tưởng yêu nước: sự kiện Đồng Tâm, đại dịch Vũ Hán, người tù lương tâm Phạm Đoan Trang, chiến tranh Aphganistan, tháng Tư, các đề tài dân tộc khác.
Cuộc chiến tranh với nông dân: không bắt tù binh
Đây là thời gian
Tất cả sẽ bắt đầu
Chúng đánh vào dân tộc những đòn đau nhất
Vào mùa dịch Vũ Hán lấp ló chân trời
Khi thế giới hoảng loạn
Đánh vào tim, đánh vào ngày Tết
Vào ngày giỗ chạp, tiết thanh minh
Vào cô Kiều đi xem lễ hội
Vào ngày rằm trăng sáng mênh mông
Đánh vào dĩ vãng chiến tranh buồn thương, dĩ vãng ngọt ngào
Trên bãi bồi, chim chào mào, tu hú
Đánh vào mùa lúa mùa khoai mùa bắp
Vào người nông dân bán mặt cho đất bán lưng cho trời
Đánh tan tác tình nghĩa cha ông
Sau chiến tranh, chúng ta lại có hoà bình
Sau những năm mất mùa, chúng ta lại được mùa
Anh mất em, anh lại trở về
Tình yêu bén lửa
Trong mùi phù sa sông Hồng
(Bài Thơ Đồng Tâm)
Đó là sự khai phá một thể loại ít được biết đến trước đây, có khả năng nói về đề tài dân tộc, lịch sử. Trong khi đó, thơ xuôi là một khuynh hướng phát triển mạnh mẽ hơn cả trong thơ đương đại thế giới, toan tính xóa nhòa ranh giới giữa văn xuôi và thơ, giữa các thể loại truyện ngắn, tùy bút, kịch, thơ, tiểu luận. Các tác phẩm của Anne Carson hay Lydia Davis, lừng danh, không thể xếp loại dễ dàng là thơ hay truyện.
Thơ Tân hình thức: những người giới thiệu và xiển dương thơ Tân hình thức, đặc biệt nhà thơ Khế Iêm, đã làm dấy lên một phong trào đổi mới hình thức, khoảng những năm đầu thế kỷ 21 ở California, lắng xuống một thời gian, rồi hồi phục trở lại khi được giới thiệu rộng rãi trong nước, với sự ủng hộ mạnh mẽ của nhiều nhà thơ trẻ và tài năng, nhất là những nhà thơ quy tụ quanh tạp chí Sông Hương, và đồng thời , trên tờ báo giấy cũng do Khế Iêm chủ trương, ra hai tháng một kỳ.
Con mèo đen có linh hồn và chiếc
xương sườn của tôi, mỗi buổi sáng thức
dậy không bao giờ rửa mặt, mỗi buổi
sáng thức dậy không bao giờ đánh răng;
con mèo đen có đôi mắt bằng đất
sét, mở ra và nhắm lại, hay cứ
mở ra và không bao giờ nhắm lại
Tôi nghĩ trường ca, thơ xuôi, thơ tân hình thức, xét về thể loại và đề tài, có thể đem đến những đóng góp mới cho thơ Việt hôm nay, hải ngoại và trong nước. Trong khi đi tìm cách diễn đạt cho những cảm xúc và sự thay đổi nội tâm, nhà thơ đi tìm từ ngữ mô tả hiện thực đã trải qua và thế giới thực tại, các từ ngữ ấy bắt buộc có tính cụ thể vì chúng xuất phát từ đời sống, các chữ ấy lại được gọi về, sắp xếp trong các quy luật của vần điệu, âm nhạc, tuy không chặt chẽ như trong các ca khúc nhưng cũng đủ để tạo lập nhịp điệu riêng biệt cho từng bài thơ nhằm phản ánh hiện thực thông qua hình ảnh. Bởi vì sự thật trong thơ ca là một thứ biểu tượng. Con người trải qua mất mát được an ủi bằng chính ngôn ngữ của sự mất mát. Khi một người thân bị mất, chính các hình thức tang lễ, tức là các pháp cách giúp cho sự mất mát ấy được thăng hoa, được chiếu đi chiếu lại trong tấm gương của ý thức và vô thức. Tang lễ không làm một người chết sống lại, cũng như thơ ca không làm cho một quê hương đánh mất được hồi sinh trở lại, tuy vậy sự đánh mất ấy, sự xa lìa ấy, bằng tang lễ, bằng thơ ca, trở thành một kinh nghiệm sống động, trở thành một bài ca được hát đi hát lại nhiều lần, xoa dịu, sưởi ấm, làm cho sự đánh mất trở nên chịu đựng được.
