phỏng vấn
nhà thơ
Trangđài Glassey-Trầnguyễn
về tập thơ “MÙA YÊU CON Thứ Nhất”
- Tại sao là tác phẩm thứ nhất là một tập thơ về con yêu, MÙA YÊU CON Thứ Nhất ?
Thưa Gió O, "MÙA YÊU CON Thứ Nhất" (2012) là tập thơ thứ năm của tôi. Tập thơ đầu tay, "nếu Mẹ thích – if you like, Mom" (2002) là tâm t́nh của một đứa con bằng máu mủ (đối với mẹ đẻ) lẫn một đứa con tinh thần (của Mẹ Việt Nam). Đây là một tập thơ song ngữ, với bản dịch 13 thứ tiếng. Tập thứ hai diễn đạt những cảm nghiệm tâm linh với cái tựa rất nghịch, "Cút Bắt (2002). Tập thứ ba ghi lại chuyến về thăm nhà đầu tiên sau bốn năm ở Mỹ, "những điều trông thấy – of things i've seen" (viết 1998, in 2004). Tập thứ tư nói về những đứt đoạn trong quan hệ cha con khi Ba tôi bị tù cải tạo và sau đó đi vượt biên, cũng như những ngày đầu tiên gia đ́nh đoàn tụ tại Mỹ, "X–X1: Thuyền Nhân Khúc cho Ba – Songs for a Boat Father" (2004).
Tại sao lần này lại về chuyện con yêu? Thưa, lư do đơn giản là v́ tôi vừa bước vào kinh nghiệm làm mẹ trong vài năm gần đây. Từ lúc hoài thai, th́ đă có những cảm tác khởi đi những mạch nước mới về mặt tâm lư, t́nh cảm, thể lư đang chảy trong tôi. Tuy sinh con là chuyện ngàn đời của nhân loại, nhưng tôi vẫn coi đó là một đặc ân. Có nhiều phụ nữ không có cơ hội sinh con, v́ hoàn cảnh hay v́ yếu tố sức khỏe. Có nhiều phụ nữ hiếm muộn ước ao được khổ v́ cấn thai, mà không được.
Có lẽ chủ đề của các tập thơ trước cũng lư giải phần nào chủ đề của tập thơ này. Tôi viết về những trăn trở lớn trong đời ḿnh. Tập thơ này, tuy nói về kinh nghiệm làm Mẹ lần đầu của tôi, nhưng cũng đụng chạm đến những chủ đề trong bốn tập thơ trước. Tập thơ đầu nói về t́nh mẫu tử, về Mẹ tôi và những h́nh ảnh người Mẹ Việt Nam khác mà tôi đă gặp trong cuộc sống, th́ có quan hệ Mẹ–Con với tập thơ này. Từ "nếu Mẹ thích" cho đến "MÙA YÊU CON Thứ Nhất" là một giai đoạn chuyển ḿnh của tôi cả trong đời sống (từ một người con gái, trở thành một người mẹ), lẫn trong sáng tác.
Tập thơ thứ hai là thơ cảm nghiệm, nói về kinh nghiệm tâm linh. Trong tập thơ “MÙA YÊU CON Thứ Nhất,” tôi cũng có nói nhiều đến chiều kích tâm linh của kinh nghiệm làm mẹ. Tập thơ thứ ba nói về đời sống tại Việt Nam, nhất là về những bất công đối với người nghèo. Trong bài "Con là Quê Hương của Mẹ" mà nhạc sĩ Trần Quang Lộc đă phổ nhạc, tôi có nói đến đời sống ở miền Tây Nam Bộ, và cái nghèo của người dân miền này. Về tập thơ thuyền nhân, th́ đó là phần di sản của Ba để lại, nên chắc chắn phải có mảng lịch sử này hiện diện trong ḍng huyết mạch cộng thông mà tôi cho rằng vẫn tuôn chảy từ đời này sang đời khác.
