chân dung nhà thơ Trần Hoài Thư
vẽ bởi họa sĩ Đinh Cường

 

Thi Vũ

NGÔI NHÀ IN

Ở NEW JERSEY

 

 

Con người chỉ khôn lanh, hớn hở khi ở trên quê hương hắn.

 

Điều tôi nhận xét về Ba Thoại. Xưa Ba Thoại là sĩ quan ngành thám báo. Người đi tiên phương dò đường, quan sát tình hình địch để quân mình an toàn tập kích. Hẳn phải thế. Tôi không am hiểu loại ngành nghề này. Lơ mơ trong đầu phải là một người giỏi địa thế, đường sá, rừng rú, vừa nhanh nhẹn, kín đáo, vừa lanh lợi, thông minh, hóa trang giỏi. Ừ nhỉ, sau bao lần gặp gỡ hàn huyên, quên không hỏi Ba Thoại về ngành thám báo ? Có lẽ con nhà văn chúng tôi chẳng xem chuyện chi khác quan trọng.

 

Tháng Tư hai mươi chín năm trước, 1985, chúng tôi đến làm việc nhiều ngày tại LHQ. Trước khi đi, nhờ một hội quen giữ khách sạn gần trụ sở LHQ cho dễ qua lại. Anh Bùi Đặng Hà Đoán ở Paris kín đáo tặng tôi mấy trăm Mỹ kim, nói thác là bạc lẻ, giữ lại cũng chẳng làm gì, anh lấy để đi taxi. Rồi anh dạy tôi cách bố trí đô thị New York khác Paris, cứ đếm từng khóm chung cư / block mà đi, dặn thêm đường sá tàu hầm về Phố Tàu / China Town ăn uống cho rẻ lại hợp khẩu vị bọn mình.

 

Chúng tôi đến đúng vào ngày 30.4, một ngày chủ nhật. Mỹ kim thời ấy cao, tương đương mười quan Pháp, bây giờ thời giá hạ có nửa. Ở khách sạn được hai ngày thì hết tiền, mà công việc còn tuần lễ mới xong. Đang cơn bối rối thì Ba Thoại gọi điện thoại thăm, anh trách sang Mỹ sao không về nhà anh tá túc, ở chi khách sạn đắt đỏ. Buồn ngủ gặp chiếu manh, chẳng khách khí lại thân tình, tôi bảo, ừ thì về nhà anh chơi. Thế là vợ chồng Ba Thoại từ New Jersey lái xe ra New York đón chúng tôi về Plainfield.

 

Gặp nhau trên đất Mỹ bùi ngùi cảm động, Thời ấy mới có mười năm lưu vong, nhớ thương còn tươi rói, hy vọng cũng xanh rờn lá xuân. Vợ chồng Ba Thoại đến khách sạn lúc sáu giờ tối đón chúng tôi. Bảo ta đi nhanh về nhà ăn cơm tối.

 

Xe rời New York ra vùng phụ cận, chạy trên xa lộ mênh mang, chằng chịt. Cùng nhau nói chuyện huyên thuyên trong xe chẳng thiết chi đường sá. Ba Thoại cầm lái, vẻ người cương nghị, khắc khổ nhưng thân tình, nhẩn nha như đi hóng mát mỗi chiều hè bên nhà. Nhìn đồng hồ đã chín giờ tối, tôi chậc lưỡi thăm dò, nhà anh chị xa dữ. Mặt vẫn nghiêm trang, khắc khổ, phớt lờ, Ba Thoại nói : Không xa chi mấy, lúc nãy ra đón anh chạy hai giờ đồng hồ thôi. Bụng nghĩ ông này lạc đường, nhưng không dám nói. Xe chạy tiếp, chạy nữa, chạy a vào thời gian thay vì không gian. Mười giờ tối. Lúc này Ba Thoại tỏ vẻ bối rối bằng hai chữ “lạ quá”. Lạ quá, mọi khi đâu có xa như vầy ? Ba Thoại ngừng xe, mở cửa nói là đi tìm người hỏi đường. Xa lộ vắng tanh, đêm chụp xuống khối đen man rợ. Xa xa những lùm cây chập chùng mất hết hồn xanh, chấm phá vài ngọn đèn lưa thưa nhoè tối. Ba Thoại trở về thất vọng chẳng gặp ai, miệng cứ lạ quá, lạ quá trong sự bình tĩnh đá khô. Xe tiếp tục chạy, tới mười một giờ khuya thì Ba Thoại đánh tay vào đùi. Hai chữ “lạ quá”, đổi sang “bậy quá”, bậy quá !

