photo: NAT @ gio-o.com


 

Thi Vũ

Hai Câu Thơ Đẹp

 

tản mạn

 

Năm lên 5 tuổi cha tôi bị Pháp bắt. Ông dính dáng chính trị hay cách mạng ǵ đó. Nói to lớn vậy thôi, thực t́nh ông có người bạn dấn thân chính trị chống Pháp nên bị liên lụy. Người bạn mượn ông chiếc xe đạp. Đợi hoài không thấy trả, ông đến nhà bạn t́m xe. Không ngờ bạn đă bị bắt, mật thám Pháp bao quanh nhà chờ ai đến là xúc. Cha tôi nằm trong đám người bị hốt năm 1940 ấy.

Chú Bính và cô Lài tôi ở Huế vội vả vào Saigon kiếm thầy căi bênh vực cho ông. Do ông làm công chức cho Pháp ở sở giây thép, và chẳng t́m thấy vũ khí, truyền đơn, tài liệu mật, nên ông được rời khỏi Khám Lớn đày sang Cheong Sean bên Cam bốt dọc biên giới Thái.

Một hôm, tảng sáng khoảng 5 giờ, ba người đàn ông đến nhà tôi ở trại gia binh Chợ Cũ đánh thức mẹ tôi dậy bảo bà đưa quần áo cho cha tôi sắp phải đi xa. Tiếng ồn ào khác lạ buổi tinh mơ kéo tôi ra khỏi giấc ngủ. Dưới ánh đèn tù mù, tôi thấy mẹ đứng sắp áo quần vào chiếc giỏ mây. Mặt mày áo năo, bà khóc nấc từng cơn. Mỗi bận sắp áo, bà đưa lên mũi hít một hơi dài trước khi đặt vào giỏ. Cử chỉ lạ lùng khiến tôi ngây ngô nh́n mẹ.

H́nh ảnh đó ghi đậm trong tôi theo ngày tháng chưa quên. Một người đàn bà mắt đỏ hoe, sụt sùi, đưa từng chiếc áo lên mũi hít một hơi dài trước khi buông thả.

Mấy ngày giáp Tết nơi xứ lạ bồn chồn, bỗng hai câu thơ trong bài Khóc Bằng Cơ của Nguyễn Gia Thiều[i] trở về khiến ḷng tôi xao xuyến :

Đập cổ-kính ra t́m lấy bóng

Xếp tàn-y lại để dành hơi

Chí t́nh và ray rức. Chữ cũ, tứ mới, xoắn nhau thành bản t́nh ca muôn thuở. Ṇi t́nh đi suốt cơi nhân gian về tới chốn địa đàng trăng mật.

Một đêm nào người yêu bỏ ta đi theo cuộc t́nh khác, hay ngày nào người yêu ta chết. Hai trạng thái hạnh phúc bị thải hồi, cô đơn trải dàn sa mạc, tim thảng thốt, ngực thở hắt. Trống không như hư vô. Hẻm cụt người đàn ông.

Bóng đă bao lần dọi h́nh lên màn gương khi soi ngó. Trong cơn thảng thốt t́m h́nh, cách nào hơn đập vỡ gương xưa mong t́m bóng cũ, dù bao nhiêu bóng vẫn chỉ là bóng chẳng biến ra h́nh.

Bóng không là bóng khi vắng h́nh. Nhưng chiếc áo cũ, tấm tàn y, hơi hướm người yêu c̣n phảng phất. Hít lấy hơi dài vẫn là mùi của em ngày trước. Xếp lại tấm áo ǵn hương giữ vóc.

Làm ǵ đây khi người yêu mất người yêu ? khi người đàn ông trơ vơ nơi b́a mép lân hư ? Chỉ c̣n nỗi thiết tha mong nắm bắt, vói ôm những chi c̣n mơ hồ sót lại. Bóp nắn từ vô h́nh dáng vóc đi biệt trong nỗi quay quắt.

T́nh yêu ở đây không có hai dù nỗi nhớ cần tới hai. Hai giới tính, hai thể xác nhập hồn vào t́nh yêu. Núi chập chùng về đỉnh cao rớt trời.

