THIÊN LONG BÁT BỘ:
AI ĐÃ LÀM MÙ MẮT A TỬ CÔ NƯƠNG ?
Trần Nghi Hoàng
Trên thế giới, người đọc Kim Dung ngày càng nhiều. Người từng đọc Kim Dung, thỉnh thoảng gặp dịp, vẫn mang nhân vật của Kim Dung ra bàn luận hăng say, rồi về nhà lại lôi Tiếu Ngạo Giang Hồ, Lộc Đỉnh Ký v.v.. đọc lần nữa. Đặc biệt, người Việt Nam ta, giới mê Kim Dung đa số là thành phần học sinh, sinh viên và trí thức. Trước 1975, người Việt đã mê Kim Dung. Hôm nay, người Việt vẫn mê Kim Dung.
Người Việt hải ngoại mê Kim Dung, lưu lạc nước người mà vẫn cạy cục cố công tìm lại những sách Kim Dung từng được dịch trước đây. Nhưng bây giờ thì tác phẩm Kim Dung đã được nhiều thức giả trong lẫn ngoài nước dịch lại, theo các nguyên tác đã được tu bổ của Kim Dung.
Ở hải ngoại, chúng ta có Như Hạnh đang dịch Thư Kiếm Ân Cừu Lục. Trong nước, hàng ngũ dịch giả đông đảo hơn: Cao Tự Thanh, Nguyễn Duy Chính...v.v.. đang tuần tự dịch lại toàn bộ 15 tác phẩm của Kim Dung. Thậm chí, còn có những cây viết chuyên khảo cứu về Kim Dung như Vũ Đức Sao Biển, và ngành Kim Dung học ở Việt Nam ra đời. Thực ra, nhiều tác giả Việt Nam đã viết về Kim Dung trước đây: Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Long Vân v.v... Cá nhân tôi, Trần Nghi Hoàng, cũng đang viết một cuốn sách về Kim Dung: "Những Mối Tình Trong Tiểu Thuyết Kim Dung". Nếu việc sưu tầm các tài liệu không bị trở ngại, và nếu tôi không đau yếu bệnh hoạn cũng như có được đầy đủ thì giờ, cuốn sách sẽ hoàn tất vào cuối năm nay.... Và có thể đến với độc giả vào đầu năm tới...
Bạn là người đọc Kim Dung? Bạn nghiền, bạn mê Kim Dung? Vậy hẳn nhiên bạn đã đọc Thiên Long Bát Bộ.
Thiên Long Bát Bộ, tác phẩm Kim Dung viết đăng trên Minh Báo và Nam Dương Thương Báo (tờ báo này cũng của Kim Dung, xuất bản tại Singapore) từ năm 1963 và kết thúc năm 1966.
Tôi đang có trong tay bản Việt dịch Thiên Long Bát Bộ của Hàn Giang Nhạn tiên sinh xuất bản tại Việt Nam năm 1973. Không biết vì lý do gì, hai cuốn đầu, Hàn Giang Nhạn giữ nguyên tên tác phẩm của Kim Dung là Thiên Long Bát Bộ; đến cuốn ba ông lại cho đổi thành Lục Mạch Thần Kiếm, tên gọi môn kiếm khí độc bộ thiên hạ của họ Đoàn nước Đại Lý mà các đại biểu quan trọng trong tác phẩm là Đoàn Dự, Đoàn Chính Thuần và Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh.
Bài viết hôm nay cho mục Bên Tách Cà Phê Buổi Sáng, tôi muốn cùng bạn đọc tìm hiểu xem ai là chân hung thủ đã làm mù đôi mắt đẹp của nàng A Tử? A Tử, một cô nương bé bỏng vừa ác độc, vừa yêu kiều dễ thương trong Thiên Long Bát Bộ mà thoạt kỳ thủy, Kim Dung đã dàn xếp để cho chúng ta, những người đọc Thiên Long Bát Bộ cứ đinh ninh là em gái một cha khác mẹ của Đoàn Dự....
Giữa khi Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu đang quyết đấu với Cô Tô Mộ Dung Phục, xin mời đọc tiếp:
"......
Bên đệ tử phái Tinh Tú cứ mất đi một người là bản thân Mộ Dung Phục tăng thêm một phần nguy hiểm. Tuy đứng trước một nguy cơ cấp bách, song y vẫn ung dung trấn tỉnh.
A Tử vừa hoàn hồn, nàng biết Mộ Dung Phục không có ý hại mình, bất giác nhìn y mỉm cười.
Đinh Xuân Thu ngó thấy lửa giận lại bốc lên đùng đùng lớn tiếng quát hỏi:
-A Tử! Sao thằng lỏi Mộ Dung lại không hại mi?
A Tử run lên, biết rằng Đinh Xuân Thu đã có ý nghi kỵ mình. Nàng cố gắng nghĩ ra một câu để nói lấy lòng Đinh Xuân Thu mà nghĩ mãi không ra. Dù tâm cơ nàng linh mẫn đến đâu, trong lúc hốt hoảng cũng không biết đáp thế nào cho phải.
Đinh Xuân Thu cười ha hả nói:
-Mi còn ở bên mình ta thì ta còn thấy vui lòng, ta không giết mi đâu!
A Tử vội nói:
-Xin đa tạ sư phụ.
Đinh Xuân Thu lạnh lùng nói:
-Mi chớ mừng vội. Ta...
