Trn th LaiHng

 

Vơ Đ́nh
V
và VIT

 

tản mạn

 

 

Thời gian gần đây, nhiều bạn bè có những câu hỏi về những liên hệ giữa chúng tôi, Vơ Đ́nh và LaiHồng.  Quư bạn muốn biết chúng tôi có ảnh hưởng nhau trong cách vẽ/viết và/hay quan niệm vẽ/viết, và nếu có, th́ như thế nào.

 

VẼ

 

Xin được lần lượt chia làm ba phần.  Trước hết là hai chữ họa sĩ.  Sau đó là ảnh hưởng trong cách vẽ, và quan niệm vẽ.

 

1/  Họa sĩ :  Anh Vơ Đ́nh là họa sĩ thứ thiệt, có căn bản, có bằng cấp.  C̣n tôi, thích vẽ v́ đó là một thú đam mê tiềm ẩn trong người cần biểu hiện. Chỉ giới thưởng ngoạn gọi tôi là họa sĩ.  Tôi vẽ v́ yêu áo dài, yêu khăn quàng, yêu lụa.  Tôi vẽ, nói như Carl Jung:  “The creative mind plays with the objects it loves.” 

 

2/  Cách vẽ:

   

 a)  Anh Vơ Đ́nh vẽ với sơn dầu, acrylics, phấn tiên, bút ch́, bút mực, màu nước … trên bố, trên vải, trên kính, trên giấy, trên gỗ, trên tường, trên các vật dụng …chưa kể việc làm mộc bản, tức là khắc vẽ trên gỗ rồi in trên giấy.

 

Trong bài tản mạn Xa Xỉ viết 2002, Anh cho biết: “ Trước 1975, tôi vẽ tranh: tranh sơn, tranh nước, tranh phấn; khắc và ấn mộc bản …Cũng tí toáy viết lai rai … Sau 1975, ngoài việc vẽ tranh, tôi c̣n ham viết, một đam mê từ thiếu thời: truyện, tùy bút, tiểu luận v.v. …”(Mây Chó, 2004, trang 156)

    

b)  Tôi vẽ với màu nhuộm trên lụa tơ tằm trắng, nhiều loại lụa dày mỏng, trơn hay có gân hoặc dệt hoa văn.  Nếu dùng lụa doupioni hay lụa Thái hoặc Ấn độ đă có màu sẵn, th́ chỉ dùng nhũ vàng hay bạc chứ không nhuộm.

 

Ảnh hưởng, nếu có, chỉ chút xíu về vẽ và nhuộm lụa, thêm một “tṛ chơi” trong suốt đời tận tụy nghệ thuật hội họa của Anh.  Sau vụ Động Đất ở Montréal,  khi thấy Anh buồn t́nh đời ấm lạnh, từ tiểu bang xanh Washington, tôi gửi lụa và màu nhuộm qua Đất của Nữ hoàng Mary để Anh giải khuây. Anh cao hứng thích thú với “tṛ chơi” mới, vẽ hàng loạt khăn lụa và áo dài cho tôi và áo cưới con gái bạn thân, cùng một số khăn quàng có đề thơ, để tặng bạn bè.

 

Nhưng Anh chỉ ghé chơi, không dừng lại.

 

 

Câu Carl Jung dẫn ở phần đầu bài, Anh Vơ Đ́nh viết trên một trong những khăn lụa vẽ cho tôi năm 1992, (Xem h́nh trên do Vơ Đ́nh chụp 1992 tại nhà Trương Hồng Sơn)

 

Khăn quàng đề thơ

Thú quê thuần hức bén mùi

Giếng vàng đă rụng một vài lá ngô

H́nh Vơ Đ́nh, 1992

 

Nhưng Anh vẫn giữ cách vẽ Vơ Đ́nh.  Quư vị có thể nhận ngay sự khác biệt trong tấm h́nh.  Tôi mặc áo Vương Quỳnh, tự vẽ và nhuộm hai màu đen vàng, cô dâu Bảo Trâm trong bộ Sắc Màu, vẽ và nhuộm cũng trên lụa crêpe de chine, đường nét trừu tượng đặc biệt rất mạnh, rất… Vơ Đ́nh.

 

Phần tôi chịu ảnh hưởng của Anh rất mạnh khi vẽ trừu tượng, mặc dầu vẫn dùng cách vẽ nhuộm trên lụa. 

 

Cả quăng đời thơ ấu cho đến khi ra nước ngoài, hai gia đ́nh mấy anh chị em chúng tôi vẫn liên lạc mật thiết với nhau, rồi ngót mười sáu năm chung sống, dưới bóng đại thụ, làm sao tôi không chịu ảnh hưởng !  Đúng là gần đèn th́ sáng!!! Và ánh sáng này rọi sâu vào nằm trong tiềm thức lúc nào không hay… Chính Anh thúc dục tôi vẽ tranh cả chục năm trước, mà tôi cứ ngại ngùng. 

 

Hai năm sau này, tức là từ 2007, anh khuyến khích tôi vẽ tranh sơn.  Và bức tranh đầu tiên đường nét sắc màu rơ ràng ảnh hưởng Vơ Đ́nh, đến nỗi Anh cũng ngạc nhiên về sự thẩm thấu này. 