Thời phong kiến với tam ṭng tứ đức, có ai yêu người đàn bà như đàn bà của t́nh yêu đâu. T́nh yêu đi sau những nghi lễ, tập tục, bổn phận. T́nh yêu là sinh con đẻ cái, nối dơi tông đường. T́nh yêu chỉ hiện thực trong mộng, trong tiểu thuyết, trong hư vô hóa hiện miền tiên cảnh. Ngày nay có đỡ chăng cũng vầy vậy thôi. Ít ai dám sống hết, sống trọn, đưa người đàn bà vào cuộc t́nh duy nhất nơi ḿnh chấp nhận ḥa tan. Hiếm thấy trong văn học Việt Nam thời cổ đại, trung đại những tụng ca người phụ nữ. Duy nhất chỉ có Nguyễn Gia Thiều thấu tỏ thân phận hẩm hiu và bức hiếp người cung nữ. Cung Oán Ngâm Khúc là khúc ca về thân phận đàn bà trong ṿng tay ức chế, hiếu sắc, tàn bạo của người đàn ông vô t́nh nhưng quyền uy nhất mực : Ông Vua.

V́ vậy mới có hai câu thơ rạo rực yêu đương, kết hợp ba thời  - quá khứ, hiện tại, vị lai -  trong t́nh yêu trọn vẹn chưa một lần phân tán nơi cơi tưởng tư. Đập cổ-kính ra t́m lấy bóng / Xếp tàn-y lại để dành hơi. Xuân Diệu, vị hoàng tử của thơ t́nh chan chứa, dù say đắm thiết tha, vẫn là mối t́nh của hai con tim xa cách, chạy t́m nhau trên vô tận sóng xa bờ. Ông chưa lặn tới đáy mùa ngọt mật nơi hai người đă quyện nhau thành h́nh-bóng, bóng-h́nh trong đêm hay giữa ngày.

Đập cổ-kính ra t́m lấy bóng / Xếp tàn-y lại để dành hơi, hai câu thơ t́nh nồng cháy hiếm thấy nơi t́nh yêu địa đàng xứ Giao chỉ. Họ mất nhau trong cái c̣n, khi cái c̣n lặng lẽ hóa chân không. Mai sau dắt tay hiện tại đi về quá khứ luân sinh. Đập hết vật thể t́m cái phi h́nh, nơi chỉ c̣n lại hương thơm chỉ đường về cố lư, hương thơm vẽ bản đồ cho mộng mị, mở cánh cửa trên không trung xanh. Vũ trụ bỗng có nơi chốn dù nơi chốn chẳng định h́nh.

Có bao giờ ta nói ta yêu máu ta, môi ta, tay chân ta ? Thế nhưng máu, môi, tay chân làm nên toàn thể sự sống hồn nhiên, vạm vỡ. Thiếu một là mất tất cả. T́nh yêu không đ̣i hỏi, yêu sách, điều kiện. T́nh yêu thong dong như mây trắng, núi xanh, biển dậy. Hạt mầm nẩy măi trong ḷng đất, cất chứa mùa với không gian co duỗi theo màu sắc. Lặng câm nhưng ầm tiếng, như ḷng trống lưu giữ những vang âm.

Nguyễn Gia Thiều, người t́nh mang nửa hồn thất thểu đi t́m nửa hồn kia nơi biên tế hư linh. Ông gặp lại chăng người t́nh ?

Dấu hỏi từ vạn thuở chưa hề đáp, như từ đâu con người đến, về đâu con người đi. Hỏi trở thành đáp nên vô vọng và tuyệt lộ. Từ đâu con người đến tự nó đă áp đặt địa lư cơi ban sơ vốn không có. Con người là sự tạc khắc từ ánh sáng vô biên thành tượng sống bốn chiều (ba chiều vật lư và chiều thời gian thứ bốn), đâu cần phải đến từ đâu. Về đâu con người đi, nhưng lại ấn định chốn về chưa bao giờ hiện hữu. Tượng sống con người theo chu kỳ trả ánh sáng về những lóng xưa làm kinh sợ hố đen, tự nó đă là nơi chốn.

Tất cả là hành tŕnh và kết hợp.

Hành tŕnh t́nh yêu chưa kết thúc khi hai người chưa thành một trong nhau. Nguyễn Gia Thiều có gặp lại Bằng Cơ chăng ? Gặp chứ, v́ câu hỏi đă thoát ly dấu hỏi, tự nó là biến thể của t́nh yêu, đưa không gian co kín thả vào vùng thinh không, đưa một con người ḥa nhập vào con người. Con người t́nh yêu. Nguyễn Gia Thiều đập vỡ cổ kính, ông hít một hơi dài vô tận để lấy hết những chi c̣n sót lại trên chiếc áo cũ, tấm gương xưa cho sự ḥa nhập của t́nh yêu thôi phân tán. Không ai được sở hữu dù là bóng hay mùi hương tóc, mùi thể thân em. Nàng trọn vẹn ở trong ông. Em trở thành anh-em nơi phi thời. Chấm dứt trầm luân khổ lụy.