- Mẹ hoặc là Con là ám ảnh chính trong tập thơ đầu tay này ?
Ám ảnh chính vốn là Con, nhưng h́nh ảnh của Mẹ (cả Mẹ đẻ, lẫn Mẹ Việt Nam) cũng hiện diện qua huyết mạch cộng thông. Tôi là chiếc cầu – vừa là Mẹ, vừa là Con – trong tập thơ này. Nhưng ở nhiều cách, Mẹ và Con không tách rời nhau trong “MÙA YÊU CON Thứ Nhất.” V́ độc giả được gặp Con qua tâm t́nh của Mẹ nói với Con qua từng lời, từng chữ. Và chắc chắn độc giả cũng gặp Mẹ qua mỗi câu thơ v́ bà mẹ trẻ này ám ảnh cả tập thơ với sự mê con quá độ của ḿnh. Mẹ đeo sát Con, nên nói đến Con, th́ thế nào cũng có dính líu đến Mẹ.
Tập thơ phản ánh tất cả sắc màu của một tâm hồn phụ nữ lần đầu làm mẹ, từ tân toan đến hân hoan, từ hóm hỉnh đến dịu dàng. Tuy tập thơ chuyển tải những buồn vui, lo lắng, vất vả, khó nhọc của trách nhiệm làm mẹ, nhưng t́nh cảm chủ đạo vẫn là niềm hân hoan bất tận. Có lẽ cái dở nhất của tôi là hay lo (tuy cổ nhân có nói, ‘Người khéo thường bận, người khôn hay lo,’ nhưng tôi lo nhiều th́ chỉ thấy ḿnh khờ thêm v́ mệt). Lo thật nhiều. Lo liên tục. Lo không chịu nghỉ. Cho nên thời gian đầu mới có con, tôi bị căng thẳng và đuối sức, v́ muốn làm thật nhiều cho con, cái ǵ cũng lo hết. Một phần v́ chưa có kinh nghiệm, nhưng một phần lớn hơn là v́ yêu con. Nhưng sau một thời gian th́ bớt lo hơn, cảm thấy ḿnh bắt đầu quen việc, biết này biết nọ, biết chỗ mua quần áo trẻ em, biết súc b́nh làm sao, biết con ăn ngủ thế nào. Lúc đó, th́ bắt đầu nghịch, và trong thơ cũng phản ánh cái nghịch ngợm của một bà mẹ trẻ, vừa trêu chọc con, vừa tự trào ḿnh.
Có lẽ tính hài hước là nét đặc biệt rất riêng của tập thơ này. Trước nay, tôi đă quen với h́nh ảnh một người mẹ Việt Nam hiền lành, dịu dàng, mẫu mực. Đó là h́nh ảnh truyền thống. Thật ra, chắc chắn cũng có nhiều bà mẹ có tính hài hước, nhưng có lẽ h́nh ảnh đó chỉ được giữ riêng trong mỗi gia đ́nh. C̣n tôi th́ là một bà mẹ Việt Nam, nhưng ở hải ngoại, lại hay nghịch, nên trong thơ cũng có những nụ cười sôi nổi của riêng tôi. Có lẽ sự trong sáng và huyền dịu của bé con đă cho tôi cái hồn nhiên này, sống lại cái không gian vô tư và không ưu phiền, dễ dàng buông xă và không chấp, nhận chân đâu là điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Để sống với cái “Không.” Cả Mẹ và Con cùng ám ảnh cái “Không” này, và cùng nên một trong nó. Trong suốt gần bốn
mươi tuổi đời, tôi chưa bao giờ có một mối dây nào mật thiết hơn là mối dây với Con.
- Từ đâu mà thi sĩ viết ? Độc giả của Trangđài Glassey–Trầnguyễn là ai ? Thi sĩ có mường tượng ra trong đầu độc giả nào chia sẻ những bài thơ của ḿnh ?