 

Hóa ra khi rời xa lộ lớn lấy hướng đi North / phía Bắc thì ông Thám báo lấy hướng South / phía Nam, bởi lúc rời nhà ra đi về New York ổng lấy hướng South. Ba Thoại rời xa lộ đang đi quay ngược tìm hướng Nam. Một giờ sáng chúng tôi về tới nhà. Cả bọn mệt phờ, lăn ra ngủ. Hai vợ chồng sáng đi làm sớm. Chúng tôi đánh một giấc ngon, thoát ly mối lo âu khắc khoải.

 

Có nhà. Biết mình có nhà, mà lạc đường, cảm giác lạ lùng, thót sửng, tim co thắt lắc lẻo trên chòm mây heo hút.

 

Cách chạy xe và tìm đường như thế, tôi không hiểu hồi xưa Ba Thoại thám báo như thế nào nơi vùng An Khê, Trường Sơn ? Đành lạnh lùng kết luận, con người chỉ khôn lanh, hớn hở khi ở trên quê hương hắn.

 

Sáng hôm sau vợ chồng Ba Thoại đi làm, chở chúng tôi ra ga xe lửa bày lối đi về Penn Station. Ngày ngày chúng tôi sớm đi tối về, khi xong việc ở LHQ. Buổi chiều ngồi kháo chuyện văn nghệ văn gừng quê nhà thuở mấy ông Kẹ chưa xuống rừng.

 

Ba Thoại là tiếng gọi âu yếm dân gian của chị Yến gọi chồng. Anh chị có cháu trai tên Thoại. Cháu còn bé nhưng thông minh, học giỏi lại làm thơ hay. Tôi ngạc nhiên đọc mấy bài thơ tiếng Anh cháu cho xem. Nếu cháu không nối nghiệp cha, tương lai cũng rực rỡ.

 

Trần Hoài Thư vượt biển ra đi những năm 80 rồi nhập cảnh Mỹ. Thuở ấy anh siêng viết bài cho tạp chí Quê Mẹ ở Paris. Nhiều năm sau bảo lãnh vợ con sang. Ngày hai vợ chồng gặp nhau ở phi trường, chị Yến khóc tức tưởi. Không là cái khóc vui đoàn tụ, mà khóc cho cuộc đời « nghèo khó » của chồng, dù Thư là nhân viên kỹ sư hãng AT&T. Do chị thấy Thư mặc áo veston vá hai miếng da ở cùi tay, là mốt thời thượng của dân sang, nhưng chị tưởng không đủ vải phải vá bằng da. Người Vượt Biển ra đi dồn dập, nhiều kẻ manh tâm tập hợp kháng chiến, ai nấy đều muốn làm một cái gì hừng hực lửa. Con người lúc ấy là con người dự phóng đội đá vá trời, bất kể ông tây ông tàu, coi thế giới như chưa có. Một hôm tôi viết thư rủ Trần Hoài Thư qua Paris làm văn học chơi. May mà anh không đi, nếu không, ngày nay tôi sẽ ân hận. Đó là nói trên phương diện vật chất và sự tiến thân.