Lão chưa dứt lời đã phất tay áo một cái, đầu tay áo khác nào lưỡi kiếm nhằm trước mặt A Tử vung lại. Lão ra tay rất mau, A Tử chỉ thấy một luồng gió mát lạnh qua mắt, đã thấy đau đớn đến ruột gan và mắt tối sầm lại. Hai bên má có hai dòng nước trong giống như nước mắt mà không phải nhỏ xuống. Đinh Xuân thu phóng nội kình ra đầu tay áo và trong thời gian chớp nhoáng này đã đâm vào mắt A Tử
.
Mộ Dung Phục thấy Đinh Xuân Thu dơ tay áo lên quét vào mặt A Tử, y biết ngay lão dùng thủ đoạn thâm độc. Tuy y biết A Tử là môn hạ phái Tinh Tú, nhưng nàng dong nhan thoát tục, khác hẳn người thường nên trong lòng y đối với nàng rất thương xót. Y toan ra tay giải cứu, nhưng Đinh Xuân Thu động thủ mau quá, không sao cứu kịp.
Lúc này A Tử đang đứng tựa vào tường. Mắt nàng vẫn tuôn ra hai dòng lệ như máu tươi.
Mộ Dung Phục tuy lăn lộn giang hồ, thấy nhiều hiểu rộng, nhưng y chưa từng thấy ai lại nhẫn tâm coi tánh mạng đệ tử không vào đâu như Đinh Xuân Thu. Trong lòng y kinh hãi vô cùng, chàng đứng ngẩn người một lát liền cảm thấy chân lực trong mình lại thoát ra ngoài.
Đinh Xuân Thu ra tay làm mù mắt A Tử rồi nói:
-Ta để mi sống nhưng không cho mi thấy sự vật gì nữa để mi khỏi thay lòng đổi dạ với sư môn, mi đã biết chưa?
A Tử sắc mặt lợt lạt, người run lẩy bẩy không thốt ra lời.
(Hàn Giang Nhạn, Lục Mạch hần Kiếm, quyển 4, trang 87, 88.)
Như vậy, rõ ràng kẻ làm mù mắt A Tử chính là Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu. Hóa ra câu hỏi của tôi vừa trên là vô lý sao?
Có bạn sẽ cười thầm rằng chả có Đinh Xuân Thu nào làm mù mắt A Tử hết! Người làm mù mắt A Tử tất nhiên là Kim Dung, là tác giả!
Xin mượn lời của Bao Bất Đồng, một trong những tay chân thân tín của Mộ Dung Cô Tô mà thưa rằng: "Không phải đâu là không phải đâu!"
Trăm lần ngàn lần không phải Kim Dung là người đã nhẫn tâm làm mù mắt cô nương A Tử! Vậy thì chân hung thủ là ai. Xin mời đọc:
"Ngày 13 tháng 9 năm 1964, "Thiên Long Bát Bộ" bắt đầu được liên tục đăng trên "Minh Báo" và "Nam Dương thương báo" ở Singapore, thời gian kéo dài 4 năm.. Thời kỳ đó, Kim Dung vì công việc phải đi nước ngoài và đã mời Nghê Khuông viết thay mình hơn 4 vạn chữ. ...
......
Khi Kim Dung từ châu Âu trở về, hai người gặp nhau, câu đầu tiên Nghê Khuông nói là:
-Xin lỗi, tôi làm A Tử mù mắt rồi!
A Tử là một nhân vật khá quan trọng trong "Thiên Long Bát Bộ", liên quan trực tiếp đến sự phát triển tình tiết của toàn sách. Nhưng Nghê Khuông nói là rất ghét A Tử, cho nên phải làm mù mắt của cô ta. Kim Dung nghe vậy đành cười cay đắng, trách ai bây giờ? Chẳng phài là mình đả nhờ Nghê Khuông viết sao?
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; "Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm", trang 202 và 204).
Vậy, thủ phạm chân chính làm mù mắt A Tử là Nghê Khuông. Nhưng Nghê Khuông là ai?
Nghê Khuông viết tiểu thuyết võ hiệp trước Kim Dung, chỉ sau Lương Vũ Sinh. Đã có thời Kim Dung, Nghê Khuông, Lương Vũ Sinh được tôn xưng là Tam Đại Gia của Tiểu Thuyết Tân Kiếm Hiệp (trước khi Cổ Long xuất hiện...) . Lương Vũ Sinh từng gây sóng gió với tác phẩm võ hiệp đầu tay trên Tân Vãn Báo: Long Hổ Đấu Kinh Hoa.
Lúc về sau, từng có thời Nghê Khuông và Cổ Long của Đài Loan cùng được gọi là "Khoái Thương Thủ", vì hai nhà văn này cùng có tài viết nhanh như nhau. Nghê Khuông vốn là bạn rất thân của Kim Dung. Chẳng phải chỉ có một lần Nghê Khuông được Kim Dung mời "chấp bút" viết hộ tiểu thuyết võ hiệp cho Kim Dung, khi Kim Dung bị bận.
Khi Ỷ Thiên Đồ Long Ký sắp chấm dứt, Kim Dung đã bắt đầu viết Thiên Long Bát Bộ được khoảng chục ngàn chữ. Tại Singapore, Ỷ Thiên Đồ Long Ký đang được độc giả điên cuồng say mê. Khi biết Ỷ Thiên Đồ Long Ký sắp chấm dứt, một ông chủ báo ở Singapore vội vàng bay từ Singapore đến Hồng Kông để yêu cầu Kim Dung đừng kết thúc Ỷ Thiên Đồ Long Ký,... Nhưng toàn bộ tâm trí của Kim Dung đã chuyển sang Thiên Long Bát Bộ.
Ông chủ báo ở Singapore lại đi cầu Nghê Khuông, với sự hiện diện của Kim Dung.