Tôi đă chọn làm thơ như một cách sống, nên có lẽ cái việc viết đă trở thành bản năng và bản tính. Tôi viết cho tất cả những ai quan tâm, nhưng có lẽ trước hết, vẫn là viết cho ḿnh (và cho Con, hay một đối tượng vốn là chủ đề của một tác phẩm, ví dụ như Mẹ, như Đấng Thiêng Liêng, như Quê Hương, như Ba trong các tập thơ đă dẫn). V́ thích đọc nhiều thể loại và nhiều đề tài, nên tôi cũng đi t́m sự đa dạng và tự do trong tư tưởng và sáng tạo. Như vậy, tôi không ‘giới hạn’ độc giả của ḿnh, qua sự mở rộng cả về đề tài lẫn phong cách sáng tác. Hơn nữa, viết là một hành động tự đưa ḿnh vào thế yếu, khi người viết phơi bày tất cả những ǵ kín đáo và riêng tư nhất trong óc trong tim của họ. Tôi viết cho tất cả những ai muốn đồng hành với tôi trong kinh nghiệm làm người.
Riêng về tập thơ "MÙA YÊU CON Thứ Nhất," tôi thiết nghĩ nó có thể thích hợp với độc giả thuộc mọi thành phần và mọi lứa tuổi, không phân biệt giới tính. Một đứa bé có thể sờ được tâm t́nh của mẹ ḿnh trong đó. Một người mẹ có thể soi lại bóng ḿnh qua những kinh nghiệm rất thực tế như săn sóc cho con, nô đùa cùng con. Một phụ nữ độc thân hay có gia đ́nh mà không có con cũng t́m được những h́nh ảnh rất quen thuộc, v́ ai cũng có một gia đ́nh, một mái ấm, một nơi chốn yêu thương. Phái nam th́ t́m thấy một mảng màu trong tâm hồn của người khác phái, hiểu thêm một chút về cái rồ dại vô tận của những bà mẹ khi thấy họ làm tất cả v́ con, ngay cả trong lúc họ sống dở chết dở sau khi sanh mổ chẳng hạn.
Nhưng trên hết, bất cứ độc giả nào cũng có thể t́m được những giây phút thật và gần gũi, nh́n về tuổi thơ, về chính ḿnh, về quê hương. Một đứa bé không chỉ đơn thuần là một nhân sinh non nớt, một thành viên mới của cộng đồng nhân loại. Đối với tôi, Con là cả quê hương, là cả mạch nguồn sáng tạo, là những ǵ đẹp nhất và thật nhất trên cơi đời này. Và v́ sự bất lực của ḿnh khi dùng ngôn ngữ để diễn tả những điều này, tôi mới mượn nhiều h́nh ảnh khác nhau để nói về Con – từ bùn non cho đến ánh quang Thượng Đế, từ mùi mía thơm cho đến một quê hương trong tâm thức. Nhưng sự vay mượn này cũng có tính phản đề của nó: ai đă từng lội bùn non mới biết nó 'mẫn mịn, tan gịn' như thế nào; ai đă từng ngồi xước mía thanh dịu trong một chiều Tết ở miền Tây Nam Bộ, giữa biển nắng dạt dào và đồng nương bát ngát, mới hiểu cái vị thanh và ngọt và thơm của mía ra làm sao; ai đă từng yêu thương tha nhân, như Jean Valjean của Victor Hugo, th́ mới biết, dung nhan của Đấng Thiêng Liêng đẹp đến nhường nào. (Ở đây, tôi nói đến Đấng Thiêng Liêng như một h́nh ảnh bao dung, đầy yêu thương, dung nạp tất cả. Một cảm nhận riêng của tôi, để hướng về những ǵ hoàn mỹ nhất và nhân bản nhất.) Và ngay cả khi hai người cùng lội bùn non, th́ cảm nhận của mỗi người cũng sẽ khác biệt, cho nên, thơ ca cũng chỉ là lối thông để người đọc và người viết đi vào tâm thức của ḿnh và của nhau.