Trăng Mê Cung, tranh LaiHồng, VIII-08

 

Cao hứng, tôi làm một loạt tranh, hầu hết vẽ Trâu, v́ con trai và cháu nội tôi tuổi Trâu, và năm 2009 là năm Trâu:  Trâu Cha Trâu Con, Mùa Len Trâu, Mười Tranh Chăn Trâu … Trong khi đường nét Trâu Vơ Đ́nh đơn giản mà súc tích nghệ thuật, th́ Trâu LaiHồng tôi rắc rối chi li vụng dại, hai con mắt là mắt người chứ chẳng phải mắt trâu !!!

 

Trâu Quê Xưa, 23x30, sơn dầu, Vơ Đ́nh 1966

Quà cưới cho Trần Kiêm Khiết và Phú Lộc

 

Trâu Dầm Bùn, 15x20 acrylics, LaiHồng VIII-08

 

3)  Quan niệm vẽ:

 

Trong một thư gửi Calvin Edward Ramsburg, môn đệ ruột của Anh, Vơ Đ́nh viết :“ Vẽ là sống, vẽ là ăn, vẽ là thở.  Đừng khắc  phục quá mạnh/ khắc phục từ tốn/ khắc phục đẹp/ nhưng không quá mạnh.  Nếu cứ ung dung từ tốn, cuộc sống sẽ ǵn giữ ḿnh.”  Thư khác cũng gửi Calvin Edward : “ Hăy nhớ rằng hội họa hài ḥa giữa ‘hai thái cực’: tự do/ kỷ luật; liều lĩnh/ chính xác; uy dũng/ dịu dàng.”  Và một thư khác: “ Eddie, anh đă tiêu hóa hết thức ăn hội họa rồi.  Bây giờ anh lớn tuổi hơn và có kinh nghiệm hơn, anh phải t́m cách vẽ thế nào để biểu lộ được chính bản thân anh hay nhất, rơ rệt nhất.  Việc làm của cả cuộc đời đấy nhé!”

 

Trong điếu văn tại tang lễ Thầy, với vành khăn tang trắng quấn ngang đầu, chàng môn đệ này đă nói: “ Tôi nghĩ Thầy dạy tôi vẽ.  Nhưng điều tôi nhận được lại là con đường mới hướng dẫn cách nh́n.  Vẽ là một cách luyện tập trong chánh niệm.”  Eddie nhắc nhở lời Vơ Đ́nh dạy: “ Không cần phải là một họa sĩ.  Khi bước đi, hăy nh́n xuống.  Thấy màu sắc nho nhỏ ẩn hiện trong ngọn cỏ, lá cây, và cát bụi.  Thấy h́nh tượng trong mọi sự vật.”  Những đoạn này trích dẫn từ điếu văn Eddie, bản dịch Thầy Tṛ đăng trên Việt Báo và mạng lưới  litviet.com/ (1)

 

Theo tôi, Eddie không những là học tṛ ruột của Vơ Đ́nh, mà là người duy nhất thấu hiểu từng giai đoạn Anh đi qua trong đời hội họa.  Eddie là người duy nhất theo dơi cánh chim bay suốt mấy thập niên trong không gian hội họa của Vơ Đ́nh, thắc mắc về cánh chim đó, để sau cùng trong dịp về chịu tang, vỡ lẽ về huyền thoại chim hồng hộc trên mặt trống đồng, và tiềm thức chim hồng bay lại.

 

“Hội họa là ǵ đây?

 

Hội họa là ǵ nếu không là một phương cách biểu hiện của con người trước thực tại.  Và thực tại th́ luôn luôn chuyển động, luôn luôn biến hóa, thực tại là thường trong cơi vô thường.” Câu này trích từ chuyện Mây Chó, trong tập Mây Chó, in năm 2004.

 

Trong chuyện Cái Văn, Cái Vẽ, và Cái Đẹp viết năm 1997, in trong Rừng Mắm Văn Nghệ năm 2000, Anh diễn tả về nỗi xúc động lần đầu tiên nh́n ngắm tranh Picasso trong một sách nhỏ nhặt được dưới hầm tầu xuyên Ấn Độ Dương trên đường sang Pháp:  “ Nỗi xúc động, sau này tôi mới biết, là một thứ xúc động thẩm mỹ nguyên chất, trọn vẹn. Nỗi xúc động đă dạy cho tôi đôi điều cốt tủy trong nghệ thuật tạo h́nh.  Đó là, thứ nhất, cái đẹp trong một bức tranh, chính là cái gây nên xúc động trong ta khi ta nh́n ngắm tranh; cái đẹp đó không phát xuất từ đề tài bức tranh, không dính dấp đến những ư tưởng phụ thuộc của đề tài đó.  Cái đẹp đó phát xuất từ cái cách người họa sĩ bố trí bức họa và sử dụng đường nét mầu sắc để diễn đạt và giải quyết cách bố trí đó.  Và, thứ hai, vẽ, không nhất thiết phải có h́nh thể, nói cách khác, không nhất thiết phải vẽ chân dung, phong cảnh, tĩnh vật, hay phải sử dụng những yếu tố thuộc về ‘thực tại,’ ‘hiện thực,’ v.v. … Thực tại của bức tranh mới là đáng kể.  Người họa sĩ tạo nên thực tại nầy, và chỉ có thực tại nầy mới gây nên nỗi xúc động thẩm mỹ trong ta.”

