Đoàn Nhã Văn
Phan Lạc Tiếp:
Cánh Vạc Giữa Lưng Trời
Phan Lạc Tiếp, khi còn ở trong nước, đã đến với độc giả trước tiên bằng tập bút ký Bờ Sông Lá Mục (1969). Tại hải ngoại, người đọc lại được thưởng ngoạn tập bút ký di tản: Nỗi nhớ (1995), và sau đó là bút ký: Quê nhà 40 năm trở laiï (1996) đã để lại nhiều xúc động nơi độc giả. Ông dự định trình làng thêm ba quyển bút ký nữa, theo bìa trong của tập Bờ Sông Lá Mục được tái bản tại Hoa Kỳ. Thành thử, nhắc đến Phan Lạc Tiếp, người đọc nghĩ ngay đến một người viết ký, rất thu hút. Tuy nhiên, không chỉ thành công trong thể loại bút ký, ông còn thành công ở một thể loại khác của văn chương, đó là truyện ngắn, mà tập truyện Cánh Vạc Lưng Trời đã để lại một nét son sâu đậm nơi người đọc.
Cánh Vạc Lưng Trời gồm 15 truyện ngắn. Tuy bám sát vào đời sống của từng nhân vật, nhưng ông không dựng lại hoàn toàn đời sống của họ, ông chỉ đẩy những nét cọ, tạo nên những góc cạnh riêng, mà ở đó, mỗi một gam màu là một chứng tích của cuộc đời. Tất cả những chứng tích đó được bắt đầu từ lúc miền Nam hấp hối, trãi dài đến những năm đầu làm một lưu dân.
Bước vào không gian truyện ngắn của Phan Lạc, người đọc bắt gặp trước tiên là sự thủy chung, trong cuộc sống, và sau đó là một tấm lòng rộng mở với tha nhân. Nói thủy chung, bởi nhân vật chính của ông, đẹp. Cái đẹp nảy lên từ những nhịp đập, bất luận thế, thời. Họ minh bạch trong suy nghĩ, và họ ngay thẳngtrong việc làm. Họ sống có trước, có sau với kẻ trên, người dưới. Họ ray rứt trong lòng, khi thấy bạn bè, đồng đội, hay người thân bị điêu đứng, dù rằng những điêu đứng đó do thời cuộc xô tới, do định mệnh phủ lên, chứ không phải do họ tạo ra. Nói rộng mở với tha nhân, vì những nhân vật chính luôn biểu lộ một tấm lòng tha thiết với đời, một sự cảm thông, gần gũi với người. Đứng ở bên này, nhìn về bên kia biển lớn, thương nước, thương non, thương đồng bào khốn khổ. Sống tại xứ người, họ mở lòng ra với mọi người chung quanh. Giữa họ, không còn hàng rào ngăn cách, từ ông trung tá xuống anh binh nhì, những người một thời đứng chung chiến tuyến nhưng cách biệt nhau khá xa về vai vế trong đời. Giữa họ, không còn cũ, mới, từ anh thợ hàn cho đến ông xếp. Giữa họ là những chia xẻ thân tình từ lớp tuổi thất thập cổ lai hy với bao tháng năm dông gió, đến những người thanh niên trẻ tuổi, cuồn cuộn sức sống vào đời.
Qua tập truyện ngắn, người đọc thấy ở ông Phan lấp lánh một tấm lòng với nghệ thuật, với cuộc đời. Cảm mến một tấm lòng chỉ là bước đầu tiếp cận tác phẩm. Điều quan trọng hơn, chính là cõi rung động thực sự sau đó. Con đường đưa người thưởng ngoạn từ sự cảm mến của một phong cách đến chuỗi rung động sau cùng ắt phải xuất phát từ sự thu hút lớn. Hấp lực đóù chắc chắn phải bắt nguồn từ những nét đẹp của nghệ thuật. Và điều đầu tiên mà người đọc bắt gặp đó là nghệ thuật đòn bẩy mở ra những tầm nhìn mới trong truyện ngắn của ông.