 

Tôi khó quên người đàn bà rất Việt này. Những ngày ở Plainfield, chị làm cơm cho chúng tôi ăn, nhưng không chịu ngồi chung bàn mà lui ngay vào bếp. Nói gì cũng vô ích. Trần Hoài Thư bảo bà ấy vậy đó, tính bà không sao thay đổi. Tôi bỗng nhớ mẹ tôi ngày xưa cũng thế, chẳng bao giờ ngồi ăn cùng khách. Các bà khuất sau lòng thương vô hạn của sự chăm sóc và quên mình. Họ sống cuộc đời vô ngã — không có cái ta. Có đâu như ngày nay rất đông người theo đạo « vô ngã » lại cứ đăm đăm o bế cái ta to bằng trời. Các bà sinh ra để nuôi chồng và đẻ con, làm mối tơ dệt vòng gia tộc.

 

Có một lần ghé New York vội vã, hai vợ chồng chạy xe ra New York thăm. Lần đó ngạc nhiên thấy chị Yến lái xe. Không thể ngờ một người đàn bà nhỏ nhẹ, khiêm nhượng, khuất lấp, vô ngã, mà trên bản đồ lãnh thổ chỉ có con đường gia lộ, độc đạo chạy từ vườn vào nhà bếp. Thế mà nay, người đàn bà ấy đã được Hiệp Chủng Quốc hóa sinh trên những dặm dài xa lộ mênh mông. Tôi khen, thì chị bảo tôi chỉ lái tới thôi, không biết « de » anh à. Hỏi không de sao lái thẳng tới khách sạn này ? Trần Hoài Thư chen vào, bả lên xe ở nhà lái thẳng tới đây dừng ngay trước khách sạn, có de diếc chi đâu. Ỷ Lan hỏi, vậy khi đi thi hay lái xe vào sở không « de » được chị làm sao ? Chị Yến tỉnh bơ giải thích, hôm đi thi em hên quá nên de cái rụp, còn vô sở thì cứ nhằm chỗ nào trống lái vào. Không có chỗ thì lái vòng vòng chờ ai đi mình vào.

 

Năm 2006, tôi có dịp trở về làm việc ở LHQ. May mắn có người bạn ký giả ngoại quốc nhường phòng cạnh trụ sở LHQ. Trần Hoài Thư và chị Yến lại lái xe ra. Nằng nặc biểu về ở căn nhà mới tậu. Chúng tôi khước từ vì công chuyện dồn dập đêm ngày. Chị Yến bảo, thôi thì ngày chót xong việc vào thăm nhà chơi, rồi tụi này đưa ra phi trường về Pháp. Chúng tôi ừ.

 

Vườn bao bọc căn nhà mới xinh xắn cũng trong vùng Plainfield. Chị Yến tíu tít dẫn đi xem nhà, bếp núc, phòng khách, tầng thượng, rồi ra vườn xem những hoa cây chị trồng. Trần Hoài Thư lửng thửng đi theo không nói năng, như gã khách cùng chúng tôi đến viếng. Chắc đã bao lần Trần Hoài Thư đóng vai gã khách trên đường mòn gia lộ này, mỗi khi có bạn xa đến nhà.

 

Tất cả Trần Hoài Thư là hai ô kính cận, đưa đôi mắt viễn trình cõi mông lung xa lìa hiện tại, dáng người dong dỏng vượn gầy nhưng chậm rãi, bề thế. Chị Yến là tiếng nói, sự di động, con chim hoàng oanh chuyền cành líu lo thân mật.

 

Nhưng có cái gì trống trãi, hắt hiu, lạnh lẽo trong căn nhà của đôi cặp uyên ương Thư - Yến.

 