"Kim Dung hỏi Nghê Khuông có chịu chấp bút viết tiếp Ỷ Thiên Đồ Long Ký không. Nghê Khuông mới nghe nói, cảm thấy như "choeng" một tiếng trong óc, lâng lâng như được lên tiên.
Ba người họ tiến hành một cuộc đối thoại như sau:
Kim Dung:
-Độc giả Singapore rất thích Ỷ Thiên Đồ Long Ký, hy vọng có tục biên. Tôi không có thời gian, có hẹn ông chủ tòa báo tới đây, hết sức tiến cử, xin Nghê Khuông đại huynh tiếp tục viết, huynh nhất định phải nhận lời đấy.
Ông chủ tòa báo ở Singapore:
-Sự tiến cử của Kim Dung tiên sinh, tôi tuyệt đối tin tưởng. Xin Nghê Khuông tiên sinh giúp đỡ.
Nghê Khuông chỉ nốc rượu, không nói nửa lời. Rồi, rất nghiêm túc, rất đàng hoàng nói một tràng. Có lẽ đây là lần duy nhất trong đời Nghê Khuông nói một cách nghiêm túc đàng hoàng như thế.
Nghê Khuông nói:
-Hôm nay là ngày vui sướng nhất đời tôi, bởi vì Kim Dung cho rằng tôi có thể viết tiếp tiểu thuyết của anh ấy. Thật là đáng mừng. Nỗi vui mừng này có lẽ suốt đời tôi không quên được. Nhưng con người tôi có một ưu điểm, đó là rất sáng suốt tự biết mình. Tôi có thể cả gan nói rằng, trên thế giới này không ai có thể viết tiếp được tiểu thuyết của Kim Dung. Nếu như có ai dám nhận lời, nói rằng có thể viết tiếp của Kim Dung thì người đó chắc là ngủ quá nhiều sinh mộng mị. Tôi đương nhiên là không viết tiếp "Ỷ Thiên Đồ Long Ký" vì tôi tuy ngủ không ít nhưng may mắn là vẫn còn tỉnh táo..."
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; "Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm", trang 174 & 175)
Nghê Khuông nói như thế tất nhiên là không nhận lời viết tiếp Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Tuy không nhận lời, nhưng Nghê Khuông rất cao hứng và xem như một vinh dự lớn khi được Kim Dung "trao quyền" cho viết tiếp tác phẩm của Kim Dung.
Tôi chưa thực sự đọc tác phẩm nào của Nghê Khuông, nhưng có thể đoan chắc là tài nghệ Nghê Khuông cũng phải thuộc hàng nhất lưu cao thủ, một đại hành gia của kiếm hiệp tân phái... trong hàng ngũ Kim Dung, Lương Vũ Sinh... Các đại hành gia khác như Cổ Long hay Liễu Tàn Dương là lớp sau, lớp hậu sinh so với Nghê Khuông, Lương Vũ Sinh và Kim Dung.
Đúng vậy, phải tài nghệ như thế nào Nghê Khuông mới lọt vào mắt xanh của Kim Dung trong chuyện nhờ viết Thiên Long Bát Bộ khi Kim Dung bận việc ở Âu Châu. Nhưng Kim Dung tuy có tin tưởng vào khả năng của Nghê Khuông, lại vừa vô cùng lo lắng.
"Kim Dung lo lắng cũng có lý. Bởi vì ông biết Nghê Khuông là một tay "Siêu Quậy", khi còn nhỏ được người ta gọi là "Tiểu Siêu Quậy", đến khi lớn lên lại được gọi là "Đại Siêu Quậy", lại rất hay làm chuyện "tào lao".
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; "Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm", trang 204)
Và một trong những chuyện "tào lao" đó là Nghê Khuông chỉ vì không thích nhân vật A Tử của Kim Dung, bèn cho Đinh Xuân Thu thay mình, hạ thủ làm A Tử mù mắt.
Tuy nhiên, đọc đoạn Nghê Khuông viết thay Kim Dung, tả trận quyết đấu giữa Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu với Cô Tô Mộ Dung Phục, chúng ta chẳng thể không công nhận tài hoa nội lực của Nghê Khuông quả nhiên là cao cường.
Cô Tô Mộ Dung Phục dùng võ công "Đẩu Chuyển Tinh Di" mà người giang hồ không biết, cứ gán cho cái tên là "Gậy Ông Đập Lưng Ông" của họ Mộ Dung Cô Tô, để đấu với "Hóa Công Đại Pháp", thứ võ công cùng một dòng với "Hấp Tinh Đại Pháp" của Nhậm Ngã Hành Triêu Dương Thần Giáo.
Nhưng "Đẩu Chuyển Tinh Di" là võ công như hế nào mà Mộ Dung Phục toan đem đương đầu với "Hóa Công Đại Pháp" chuyên hút công lực của đối phương?
"Người nào giỏi về "Đoạn Tí Đao" đao phóng ra lại đi đến kết quả là tự chém đứt chính tay mình. Cũng binh khí ấy cũng chiêu thức ấy, nhưng mắt không thấy nhà Mộ Dung dùng thuật "Đẩu Chuyển Tinh Di" nên không ai đoán được là chính người đó lại mất mạng về chiêu thức của mình, mà thực ra là họ đã tự sát.
Người ra tay võ công càng cao thâm thì chết càng ly kỳ.
(Hàn Giang Nhạn, Lục Mạch Thần Kiếm, quyển 4, trang 81)
Và Nghê Khuông đã tả trận đấu giữa Mộ Dung Phục và Đinh Xuân Thu một cách tài tình như sau:
"Quyền chưởng hai bên vừa rời nhau trong chớp mắt. Bàn tay Đinh Xuân Thu vừa bị hất ra, lại nắm ngay được đầu quyền đối phương.