Vì vậy nghi thức là một liệu pháp, thơ ca là một liệu pháp. Chính là bằng nghi thức mà con người được tự do. Mối quan hệ giữa các nhà thơ hải ngoại với nền văn học trong nước được biểu hiện ở các mức độ khác nhau, tùy hoàn cảnh của họ. Những nhà thơ hải ngoại kế thừa truyền thống văn học miền Nam, những nhà thơ hải ngoại kế thừa truyền thống miền Bắc, những người vượt tường ở Đông Âu, những người ra đi khi đã lớn, học hành trong nước sau năm 1975, và những người viết sinh ra và lớn lên ở hải ngoại. Những nhóm người này, được quy định bởi lịch sử, sẽ có những tâm thức và ứng xử khác nhau. Một mảnh đất chung dành cho họ là mảnh đất được vun xới bởi thơ trữ tình. Khi cái tôi trữ tình lên tiếng, nó được dễ dàng chia sẻ.
Tôi biết Czeslaw Milosz nhà thơ giải Nobel sống lâu ở Hoa Kỳ, dạy học ở đó, viết gần một nửa số thơ của ông bằng tiếng Anh, nhưng người Ba Lan vẫn xem ông nhà thơ Ba Lan. Nếu so sánh cộng đồng người Việt hải ngoại và những cộng đồng lưu vong khác như Trung Hoa, Triều Tiên, Do Thái, Ả Rập hay Ukraina, về mặt văn học, qua các tác phẩm được dịch từ ngôn ngữ mẹ đẻ sang tiếng Anh, có thể nhận thấy một số khác biệt sau đây. Mặc dù những người tị nạn hay lưu vong đến từ các đất nước ấy vẫn sử dụng ngôn ngữ riêng của họ, các tác giả góp phần rất lớn vào việc dịch từ ngôn ngữ của họ sang tiếng Anh. Tôi nhận thấy trong những bài thơ dịch sang tiếng Anh có vai trò tham gia của tác giả.
Các thế hệ tiếp nối của các dân tộc lưu vong có những khoảng cách đối với nhau không quá xa như ở người Việt. Ở người Việt có một khoảng cách quan sát được giữa những người tham gia chiến tranh, bị tù đày ở và những người hoặc sinh ở hải ngoại. Ở thế hệ thứ hai và thứ ba này, quá trình hội nhập xảy ra mau lẹ nhưng đột ngột, cắt đứt với truyền thống. Những thế hệ về sau thậm chí không còn tự xem mình là người Việt nữa.
Dù sao, thơ trữ tình được viết bằng thể thơ cổ điển vẫn sống:
Ở đây sầu
đã tan tành
Người đi chưa đủ về quanh chiếu ngồi
Viên Linh
khói hương hương khói nhạt nhòa
nhòa nhạt hương khói vẫn là khói hương
khóc người, chưa dám nhớ thương
nhưng đã dám đốt nỗi buồn làm hương
Luân Hoán
Thơ tình hải ngoại kế tiếp truyền thống của thơ tình miền Nam, nhưng ở một số tác giả mới viết gần đây, cũng như những tác giả đến từ Đông Âu các ảnh hưởng khác của thơ tình miền Bắc không phải là không đậm đà.
Trong thơ có một khái niệm gọi là sự thân mật. Đây là sự gần gũi có tính riêng tư của nhà thơ đối với các sự vật được mô tả, và trong trường hợp thơ tình, các bài thơ đều có tính chất tương giao giữa người và người, là bài ngợi ca, là khúc nhạc yêu đương say đắm, là lời oán than, nỗi tiếc thương ngậm ngùi hay đau đớn. Những phẩm chất riêng của tình yêu nam nữ, tâm hồn, thể chất, tinh thần, luân lý, tâm lý, hoàn cảnh lịch sử, tất nhiên cũng là đối tượng của thơ tình. Tình dục là một đề tài mới mẻ trong thơ hải ngoại. Trong thơ tiền chiến và thơ cả hai miền Nam Bắc trước 1975, có thể nói trong thơ không có tình dục. Đây là điều đặc biệt: vì trong truyện ngắn và tiểu thuyết thì chúng có.