Mãi tới khi vai diễn được thay, Trần Hoài Thư dẫn chúng tôi xuống tầng hầm / basement. Hóa ra hồn nhà đặt trú xứ ở đấy. Trần Hoài Thư đóng vai thuyết minh về căn hầm nhà in của mình. Ba phòng ngăn riêng. Phòng lớn nhất đặt bốn, năm chiếc máy vi tính đánh bản thảo. Toàn loại máy cũ, có cái anh bảo người ta vứt rác, tôi khênh về sửa chữa, lắp thêm cái này, bộ phận kia, dùng được hết. Thư hãnh diện rút hai tập “Cao Tông Truyện” mới in xong tặng tôi, nhấn mạnh, bìa in màu đó nghe. Kế phòng « sắp chữ » là phòng đóng gáy. Tôi là thợ in mấy mươi năm trời ở vùng Gennevilliers, ngoại ô bắc Paris, tới đây đi từ ngạc nhiên này tới ngỡ ngàng kia. Trời ơi, chúng ta vượt thời gian trở về thời ông Gutenberg hay sao ? Sang phòng đóng xén chỉ thấy la liệt các son chảo nhôm nấu ăn cạnh chiếc bếp nhỏ bằng khí đốt. Tiếng chị Yến xầm xì với Ỷ Lan sau lưng : « Chị ơi, em đi làm về nấu ăn thấy mất son chảo, ổng lấy hết từ từ xuống đây nấu keo dán sách đó ». Chốc chốc chị Yến lại to nhỏ với Ỷ Lan : « Từ ngày ảnh mất việc, em ráng giúp cho ảnh vui, cho ảnh đỡ buồn đó chị, chứ sống chi cái nghề này ! ».

 

« Tham quan » xong tầng hầm, Trần Hoài Thư dẫn lên tầng trên xem phòng cắt xén. Máy cắt xén nhà in chúng tôi ở Pháp chạy điện, nặng hàng tấn, cắt khổ giấy một thước với độ dày hai ba ram. Ở nhà in New Jesey là máy cắt tay, thứ để bàn, mỗi bận mấy chục tờ giấy ? Hôm ấy Thư đang xén tập thơ mới in xong cho Hoàng Xuân Sơn.

 

Tôi không hiểu ông chủ nhà in này sản xuất ra sao, mà sau này sách và tạp chí của “Thư Ấn Quán” phát hành cũng bộn. Bộn là số lượng. Thư không là người của số lượng. Thư là người của văn học và phẩm chất miền Trung. Chế tác xong, ai muốn mua gửi tem bưu điện về, giá cả tùy hỷ. Tiền nong, tem tiết không có cũng chẳng sao, chỉ cần viết thư yêu thích là anh gửi. Bạn bè thuê in một hai trăm bản, lấy công làm lời. Làm cho vui mà. Bốn chữ được nghe suốt buổi gặp gỡ.

 

Giữa xã hội bao la bốn biển, sống chết bằng tiền, cạnh tranh nhau vì tiền, chụp giựt, giết nhau do tiền, phản bội nhau cũng bởi ông thần tiền. Thế mà một anh nhà văn xứ Giao Chỉ xua đuổi tiền bạc. Đóng cửa cặm cụi, một mình và hằng ngày « sắp chữ » trên năm máy vi tính, trình bày bìa trên vi tính, dán gáy bìa bằng chảo luột rau, xén tay từng chục mẫu bìa tra vào sách. Cứ thế năm này tới năm khác. Tới nay đã mười mấy năm chưa ngừng giăng tơ.

 

Hèn chi Câu lạc bộ văn nghệ tự do không đóng đô ở Hà Nội, Huế, hay Saigon dưới thời đại Hồ Chí Minh, mà thiên di về căn hầm Nhà in ở New Jersey. Một lớp lang người viết cũ nín thinh sáng tạo sau 75, bỗng cuồn cuộn động mạch thành văn, ra tâm tư, phấn chí, mộng mơ hay uất hờn, nay tìm thấy nơi trụ xứ giữa trái tim Trần Hoài Thư.

 

Mấy năm trước thấy trên kệ sách Vũ Hoàng Thư ở Los Angeles, nên tôi nhờ mua giúp “Một thời Lục bát Miền Nam”, và hai tập “Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến - Sưu tập”. Tổng cộng hai nghìn hai trăm mười lăm trang, lại đóng bìa cứng khoác bao bìa, theo điệu sản xuất của Nhà in ở New Jersey không tiền khoáng hậu đầu thế kỷ XXI. Độc nhất vô nhị trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Đố ai tìm ra một nhà in thứ hai như thế. Nhà in không gầy dựng bằng tiền hay cổ phiếu, bằng máy móc hiện đại, mà bằng tâm và chí với mười ngón tay gầy quờ quạng.