 

Quan niệm vẽ của Vơ Đ́nh gói trọn trong một câu và là đề tài bài nói chuyện trong buổi Chiếu H́nh và Trần thuật 25 Hội họa Vơ Đ́nh, Tác phẩm Chọn lọc, 1957-1983, ngày 3 tháng 12 năm 1983 tại Đại học George Mason, Virginia :“ Hội họa:  một ngôn ngữ của thân tâm.”(2)

 

Với tôi, vẽ là cách diễn tả cái đẹp, làm đẹp thêm những ǵ đă đẹp từ thiên nhiên.  Và nói loanh quanh cũng không thể nào không trở về cùng quan niệm của Vơ Đ́nh:  “Hội họa: một ngôn ngữ của thân tâm.”  Và chính từ quan niệm này, tôi chịu ảnh hưởng rất mạnh của Vơ Đ́nh, mặc dầu đường nét sắc màu của tôi vẫn riêng Trần thị LaiHồng - như tên ghi trên tờ hôn thú bên cạnh tên Vơ Đ́nh Mai - không thể là VơĐ́nh LaiHồng để làm cáo mượn oai hùm.

 

LH và áo lụa vẽ màu sắc đường nét VơĐ́nh

H́nh Vơ Đ́nh 1994

 

LH và VơĐ́nh, áo lụa VĐ vẽ

 

 

VIẾT

 

Anh Vơ Đ́nh bắt đầu viết rất sớm, và được biết đến từ hồi mười lăm mười sáu ở Huế, thời c̣n trung học, tức là khoảng năm 1948.

Dạo đó, nhóm bạn của anh tôi bên Khải Định – tên cũ của Quốc học Huế - xúm nhau làm một tờ báo, do Vơ Đ́nh viết tay, v́ chữ Anh rất đẹp. Anh cũng phụ trách minh họa.  Đó là tờ Hồn Trẻ. Về chi tiết viết bài, tưởng cũng nên mở ngoặc, là cả Anh và tôi đều vẫn viết tay trên giấy dẫu đă có máy computer, sau khi đă edit mới đánh vào máy.

 

Trong Nỗi Băn Khoăn Của Một Người Cầm Bút viết năm 2004,(Trời Đất, 10 truyện và 10 chuyện, xb 2008 ) Anh thổ lộ : “ Làm báo học sinh, tôi được chúng bạn giao phó cho việc tŕnh bày và minh họa.  Thằng nhỏ mặc nhiên được coi như ‘họa sĩ.’  Nghĩ lại, thật mắc cỡ.  Vẽ vời bá láp mà họa sĩ nỗi ǵ!” (sđd, trang 143)

 

Gia đ́nh tôi có một pḥng học rất rộng phía sau nhà, có thầy dạy riêng.  Bạn bè anh tôi thường phải đi thẳng đến pḥng sau, không được vào cửa trước.  Pḥng học có bàn lớn, và mấy anh tụ họp bày giấy viết viết vẽ vẽ, có khi vẽ cả lên bảng đen của chúng tôi.

Nhóm bạn trẻ này có Tôn Thất Thảo (hiện ở Pháp), Trần Kiêm Hàm (hiện ở  Tustin, Cali), Hồ Đăng Trí (San José, Cali), Hồng Quang Anh (Saigon, Việt Nam), Trần Xuân Cầu (đă qua đời) … Bốn người thân nhau nhất là DTTA Dũng/ Thảo/ Trí/ Anh.  Chỉ có Dũng và Thảo viết, hai người kia tháp tùng phụ giúp vui chơi.  Anh Tôn Thất Thảo có biệt danh là Ba Tê TTT, đến nay vẫn c̣n bên Pháp, vẫn làm thơ mấy ngàn bài, không xuất bản, chỉ để tặng bạn, và cố nhiên chúng tôi có mấy tập, cũng toàn viết tay.

Hồi đó Vơ Đ́nh kư tên Thiếu Dũng, theo nhân vật Dũng trong Đôi Bạn của Nhất Linh. Tên này theo Anh sang Pháp, và Anh có kể tôi nghe bạn bè thân như các anh Tôn Thất Thảo, Vơ Văn Ái, Vĩnh Ấn bên Paris … khi tếu ơi ới gọi nhau Bây ơi!  Thằng Thiếu Rũng tới đây rồi nè! (3)

 

Năm 1948 – mười lăm tuổi – Anh chép tay và minh họa một quyển sách nhỏ đặt tựa Mấy Vần Thơ Hay, thu thập nhiều bài của Huy Cận, Xuân Diệu, Thâm Tâm, Thế Lữ, Tế Hanh, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Thanh Tịnh … trên 40 thi nhân.

Trang 2 của tập thơ này có ghi hai đoạn ngắn viết tay– thơ, hay tản mạn – có kư tên, đề ngày 1 tháng 6, 48.  Mới mười lăm, Anh đă thấu được ư nghĩa cuộc đời, sự chuyển hóa sống chết và có có không không:

 

Sống làm ǵ?

Sống để mà chết!

Chết làm ǵ?

Chết để sống vĩnh viễn!

Sống vĩnh viễn làm ǵ?