Chia ly là đau khổ, dĩ nhiên. Chia lìa và ly tan luôn mang những tức tưởi, nghẹn ngào. Khi miền Nam trong cơn hấp hối của tháng 4, 1975, bao chia ly bắt đầu, bao nổi trôi bừng dậy. Tháng 4, đánh dấu một giai đoạn nghiệt ngã của đất nước, mà bây giờ, sau ba mươi năm nhìn lại vẫn thấy hãi hùng. Một giai đoạn lịch sử như vậy không thể nào không ám ảnh trong lòng mỗi nhà văn, những nhân chứng sống của thời cuộc. Mà ở một người “đi” nhiều và mang một trái tim thiết tha với cuộc sống như Phan Lạc Tiếp, thì giai đoạn đó ắt hẳn để lại cho ông những vết thương lòng rất lớn. Vì thế, ở hai truyện ngắn đầu tiên của tập truyện này: Tình Sông Nghĩa Biển và Tờ Lịch Cũ, mang nổi đau chia lìa hun hút, chứa đựng nổi chia cắt thẳm sâu. Nó có thể tạo nên những phút điên dại nhất thời, và cũng tạo nên những ám ảnh lâu dài cả kiếp người. Nhưng thực ra nỗi khổ chia lìa chỉ là cái cớ để Phan Lạc Tiếp dựng truyện. Đó không phải là điều ông muốn nói sau cùng. Điều ông muốn nói là một cái khác. Cái khác đó chính là niềm đau sum họp. Nếu chia lìa đau một, thì niềm đau sum họp phải lớn hơn nhiều. Đây chính là nghệ thuật đòn bẩy. Dùng chia lìa để bẩy lên nổi đau ngút ngàn của sum họp. Sử dụng nghệ thuật đòn bẩy trong truyện ngắn là một điểm khá đặc thù của nhà văn Phan Lạc Tiếp, mà chúng ta có thể thấy rất rõ qua hai truyện ngắn: Tình Sông Nghĩa Biển và Tờ Lịch Cũ.
Ở Tình Sông Nghĩa Biển, Duân vượt thoát ra đi trong lúc tình thế khẩn cấp, không còn sự chọn lựa nào khác, để lại người yêu với cay đắng nghẹn ngào. Nằm trong trại tị nạn, Duân như người mất hồn. Nhiều lần anh định theo tàu trở lại Việt Nam. Nhưng rồi Ngà, người yêu của anh, vượt biên đến Thái. Anh hân hoan bảo lãnh nàng qua, mừng vui sum họp trùng phùng. Niềm vui chưa kịp dứt thì dông tố nổi lên. Ngà không còn là Ngà của ngày xưa. Nàng kể cho anh nghe từng chi tiết của đời mình. Cuộc đổi đời đã đẩy Ngà vào con đường cụt, mà sau đó nàng không còn sự chọn lựa nào khác là chấp nhận làm vợ một người thanh niên khác, mà cuộc đời của anh cũng lắm gian truân, cũng nhiều bão nổi. Niềm đau sum vầy này u khuất, nặng nề. Không thể tước đoạt niềm hạnh phúc đang có của người khác, Duân phải quyết định ra đi, chấp nhận nổi đau riêng mình, dù biết rằng ra đi lần này là không còn và không thể quay trở lại.
Trong khi đó, ở truyện ngắn Tờ Lịch Cũ thì hoàn cảnh lại trái ngược. Ông Thiệt bị kẹt lại và bị giam giữ nhiều năm, may mắn thay vợ con ông vượt ra được bên ngoài. Niềm nhớ nhung, cách trở ám ảnh ông Thiệt biết bao lần khi còn nằm trong trại tù nhỏ nơi rừng thiêng, nước độc, và sau khi ra khỏi tù nhỏ là nhà tù lớn hình cong chữ S. Rồi ông vượt biển thành công rồi đến bến bờ tự do. Điều đầu tiên mà ông quan tâm: tìm lại vợ con mình. Bao nhiêu vất vả khó khăn, mới tìm ra nơi ăn chốn ở của vợ con mình, nhưng ông thất vọng. Không có niềm vui sum họp, không có nước mắt vui mừng cho sự đoàn viên. Mà ngược lại là cả một trời u ám.
“-Tôi…tôi không còn là vợ anh nữa. Anh ra khỏi nhà tôi ngay. Nếu không tôi kêu cảnh sát.
(…)
-Tôi nói không là không. Yêu cầu anh ra khỏi nhà tôi ngay.
(...)