 

Cỏ có chết đâu, cây có chết đâu giữa mùa đông nghĩa địa. Tưởng như là… Nhưng không là. Mầm sống cất giữ đâu đó không chi hủy hoại, như một điểm tâm thu nháy động hoài mãi con tim. Có phải đó là văn hóa - nghệ thuật vượt mọi không-thời, gìn giữ tiếng nói và tâm tưởng con người ? Thân xác rả xuống cho loé thần trí vút lên.

 

Sau này tôi giới thiệu Ken Stier, người bạn ký giả làm ở hãng Deusche Press Agentur từ Hà Nội trở về, có nhà vùng New Jersey, tới thăm một nhà văn Việt Nam làm nhà in. Với hy vọng anh viết bài. Nhưng tôi đã mất liên lạc anh.

 

Thăm xong ngôi nhà in ở New Jersey, chúng tôi muốn gọi ta xi ra phi trường. Nhưng chị Yến và Trần Hoài Thư cản ngay. Chị Yến nói để tụi em đưa anh chị đi. Chúng tôi mời hai vợ chồng ra phố Tàu dùng trưa, từ đó tới phi trường Kennedy chẳng bao xa.

 

Chị Yến cắt một nhánh cây Thái Lan tặng tôi đem về Pháp trồng. Chúng tôi cùng nhau đi. Cơm trưa xong, Trần Hoài Thư lái xe. Nhớ chuyện 1985, hai mươi mốt năm trước, tôi hỏi Thư biết đường hí. Thư bảo, anh yên tâm, đường ra phi trường tôi rành.

 

Thế nhưng rời phố Tàu lúc 3 giờ chiều, mãi 9 giờ tối mới tới, trên đoạn đường chỉ cần hai tiếng đồng hồ. Nửa giờ nữa là trễ chuyến bay. May mà trong lúc lạc đường và bối rối ấy, miệng Thư bình thản nói, « không sao, không sao », thì Ỷ Lan thấy hai ông cảnh sát lái moto, liền ngoắc tay kêu cứu. Hai ông cảnh sát to lớn, bệ vệ trên hai chiếc moto oai phong chạy trước dẫn đường, đưa xe Trần Hoài Thư và chúng tôi đáo bỉ ngạn phi trường. Đúng là Cảnh sát Mỹ bạn dân, chứ không bán dân.

 

Chia tay. Tôi thắc thỏm lo không biết mấy giờ nữa hai ông bà mới về tới nhà, nên hỏi vội, nhớ đường về nhà chứ. Thư thản nhiên cụt lủn, nhớ, nhớ. Chị Yến liếng láy, mọi khi ảnh lái ra phi trường trúng lắm. Chắc mọi khi đi từ nhà, hôm nay đi từ China Town mới lạc. Tôi nghĩ thầm, ông sĩ quan thám báo này có ở trên quê hương đâu mà trách ổng.

 

Con người chỉ khôn lanh, hớn hở khi ở trên quê hương hắn.

 

Thi Vũ

Limeil Brévannes, 14-5-2014

 

Lời cuối : Tôi viết bài này vì hôm qua nhân tìm tài liệu trên mạng, tình cờ thấy bài của Vương Trùng Dương : « Từ Trần Hoài Thư đến Phùng Thăng – Tưởng niệm », có đoạn viết :

« Thư Quán Bản Thảo số 56, tháng 6 năm 2103 đã được ấn hành và gởi đến thân hữu, độc giả khắp nơi. Trải qua 13 năm, số 56 nầy tưởng chừng đình bản vì tai nạn xảy ra trong gia đình anh Trần Hoài Thư – chị Nguyễn Ngọc Yến, hiền thê của anh – bị stroke, phải nằm bệnh viện để điều trị vào cuối năm 2012, trước ngày ấn hành Thư Quán Bản thảo số 55… ».