-                      Sống vĩnh viễn để có … một con Zéro!!!

 

-  Thơ là ǵ?

-  Thơ là vũ trụ!

-  Tôi là thơ

 

 

Tập thơ chép tay này, Anh đă nhắc trong Chuyện Giữ Sách viết năm 1996, in trong Lầu Xép, xuất bản 1997 … “Tập thơ đó, ngày nay tôi vẫn c̣n.  Thỉnh thoảng gặp lại quyển vở nhỏ, ḷng vừa buồn rầu vừa sảng khoái.  Buồn v́ hoàn cảnh đất nước, từ thuở thiếu niên của ḿnh, đă khó khăn như vậy.  Một thằng bé mê thơ mà phải cặm cụi kiếm giấy, kim, chỉ, đóng tay một quyển vở, rồi loay hoay thu lượm đây đó những bài thơ đương thời, để rồi về khuya, khi cha mẹ đă đi ngủ, ngồi nắn nót chép lại … Buồn rầu như vậy nhưng vẫn có được cái vui.  Vui thấy sự yêu thích say mê của ḿnh.  Mấy chục năm trôi qua, chứng nào vẫn tật ấy.  Yêu thơ văn, sách vở, sướng chớ! ...... Đă có lần tôi nghĩ rằng ngày nào tôi quyết đoạn tuyệt với nó th́ tôi sẽ không vứt bỏ nó vào sọt rác.  Tôi sẽ đóng một cái ḥm nhỏ mà chôn nó.  Hay, dễ hơn, tôi sẽ châm lửa, hỏa táng nó.……Nó được giữ lại v́ nó là một phần thân thể của tôi.”

 

Như bao bạn trẻ, Thiếu Dũng làm thơ, rất lăng mạn.  Dưới đây là bài thơ đầu thuở búp ấu th́,  kư Thiếu Dũng, tựa đề Tống Biệt,  do Anh viết tay trên mặt b́a trong tập Gửi Hương Cho Gió của Xuân Diệu, nhà xuất bản Thời Đại , 1945.

Nắng choàng ngang mái ngói

Rêu đọng màu cố tri

Hương vương đời tĩnh mịch

Nức nở t́nh chia ly

Lá vàng bay mấy lá

Ngơ rụng búp ấu th́

Tóc xanh không c̣n nữa

Đậm sương như lời thi

Nẻo buồn ngưng trắng lệ

Ra đi chẳng biết về

Mơ xưa chiều năo nuột

Nắng vờn trên đồi quê

 

 

Bài thơ đề dâng anh Hồ Hải, tức là bí danh của người anh ruột theo kháng chiến nhảy núi ra Bắc. Bên dưới bài ghi Huế tháng 8, không thấy đề năm nào, và góc giấy rách tuy vẫn c̣n lề, không đọc được, nhưng chắc chắn là sau cách mạng, hẳn cùng năm 1948 với tập thơ chép tay. Trang bên ghi rơ Huế, tháng 8, và chữ kư rất bay bướm, phóng túng, rộng răi, vững vàng. (Những chữ in nghiêng do chính Anh dùng trong chuyện Chữ, viết năm 2000, Huyệt Tuyết, 10 truyện, 10 chuyện, xb 2002)

 

 

Thiếu Dũng cũng như các bạn Hồn Trẻ và hầu hết học sinh thời đó đều theo cao trào Học sinh Kháng chiến, bị bắt giam, gia đ́nh phải cố t́m cách gửi đi xa, qua Pháp du học.

 

Trong  Một Món Tết Thật Mặn Mà đăng trên Văn Học số 24&25 Tết Mậu Th́n 1988, Vơ Đ́nh viết …“Ở tuổi mười lăm mười sáu, tôi chỉ thuộc hàng chục bài thơ trong Gửi Hương Cho Gió, Lửa Thiêng, trong Thi Nhân Việt Nam.  Tôi chỉ biết theo vết chân ngựa lên đồi nắng vườn cam chờ người con gái lạ (và đẹp) trong Đợi Chờ, mà mê mẩn ngắm ánh đèn xa dần, xa dần trong sương mù ở đoạn cuối truyện Đôi Bạn.  Tôi chỉ “tranh đấu”, để bị bắt, bị đánh, được thả, bị bắt lại, lại được thả, rồi làm giấy tờ “đi Tây.” …

 

Rời Huế, Anh đem theo mấy tập thơ và sách, trong số có Lửa Thiêng của Huy Cận do Xuân Diệu đề tựa, Tô Ngọc Vân tŕnh bày, in năm 1940; Thơ Thơ, 1940, Gửi Hương Cho Gió của Xuân Diệu do Trần Văn Cẩn tŕnh bày và minh họa, 1945, Mấy Vần Thơ của Thế Lữ, Lỡ Bước Sang Ngang của Nguyễn Bính – do anh tôi tặng - .  Hầu hết sách Tự Lực Văn Đoàn đều nằm trong hành trang tuổi trẻ xa nhà, đặc biệt Gánh Hàng Hoa của Khái Hưng và Nhất Linh có chữ kư Khái Hưng bằng mực xanh, không biết sao lại lọt tay Thiếu Dũng; Đôi Bạn của Nhất Linh mà sau năm năm du học, Anh đă đủ khả năng và dịch ra tiếng Pháp, nhưng măi đến nay chẳng công bố; Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân, xb 1943; Lều Chơng của Ngô Tất Tố, 1941; Quán Nải của Nguyên Hồng, 1943 …. Và c̣n nhiều nhiều nữa.