Thơ tám chữ mà mới như Vũ Quỳnh Hương.
Hãy tới hãy tới hãy tới Halfmoon Bay với anh
Ở một nơi trăng biếc gió xây thành
Ðêm và mộng và anh cùng ước hẹn
Ở Halfmoon Bay màu trắng rất xanh
Chúng ta biết tình yêu có thể phải thay đổi, có lúc bùng lên có lúc nhạt đi, rằng thời thế có thể làm cho tình yêu tan vỡ, rằng giá trị của một mối tình có thể không thể nào minh chứng được, rằng sự chung thủy của tình yêu là đáng nghi ngờ, rằng đau thương của nó là vô hạn, mặc dù thế tôi tin đó là thứ tình cảm mãnh liệt lâu bền nhất, quyết định nhất số phận một người, hạnh phúc của người đó, và do đó mà ở mức độ tập thể, là cái quan trọng nhất của một lịch sử, một cộng đồng, là dấu vết để lại trên đường đi của một giống người.
Các yếu tố thuộc về khuynh hướng làm cho thơ hải ngoại trở thành một nền thơ cách tân gồm có: yếu tố nữ quyền, thái độ chính trị, yếu tố tình dục, chủ nghĩa hậu hiện đại, thơ tân hình thức, sự dung hợp các luồng ngôn ngữ Nam Bắc, trong ngoài, tiếng Việt và sinh ngữ, sự đưa vào được ở những mức độ khác nhau không khí sống động của một đời sống bên ngoài biên cương tổ quốc, sự tiếp tục làm mới do ảnh hưởng của văn chương thế giới.
Kế thừa truyền thống của chủ nghĩa hiện đại trong thơ miền Nam trước đây, thơ hải ngoại mang tính chất pha trộn của chủ nghĩa lãng mạn tiền chiến, chủ nghĩa hiện đại, phương pháp sáng tác hiện thực, trong những năm đầu tiên. Kể từ cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa hậu hiện đại hiện diện trong sáng tác của các nhà thơ hải ngoại và sau đó lan tỏa vào trong nước, saumột thời kì ngắn bị chê bai dữ dội, về mặt học thuật. Tuy nhiên xét về mặt học thuật, do trong nước có nhiều điều kiện hơn, nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp hơn, một khi được chấp nhận hoặc ít nhất không bị nhà nước cấm đoán, chủ nghĩa hậu hiện đại liền được nghiên cứu một cách hệ thống. Trong khi đó, đồng thời và có thể trước đó, phương pháp sáng tác hiện thực kỳ ảo (magic realism) được giới thiệu trong nước sớm hơn với tiểu thuyết của nhà văn lừng danh Garcia Marquez. Nhiều người không nhớ rằng thực ra nhiều năm trước đó, chủ nghĩa này, trong văn học châu Mỹ la tinh, còn được giới thiệu bởi dịch giả Đỗ Khánh Hoan, người dịch Tagore trước đây ở miền Nam. Các dịch phẩm của Đỗ Khánh Hoan không được mấy người biết.