 

Thư Quán Bản Thảo do anh Trần Hoài Thư chủ trương và vài thân hữu cùng nhau thực hiện nhưng « cánh tay đắc lực » nhất là chị Nguyễn Ngọc Yến âm thầm hỗ trợ cho chồng để hoàn thành « đứa con tinh thần » cho đến khi đến tay thân hữu và bạn văn. Vì vậy, số phận của TQBT tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe của anh chị.

 

Trải qua một năm chăm sóc người bệnh. Tháng Giêng năm 2014, Trần Hoài Thư viết những dòng chia sẻ :

« Bây giờ tôi trở thành một kẻ nội trợ săn sóc nhà cửa. Cả năm nay Yến chỉ quanh quẩn với xe lăn, cùng căn phòng bề bộn thuốc men, và cây kiểng. Tôi phải làm những gì mà Yến đã làm trước đây. Đổ rác. Dọn dẹp nhà cửa. Rữa chén bát. Giặt giũ quần áo. Viết bill. Đây là những việc mà cả đời tôi chẳng bao giờ đụng tay vào. Nhưng cuối cùng, hoàn cảnh đã bắt một lão già, lẽ ra hưởng già, hưởng nhàn, thì bây giờ phải túi bụi, nhọc nhằn hơn ai.

« Tôi có thể bán cái cho nursing home mà. Tôi có thể đẩy Yến vào một nơi được lập ra để giúp tôi hưởng già mà. Tôi có đầy đủ lý do, không cảm thấy xấu hổ, hay hổ thẹn với lương tâm, vì tôi không còn đủ sức để lê đôi chân bị Gout, hay phải bị kiệt lã vì tuổi già sức yếu. Cái quyết định vào nursing home là quyết định của Yến cũng vì những lý do ấy.

« Hy sinh đời mình vì không muốn thấy nỗi khổ nạn của kẻ khác. Và đó cũng là quyết định của cô thuộc sở xã hội được phái đến để thẩm định hoàn cảnh chúng tôi. Cô hỏi Yến bà có muốn vào nursing home không. Yến trả lời yes. Tôi nói là tôi không muốn để vợ tôi vào đấy.

« Nhưng cô nói ông đừng bận tâm. Nếu ông không lo được cho bà thì hãy để người khác lo cho bà. Ông hãy giữ gìn sức khỏe của ông trước tiên. Ở trong nursing home, có người sẽ tập cho bà đi đứng…

« Tôi nghe lời bà. Và ký vào giấy để Yến vào nursing home…

… Vậy mà cuối cùng tôi lại gọi bà để xin được hủy bỏ. Tôi nói là tôi không thể để vợ tôi vào. Tôi có thể gánh vác trách nhiệm như là một primary caregiver. Tôi cũng gọi cô cán sự xã hội. Tôi cũng gọi sở xã hội. Họ đều nói chúng tôi hiểu và thông cảm. Họ không quên chúc tôi một mùa Lễ đầy vui tươi hạnh phúc.

« Tôi đã chọn cho tôi một quyết định. Tôi không cần nghĩ ngợi đắn đo gì hết. Tôi không cần biện giải gì hết. Chọn và chấp nhận. Bởi vì lúc này Yến rất cần tôi. Và tôi cũng rất cần Yến… ».

Đọc xong lòng tôi chùng xuống hố thẳm hư vô. Trần Hoài Thư là bạn văn, Phùng Khánh – Phùng Thăng thâm tình như máu thịt thuở nào. Thế mà lâu một thiên thu, vì lăn mình trên con dốc ồn động sự thế ; mặc dù cất giú họ nơi đáy tim lại chẳng biết họ sống chết ra sao. Cả đêm không ngủ được, tôi ngồi dậy viết bài này.

 

Thi Vũ

(trích “Gọi Thầm Giữa Paris”, tản mạn, Thi Vũ, Quê Mẹ, Paris, tái bản lần thứ hai 2015)