 

Những sách này hiện vẫn c̣n giữ lại trên kệ sách nhà, gáy bồi thêm giấy cứng và do Anh đóng lại khâu tay bằng sợi cước. Riêng tập Thơ Thơ có cả chữ kư tác giả Anh đặc biệt cho tôi trước khi lên đường đi Tây, nhưng tôi di chuyển từ Huế vào Nha Trang rồi Saigon đă bị đánh cắp mất tiêu, bây giờ nhà chỉ c̣n lại tập của Anh không có chữ kư tác giả …Kể cả mấy bức tranh Anh vẽ tôi thời đó trên giấy croquis cũng mất tiêu qua bao lần di tản !

 

Hồi đó tôi cũng vơ vẽ làm thơ đưa đăng, có bài nhại thơ Xuân Diệu, bị mấy anh cự nự v́ dám đụng tới Xuân Diệu, Huy Cận … là thần tượng của họ.  Tôi bèn đưa bài thơ khác rất hào hùng nói về tuổi trẻ hăng say, nay chỉ c̣n nhớ vài câu lơm bơm, và được đăng ngay.  Tiếc mấy tập Hồn Trẻ ngày nay chẳng c̣n dấu vết.  Bài thơ đầu của tôi là một lục bát Khóc Ông, h́nh như ông cụ tôi có gửi đăng Sách Hồng thời đó, và bà cụ tôi th́ thuộc nằm ḷng v́ rất yêu kính ngựi cha chồng nhân đức hiền hậu.  Tôi có ghi lại theo trí nhớ bà cụ, một dịp khác sẽ xin tŕnh bày.

 

Trở lại báo Hồn Trẻ thuở thiếu thời, tôi nhớ Anh có hai bài viết và minh họa: Chiếc Bong Bóng Lợn, Nhất B́ Nh́ Cốt.

 

Truyện Chiếc Bong Bóng Lợn viết về một vụ trộm chiếc ống nhổ bằng đồng cổ.  Tên trộm rút tranh trên mái để có khe hở tḥng một ống cao su dài nối chiếc bong bóng lợn.  Hắn thổi ống cao su chuyển hơi phồng cái  bong bóng đă lọt nằm trong ống nhổ trầu, và lẹ làng kéo lên.  Tranh minh họa vẽ tên trộm trên mái nhà đang phồng má thổi bong bóng.

 

Nhứt B́ Nh́ Cốt là chuyện kể từ ông cụ thân sinh Anh, hồi c̣n làm việc bên Lào – năm 1943 – có nuôi một anh giúp nấu nướng và làm việc nhà.  Ông cụ thích thịt gà, hay nhắc nhở nhứt b́ nh́ cốt, và bảo khi làm gà chọn thứ ǵ ngon nhất dọn lên.  Anh chàng người làm lần thứ nhất kiếm toàn da gà trộn hành dấm muối tiêu lá chanh. Bị cự nự. Lần thứ nh́ kiếm toàn chân gà hầm rục chấm hắc x́ dầu Tàu, và nhặt thịt gà để riêng chỉ dọn toàn cánh gà và … xương gà.  Lại bị cự nự. Kết cục vỡ lẽ rằng dọn thịt gà đừng quên da gà và đầu, cánh, xương đùi c̣n dính thịt và gân, và chân gà, để gặm!  Tranh minh họa vẽ ông cụ bên đĩa thịt gà toàn da và…xương.  Chuyện này tôi từng được nghe ông cụ kể, thời tôi ở chung nhà với Nga em gái út của Anh, để học Đồng Khánh Huế, lúc gia đ́nh cha mẹ tôi đổi vào Nha Trang.  Ông cụ bảo c̣n câu khác là nhứt phao câu nh́ đầu cánh, nhưng Anh chỉ viết vế nhứt b́ nh́ cốt.

 

Trong dịp Đào Huy Đán phỏng vấn Vơ Đ́nh năm 1988, Anh cho biết “có một truyện ngắn được đăng báo người lớn hồi… chưa đi Tây, nhưng truyện tên ǵ, báo nào ở Huế, đă quên.  Chỉ nhớ đó là năm 1949 hay đầu 1950.”(4 )

 

Về chuyện mê say viết, “Tôi khám phá ra rằng khi tôi viết tiếng Việt, sự sống tuôn chảy từ năo cân, từ kinh mạch tôi về bàn tay tôi, thấm qua cây bút, xuống mặt giấy. …Viết tiếng Việt, tôi có cảm tưởng tôi xoi một mũi nhọn, thật mảnh, thật dài, vào tận trong cùng tâm năo tôi, ḍ la, ṃ mẫm, lục lạo, t́m ṭi, cho đến khi diễn đạt được vừa ư là lúc mũi nhọn đă chạm tới được sự hiện hữu của chính con người tôi.”  Đoạn văn này trích trang 226 chuyện Sống ở Mỹ, Viết Tiếng Việt, trong tập mười tám chuyện Rừng Mắm Văn Nghệ, xuất bản năm 2000.