Ngày nhà thơ Lê Thị Huệ phỏng vấn, hỏi tôi có phải thơ Việt Nam ngất ngưỡng cao ngạo và tuyệt tác không thua bất cứ thi ca nào trên thế giới ? tôi đă đáp bằng những câu thơ hớp hồn :

Nhờ thi sĩ cư ngụ trái đất, mà tất cả mọi nền thi ca nhân loại ngất ngưỡng và tuyệt tác. Ai nắm được cái thần ngôn ngữ nước ḿnh, tất chân nhận ra thi ca mượt mà, diễm lệ chẳng thua ai. Độc giả Anh đắm đuối Shakespeare, Ư với Dante, Tàu với các thi hào đời Đường. Chúng ta với Nguyễn Du…

Thử lấy vài ví dụ trong thơ Việt Nam cận đại.

Câu thơ Chiều mưa trên băi nước sông đầy của Huy Cận sẽ rạo rực tâm tư ta như t́m thấy bến đậu giữa hư không, nếu ta từng trải qua thời thơ ấu sống bên con hói ở làng quê, mỗi chiều thấy nước sông dâng khi mưa tới. Mưa và sông một buổi chiều quê hoá hiện thành h́nh ảnh thơ ngút ngàn, dù chữ khắp câu thơ chẳng có chi kiều diễm. Thế mà chữ đă hà hơi làm nên khí hậu. Khí hậu là không gian, con người là thời gian. Thời gian chảy trôi đâu khi không có không gian ? Đó gọi là khí hậu, sự thăng hoa của Không và Thời giữa niềm phiếu diễu thi ca.

Cũng thế, những câu : Hoa bưởi thơm rồi đêm đă khuya hoặc Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung / Có ai đàn lẻ để tơ chùng của Huy Cận; Hư vô bóng khói trên đầu hạnh / Cành biếc run run chân ư nhi của Xuân Diệu; Ô hay vàng rơi cây ngô đồng / Vàng rơi ! vàng rơi ! thu mênh mông… của Bích Khê; Người đi một nửa hồn tôi mất / Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ hoặc Khách xa gặp lúc mùa xuân chín / Ḷng trí bâng khuâng sực nhớ làng của Hàn Mặc Tử; Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà của Nguyễn Xuân Sanh tả một dĩa trái cây, v.v… đều có cái đẹp như thế, miễn người đọc phải được sống trong đất nước ấy, giữa ḷng ngôn ngữ ấy, theo những bóng thơ chập chờn bao quyện ngày đêm.

C̣n như câu thơ Từng con mắt gỗ hoen màu lệ của Vũ Hoàng Chương th́ chỉ có người Việt may ra mới hiểu để thấy cái đẹp lạ thi sĩ vừa khám phá, thăng hoa. Mắt hoen lệ là chuyện thường t́nh. Nhưng sao lại là mắt gỗ ? Người đàn bà đẹp, người đàn ông đau khổ vẫn là đôi mắt ướt chờ lệ tuôn ?

Nhưng mắt ở đây không là mắt người, mà là mắt của vật vô tri giác : Mắt của đôi chân đèn bằng gỗ để trên bàn thờ. Người thợ mộc tiện chân đèn ấy bằng nhiều khoen, mỗi khoen là một con mắt gỗ. Sáp chảy xuống chân đèn như những giọt lệ lăn. Từ thực tại âm thầm nơi bóng tối chập chùng bỗng óng ảnh lên thi ca, nơi người thi sĩ tạo dựng thành muôn ngh́n thế giới gọi mời theo những cuộc ú tim.

 Hẳn nhiên như Lê Thị Huệ nhận xét về nền thi ca Việt ngất ngưỡng trên bầu trời tuyệt tác. Thi ca như người đàn bà đẹp, như hoa đẹp. Mỗi cái đẹp có những lưu luyến riêng, không cái nào giống cái nào ngoại trừ sự rạo rực.

Câu thơ “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”, trong bài Buồn xưa của Nguyễn Xuân Sanh trên đây, ta cảm được ǵ ? Trước tiên là nhịp thơ cuồn cuộn của sông biển theo viễn tŕnh nơi ḷng dĩa vốn lũng đọng. Nhịp sông biển (hải hà) tưởng tuyến tính như sông trôi, bỗng quay ṿng hướng mùa đi từng nhịp bốn : Xuân, Hạ, Thu, Đông. Hoá ra cái ta tưởng là thầm lặng, tĩnh mịch và co kín của đáy dĩa vẫn mang sức chuyển động theo cung điệu mùa màng. Mùa thả vào đấy từng đợt quả thơm mùi vị đất trời. Một dĩa trái cây thay đổi xuyên năm. Không đơn điệu, buồn chán như bức tranh tĩnh vật.