Mộ Dung Phục "hứ" lên một tiếng lại vận nội kình. Nhưng lần này nội kình vừa vận ra đã cảm thấy như chìm xuống đáy biển, không hiểu tiêu tán đi đâu mất hết.
Mộ Dung Phục ngấm ngầm kêu lên một tiếng ‘Úi chào.’
Trước khi y đến gây sự với Đinh Xuân Thu đã định bụng phải làm cách nào không để cho "Hóa Công Đại Pháp" của lão chạm vào mình được. Nhưng lúc lâm sự lại không tránh khỏi.
Lúc này Mộ Dung Phục ở vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu tiếp tục vận nội kình để kháng cự, thì dù nội lực có mạnh đến đâu đi nữa cũng bị hóa tán đi và như thế chỉ trong khoảnh khắc, bao nhiêu công lực mất hết thành ra phế nhân.
Nếu dùng phép Bảo Nguyên Thủ Nhất thu nội lực về thì Đinh Xuân Thu lại là một tay dùng độc ghê gớm. Thuốc độc của lão không ai biết đâu mà lường được, nó vẫn có thể theo đường chân khí rút về mà luồn vào người rồi xâm nhập đến tạng phủ. Rút cục vẫn không chống cự lại được.
Mộ Dung Phục đang ở vào tình hế nguy ngập, vô kế khả thi. Bỗng sau lưng y có người lớn tiếng nói:
-Sư phụ khéo xếp đặt cơ mưu khiến cho thằng lỏi này đã bị hãm vào tuyệt địa.
Mộ Dung Phục vừa xoay tay trái vừa lùi về phía sau hai bước. Chàng không quay đầu lại chỉ nghe tiếng nói, mà thò tay ra nắm trúng ngực tên đệ tử phái Tinh Tú.
..........
Mộ Dung Phục tuy đã luyện thuật này lâu năm mà vẫn chưa đạt được mức cao siêu tột độ. Y gặp phải Đinh Xuân Thu là tay cao thủ vào bậc nhất, tự biết mình không thể dùng phép "Đẩu Chuyển Tinh Di" để quay lại hại chính đối phương được. Nên bao lần chàng đã thi triển "Đẩu Chuyển Tinh Di" mà kẻ chịu đả kích lại là những đệ tử phái Tinh Tú. Cách di chuyển của chàng chỉ sang được người thứ ba.
Đinh Xuân Thu ngấm ngầm dùng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, quăng chén để tung hơi độc và phóng tia rượu độc, lần nào Mộ Dung Phục cũng đổi được kẻ chết thay cho mình một cách dễ dàng. Bây giờ Đinh Xuân thu dùng Hóa Công Đại Pháp, Mộ Dung Phục không còn cách nào di chuyển được thì vừa gặp lúc một tên đệ tử phái Tinh Tú muốn tâng công sư phụ há miệng đứng hô ở ngay bên y.
Mộ Dung Phục trong lúc cấp bách, liền nắm ngay tên này để thay thế cho mình. Cuộc mạo hiểm này chàng không ngờ cũng phát sinh hiệu lực.
Bản ý Tinh Tú Lão Quái là hóa giải công lực Mộ Dung Phục nhưng ngờ đâu lại hóa giải công lực tên đệ tử của mình.
Mộ Dung Phục khác nào người được cải tử hoàn sinh. Y thấy cuộc thử thách của mình thành công, dĩ nhiên nắm lấy cơ hội quyết không để Đinh Xuân thu kịp suy nghĩ. Y liền đẩy tên đệ tử này cho người gã chạm vào mình một tên đệ tử khác.
tên đệ tử thứ hai công lực cũng bị hóa giải vì phép Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu
Đinh Xuân Thu thấy mình nắm được đầu quyền của Mộ Dung Phục mà lại thấy y dùng lối mượn sức người làm hại đệ tử của mình lão căm hận vô cùng."
(Hàn Giang Nhạn, Lục Mạch hần Kiếm, quyển 4, trang 82)
Nghĩ ra được cách để cho Mộ Dung Phục dùng "Đẩu Chuyển Tinh Di" đương đầu với "Hóa Công Đại Pháp", của Đinh Xuân Thu, thiên bẩm và ngộ tánh của Nghê Khuông quả nhiên hơn người!
Điểm đáng lưu ý là Nghê Khuông với bản chất phóng ngạo như thế, lại rất ái mộ Kim Dung. Trong khi, con người Kim Dung lại như có nhiều điểm rất trái ngược với con người Nghê Khuông.
"Nhìn bề ngoài, Kim Dung có vẻ ung dung đường bệ có vẻ như khó gần, nhưng chỉ cần quen biết ông, người ta đều nhận thấy Kim Dung là con người rất giàu tình cảm. Đối với Nghê Khuông cũng vậy mà đối với những người bạn khác cũng vậy."
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; "Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm", trang 320).
Và hãy nghe Nghê Khuông nói về Kim Dung:
"Người ta đồn đại rằng có không ít tiểu thuyết của Kim Dung là do Nghê Khuông tôi viết thay... Nghe những lời đồn đại ấy Nghê Khuông tôi sướng mê người, nhận thấy họ quá đề cao Nghê Khuông này. Giá mà tôi có thể viết được một phần mười của Kim Dung thì có chết cũng không phải hối tiếc gì nữa. Những lời đồn đại đó chỉ là lời đồn đại, chẳng phải là sự thật. Trừ một lần do Kim Dung phải đi nước ngoài một thời gian nên tôi có viết giúp anh một đoạn trong "Thiên Long Bát Bộ" còn thì chẳng bao giờ dám viết thay Kim Dung. Vậy mà trong một lần "đại bút" ấy tôi lại làm mù mắt A Tử, khiến Kim Dung phải vất vả "điều trị" cho nàng..."