-Tôi và anh giờ này không còn liên hệ gì nữa. Tôi đã nhờ luật sư lo vụ ly dị, và luật sư đã tống đạt đơn ly dị của tôi về địa chỉ của anh rồi.
-Tôi không biết gì cả, tôi chưa nhận được gì cả.
-Không, dù anh biết hay không, trên pháp lý tôi không còn ràng buộc gì với anh nữa. Anh…anh nên ra khỏi nhà tôi ngay.” (Trang 44)
Còn cái đau nào đau hơn khi nghe chính vợ mình nói ra những điều ấy trong ngày hội ngộ, trùng phùng?
Từ nghệ thuật đòn bẩy trong truyện ngắn, người đọc bắt gặp nhiều hình tượng đẹp, nhiều chi tiết cảm động. Ở một số truyện ngắn, Phan Lạc Tiếp đã biến những chi tiết thoạt nhìn cứ như bình thường, nhưng khi đi vào truyện của ông, những chi tiết này trở thành những điều khó có thể quên được khi đóng tập sách lại.
Đó là hình ảnh một ông già tìm vào đến tận trại tù nơi rừng thiêng nước độc để tìm ông Thiệt, người chiến binh trong hàng ngũ thất trận. Đây là người chú của ông bị kẹt lại ngoài Bắc sau 1954. Ông già đã đưa cho ông Thiệt một món quà: một nắm xôi trắng đã khô và một tờ lịch cũ. Rồi ông lạnh lùng quay đi. Đây là tờ lịch ghi lại ngày sinh tháng đẻ của ông Thiệt, tại nhà thương Hàng Cót Hà Nội. Trên đó ghi lại ngày bố mẹ ông Thiệt mất; sau nữa là ghi tên tất cả những người anh chị của ông đã qua đời. “Tôi cầm tờ lịch trên tay, ngửa mặt nhìn trời. Trời thì cao quá, ngửa mặt nhìn cây, cây rừng xanh thẩm. Nhìn xuống thân mình, đôi chân đầy ghẻ, ốm tong teo, cái bụng thót lại. Sờ vào ngực mình, chỉ thấy lật bật những hàng xương sườn và con tim hoi hóp. Tôi trào nước mắt, vì rất có thể một lúc nào đó tôi sẽ nằm xuống đây, giữa cánh rừng già thâm u này. Lúc ấy chẳng còn ai viết hộ tôi vài hàng vào tờ lịch cũ. Buồn quá, và nhớ đến vợ con quá…” Sau khi ra khỏi tù, trên đường tìm tự do đầy bất trắc, ông vẫn mang theo tờ lịch canh cánh bên mình. Khi đối diện với sự thật đớn đau trong ngày đoàn viên, ông sup sụp tinh thần. Trong bức thư gởi lại cho một người bạn, ông viết “Nay tôi đi xa, tôi xin gởi lại anh tờ lịch nhỏ, một bảo vật của gia đình tôi, để mai đây khi có dịp anh sẽ trao lại cho cháu Thanh, và nói với cháu hộ tôi rằng ngày mùng 10 tháng 7 năm 1929 là ngày tôi sinh ra. Tôi tuổi Tỵ. Và nếu sau này không có tin gì của tôi gởi về thì anh hãy bảo cháu ghi thêm vào tờ lịch rằng “Bố đã ra đi ngày 18 tháng 12 năm 1982 và hãy coi ngày ấy như ngày kỵ của bố””.
Câu chuyện kết thúc bi thương và cảm động. Gia phả một tộc họ nằm trong một tờ lịch nhỏ cũ càng, mà nơi đó chỉ đánh dấu những ngày tháng mất, còn, không một nét triện son, không một thành công lớn. Tấm gia phả này là của riêng ông Thiệt, hay là của ai đây? Tờ lịch cũ là chi tiết nhỏ nhưng đã tạo nên một ấn tượng lớn, mở ra nơi người đọc một sự liên tưởng mới.
Một điểm nổi bật khác ở Cánh Vạc Lưng Trời là đẩy một hình tượng cũ, một khung cảnh cu,õ ra khỏi sự liên tưởng đã thành nếp trong suy nghĩ của người đọc. Đây là một trong những sáng tạo của nhà văn.