Tả một dĩa trái cây thay đổi theo mùa như cuộc nhân sinh tươi thắm, vồn vă dâng người, thế là khéo. Thấy và hiểu câu thơ như vậy khiến ta thêm yêu thơ, muốn đi vào thơ nắm bắt những ư nhị hàm tồn c̣n dung dưỡng.

Tiếc rằng thời ấy tôi quên không nhắc tới hai câu thơ kỳ lạ, đẫm t́nh, chín ch́u quặn thắt của Nguyễn Gia Thiều trong bài thơ Khóc Bằng Cơ. Một bài thơ t́nh khóc người ái thiếp, đắm đuối, ray rức nhất trong thơ Việt Nam. Lời kiệm mà ư man mác. Thơ lay hỏi sinh tử về giới hạn của phân ly. Tứ thơ tuyệt bích, h́nh ảnh thơ siêu thực, làm rạo rực những nhánh hồn.

Thơ xuống tận đáy tâm can giáp mặt với nguồn cội của t́nh yêu.

 

Bệnh viện Saint Joseph, Paris

14.2.2011

Thi Vũ

http://www.gio-o.com/ThiVu.html

 


[i] Lâu nay nhiều người vẫn tưởng bài thơ này của Vua Dực Tông, tức vua Tự Đức, khóc một bà phi dưới nhan đề « Khóc Thị Bằng ». Sự lầm tưởng phải chăng đến từ Phan Khôi khi ông viết trong mục Nam âm thi thoại trên báo Nam Phong năm 1918, sau in vào sách Chương dân thi thoại năm 1936. Người sau nối người trước lan truyền chẳng cần nghiên cứu, t́m ṭi v́ thiếu óc phê phán. Văn Đàn Bảo Giám của Trần Trung Viên ra đời năm 1926 cũng in bài thơ Khóc Bằng phi ghi tác giả là Dực-tôn Hoàng đế. Quốc văn trích diễm sách giáo khoa giá trị của Dương Quảng Hàm cũng xác nhận như thế. Bao thế hệ học tṛ làm sao nghĩ khác ?

Tự Đức là ông vua thích văn học, sính phê và sửa Truyện Kiều và cũng làm thơ như đa số các nhà nho. Đọc hơn 100 bài thơ chữ Hán của Tự Đức để lại, th́ biết ông chưa là nhà thơ lớn, chẳng có bài nào điêu luyện sánh với « Khóc Bằng Cơ ». Lại nữa khẩu khí nhà vua không cho phép ông gọi trổng một cách rẽ rúng là Thị Bằng, mà phải gọi ái phi hay ái khanh. Mặt khác, tương truyền vua Tự Đức bị đậu mùa nên không có ân t́nh với phụ nữ để khóc thống thiết một người yêu khác tính phái. Người Huế đồn ông « lại cái », dù ông có đến 103 cung tần khi mất. Ở đây phải hiểu thời vua chúa, các quan lớn trong triều đua nhau dâng con gái vào cung mong gây thế lực và bổng lộc. Con làm phi, th́ cha được ban tước Quận công, nên số lượng phi tần rất lớn. Danh sách chính thức th́ Vua Tự Đức có một bà Hoàng quí phi và hai bà phi, chẳng có bà nào mang tên Thị Bằng.

Tuy nhiên, văn học sử cận đại Việt Nam phủ bác nhận định « lại cái » này qua trường hợp một thi sĩ lớn là Xuân Diệu, ông làm thơ t́nh đắm đuối, nồng cháy, thế nhưng những người yêu ta tưởng là các thiếu nữ yêu kiều, thơ mộng, hóa ra đó chỉ là những mối t́nh trai, theo phát hiện của Tô Hoài th́ Xuân Diệu « gay » trong sách « Cát Bụi Chân Ai ».

Duy nhất có nhà văn Ngô Tất Tố trong Thi văn b́nh chú xuất bản năm 1942 cho biết « bài này nhiều người bảo là của vua Tự Đức, nhưng các vị cố lăo th́ nói là của ông Nguyễn Gia Thiều ». Về sau học giả Bửu Kế chuyên gia về văn thơ nhà Nguyễn cũng cho biết không có bài « Khóc Thị Bằng » trong số trước tác của Tự Đức. Đặc biệt nhà nghiên cứu Phan Văn Dật viết một bài công phu với nhiều chi tiết thuyết phục đăng trên Sáng Tạo số 23, tháng 8.1958, khẳng định « Bài thơ khóc Thị Bằng không phải của vua Nguyễn Dực Tông », mà là của Nguyễn Gia Thiều khóc người ái thiếp Bằng Cơ.

 

© gio-o.com 2011