(Bành Hoa & Triệu Kính Lập; "Kim Dung, Cuộc Đời & Tác Phẩm", trang 319)
Và Kim Dung đã điều trị cho A Tử như thế nào? Do Du Thản Chi tình nguyện móc cặp mắt của mình tặng A Tử, và để nhà sư Hư Trúc dùng y thuật thông thần của cung Linh Thứu, thay cặp mắt của Du Thản Chi vào cho A Tử. Qua sự điều trị của Kim Dung vào đôi mắt A Tử, mối tình của Du Thản Chi và A Tử càng thêm sắc nét và bi thảm kinh hồn... Bởi cuối cùng, A Tử đã vì yêu Kiều Phong, móc đôi mắt trả lại cho Du Thản Chi rồi nhảy xuống vực thẳm ở Nhanï Môn Quan theo người đại anh hùng Kiều Phong....
Thủ phạm làm mù mắt A Tử là Nghê Khuông. Kim Dung là vị lương y đã chữa cho nàng sáng mắt lại bằng đôi mắt của Du Thản Chi... Một đôi mắt u tình buồn bả... Vì Du Thản Chi chẳng bao giờ lọt vào đôi mắt trên khuôn mặt A Tử... Dù là đôi mắt của chính A Tử hay đôi mắt của Du Thản Chi đã tặng cho nàng...
‘Vấn nhân gian
Tình thị hà vật,
Trực giao sinh tử tương hứa?
Thiên Nam địa Bắc song phi khách,
Lão xí kỷ hồi hàn thử....
...
(Hỏi thế gian
Tình là chi vậy
Mà gắn bó chẳng nề sinh tử?
Chấp cánh bay trời Nam đất Bắc,
Ấm lạnh bao phen cánh rũ,
.....)
(Mô Ngư Nhi của Nguyễn Hiếu Vấn)
Viết tiểu thuyết võ hiệp như Kim Dung, từ bạn đọc đến đồng nghiệp đều đã khâm phục. Dựng và tả chuyện tình được như Kim Dung trong tiểu thuyết võ hiệp của ông, quả là tuyệt bút. Và ngông ngạo được như Nghê Khuông, cũng đáng được cho người ta nghiêng mình ngưỡng mộ...
Trần Nghi Hoàng
Virginia July 15, 2003
SOI GƯƠNG
Trong cuốn Tùy Tưởng Lục của Ba Kim, do nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin ấn hành năm 1998, do Trương Chính và Ông Văn Tùng dịch, đã giới thiệu về nhà văn danh tiếng Trung Quốc này như sau:
"Ba Kim tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Phế Cam, có nhiều bút danh, nhưng thường được biết với bút danh Ba Kim. Ông thuộc thế hệ sau Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn; nổi tiếng những năm ba mươi, cùng một lần với Lao Xá, Tào Ngu, Diệp Thánh Đào...
Ông người Tứ Xuyên, sinh năm 1904, tính đến nay (1998) đã ngoài 90..." (trạng 5)
Ba Kim có lối viết sắc nhọn mỉa mai nhưng không cay độc như Lỗ Tấn. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm giá trị:
Hai bộ tiểu thuyết trường giang: Ái Tình Tam Bộ Khúc, gồm ba tập: Lộ (Mây Mù), Vũ (Mưa), Điện (Chớp Giật) do nhà xuất bản Lương Hữu in năm 1936. Tiếp theo là Kịch Lưu Tam Bộ Khúc cũng gồm 3 tập Gia, Xuân, Thu (Nhà xuất bản Khai Minh). Đã có Ba Kim tuyển tập (1936), Ba Kim Đại Biểu Tác (1940).. .
Sau ngày Trung Quốc giải phóng, có xảy ra 8 cuộc đấu tranh văn hóa: Một là "Phê phán phim Vũ Huấn" (1951), hai là phê phán cuốn "Nghiên Cứu Hồng Lâu Mộng: của Du Bình Bá (năm 1954), ba là phê phán điểm học thuật duy tâm của Hồ Thích (cũng vào năm 1954), bốn là đấu tranh chống tập đoàn phản cách mạng Hồ Phong (1955), năm là đấu tranh chống phái hữu trên mặt trận văn nghệ (1957), sáu là "đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại" (1959), bảy là phê phán chủ nghĩa giáo điều (1960), tám là "đại cách mạng văn hóa".
Ba Kim không bị dính gì trong bảy cuộc đấu tranh trước, nhưng ông vào tù bởi cuộc đấu tranh thứ tám.
"Và, như ông nói, đang là "người", ông đã biến thành "bò", bị nhốt vào "chuồng bò" suốt mười năm. Đại cách mạng văn hóa chấm dứt, ông mới từ "bò" trở lại làm "người". Bấy giờ ông lại cầm bút." (trang 7)
Tùy Tưởng Lục là tác phẩm cuối đời của Ba Kim, gồm 5 tập: tập đầu xuất bản năm 1978, tập cuối xuất bản năm 1986.
Như vậy, Tùy Tưởng Lục tập một in năm Ba Kim 74 tuổi. Tập cuối in năm Ba Kim 82 tuổi.