Đầu thập niên 80, khi mà cao trào vượt biển lên cao, khi mà thuyền nhân Việt Nam gánh chịu nhiều gian truân trên đường vượt thoát, những truyện ngắn của Phan Lạc Tiếp mang một không khí trầm buồn theo dông gió của lịch sử. Ở đây, ông chắt chiu, gạn lọc để dựng nên nhiều cảnh cảm động. Người đọc bắt gặp những cảnh bi thương, đầy nước mắt.
Trong Nửa Đêm Trăng Sáng, cái đau của người cha khi thấy con mình từ từ đi vào lòng đại dương như kéo người đọc trở về những ngày tháng kinh hoàng, những phút giây đối diện với tử thần, thân phận mong manh của kiếp người đi tìm sinh lộ trong những bước đường cùng.
“…Ông Khiêm cũng đã cố đi tiểu để cho con uống, nhưng nước tiểu của ông cũng không còn bao nhiêu. Vài giọt nhỏ đọng trong lòng bát vàng khè. Ông kê miệng bát vào miệng con, đổ nước tiểu vào. Một lúc sau đó, thằng Hùng mở mắt ra, chớp chớp như muốn gọi. Ông Khiêm cuối sát mặt con. Hùng dương đôi mắt trắng giã nhìn ông. Ánh trăng chiếu lóng lánh vào đôi mắt ấy, từ dưới mắt chảy ra một giọt nước long lanh. Đôi môi sưng nứt nẻ mấp máy “Con chết. Thả con xuống… cho mát. Con sẽ phù hộ… Nhớ cúng cho con coca…” Nói rồi thằng nhỏ ngoẹo đầu, đôi mắt vẫn mở lớn. Ông Khiêm cuối xuống lay vai con, thân thể đứa nhỏ đã bất động. Ông vuốt mắt cho con và đứng lên. Dưới chân ông la liệt những người nằm gục, như chết, không ai động đậy. Quanh ông biển êm đềm, trăng sáng mông mênh. Ông vác xác con đặt ở mũi ghe, ông đứng đó thật lâu. Gió biển thổi từng cơn lạnh. Ông tìm một mảnh ván, đặt xác con vào và nhẹ nhàng thả xuống mặt biển. Ông đẩy nhẹ tấm ván ra xa. Xác thằng Hùng trên đó, lúc ẩn, lúc hiện bập bềnh, xa dần. Ông ngửa mặt nhìn trời. Trời trăng vằng vặt.
(…)
Bấy giờ đã mấy năm qua, kể từ khi chiếc ghe của ông được vớt, mọi người đều ở trong tình trạng hôn mê ông không còn nhớ được hôm con chết là ngày bao nhiêu. Hình ảnh cuối cùng mà ông còn lại trong đầu, là một chấm đen bồng bềnh xa dần, trôi đi giữa một vùng biển đầy trăng sáng.” (Trang 73-74)
Lạ! Trên đường vượt thoát, nhiều người đã viết đến những bão tố, phong ba, những đêm đen thăm thẳm. Còn ông, ông viết cảnh tang thương trong một đêm trăng sáng. Ông đã đẩy vầng trăng ra khỏi nếp liên tưởng thường ngày, làm bật lên nỗi đau trùng trùng của người cha mất con. Chẳng thà đưa con mình vào lòng biển trong ngày bão nổi. Thả xuống, mất biệt. Chẳng thà đưa con mình vào lòng đại dương trong đêm tối mịt mù. Thả xuống, vơi đi. Không còn thấy gì nữa, không còn nhìn theo được nữa. Trong những khoảnh khắc như vậy, niềm đau có rát buốt, có dập dồn, nhưng không đau bằng khi thấy con mình nhồi lên, xụp xuống treo triền sóng, từ từ, rời xa, nhấp nhô, nhấp nhô, mờ dần trong một đêm trăng vằng vặc. Nỗi đau như bị ai cứa từng tấc lòng. Những vết cứa cứ từ từ, từng chút, từng chút một. Càng nhìn theo chấm đen, bập bềnh, nỗi đau càng kéo dài, vô tận.