 

Kể chuyện về thời gian du học bên Pháp, Anh nhắc cuốn Đôi Bạn, trong  Đọc Truyện viết năm 2003, in trong Trời Đất, Anh viết “Ông Nhất Linh ơi là ông Nhất Linh ơi!  Cái câu ấy của ông nó đeo riết lấy thằng nhỏ từ Huế sang Paris.  Hăm hai tuổi, sáng sáng lội bộ từ Xóm La tinh, xuyên qua vườn Lục-xâm-bảo, tới đại lộ Montparnasse, nơi có quán La Coupole.  Ngồi đó nhâm nhi tách cà phê sữa và … dịch Đôi Bạn của ông ra tiếng Pháp.  Chấm hết bản đich, kư tên, đề ngày 27 tháng 6 năm 1956, lúc 11 giờ sáng.  Khoan!  Ông khoan khen thằng nhỏ “siêng năng,” v́ bản dịch đó, bây giờ là bốn bảy năm sau, vẫn chưa được in.  Xém nửa thế kỷ, nó nằm im trong đống giấy tờ …Trong gần năm mươi năm, làm ǵ mà không xuất bản nó để “giới thiệu văn chương Việt nam với thế giới?”

 

Th́ ra thằng nhỏ, mới ngoài hai mươi, ngồi quán ăn của một khu vực danh tiếng của “kinh thành ánh sáng,” nó chỉ dịch cho “sướng,” cho “thỏa,” hănh diện của một đứa sinh viên “nghệ sĩ,” chuyển tiếng Việt của một nhà văn hàng đầu của đất nước ra thứ tiếng của quân “xâm lược,” nó“sướng miên man”chẳng kém ǵ cái sướng của Nhất Linh khi ông viết “Hồng nương!  Hồng nương! v.v. …”

 

Say sưa kể tôi nghe những ngày tháng đó, Anh và tôi đi lạc về thời gian Anh sống tại Paris.  Anh kể chuyện cả bọn khi dồn được rủng rẻng tí tiền là rủ nhau cuốc bộ đến quán Café de Flore đại lộ Saint-Germain, chầu chực chờ nghe ngắm Juliette Gréco mi mắt viền đen sâu thẳm, tóc đen dài xơa nửa vai trắng trần trong chiếc áo dạ hội đen tuyền, thổn thức Les Feuilles Mortes thơ Jacques Prévert nhạc Joseph Kosma.

 

Hồi đó ở Việt Nam, chúng tôi cũng mê Juliette Gréco và Les Feuilles Mortes.

 

Những lúc cao hứng nói chuyện với tôi, Anh hoa tay cất cao giọng hát… Tu étais ma plus douce amie/ mais je n’ai que faire des regrets/ et la chanson que tu chantais/ toujours, toujours je l’entendrai!  Và tôi cũng cao hứng ḥa theo  C’est une chanson/ qui nous ressemble/ toi, qui m’aimais, et je t’aimais …    (Em là người bạn dịu dàng nhất/ nhưng anh chỉ gây nhiều hối tiếc/ và bài ca em từng hát/ anh hằng nghe, hằng nghe! …  Đó là một bài ca/ như chuyện đôi ta/ anh từng thương yêu em, và em từng yêu thương anh …)  (5)

 

Giọng Anh rất trầm hùng.  Khi Anh hát, tôi áp đầu vào lưng Anh để thấm nghe buồng phổi rung trầm ấm trong lồng ngực.  Anh c̣n thích ngâm thơ và bảo tôi phải ngâm thơ.  Nhưng tôi hay hát nên khi ngâm lại nghe như hát hơn là ngâm.  Anh có một cuộn băng thu mười mấy bài thơ rất thích từ thuở thiếu thời, gửi cho tôi năm 1992 hồi tôi c̣n bên tiểu bang xanh Washington vùng Tây Bắc. Tôi đă chuyển qua CD và đến nay ngày ngày vẫn vang vang nghe sang sảng giọng Vơ Đ́nh.

 

Mới đây có nhiều người thắc mắc về bài viết trên tờ Người Việt, sau khi Anh Vơ Đ́nh đă về, đă tới, về việc Anh có “sáng kiến” làm một “cuốn sách” cho một người bạn văn sau khi họ qua đời, mà không ngờ Anh lại ra đi trước người bạn văn ấy.

 

Thực tế, chẳng phải là một “cuốn sách” như nhà phê b́nh kia nói, mà là một loạt thư – có trên trăm bức - do chính “người bạn văn” gửi cho “nhà phê b́nh”, họ định in thành sách với nhau. Với lời dặn ḍ chỉ thực hiện sau khi người bạn văn ấy qua đời.  Có thế mới có bài viết Sao Vội Thế Hả Anh Vơ Đ́nh?