Nhiều nhà văn ngoại quốc, Tây phương như Alberto Moravia mà rất nhiều độc giả người Việt Nam biết đến ông qua bản dịch Gái Đĩ Thành Rome (xb 1954); Trung Quốc như Ba Kim, đến tuổi hơn 80 vẫn còn sức sáng tạo những tác phẩm quan trọng.
Còn nhà văn Việt Nam ta thì hầu như người nào "may mắn" lắm chỉ được một hai cuốn đầu... Sau đó là kiệt sức tàn hơi, hoặc cho ra những món uể oải không thành hồn xác. Đó là nói về những nhà văn thanh niên và trung niên. Rất ít nhà văn Việt Nam còn hành nghề, tức là còn sáng tác khi bước qua tuổi lão niên. Thản hoặc có ông, bà nào vẫn còn muốn chứng tỏ sự hiện hữu của mình ở tuổi xế chiều, thì những tác phẩm hình thành trong giai đoạn này thường chẳng lấy gì làm xuất sắc. Câu hỏi tại sao rất khó trả lời. Nhưng dù gì thì chúng ta cũng sẽ thử cùng nhau tìm một giải đáp, có thỏa đáng hay không lại là một chuyện khác!
Hôm nay tôi đã mang ông Ba Kim ra giới thiệu. Vậy chúng ta sẽ lấy Ba Kim, tìm hiểu xem Ba Kim nói, nghĩ về tuổi già của ông như thế nào, mà đến tuổi quá quan thất thập cổ lai hy, Ba Kim vẫn còn viết được một tác phẩm đáng suy gẫm là Tùy Tưởng Lục!
Mở đầu bài "Chiếc Gương Soi" ở trang 119, Ba Kim viết:
"Trên tủ tường trong phòng của tôi, có gắn một chiếc gương lớn. Trong thời kỳ Cách mạng văn hóa, bọn tạo phản và Hồng vệ binh lần lượt đến nơi ở của tôi, nhiều lần khám nhà, đập phá khá nhiều thứ mà họ cho là "loại đồ cũ", thế nhưng lại không đập vào cái gương này nhát nào. Cho nên nó mới được giữ lại. Bởi thế, tôi mới luôn luôn được soi gương
.
Nói thật lòng, đứng trước gương tôi không hề cảm thấy vui, bởi cái "tôn dung" ánh lên trong gương khiến tôi đâm lo: tiều tụy, già nua, nhăn nheo, môi thì khô héo... Có đẹp, có ưa nhìn hay không, tôi không quan tâm, nhưng điều tôi cảm thấy khó chịu là nó luôn nhắc nhở tôi: "Mi đang mon men tới cái chết". Vậy thì phải làm thế nào?
Đập quách ngay chiếc gương này đi, từ nay không tiếp xúc với những thứ như thế này nữa là xong. Những người tôi gặp thường bảo tôi: "Ông không thay đổi mấy, ông rất tươi tỉnh". Những lời nói đó xem ra rất dễ nghe, nó chẳng dính dáng gì đến cái chết cả. Nuôi dưỡng bằng những lời nói tốt, liệu càng nuôi càng tốt hơn lên được hay không, tôi không dám quả quyết, nhưng cứ như thế này, ngày tháng trôi đi cũng không đến nỗi tồi. Tôi đã từng nghĩ như thế và cũng từng làm như thế. Có những thời kỳ, tôi thôi không soi gương nữa. Tôi không còn nhìn thấy "tôn dung" của mình, lại nghe những lời nói dễ nghe nên càng yên tâm. Chẳng những yên tâm, hơn thế, tự mình còn thêu dệt thêm những điều dễ nghe. Người khác bảo tôi "bỗng dưng trẻ lại". Tôi hoàn toàn tiếp nhận, thậm chí còn ảo tưởng thêm rằng mình đã "phản lão hoàn đồng". Giấy mời họp liên tục, thư đặt bài nhận luôn tay, tôi còn phải làm đủ các loại việc, làm đủ các loại công tác cho đủ các loại người. Nhiều thư từ như thế, nhiều bản thảo như thế, lại còn các buổi đi thăm, các buổi nói chuyện. Hình như mọi người bảo tôi "xây dựng chí hướng lớn lao" Tôi cứ thế mà quên cả bản thân mình.
Thế là đến một ngày tôi phát hiện thấy mình hỏng rồi. Cầm bút lên viết mà cũng hấy vất vả, lên xuống cầu thang thấy khớp xương đầu gối đau nhừ. Hơi bị cảm là y như viêm phế quản, ho mãi không thôi... Lúc ấy, tôi mới lại nghĩ rằng nên soi gương, Bèn đứng ra trước gương ngắm nghía. Đó là vào một buổi tối, vừa súc miệng xong, bỏ hàm răng giả ra, nên mình cũng chẳng nhận ra mình. Làm gì có cái vẻ "trẻ lại"? Y như vừa qua một giấc mơ. Tôi đã tỉnh lại rồi. Ở trong gương, tôi đã nhìn ra khuôn mặt thực của mình. Hôm kia nhìn thấy vẫn thế. Hôm qua nhìn hấy vẫn thế. Hôm nay nhìn thấy vẫn thế. Nhìn mình, nghĩ về mình, cảm giác của tôi, tình cảm của tôi... đều tương xứng với vẻ mặt của tôi, cũng có thể nói là phù hợp. Điều đó nói lên một sự thực: cái gương đã nói với tôi lời nói thật. Cho nên tôi có thể cân nhắc hiện thực một cách tử tế. Như thế, tôi mới vạch ra được một kế hoạch năm năm, tôi đã lập kế hoạch trên "nền móng tư tưởng" đó. Là nhà văn, thì phải dùng tác phẩm của mình để gặp gỡ bạn đọc. Trước khi đi khỏi thế giới này, thế nào tôi cũng để lại một chút gì. Tôi không cần điếu văn, tôi không muốn nghe người khác nói những câu dễ nghe trước hộp tro hài cốt của tôi. Gần đây thường có người tìm đến tôi nói chuyện riêng của tôi, họ muốn biết tình hình tư tưởng của tôi cũng như cách nhìn nhận của tôi về một vấn đề nào đó cách đây bốn năm chục năm trước, vv... và v.v..." (trang 119 - 121)
Ông Ba Kim đã thực sự viết lại được sau khi ông "thực sự" soi gương và "thực sự" nhận rõ ra "tôn dung" hiện tại của chính ông! "Là nhà văn, thì phải dùng tác phẩm của mình để gặp gỡ bạn đọc. Trước khi đi khỏi thế giới này, thế nào tôi cũng để lại một chút gì." Ba Kim chẳng những đã để lại, chẳng phải "một chút" gì mà là một tác phẩm rất giá trị là cuốn Tùy Tưởng Lục gồm năm tậ: Tập một lấy luôn tên là Tùy Tưởng Lục Tập I; tập hai đề là Chân Thoại (Lời Nói Thật); tập ba đề là Sách Cầu (Tìm Kiếm); tập bốn đề là Bệnh Trung (Nằm Bệnh); tập năm Vô Đề.