- Việt ngữ lăn lộn với Glassey–Trầnguyễn như thế nào để chúng có thể phát tiết thành thơ, khi mà ngôn ngữ sử dụng của cô với chồng con, với công việc, với các sinh họat hằng ngày là tiếng Mỹ. Cô sống ở ngoại quốc, lập gia đ́nh với người không phải là Việt Nam. Tại sao viết thơ bằng thứ ngôn ngữ mà cô không dùng hàng ngày ?
Nếu sữa mẹ là di sản thể lư đầu tiên tôi trao cho con sau khi con ‘xuất cung,’ để con được lớn lên và mạnh khỏe cả đời, th́ Tiếng Việt là di sản tinh thần đầu tiên và có thể là quư giá nhất mà tôi dành cho con. Từ nhỏ, tôi rất yêu văn chương, ngôn ngữ Việt, tuy thời hậu 1975 th́ sách vở và chữ nghĩa bị chôn sống. May mà c̣n sót vài cuốn giảng văn từ thư quán mà Ông Bà Ngoại tôi kinh doanh trước 1975. Vừa sang Mỹ năm 1994, tôi đă đi dạy Việt ngữ ngay, trong khoảng 10 năm, đồng thời cũng huấn luyện các thầy cô Việt ngữ trong những khóa mùa hè. Ngôn ngữ và văn hóa Việt luôn là niềm đam mê và nỗi quyến rũ lớn nhất của tôi.
Tôi vẫn thường hóm hỉnh, bảo rằng ḿnh luyến ái NHIỀU ngôn ngữ, mà trong đó, tiếng Việt đứng hàng đầu, và có một vị thế bất khả xâm phạm. Tiếng Việt vừa là tiếng “Mẹ Đẻ,” nhưng cũng vừa là tiếng “Nuôi Con” của tôi. Từ khi con c̣n trong bụng, tôi đă nói chuyện với con bằng tiếng Việt, cho đến hôm nay cũng vậy. V́ vậy, tập thơ này h́nh thành hoàn toàn trong Việt ngữ (trong khi tập “X–X1: Songs for A Boat Father – Thuyền Nhân Khúc cho Ba” lại khởi đi trong tiếng Anh, có lẽ v́ đây là một trong những đề tài chính mà tôi nghiên cứu trong gần hai thập niên qua). Tôi vẫn luôn dùng tiếng Việt thật nhiều, nhất là khi sáng tác, v́ đây vẫn là ngôn ngữ mà tôi yêu và cảm nhất, dù vẫn c̣n tiếp tục học mỗi ngày. Trong nghiên cứu, tôi vẫn tiến hành những Dự án đi sát với tâm thức và kinh nghiệm của người Việt, và vẫn dùng tiếng Việt trong những cuộc phỏng vấn lịch sử truyền khẩu tôi đă thực hiện trong hai thập niên qua tại nhiều nơi trên thế giới.
Ở nhà, tuy hai vợ chồng nói với nhau bằng tiếng Anh, nhưng tôi luôn nói với con bằng tiếng Việt (và chồng nói với con bằng tiếng Pháp, tiếng Mẹ đẻ của anh ấy). Khi đưa con đi khám thường kỳ, Bác sĩ nhi khoa có hỏi cháu nói tiếng ǵ. Tôi trả lời, “Cháu nói tiếng Việt với Mẹ, tiếng Pháp với Ba, và nghe lén (Ba Mẹ) bằng tiếng Anh.” Tuy chồng tôi là người Thụy Sĩ du học sang Mỹ (và gặp/yêu/cưới tôi tại California), nhưng anh ấy vẫn bảo, “Kiếp trước, anh cùng quê (G̣ Công) với em.” Nếu tin vào duyên tiền kiếp, th́ tôi vẫn lấy chồng Việt, và có thể như vậy thật, v́ anh ấy đón nhận văn hóa Việt Nam một cách rất tự nhiên và chan ḥa, nhất là trong lần về thăm quê đầu tiên năm 2008.