7. NGHIÊN CỨU VÀ PHÊ BÌNH
Lý thuyết người đọc hay lý thuyết tiếp nhận ngày càng ảnh hưởng đến thơ ca và văn xuôi. Người ta chia hệ tư duy nghệ thuật ra làm ba thời kỳ: thời kỳ tiền hiện đại với vai trò trung tâm của tác giả, thời kỳ hiện đại, lấy văn bản làm chính, và thời kỳ hậu hiện đại, vai trò của người đọc được nhấn mạnh. Như vậy văn bản chỉ đơn giản là trang sách hay màn hình với những chữ, không có sức sống cho đến khi người đọc nhận thức tính chất văn chương của nó. Có những nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến tính cách cá nhân của người đọc, có người chú ý đến sự đáp ứng của chị ta, anh ta. Vật lý học hiện đại cho rằng người quan sát cũng tham gia vào sự vật được quan sát, làm biến đổi chúng. Tính chất của vai trò người đọc trong văn chương trở nên dễ hiểu nếu chúng ta hình dung sự gặp gỡ giữa người đọc và một văn bản khác lạ. Trong trường hợp này, sự ngạc nhiên và tất cả các kiến thức của người đọc, tạo nên ý nghĩa của tác phẩm. Việc đọc một văn bản là sự kiện xảy ra trong một thời gian và điều kiện nhất định trong lịch sử đọc của độc giả. Tuy nhiên vì người đọc trong một thời kỳ thường chia sẻ với nhau các yếu tố tương đồng như tuổi tác, giáo dục, niềm tin, những di sản mà họ nhận được từ thế hệ trước, vì vậy người đọc trong một thời kỳ có những phản ứng đối với văn bản tương tự nhau. Những thế hệ lớn tuổi thường gắn bó với thơ có vần, bất chấp các quan điểm chính trị của họ, trong khi người trẻ hơn dù ở đâu, cũng cởi mở với các quy luật, và nghiêng về thơ tự do, cách viết mới lạ. Những người cùng một điều kiện xã hội như ra đi từ miền Nam có khuynh hướng yêu thích một giọng văn khác với những người ra đi từ miền Bắc. Sự khác biệt như vậy là bình thường, và chúng làm phong phú thêm văn chương. Người đọc hôm nay, mang theo căn cước của mình, niềm tin chính trị và văn hóa, những kinh nghiệm trong quá khứ trong việc đọc, sẽ trải qua một quá trình tiếp cận với văn bản, mới và lạ, các nhân vật khó hiểu, các xung đột về văn hóa, các niềm tin bị thách thức. Nhiệm vụ của thơ hôm nay là mang lại sự thách thức ấy. Là chấm dứt sự èo uột, cũ kỹ, sáo rỗng trong văn học.
Người đọc thơ hôm nay nên quyết định tham gia, hoặc từ chối tham gia, đọc lại, phê phán, và yêu mến thế giới tưởng tượng của các nhà thơ. Các nhà phê bình, dù dựa trên cảm hứng nghệ sĩ, hay sử dụng các sở trường học viện, cấu trúc hoặc giải cấu trúc, hiện đại hay hậu hiện đại, đều bình đẳng như nhau trong việc nhận định một tác phẩm. Trong khi không được quên sự quan trọng của các lý thuyết thì việc tiếp cận một tác phẩm trong thực tế, cách đọc kỹ một văn bản thơ, phê bình thực hành, vừa soi sáng các giá trị của bài thơ, vừa góp phần nâng cao cái nhìn của người đọc, là đều quan trọng như nhau và đều cần thiết. Đã có nhiều người nhắc đến Roman Jakobson, người phát triển các học thuyết của Saussure, đóng góp những quan điểm về ngôn ngữ, chia sẻ với các nhà hình thức Nga. Dưới ảnh hưởng của Jakobson, thi pháp biến thành một ngành của ngôn ngữ học. Khuynh hướng ấy làm cho người đọc bị tách ra khỏi văn bản. Trong thực tế, việc đọc thơ phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm có chọn lọc. Một người đọc không dành cho mọi yếu tố một sự quan tâm như nhau: có người nặng về nhạc điệu, có người nặng về tư tưởng, có người thích chữ đẹp, có người đi tìm ý nghĩa. Suy ra, một đám đông người đọc cũng như vậy.
Người viết và người đọc hôm nay có nhiều khả năng tiếp xúc với các ngoại ngữ. Dù yêu mến tiếng Việt, họ vẫn có những sở thích và tham chiếu khác. Sự tác động của internet lên văn học và việc đọc thơ hãy còn lâu mới được nghiên cứu thấu đáo, nhưng đặc điểm quan trọng nhất hiện nay là sự tương tác gần như ngay lập tức giữa tác giả và người đọc và giữa người đọc với nhau. Bản thân người viết bài này cũng đã nhận được nhiều phản hồi ngay lập tức, từ những độc giả không phải là nhà phê bình, nhưng ý kiến của họ hoàn toàn có ích cho người viết. Sự tương tác mau lẹ làm biến đổi ngôn ngữ và biến đổi thơ ca.