Phải chăng, một nhà văn muốn sáng tạo được một tác phẩm có giá trị, trước hết, phải nhìn rõ ra chính mình là ai? Cái thời khoảng mà Ba Kim không muốn soi gương, ông đã sống, đã nhìn ông qua những lời "dễ nghe" của người khác! Có khi Ba Kim đã cố dấu hoặc không thèm kể ra là xen lẫn với những lời "dễ nghe", đôi lần cũng kèm theo những lời "khó nghe" không chừng! Dù là những lời "dễ nghe" hay "khó nghe" của người khác dành cho mình, tôi vẫn thấy nó chẳng thể nào trung thực được như phản ánh trong cái gương soi tâm thức mà mình nhìn thấy bằng tận đôi mắt của mình cái "tôn dung" của chính mình.
Chắc phải qua một thời gian khá dài Ba Kim đã trốn tránh việc tự "soi gương". Ông đã nhận diện mình qua lời nói, nhận xét của những người chung quanh. Trong một bối cảnh xã hội nào đó, con người ta sẽ vì hai chữ "lịch sự" và tự xếp hạng mình vào thành phần "có văn hóa" thì không thể nói lên những điều trông thấy hiển nhiên nhưng lại có vẻ gì như khiếm nhã, hoặc thô bạo... Đến lúc Ba Kim giật mình muốn nhận ra "bản lại diện mục" của ông, "Đó là vào một buổi tối, vừa súc miệng xong, bỏ hàm răng giả ra, nên mình cũng chẳng nhận ra mình. Làm gì có cái vẻ "trẻ lại"? Y như vừa qua một giấc mơ. Tôi đã tỉnh lại rồi."
Ba Kim quả tình tỉnh lại rồi. Quá tỉnh táo nên ông đã viết được bộ Tùy Tưởng Lục dí dỏm, sâu sắc và cho đến ngày hôm nay chúng ta đọc lại vẫn thấy có rất nhiều điều để chiêm nghiệm và học hỏi.
Tuần rồi, có một chuyện xảy ra cứ làm tôi suy nghĩ. Hôm đó là thứ Tư, trong một quán cà phê. Tôi và vài ông bạn ngồi nói chuyện loanh quanh. Một ông nhắc tới một buổi tiệc họp mặt theo kiểu reunion một nhóm bạn cũ hồi trước 1975. Một ông bạn già khác đâu cũng đã "thất thập" buộc miệng:
"Chẳng biết con bé D. nó có đến không. Con bé ngày xưa đẹp kinh hồn!"
Phản ứng tự nhiên của tôi là trợn mắt với ông bạn già:
"Ông ơi! Dù cô "D." gì đó có tới, thì hiện nay cũng đã phải là một bà già rồi ông ạ. Bà "D." chứ còn con bé D. nào nữa ông!!! Gần ba mươi năm... dâu biển rồi, bộ ông quên sao?"
Mấy ông kia cười ngất trêu chọc ông bạn già. Tôi trợn mắt, lý sự với ông xong lại bâng khuâng nghĩ thầm: "Tôi có muốn gặp lại những người con gái đẹp hồi thời niên thiếu mà tôi từng quen biết?" Câu trả lời tức thì của tôi là "KHÔNG".
Tôi không muốn gặp lại họ, những người con gái đẹp mà đã một thời làm xôn xao trái tim tôi. Tôi không đành lòng nhìn thấy những nhan sắc mà tôi từng mê đắm nay đã phai tàn...
Bởi vì, như Ba Kim lúc đã thức tỉnh, tôi từng ngày có tự soi gương để nhận diện chính mình trong phút giây hiện tại. Mặc dù không đến nỗi mang răng giả như Ba Kim, nhưng tóc tôi đã mất đi màu xanh mướt của thời thanh xuân và đã thưa đi nhiều vì mỗi ngày cứ dăm ba sợi rụng. Mặt mày thì sần sùi ngang dọc những nếp nhăn những luốn cày của năm tháng...