Trong hoàn cảnh riêng, v́ công việc, vợ chồng tôi phải xa nhau trong hai năm trời. Muốn có con ngay sau khi thành hôn, nhưng đành phải đợi. Khi có mang lần đầu, th́ mới sáu tuần, đă phải mổ ruột dư. Trong 1,000 phụ nữ mang thai, th́ chỉ có một người phải mổ ruột dư. May mắn là cả hai mẹ con đều an toàn. Lúc đó, chúng tôi lại dọn nhà liên tục, nên sức khỏe tôi yếu, cuối cùng, bác sĩ bắt buộc phải mổ đưa bé ra sớm 5 tuần. Tôi đầu tư hết mức trong việc t́m hiểu về thai tŕnh từ những ngày trước khi mang thai, nên hiểu rằng, mỗi ngày trong bụng mẹ đều cần thiết và quư giá cho con. Không được sinh tự nhiên, lại phải đưa con ra sớm, nên tôi tuy chấp nhận hoàn cảnh, nhưng vẫn luôn luôn muốn bù đắp cho những thiệt tḥi của con. Có lẽ tập thơ là một cách để tôi trao tất cả cho con: sức sáng tạo, t́nh yêu, hoài băo. Tôi nói về hoàn cảnh cá nhân, để độc giả có thể hiểu rơ hơn những nỗi niềm giăi bày trong tập thơ, và nếu có độc giả nào cùng cảnh ngộ với tôi, th́ mong là kinh nghiệm và tập thơ này mang đến cho quư vị một sự chia sẻ chân thành và hữu ích.
"MÙA YÊU CON Thứ Nhất" nói đến một giai đoạn sống mới cho tôi, trong niềm vui và trách nhiệm làm mẹ, cũng như những khám phá mới về chính cơ thể ḿnh. Cơ thể người phụ nữ khi mang thai và khi cho con bú đă nở rộng và mở rộng, đi vào những b́nh diện và chiều kích sâu xa khôn cùng. Về thể lư, khoa sinh học nói rằng bộ ngực của người phụ nữ chưa phát triển hết, cho đến khi sinh con và cho con bú (có lẽ đây cũng là lư do “Gái một con trông ṃn con mắt”). Tôi đùa với chồng, bảo có cô nào độc thân chưa con mà ‘khoe ngực’ với anh, th́ cứ phán ngay, “Immature!” để ám chỉ cả thái độ và thể lư chưa đủ trưởng thành ấy. Nếu cần, th́ giải thích thêm: “Ngực vợ tôi đă chín mùi rồi! Non nớt của cô th́ xá ǵ!” Đây là một câu nói đùa riêng tư giữa vợ chồng tôi, mong độc giả không lấy làm khó chịu.
Trong lúc tập làm mẹ, tôi gặp nhiều khó khăn về sức khỏe, thiếu sữa cho con bú trong hai tuần đầu, và con không chịu bú vú mẹ cho đến hai tháng sau khi sanh. Tôi tập cho con bú đến kḥm cả lưng, tuy không bao giờ bỏ cuộc, ngay cả khi lactation specialist đă bảo vô phương! Nhưng dù với bao khó khăn, nhưng đây là giai đoạn đầu làm mẹ của tôi, với những cảm xúc mạnh và riêng biệt mà tôi muốn ghi lại cho con và cho ḿnh. Đây là một cách để vừa giữ một nhật kư không đầy đủ cho con (v́ hai vợ chồng tôi rất muốn viết chung nhật kư cho con), vừa tiếp tục công việc sáng tác mà tôi theo đuổi trong gần 30 năm qua (từ khi c̣n ở Việt Nam). Vả lại, thơ vẫn luôn là một người bạn đồng hành trong suốt cuộc đời, nên dù Nàng Thơ vẫn luôn ẩn hiện huyền bí, tôi vẫn luôn kiên tŕ theo đuổi nàng, biết đâu có lúc, nàng sẽ tỏ ḿnh vẹn hảo.