Khi đối diện với một nền văn minh và các phương tiện kỹ thuật mới, sẽ có hai thái độ cực đoan: những người trở nên nô lệ của chúng và những người quay lưng lại với chúng. Nếu tiếp nhận các lợi ích của phương tiện thông tin mới, thơ có thể mở ra những cánh cửa chưa từng có, những bài thơ trữ tình của các sự kiện và sự suy tư cá nhân. Nhiều người than phiền thơ in sách không bán được. Trong khi điều ấy là đúng, thì việc lan truyền thơ bằng các phương tiện khác là một lợi thế của thơ hôm nay mà các nhà thơ chưa biết sử dụng. Các chủ đề được chọn lựa, các chất liệu sáng tạo, các khuynh hướng biểu diễn, đối thoại, sân khấu, đọc thơ trên đường phố, trước các khán giả lớn và trước dăm ba người hãy còn rất hạn chế đối với người Việt ở cả hải ngoại lẫn trong nước. Trong các hình thức nghệ thuật và văn học, thơ có khả năng tiếp nhận nhanh hơn cả cái mới và cái lạ. Trong khi không ngừng quan tâm đến các vấn đề Việt Nam, thơ hải ngoại có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận với nền thơ thế giới nhất là Bắc Mỹ và Châu Âu. Các nhà thơ có thể làm nhiều hơn nữa nếu họ tin vào điều đó, và nếu họ giữ được tình yêu lâu bền đối với ngôn ngữ mẹ đẻ, lòng ao ước tự do và công bằng, làm cho thơ xứng đáng trở thành tiếng nói của cộng đồng, và trong khả năng của mình, góp vào các diễn đàn đương đại trên xứ sở mà người Việt chọn làm quê hương thứ hai. Lằn ranh phân biệt giữa thơ dở và thơ hay, giữa một nhà thơ tài năng và một nhà thơ tập sự, thậm chí giữa một nền văn học thực sự và một nền văn học nhảm nhí ngày càng trở nên mơ hồ. Điều này không những đúng cho thơ mà còn cho cả văn xuôi hải ngoại, không những chỉ đúng cho văn học hải ngoại mà còn đúng cho văn học trong nước, kể từ năm 1975 đến nay, vì nhiều lý do khác nhau, thậm chí hoàn toàn khác nhau. Trong một bối cảnh như thế, rất ít nhà phê bình có chỗ đứng. Hầu hết chọn sự im lặng. Sự trao đổi qua lại giữa các nhà thơ hoặc giữa những người viết nói chung thường chỉ có tính chất thù tạc. Ngôn ngữ thơ ca thay vì có nhiệm vụ xác định các đối tượng mô tả như những điểm tham chiếu thì lại bôi xóa chúng, dịch chuyển chúng. Như thế một ngôn ngữ bị xáo trộn, không dừng lại, sẽ tiếp tục vận động về phía trước và mang theo nó những thay đổi của lịch sử. Mặt khác người đọc ở hải ngoại ngày càng phân tán và giảm thiểu, trong khi người đọc trong nước tăng lên, sự giao hòa giữa trong nước và ngoài nước không chỉ dừng lại ở mức độ kinh tế, xã hội, chính trị,mà còn ở ngôn ngữ và văn học. Sự nghiên cứu về thơ nói chung, và về thơ hải ngoại, được khởi đi bởi một số nhà phê bình từ những năm một chín tám mươi như Đặng Tiến, Nguyễn Văn Trung, Đỗ Khánh Hoan, Thi Vũ Võ Văn Ái…còn được tiếp nối bởi những người làm nghiên cứu hoặc phê bình đến nay vẫn viết như Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Vy Khanh, Trần Doãn Nho, Nguyễn Tà Cúc, Ngu Yên, Nguyễn Đức Tùng và những người khác.