 

Tập thư này đă được “lên kế hoạch”giữa hai người, giữa“người bạn văn”“nhà phê b́nh” từ lâu rồi, từ năm 1991.  Trong khi những điện thư liên lạc mời Vơ Đ́nh tham gia chỉ bắt đầu từ ngày 12 tháng 9, năm 2002.  Những điện thư này đă được chính tôi in ra để lưu giữ. Tuy chúng tôi làm việc trong pḥng riêng mỗi người, nhưng luôn cùng chia sẻ nhiều vấn đề, kể cả những chuyện riêng tư trong đời, nên tôi biết rất rơ về “cuốn sách” này, v́ cả hai chúng tôi cùng chọn thư, chia nhau đánh máy vào computer, Anh sửa bản thảo – proof reading …tôi in bản thảo, in lại thư emails lưu giữ hồ sơ…

 

Trong bài tưởng niệm Vơ Đ́nh Đă Về … Đă Tới đăng trên mạng gio-o.com tôi có nhắc lại những bức thư thắm thiết đến gọi tri kỷ, nhưng ngót cả năm Vơ Đ́nh nằm Trung Tâm Phục hồi cho đến khi Anh đă về, đă tới, chẳng hề thấy một tờ thư ngắn dù chỉ vài ḍng gọi là chút giao t́nh. (6)

 

Trở lại chuyện viết, Anh thường nhắc nhở phải ngắn, gọn, súc tích.  Bởi tôi hay dài ḍng văn tự, kể cả khi viết thư tay hoặc gửi email. Nhưng được điểm son của Anh, là tôi không dùng cliché, sáo ṃn, ví dụ chạy như ma đuổi, mưa như cầm chĩnh đổ, mưa như thác đổ, tối như hũ nút, xấu như ma, đẹp như tiên, hiền như Bụt,  v.v.

 

Cách đây năm bảy năm, Anh viết bài nêu những sáo ṃn và trích dẫn, nhưng đến phần trích dẫn th́ phó cho tôi, và tôi kinh hăi lục lọi ra hàng bao bố bao rác… và sợ quá.  Sợ …bứt giây động rừng.  Bản thảo đó nay vẫn c̣n nằm ụ trong thùng bản nháp của tôi.

 

Một chuyện vui vui, lúc viết Ngày…Tháng…(2) giúp Khánh Trường trên Hợp Lưu, 2004, Anh mở cuộc thăm ḍ quư bà con bạn bè tuổi 70 và xuống 65, 60, về những triệu chứng suy nhược khi “về già”, củi lửa nguội lạnh, ṇng cốt là “nếu ham muốn làm t́nh giảm xuống th́ ư thức về sự gợi t́nh có tăng lên không?  Kết quả cuộc thăm ḍ: đa số các ông trên 60, 70 đều xác nhận rằng ‘ham muốn làm t́nh’ của họ có giảm xuống, trong khi ‘ ư thức về sự gợi t́nh’ của họ lại tăng lên.” Không thấy Anh ghi nhận xét của quư vị nữ lưu, mặc dầu tôi biết Anh có ‘thăm ḍ’ một số các bà, trong số, có một bà đă gọi điện thoại hỏi tôi ngay là Anh có chuyện ǵ lẩm cẩm trục trặc.  Mới đây, khi Anh đă về, đă tới, một số quư bà lại “claim” là Anh có ư … ve văn họ!!!  Thời gian này, Anh và tôi đọc lại Diary of a Mad Old Man của Tanizaki và nói chuyện với nhau về ông già khùng, đă đưa “ư thức về sự gợi t́nh” đến một mức lư trí và đạo đức thông thường không chấp nhận được.

 

Hầu hết truyện hay chuyện của Anh, nhất là những đề tài về hội họa hay văn học rất nặng kư, Anh có kiến thức sâu rộng, trí nhớ phi thường, chẳng cần bàn với tôi.  Nhưng một số chi tiết cần, Anh thường hỏi kiểm lại hoặc cùng tra cứu sách báo. Nhiều chuyện vụn vặt, nhận xét nho nhỏ có khi lại gợi nguồn cảm hứng để Anh viết, như chuyện Bàn Thờ Nhà Bà Soa, Hội Kín trong tập Trời Đất,  chuyện trong tập Lầu Xép.

 

Truyện Ngày Mỹ Đêm Việt viết năm 2004 trong tập Trời Đất, nhân vật chính là tôi, và ông già người Á Đông vái người qua lại là chuyện thật. Truyện thật ngắn Trời Đất làm tựa đề cho tập Trời Đất, bà già là tôi với lời khuyên “Đừng tưởng vậy.  Trên đầu có Trời thương.  Dưới chân có Đất thương.  Cứ nhớ vậy nhé.”

 

Thói quen nghịch ngợm thay đổi tên họ người ta thành một thứ têu tếu là bản tính tinh nghịch của tôi, đă được Anh đem vào truyện Láng Giềng, viết năm 2002, (tập Mây Chó, xb 2004) với  Quạt gắp/Clark Gable, Sạt Bung Xung/ Charles Bronson, Renard/ René, Ái Liên/Ellen, Cà Chua/Thomas …Và quà sinh nhật cho TTLH, 2001, là bài Nho Biển, với những tên cây do tôi đặt như cây ḥe – tabebuia hoa vàng, cây Hồng nương – Roselle lá đỏ h́nh dáng giống lá phong, nhưng riêng nho biển – Seagrapes th́ gốc gác là cây tra dọc bờ biển Nha Trang là nơi một thời tôi dạy học.  Rồi Người Chạy Bộ II viết 2001 cũng cùng tập Mây Chó, có tên những loại cỏ dại miền Nam như rau trai hoa tím, rau bướm bạc hoa trắng, me đất hoa hồng … 

 

Chỉ những vụn vặt li ti, coi như chút ăn ké góp phần. Nhưng từ những li ti vụn vặt, Anh đă hóa thân trong sáng tạo, để lại những tác phẩm tràn trề chất liệu văn học nghệ thuật.