Tôi như vầy thì những người đẹp thời niên thiếu của tôi giờ ra sao, khỏi luận bàn và khỏi giàu tưởng tượng, chắc ai cũng có thể hình dung được! Cho dù ở thời đại này người ta có thể đi mỹ viện để "chỉnh dung", nhưng dù có "chỉnh" tới cỡ nào, lưỡi cày "thời gian" chắc chắn cũng sắc bén hơn, tàn bạo hơn đủ để lại những dấu vết làm đau lòng hiện tại
.
Nhà văn Việt Nam, đa số không thích tự soi gương. Họ sống bằng "dư luận" tức là những lời "dễ nghe" của bè bạn và "khó nghe" của những kẻ không ưa họ. Những lời "dễ nghe" sẽ làm nhà văn hạnh phúc và hứa hẹn "sẽ cố gắng để không phụ lòng bạn đọc", theo kiểu các cô ca sĩ sau mỗi tràng vỗ tay luôn tuyên thệ là "sẽ ngày càng tự trau giồi, để tiếng hát giải khuây và mua vui được cho khán thính giả, để đáp lại tấm thịnh tình của những người đã ra sức vỗ tay hôm nay, hôm qua và ngày mai v.v...". Những lời "khó nghe" sẽ là chất xúc tác để các nhà văn không biết tự soi gương gầm gừ phản kháng và lúc càng tô đậm chân dung mình hơn theo những lời "dễ nghe" mà anh ta (hoặc chị ta) ưa thích!
Sơn Nam viết trong cuốn Dạo Chơi:
"Đọc sách của bà M. Duras, nhan đề "Écrire", tạm dịch là
Viết, là Chữ Nghĩa. Đáng chú ý đối với tây phương, nhưng nhìn lại Đông phương, ta thấy chưa nói điều gì lạ. Bà là người trực tính, dám chấp nhận sự hư vô của chữ nghĩa, bà nói với riêng bà; thành thật. Lứa trẻ không nên nghe theo bà. Cái hư vô của cuộc sống cá nhân. Đúng vậy, nhưng hậu thế cần những di sản cụ thể của người đi trước. Nhà giàu, khi hấp hối, khóc cho rằng mình vui vẻ mà chết với hai bàn tay trắng. Kẻ trụy lạc về tình yêu xác thịt bảo "tình là bể khổ". Người quá no say rượu thịt dạy rằng rượu thịt là chất độc tố. Cũng như về già, sực nhớ "mối tình đầu", nhớ thật thà, biết đâu nếu cưới được người yêu đầu tiên thì chàng trai (hoặc cô gái) sẽ thất vọng, đòi ly dị. Để rồi lại luyến tiếc..." (trang 91)Hư vô chữ nghĩa hay hiện thực sống thở... ? Rõ ra, là nhà văn thì dù trẻ hay già, theo tôi, điều thiết yếu nhất là "sống", "sống" tận tình và hết mình với chính cái hiện tại đang có của mình thì sẽ làm được công việc sáng tạo một cách trong sáng. Trong sáng trong sự làm việc. Ông Sơn Nam không thể gặp bà M. Duras. Tác giả "Hương Rừng Cà Mau", "Vọc Nước Giỡn Trăng" chẳng thể nào mang mễnh theo "Écrire" hay "The Lover"...
Hãy đọc Ba Kim viết về những tác phẩm cũ của ông ta:
"Có người còn muốn giúp đỡ tôi nữa, đứng ra biện hộ hoặc nói vài lời công bằng cho những tác phẩm cũ của tôi. Tôi nói: Ý tốt thì xin cảm ơn, cái gì đã qua rồi thì hãy để cho nó qua đi, bây giờ chẳng đang kêu gọi chúng ta nhìn về phía trước là gì? Tôi cũng phải nhìn về phía trước." (trang 121)
Nhìn về phía trước là sống trọn vẹn với hiện tại. Là tự nhận diện chính mình một cách trung thực không "ảo tưởng" hoặc "phóng đại"... Ba Kim viết tiếp:
"Mỗi lần đi ngang qua, tôi lại nhìn thấy "tôn dung" của mình, đã không oai vệ lại cũng chẳng có tướng tinh gì, đến quần áo còn luộm thuộm, đúng là tướng ù lì vốn có. Thôi thì cứ ngoan ngoãn ngồi nhà viết đi, viết đi! Đó là kết luận mà tôi tự rút ra cho mình.
Tôi cảm ơn chiếc gương trước mặt tôi. Khi đầu óc tôi nóng lên, chính là nó đã khiến tôi tỉnh táo lại. Tôi muốn nói một câu tự đáy lòng mình: "Xin hãy để cho tôi được yên tĩnh, tôi không là bậc lưu danh trong xã hội, tôi không phải là thứ tư liệu cần "cấp cứu", tôi chỉ là một nhà văn, một nhà văn cho đến chết cũng không rời tay cầm bút".
ngày 23 tháng 12 (trang 122)
Ba Kim đã khẳng định ông chỉ là một nhà văn, và một nhà văn thì đến chết vẫn phải là một nhà văn. Nghĩa là vẫn sáng tác. Cho nên, tám chín mươi tuổi Ba Kim vẫn còn viết và viết rất sâu sắc, đầy nội lực.
Một người được đời công nhận là nhà văn, hay tự nhận mình là nhà văn, mà càng ngày càng không viết ra chữ thì chắc chắc là đã có vấn đề tự bản thân. Anh ta (hoặc chị ta) chưa chắc đã thực sự muốn làm nhà văn, và điều tất yếu là anh ta (hoặc chị ta) đã chỉ nhận diện bản thân qua những lời đa số là "dễ nghe" của người khác!
Những người này tất nhiên là không khi nào biết "soi gương"!
Trần Nghi Hoàng
Virginia July 8 - 2003