8. NGHĨ VỀ THƠ HÔM NAY
Ngôn ngữ không chỉ là hình thức diễn đạt mà là toàn bộ suy nghĩ của một thế hệ. Thơ là bộ phận ưu tú của ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ không đủ giàu có, tâm hồn người viết không đủ sâu, thì cảm xúc sáo rỗng, suy nghĩ không xa. Sự phân biệt giữa các loài, các dân tộc, các cộng đồng là khả năng chuyển tư tưởng thành ngôn ngữ. Thơ tạo ra những tương tác giữa người và người về mặt cảm xúc, thái độ, suy nghĩ. Những bàn luận về thơ cần phải đặt trên bàn luận về ngôn ngữ nói chung. Tuy nhiên nghiên cứu ngôn ngữ là một lãnh vực sâu rộng; và hiện nay ở hải ngoại chúng ta không có hay ít có các chuyên gia ngôn ngữ học. Sự khác nhau giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi và ngôn ngữ đời thường là gì? Ngôn ngữ là sự phản ánh hiện thực, nhưng ngôn ngữ cũng tạo ra một hiện thực khác. Các nhà thơ thường xuyên mang ngôn ngữ trở lại với những cảm xúc nguyên thủy trong khi làm mới chúng, các cảm xúc ấy.
M ặt kh ác, tự do là điều kiện cần nhưng không phải là điều kiện đủ cho sự phát triển của nền văn học. Các diễn đàn, các sinh hoạt nghệ thuật sôi nổi, sự ủng hộ của dư luận, tiếng nói của các nhà phê bình, sự tiếp nhận cởi mở, là những điều kiện để làm cho một nền thơ phát triển
Nhiều người hỏi: thơ là gì?
Tôi muốn đặt ra một câu hỏi khác, có lẽ dễ trả lời hơn và thiết thực hơn: thơ hay là gì?
Thơ là một tác phẩm nghệ thuật dành cho hai người và chỉ hai người mà thôi: thi sĩ và người đọc. Không phải người nào đọc sách cũng là người đọc của thơ. Người đọc của thơ khác với người đọc nói chung ở chỗ người ấy chấp nhận tham gia một trò chơi; và niềm say mê của họ không có ích lợi gì cả. Sự ích lợi có thể sẽ phát sinh sau đó. Một bài thơ hay mang lại sự tưởng tượng lớn ở người đọc. Sự tưởng tượng trong thơ là tất cả: nó mang lại lòng hoài niệm, nỗi đau buồn, cái chết chưa được chôn cất, tình yêu chưa được thổ lộ, sự phẫn nộ chưa bao giờ được lên tiếng.
Niềm vui được thể hiện và được tìm thấy trong ngôn ngữ, niềm vui ấy là lớn nhất trong các niềm vui, nhưng chỉ dành cho một số ít người. Chỉ một số ít người là người đọc của thơ. Đó là sự thật muôn đời. Điều ấy xem ra có vẻ cay đắng nhưng đó là sự thật. Tuy vậy, sự thật còn lớn hơn thế: những người đọc thật sự, dù cố ý hoặc vô tình, sẽ làm lan tỏa niềm vui thú của thơ ra những người xung quanh mình.
Những phương pháp sáng tạo mới, các khuynh hướng cách tân táo bạo là cần thiết, nhưng không nên làm cho người đọc ngần ngại, các nhà thơ phải thuyết phục được người đọc của mình rằng: những bài thơ khó hiểu nhất vẫn có thể mang lại cho họ sự vui thú như khi nghe một bài hát ru. Thơ hôm nay dù mới mẻ cũng không vượt qua được các yếu tố ngàn đời của thơ: tính âm nhạc, tính hình ảnh, vẻ đẹp của ngôn ngữ, tính tư tưởng. Có hai khuynh hướng trong nghiên cứu và phê bình: một mặt coi nặng phê bình thực hành, trong thực tế là các lời khen vô tội vạ, có người gọi là phê bình nghệ sĩ hay phê bình báo chí, bè phái, coi nhẹ các nghiên cứu học thuật, như phê bình lý thuyết, văn học sử. Khuynh hướng ngược lại: coi nặng lý luận văn học, nói những điều tổng quát và cao siêu khiến cho độc giả sợ hãi, nhưng khi nhận định một tác phẩm cụ thể thì khô khan, thiếu chân thực. Phê bình vừa phải đứng cách xa tác phẩm vừa phải đứng rất gần. Những người yêu tiếng Việt, yêu thơ hôm nay có một may mắn lớn là nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại, họ có thể đọc được nhiều tác phẩm xuyên biên giới, cũ và mới, mọi khuynh hướng.