 

“Sáng sáng, chỉ nghe tiếng rao thôi.  Sáng sáng, mới năm giờ, giữa cái tinh sương ê ẩm của mùa đông cố đô, o lủi thủi trong bóng đêm đậm đặc.

 

-  Ḿ nóng ń…

-  Ḿ nóng ń …

Này, nè, ń.  Bánh ḿ nóng đây này, ai mua ḿ nóng không?  “Ḿ nóng ń…Ḿ nóng ń ...  Âm hưởng nghe như nhắc nhở, vấn vương.  Như nuối tiếc, nhớ thương… ”

 

Đó là đoạn viết trích trong chuyện Pḥng Sau đề cho TTLH, viết năm 1996, trong tập Lầu Xép 1997, thời gian hai chúng tôi về Huế, Anh thấy sáng sớm tửng bưng tôi thao thức theo tiếng rao của một o bán bánh ḿ:  Ḿ ń!  Ḿ nóng ń! và mở cửa nh́n theo dáng o lầm lũi đi trong bóng tối chập choạng.

 

Thấy tôi hay đọc hay dịch sách hoặc tài liệu, Anh giao tôi câu của Albert Schweitzer “No ray of sunshine is ever lost… But the green which it awakens takes time to sprout and it’s not always granted to the sower to see the harvest.”  Câu này lọt vào đoạn kết cuộc phỏng vấn của diễn đàn điện tử Talawas do Phạm Thị Hoài thực hiện, cách đây mấy năm: “Không một tia nắng nào có thể mất đi…  Cái mầm xanh mà nó đánh thức dậy cần có th́ giờ để đâm chồi kết lá; tuy nhiên, không phải người gieo hạt nào cũng nhất thiết được thấy mùa gặt tận mắt.” (Phụ lục III, Mây Chó, 2004)

 

Mầm xanh búp ấu th́ thiếu thời của Anh đă đâm chồi kết lá, đơm hoa kết trái.  Anh cũng được hạnh phúc thấy tận mắt và tận hưởng mùa gặt.  Thấy tận mắt sinh lăo bệnh, thấu hiểu hưởng tận khổ tập diệt, và Anh đă t́m thấy đường để về, đă tới.  Tôi ở lại, nhớ lời Anh thực tại th́ luôn luôn chuyển động, luôn luôn biến hóa.  Thực tại là thường trong cơi vô thường.

 

Trong cơi vô thường này, mọi chuyện đều thường cả, và tôi c̣n theo Anh trên đường về để cố tới, nối bước chân người.

 

Trần thị LaiHồng

Hoa Bang, vẫn c̣n Mùa Vu Lan

Tháng 9, 2009

 

Chú thích:

(1)  Thầy Tṛ, Trần thị LaiHồng, Việt Báo 23- 06-09, và trên mạng lưới :

Litviet.com/2009/06/20/trần-thị-laihồng-thầytṛ/ http://litviet.wordpress.com/tag/vo-dinh/

(2)  Vơ Đ́nh, Hội Họa: Một Ngôn ngữ của Thân Tâm, Sao Có Tiếng Sóng, Văn Nghệ xuất bản, 1991

(3 )  Nguyên tên họ của Anh hồi đó là Ngô Đ́nh Thiếu Dũng, cho tới khi đi Pháp năm 1950 vẫn c̣n giữ.  Tên Mai do Thầy Mẹ chọn để nhớ gốc Mai vàng cổ thụ trước sân nhà:  Hoàng Mai.  Người anh lớn là Hoàng.

Năm 1959 cả gia đ́nh mới lấy lại họ nguyên thủy Vơ Đ́nh, và từ đó Anh vẽ và viết kư Vơ Đ́nh.  Tên trong sổ thông hành là Mai Vơ Đ́nh.

http://litviet.wordpress.com/tag/vodinh/

(4)  Nói Chuyện Với Làng Văn, Đào Huy Đán thực hiện, Làng Văn, X-1988

(5 )  Les Feuilles Mortes, Juliette Gréco, danh ca kiêm tài tử điện ảnh kịch nghệ Pháp, nổi danh từ thập niên 50 thế kỷ XX,  đặc biệt với những bài thơ phổ nhạc riêng cho nàng.  Thường tŕnh diễn tại Café de Flore góc đại lộ Saint-Germain, bên kia đường có tượng Nữ thần Flore.  Tiệm café này là nơi đôi danh tài Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir hàng ngày trụ từ sáng đến tối, ăn uống, viết lách.  Đây cũng là nơi quy tụ những tên tuổi văn học nghệ thuật  thế giới, từ Appolinaire đến Camus, Ertnest Hemingway, Francois Sagan …Alain Delon,  Jean Fonda, Brigitte Bardot, Catherine Deneuve, Yves Saint Laurent, Givenchy, …Modigliani, Picasso … vô số kể.

http://vi.wikipedia.org/

(6) Đọc Đă Về…Đă Tới http://www.gio-o.com/TranThiLaiHongDaVeVoDinh1.htm

 

 

© gio-o.com 2009