Không chỉ ở truyện ngắn Nửa Đêm Trăng Sáng, mà ông còn sử dụng ánh trăng trong những truyện khác, như Người Bạn, chẳng hạn. Trong truyện ngắn này, người đàn ông hồi tưởng lại những kinh hoàng mà ông đã trải qua trên biển. Những máu và máu, đổ xuống trong một đêm trăng sáng. Máu không do công an đuổi theo và xả súng vào tàu vượt biên; máu không do hải tặc vây hãm, cướp bóc, giết người. Máu bắt đầu đổ xuống từ sự quẫn trí của gã tài công khi thấy con mình ra đi; sau khi nghe reo réo giọng chữi rủa của bà chủ tàu. Và gã lên cơn. Giết, giết. Một nhát rìu đưa lên, hạ xuống; một mạng người. Và cứ thế, cứ thế.
“Bà ta cứ thế mà nguyền rủa từ sáng đến trưa. Nhất là đêm xuống…Hắn cũng cứ ngồi im. Đến khi bà ta túm lấy hắn như muốn cào muốn cắn, thì hắn vùng dậy. Hắn vồ lấy cái rìu ở đầu ghe, hắn tiến lại bà chủ ghe. Bà chủ ghe thất thần lùi lại, rồi vấp vào xác người, ngã xuống. Tên tài công vẫn từ từ tiến tới. Bà chủ ghe lê lết chấp tay vái lia lịa, tên tài công vẫn cứ tiến lên. Hắn giơ rìu lên và chém xuống. (…) Hắn vác cái rìu đi dọc theo lòng ghe, lấy chân lật mặt các người nằm. Ai chết, hắn bỏ qua. Ai còn sống hắn quơ rìu xả xuống. Hắn bình tĩnh chém người như chém chuối. Lúc ấy cả sinh lực tôi có lẽ chỉ còn ở hai con mắt. Tôi muốn nhắm lại, mặc cho số mệnh, nhưng mắt vẫn mở ra. Tôi thấy hắn tiến lại phía tôi. Ờ, có lẽ tại ánh trăng sáng quá, chiếu xuống cặp kính cận, nên hắn chú ý, hắn lại. Tôi định chạy, mà vô phương. Cả thân thể tôi như một đống mền rách, rã ra. Tôi chỉ kịp giơ tay che người và đón nhận số phận. Hắn tiến lại. Tôi lê đi, hắn vẫn cứ từ từ tiến đến, tất cả thật vắng lặng. Hắn giơ rìu lên và xả xuống…” (Trang 132-133)|
Thường, những đêm trăng sáng là những đêm lý tưởng. Trăng, tượng trưng cho sự an lành, hạnh phúc. Trăng, tượng trưng cho sự sum họp đoàn viên. Ta có thể bắt gặp điều này ở khắp nơi: trong thơ, trong văn, trong nhạc. Nhưng ở Phan Lạc Tiếp, trăng: lung linh nổi chết; trăng: lưởi hái tử thần; trăng: tanh tao mùi máu!
Bao nhiêu năm đã trôi qua. Lịch sử thuyền nhân đã sang trang. Vậy mà hôm nay đọc lại, vẫn thấy kinh hoàng.
Nhà văn Phan Lạc Tiếp dựng truyện bằng vào kinh nghiệm của mình. Hình ảnh ông tạo nên là những hình ảnh sống. Chi tiết trong truyện là những chi tiết “thật” ngoài đời. Tuy nhiên, vì có nhiều truyện ngắn sử dụng không khí của một hãng đóng tàu, nên người đọc có cảm giác: nếu như bước ra khỏi vùng không khí thân thuộc này, không biết ông có còn dựng được những truyện ngắn cảm động khác hay không?
Mỗi nhà văn có một lối đi riêng. Ở Cánh Vạc Lưng Trời, Phan Lạc Tiếp chọn một lối đi xem ra có vẻ quang đãng nhưng chẳng dễ dàng chút nào: đẩy hình ảnh cũ ra khỏi nếp nghĩ thường ngày, ra khỏi vị trí liên tưởng quen thuộc, để tạo nên một không khí mới trong truyện ngắn.
Nếu đọc văn để hiểu người, người đọc mường tượng sự đồng cảm với mọi người chung quanh, của tác giả. Ông sống hết mình với tha nhân; ông trải lòng ra với bằng hữu, từ đầu đến cuối. Mỗi truyện ngắn là một đoạn đường đi qua, mỗi bài ký đánh dấu một lần xoải cánh. Như cánh vạc giữa lưng trời, ông cứ bay, bay mãi miết.
Đoàn Nhã Văn