- Cô t́m thấy ở gio–o.com những tao ngộ ǵ trong thế giới sáng tác hải ngoại ?
Tôi rất quư phong cách độc lập, rơ ràng, và đa dạng của Gió O. Thứ nhất, phong cách độc lập của trang này và của Chủ Biên hỗ trợ cho sự chọn lựa độc lập của độc giả. Tôi muốn mượn nguyên lư trao đổi sinh khí trong đông y để nói về điều này – khi độc giả đối diện với phong cách độc lập của Gió O, họ cũng sẽ đến gần hơn với phong cách độc lập của họ, nhất là nếu độc giả đó cũng là một người làm công việc sáng tạo. Sự độc lập này kích thích sự độc lập ở người bước vào nhà ảo Gió O.
Có nhiều bài viết rất mạnh và thẳng, chẳng hạn chuỗi bài "Gơ Cửa Hư Không” của Lê Thị Huệ, không dễ nuốt cho tất cả độc giả, nhưng như tất cả những món ăn kén người khác, những sáng tác này đ̣i hỏi người đọc phải dám đi vào Gió O với một tâm thức mở, và dám để cho Gió cuốn ḿnh đi, đến đâu th́ đến. Đó là một sự cộng hưởng táo bạo, đầy phiêu lưu, và đ̣i hỏi can đảm. Nếu không cố t́nh chống cự, người đọc sẽ dễ dàng bị 'cảm Gió' và sẽ quay lại thường xuyên để được cuốn đi và cuốn đi nữa, đến những phương trời mới, cho dù trên đường đi, có đạp trúng gai, hay va vào vách núi.
Lại cũng có những bài thơ, bài viết, chủ đề ảnh rất lạ mà đối với tôi, là những ‘công án’ trong Thiền đường sáng tạo, không để cho người đọc tự dễ dăi với ḿnh trong việc đọc và nghĩ. V́ là Thiền đường, nên Gió O làm được một việc, là để cho người sáng tác lẫn người thưởng lăm được tự do, tự toại, và mặc t́nh đi theo ṿng xoắn ốc của kẻ nhập Thiền. Mỗi người sẽ có một kinh nghiệm riêng khi vào Gió O, tùy ḿnh chọn Thiền hành hay Thiền tọa, tùy ḿnh muốn chạm vào vũ trụ mênh mông, hay lắng nghe một lời đá gọi.
Những sáng tác chọn lọc của nhiều cây bút và tay ảnh làm cho Gió O phong phú và lạ lẫm. Chủ Biên có thể ví như người thích sưu tầm, nhưng không tự giới hạn ḿnh, mà xông pha đi khắp nơi, ngược về nẻo cũ, lui tới chốn mới, để gửi đến độc giả những ngọn gió thơ mộng làm họ phiêu bồng, lẫn những trận cuồng phong, phô bày những ǵ thực tế và phũ phàng nhất của kiếp người và cảnh đời. Khi người viết nổi giận đủ th́ mới có thể viết hết và viết thật những ǵ ḿnh không chấp nhận và đả phá. Đây không phải là điều dễ dàng, v́ khi viết, là người cầm bút đă tự đưa ḿnh vào 'thế hiểm,' bộc bạch tỏ lộ cơi ḷng. Trên đời, không phải ai cũng dám nói thật (những điều ḿnh nghĩ). Điều này lại càng khó hơn trong cơi viết.
thực hiện: lê thị huệ
chủ biên gio-o.com
hăy mua và làm quà tặng
đến những người
mẹ trẻ
những người lần
đầu tiên làm mẹ
món quà đáng yêu và xinh quư
gio-o.com giới thiệu tập thơ:
Ấn phí $10, Bưu phí $3.
liên lac:
7791 Santa Catalina,
Stanton CA 92802
© gio-o.com 2012