Nhiệm vụ nhà thơ là viết cho thật hay, xưa nay đã thế, bây giờ càng thế. Thơ là tâm hồn và tư tưởng của một dân tộc. Sau hai mươi năm chiến tranh và một nửa thế kỷ lưu lạc, người Việt hải ngoại vẫn còn giữ được trong tài sản ít ỏi của mình một thứ ngôn ngữ đẹp, sang trọng, gần gũi với văn minh nhân loại. Nếu chia nền thơ hải ngoại làm ba thời kỳ, thời kỳ 1975 - 1989 là giai đoạn khởi đầu, sự kế tục của thơ miền Nam, tiếng kêu bi thiết của những người vừa mất quê hương, thời kỳ 1989 – 2000 là giai đoạn trưởng thành, hội nhập vào xứ sở mới, quay trở lại giao lưu với trong nước, mang tâm thức hiện đại, thì thời kỳ thứ ba từ 2000 đến nay là sự phát triển phức tạp, trên nhiều hệ tọa độ, rất khó theo dõi, vừa dung nạp các giá trị văn chương thế giới vừa giao thoa với trong nước, có sự phối hợp nhiều ngôn ngữ, nhiều nhà thơ cùng lúc có thể sáng tác trong hai ngôn ngữ, mang tâm thức hậu hiện đại. Có một khoảng cách rất lớn giữa kỳ vọng của độc giả và tài năng của các nhà thơ, giữa nhiệm vụ của thơ ca và các tác phẩm ngày càng bình dân hóa, dễ dãi, tràn lan, trong bối cảnh các tiêu chuẩn thẩm mỹ bị hạ thấp, giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ khác.
Ngôn ngữ thơ là một ngôn
ngữ nghệ thuật. Ngôn ngữ nghệ thuật biểu lộ lịch sử, tư tưởng, văn hóa của một
cộng đồng hay một dân tộc. Thời đại lưu vong đã tạo ra một lớp nhà thơ mới, đó
là những người chưa từng cầm bút ở trong nước, hoặc là người đã từng viết trước
đó nhưng trong hoàn cảnh mới, họ tiếp tục viết với bút pháp mới. Sự thất vọng
mà thơ Việt hải ngoại mang tới cho người đọc không lớn hơn mà cũng không nhỏ
hơn sự thất vọng mà thơ trong nước mang tới cho người đọc của họ trong nước. Điều
kiện địa lý cách trở, thế hệ trẻ ở hải ngoại lớn lên xa dần tiếng Việt, sự bổ
sung của các nguồn di dân từ trong nước không theo kịp. Chúng tôi hy vọng rằng
những nhà thơ, nhà phê bình, người đọc, thuộc mọi thế hệ, vẫn còn yêu tiếng Việt
nhận ra sự khó khăn của chúng ta, làm việc nhiều hơn nữa, đọc nhiều hơn, viết mới
hơn và viết hay hơn. Đời sống ngày một sôi động, thơ hôm nay có thể tạo ra những
khởi đầu mới mẻ, cái nhìn mới, tư tưởng mới, nhờ học tập ở các nền thơ lớn trên
thế giới, góp phần di dưỡng tinh thần dân tộc, sự phản kháng đối với các tội ác
và tình yêu công lý.
Thơ không đem lại những câu trả lời cho các vấn đề đương đại, nhưng có thể làm
cho người đọc trở nên dấn thân nhiều hơn về trí thức và cảm xúc. Người đọc trở
nên gắn bó hơn với những đối thoại và tra vấn bên trong các nhà thơ, khi bài
thơ có thể mang lại cho họ vẻ đẹp của âm nhạc, ngôn ngữ, năng lượng, tính ẩn dụ,
tính đối thoại và tính kịch, lòng khao khát của một dân tộc chia lìa, đã mất
mát quá nhiều qua chiến tranh và tan vỡ, hận thù và chia rẽ, tìm lại nhau trên
hành trình đi tìm tự do, đi tìm sự đoàn kết dân tộc và các giá trị nhân loại.
Nguyễn Đức Tùng
5/2025